Nền kinh tế thị trường đặt các NHTM trước những thuận lợi và thách thức mới vì hoạt động tín dụng ngân hàng luôn gắn với môi trường cũng như các lĩnh vực của nền kinh tế. Mục tiêu kinh doanh hàng đầu của các NHTM là lợi nhuận, nhưng trên con đường tìn kiếm lợi nhuận tối đa đó, các NHTM luôn gặp phải một rào cản lớn, đó là rủi ro. Đây là một điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, mức độ rủi ro đó còn tùy thuộc vào cơ chế quản lý, điều hành, quy trình tác nghiệp cũng như môi trường kinh doanh của từng NHTM.
68 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1115 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong năm 2000 đã tăng 177,3% và tăng dần tỷ trọng trong cơ cấu dư nợ. Điều này chứng tỏ ngân hàng đã chú trọng đến việc hỗ trợ các doanh nghiệp cần một lượng vốn lớn trong thời gian dài để phục vụ cho những dự án lớn. Đây cũng là một chiến lược nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường tiền tệ tín dụng.
Ngoài ra, NHNo & PTNT Hà Nội còn tham gia bảo lãnh cho các dự án vay vốn nước ngoài. Không chỉ dừng lại ở việc bảo lãnh cho các dự án vay vốn thuộc các ngành kinh tế trọng điểm như công nghiệp … mà còn mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác như sản xuất, gia công hàng xuất khẩu … tuy nhiên mức độ vẫn còn khá khiêm tốn.
Bảng 8. Hoạt động bảo lãnh
Đơn vị : Triệu VNĐ
Thời gian
Khoản mục
31/ 12/ 1999
31/ 12/ 2000
31/ 12/ 2001
Hoạt động bảo lãnh
12.170
16.070
15.359
Nguồn: NHNo & PTNT Hà Nội
* Tình hình thu nợ
Hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận cao nhất, song cũng tiềm ẩn những rủi ro cao, đặc biệt là trong hệ thống NHNo & PTNT. Đối với NHNo & PTNT Hà Nội, do có đặc thù là cho vay vốn đối với mọi thành phần kinh tế nên việc thu nợ chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố cả về chủ quan từ phía người xin vay lẫn khách quan do ngoại cảnh tác động. Bởi vậy, việc đôn đốc thu nợ được ngân hàng thực hiện thường xuyên song vẫn xảy ra tình trạng nợ quá hạn. Đây là vấn đề làm đau đầu toàn thể cán bộ công nhân viên của ngân hàng bởi vì khi có nợ quá hạn xảy ra là đồng nghĩa với việc chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm sút. Điều này sẽ đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của chính bản thân ngân hàng vì vốn của ngân hàng là vốn “đi vay để cho vay”.
Bảng 9. Tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ
Đơn vị : Triệu VNĐ
Thời gian
Khoản mục
31/ 12/ 1999
31/ 12/ 2000
31/ 12/ 2001
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn
Tỷ trọng (%)
984.985
45.915
4,7
1.545.586
23.380
1,5
1.861.839
40.665
2,2
Nguồn: NHNo & PTNT Hà Nội
Năm 1999 với con số tuyệt đối nợ quá hạn là 45.915 triệu đồng, chiếm 4,7% trong tổng dư nợ. Xét về tỷ lệ thì mức nợ quá hạn là bình thường. Năm 2000, nợ quá hạn giảm xuống chỉ còn 1,5 % trong tổng dư nợ và sang năm 2001, con số này là 2,2 %. Để có thể hiểu rõ hơn, ta sẽ xem xét tỷ lệ nợ quá hạn trên bình diện sau:
Bảng 10. Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế
Đơn vị : Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
Khoản mục
31/ 12/ 1999
31/ 12/ 2000
31/ 12/ 2001
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Tổng dư NQH
KTQD
KTNQD
Hộ SX và cá thể
NQH khác
45.915
15.636
18.558
8.305
3.416
100
34,1
40,4
18,1
7,4
23.380
21.239
106
1.068
967
100
90,9
0,5
4,5
4,1
40.665
27.059
12.404
349
852
100
66,5
30,5
0,9
2,1
Nguồn: NHNo & PTNT Hà Nội
Như vậy, qua bảng trên, ta thấy khu vực kinh tế quốc doanh luôn có tỷ lệ nợ quá hạn là lớn nhất, đặc biệt là trong hai năm gần đây. Nguyên nhân chính là do nhiều doanh nghiệp nhà nước không theo kịp sự đổi mới của nền kinh tế, vẫn luôn quen làm ăn theo kiểu bao cấp nên không có hiệu quả kinh tế, cộng với thói quen trông chờ, ỷ lại vào nhà nước như xin khoanh nợ, xóa nợ …nên dẫn đến phát sinh nợ quá hạn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh chung hiện nay thì rõ ràng rằng tỷ lệ nợ quá hạn của NHNo & PTNT Hà Nội thuộc vào hàng thấp nhất trong số các ngân hàng đóng trên địa bàn Hà Nội và thấp hơn nhiều so với tỷ lệ do NHNN quy định là 5%. Điều này chứng tỏ rằng công tác thu nợ luôn được đặt lên hàng đầu.
2.2.3 Nhận xét khái quát về hoạt động tín dụng của NHNo & PTNT Hà Nội
2.2.3.1 Những kết quả đạt được trong hoạt động tín dụng của NHNo & PTNT Hà Nội
2.2.3.1.1 Những kết quả đạt được
Trong điều kiện nước ta hiện nay đang từng bước hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Nhà nước đã và đang có những đổi mới trong cơ chế quản lý kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng. Tận dụng những thuận lợi đó, NHNo & PTNT Hà Nội đã có những định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như hưởng ứng những đòi hỏi tất yếu trong quá trình hội nhập. Trên cơ sở đó, ngân hàng đã tập trung đầu tư vào phát triển kinh tế nhiều thành phần, mở rộng thị trường huy động vốn và cho vay với một đội ngũ cán bộ có năng lực, nhiệt tình trong công tác. Trong những năm qua, NHNo & PTNT Hà Nội đã đạt được những kết quả sau:
* Công tác huy động vốn
Nguồn vốn huy động qua các năm tăng trưởng cao, cơ cấu nguồn vốn được cải thiện, tạo ra một lượng vốn ổn định cho ngân hàng. Điều này chứng tỏ ngân hàng đang dần từng bước thu hút được khách hàng. Đây là một thành công lớn và ngân hàng cần phải phát huy triệt để. Điều này chính là tiền đề để mở rộng cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển.
* Công tác cho vay
- Luôn chú trọng kết hợp yếu tố phát triển kinh tế với bảo toàn vốn, tôn trọng pháp luật và có lợi nhuận. Trong thời gian qua, ngân hàng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn ngắn, trung và dài hạn của mọi thành phần kinh tế để mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Điều này thể hiện ở mức độ tăng trưởng của tổng dư nợ hàng năm.
- Với chức năng là đòn bẩy kinh tế, hoạt động tín dụng của ngân hàng đã giúp cho các doanh nghiệp khai thác mọi tiềm năng lao động, tạo thêm công ăn việc làm, tăng nhiều sản phẩm có chất lượng cao cho xã hội.
- Ngân hàng đã tổ chức được một mạng lưới rộng khắp, phong cách giao dịch thích ứng với cơ chế thị trường, thu hút lượng lớn khách hàng, tạo lập uy tín của mình trên thị trường.
- Với phương châm vừa cho vay trực tiếp, vừa cho vay thông qua nhóm tín dụng, ngân hàng đã góp phần làm cho các nguồn vốn luân chuyển nhanh, đáp ứng được mọi yêu cầu đặt ra của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
* Công tác thu nợ
Đây là hoạt động quan trọng quyết định sự tồn tại của ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác này, cán bộ tín dụng của NHNo & PTNT Hà Nội đã rất tích cực trong việc đôn đốc thu hồi nợ. Kết quả cho thấy:
- Năm 1999: Doanh số thu nợ đạt 95,3% so với doanh số cho vay
- Năm 2000: Doanh số thu nợ đạt 98,5% so với doanh số cho vay
- Năm 2001: Doanh số thu nợ đạt 94,46% so với doanh số cho vay
2.2.3.1.2 Nguyên nhân của kết quả đạt được
* Nguyên nhân khách quan
- Nhà nước và ngành ngân hàng đã ban hành một hệ thống văn bản pháp lý khá đồng bộ và hoàn chỉnh, đặc biệt NHNo & PTNT Việt Nam đã ban hành những quy định rất cụ thể và chi tiết về công tác đào tạo cán bộ, tiền lương và các văn bản về nghiệp vụ tín dụng, công tác hạch toán kế toán … nhằm mục đích tạo thuận lợi để mở rộng các hoạt động kinh doanh và nâng cao trách nhiệm trong đầu tư vốn của các NHTM trong hệ thống, đồng thời từng bước thực hiện chính sách xã hội hóa hoạt động ngân hàng.
- Môi trường kinh tế và chính trị của đất nước ổn định, hệ thống pháp luật khá đồng bộ tạo thuận lợi cho đầu tư trong nước cũng như đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
* Nguyên nhân chủ quan
- Ngân hàng đã kiện toán ổn định bộ máy tổ chức, mở rộng mạng lưới phục vụ. Ngay từ cuối năm 1998, được sự chỉ đạo trực tiếp của NHNo & PTNT Việt Nam, NHNo & PTNT Hà Nội đã kiện toàn bộ máy tổ chức từ ban giám đốc đến các phòng ban, tăng cường đội ngũ cán bộ tín dụng cả về lượng và chất.
- Coi trọng công tác tập huấn nghiệp vụ, học tập văn bản để nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ.
- Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ trên mọi mặt như công tác hạch toán kế toán, thu chi và chi tiêu nội bộ, kiểm tra việc thực hiện quy trình nghiệp vụ cho vay của cán bộ tín dụng.
- Thường xuyên phối hợp với chính quyền các cấp, các ngành có liên quan kiểm tra sử dụng vốn vay cũng như xử lý các vụ việc tiêu cực, nợ tồn đọng.
- Giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức nghề nghiệp kết hợp với phát huy phong trào thi đua cho cán bộ công nhân viên trong cơ quan, thường xuyên quan tâm đến đời sống của đội ngũ cán bộ, tạo ra bầu không khí lao động mới, sôi nổi, lành mạnh, hiệu quả và tăng cường mối quan hệ đoàn kết trong ngân hàng.
2.2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân
2.2.3.2.1 Những điểm hạn chế
- Năng lực và trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng tuy đã được nâng cao nhưng vẫn còn chưa đồng bộ do được đào tạo ở các loại hình khác nhau nên chưa đáp ứng được trước yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Việc thẩm định và phân tích những dự án xin vay vốn cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng có đôi khi còn chưa sát với thực tế nên có những khoản cho vay xong khó có khả năng thu hồi, nhiều khoản phải tiến hành gia hạn nợ hoặc giãn nợ. Nhiều dự án có nội dung kinh tế kỹ thuật phức tạp, cán bộ không đủ trình độ và điều kiện hiểu biết về các lĩnh vực chuyên môn để xác định hiệu quả của dự án một cách chính xác. Cán bộ ngân hàng tính toán các chỉ tiêu chủ yếu dựa vào các số liệu do doanh nghiệp cung cấp và tự tính toán. Họ chưa được chuyên sâu vào một ngành cụ thể nên chưa nắm chắc những đặc điểm, những khó khăn thiếu sót khi đánh giá phương án kinh doanh của khách hàng. Chính vì vậy, mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn thấp song tình trạng điều chỉnh kỳ hạn nợ vẫn phát sinh nhiều dẫn đến tình trạng chất lượng bị ảnh hưởng.
- Xuất phát từ những thuận lợi là đứng trên địa bàn thủ đô là trung tâm kinh tế lớn của cả nước nên đã thu hút được một lượng lớn khách hàng, song cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của hàng loạt ngân hàng khác nên nhiều lúc đã thiếu sự chọn lựa khách hàng, linh động trong công tác cho vay nên ngân hàng buộc phải hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, cho vay cả với những khách hàng không đủ điều kiện đảm bảo an toàn tín dụng. Khi ngân hàng huy động được vốn nhiều nhưng cho vay ra không tương xứng nên để giải quyết số vốn tồn đọng, ngân hàng đã phải giảm thấp tiêu chuẩn an toàn tín dụng nên những khoản vay này rất dễ đưa đến nợ quá hạn.
- Việc chỉ đạo nắm bắt thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng, thông tin kinh tế thị trường giá cả còn chưa đầy đủ. Chính vì vậy, việc kiểm tra sử dụng vốn sau khi đã giải ngân xong các khoản vay vẫn còn lỏng lẻo, chưa có biện pháp xử lý kiên quyết khi phát hiện khách hàng có sai phạm trong quá trình sử dụng vốn. Do vậy, nhiều khách hàng đã tìm cơ hội sử dụng vốn sai mục đích hay dây dưa, chây ỳ trong trả nợ làm thất thoát tiền vốn của ngân hàng.
- Chưa đa dạng hóa các hình thức cho vay, hình thức chủ yếu vẫn là cho vay trực tiếp nên nhiều lúc chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn phát triển kinh tế, đảm bảo an toàn vốn và tiết kiêm chi phí.
- Thủ tục cho vay đôi khi còn rườm rà, thủ tục xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ còn phức tạp.
- Chưa chủ động tìm kiếm các dự án có vốn đầu tư lớn.
- Trong thực tế, quy mô về khối lượng tín dụng tăng nhanh, song nó lại bất cấp với năng lực quản lý của cán bộ ngân hàng, dẫn đến tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng. Dư nợ bình quân quá lớn, số món vay nhiều thuộc mọi lĩnh vực nên cán bộ chuyên trách khó có thể kiểm soát thường xuyên để có biện pháp hữu hiệu kịp thời ngăn chặn.
- Trong cơ chế nghiệp vụ tín dụng ban hành còn có những điểm không phù hợp với thực tiễn, những vướng mắc đề xuất của cán bộ tín dụng chưa được trả lời kịp thời nên còn hạn chế tính chủ động và sự phán quyết của họ. Những vấn đề này nếu ban giám đốc NHNo & PTNT Hà Nội không giải quyết sớm sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh tín dụng, giảm lòng tin dẫn đến mất khách hàng.
- Trong nền kinh tế thị trường, sự đổi mới diễn ra thường xuyên liên tục, nó ảnh hưởng đến nhu cầu của khách hàng, làm thay đổi nhu cầu của khách hàng theo xư hướng tiến bộ nên ngân hàng phải đổi mới và đi trước một bước. Đổi mới cũng có nghĩa là phải thực hiện công tác Marketing ngân hàng trên mọi lĩnh vực. Thông qua hoạt động Marketing, vị thế của ngân hàng sẽ được cải thiện trên thương trường, đồng thời qua đó, ngân hàng sẽ xác định được khách hàng mục tiêu, hiểu rõ hơn nhu cầu của khách hàng để có chính sách phục vụ tốt hơn. Song hiện nay, tại NHNo & PTNT Hà Nội lại chưa có phòng Marketing. Điều này cũng đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tín dụng của ngân hàng.
2.2.3.2.2 Một số nguyên nhân chủ yếu
* Môi trường kinh tế chưa ổn định
- Cơ chế và chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới, sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với nạn hàng giả và hàng nhập lậu. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp phải chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh để theo kịp với sự thay đổi của cơ chế và chính sách vĩ mô của nhà nước cũng như tình hình thực tế trên thị trường mà do đó đã phải đối mặt với vô vàn khó khăn như hàng hóa vật tư tồn kho, không tiêu thụ được …dẫn đến tình hình sản xuất kinh doanh bị thua lỗ, mất khả năng thanh toán những khoản tiền đã vay của ngân hàng để đầu tư sản xuất. Ngay như biểu thuế suất đối với vật tư hàng hóa xuất khẩu mỗi năm cũng thay đổi nhiều lần và mỗi lần thay đổi đã làm cho nhiều doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi lại bị lỗ, ảnh hưởng đến công tác thanh toán chi trả của doanh nghiệp.
- Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng trên thị trường tiền tệ tín dụng đã buộc ngân hàng đôi khi phải bỏ qua những nguyên tắc tín dụng cũng như hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để thu hút khách hàng.
* Môi trường pháp lý trong lĩnh vực tín dụng chưa thực sự hoàn thiện
Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã được kỳ họp thứ 2 khóa X của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua vào tháng 12 năm 1997 và đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/ 10/ 1998. Cả một thời gian dài trước khi Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng ra đời đã có sự tham gia đóng góp để hoàn chỉnh của rất nhiều các cấp, các ngành, song thực tế khi đã được thông qua vẫn còn rất nhiều vướng mắc và chưa thực sự hoàn thiện để tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động tín dụng của các NHTM. Các văn bản pháp lý chưa đồng bộ nên khi thực hiện gặp nhiều khó khăn, trong đó nổi cộm lên là vấn đề cầm cố thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng của các DNNN. Trong thời gian trước, mặc dù đã có Thông tư liên bộ 01/ TT - LB ngày 03/ 07/ 1996 hướng dẫn về thủ tục thế chấp cầm cố tài sản đối với DNNN nhưng trong quá trình thực hiện cho đến nay, đây vẫn là vấn đề gặp nhiều khúc mắc nhất. Lý do là phần lớn các DNNN vẫn chưa được quyền sử dụng đất, một tài sản thế chấp để vay vốn phổ biến nhất. Hơn nữa, việc quy định vay vốn có tài sản thế chấp bắt buộc phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền là chưa cụ thể và chưa rõ ràng nên nhiều doanh nghiệp không thể xác định được cơ quan đó là cơ quan nào. Đối với ngân hàng, việc xem xét giấy tờ gốc về quyền sử hữu tài sản gặp nhiều khó khăn do thông tư chưa quy định rõ như tại điểm 1.2 nên đối với tài sản là bất động sản mà DNNN được sử dụng để cầm cố theo quy định của pháp luật thì lập danh mục riêng kèm theo các bản gốc giấy tờ về quyền sở hữu và quản lý nếu có. Cho nên nhiều DNNN thắc mắc giấy tờ gốc là loại giấy tờ nào và có thể coi hóa đơn xuất nhập kho là một loại giấy tờ gốc không. Đối với việc cho phép các dây chuyền sản xuất được là vật cầm cố thế chấp cũng rất nguy hiểm cho những khoản vay dài hạn bởi nó chỉ có giá trị tương đương ở thời điểm vay. Sau một thời gian sử dụng cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nó sẽ trở nên mất giá do đã bị lạc hậu, đó là chưa kể đến sự hao mòn hữu hình xảy ra trong quá trình sản xuất cho nên khi phát mại để thu hồi vốn sẽ là rất khó khăn. Hay như Quyết định số 198/ QĐ - NH ngày 16/ 9/ 1994 của NHNN về thể lệ tín dụng ngắn hạn và Quyết định số 02/ 07 QĐ - NH ngày 17/ 6/ 1996 của NHNN về việc ban hành quy chế thế chấp, cầm cố và bảo lãnh vay vốn, ngân hàng đều quy định mức tiền vay tối đa là 70% giá trị tài sản thế chấp được xác định ghi trên hợp đồng. Căn cứ để xác định giá trị tài sản thế chấp cầm cố này lại quy định tổ chức và người có tài sản thế chấp thỏa thuận định giá trên cơ sở giá thị trường địa phương tại thời điểm đó mà ở mỗi địa phương không có một cơ quan nào quyết định giá cả của thị trường đối với từng loại tài sản. Nếu căn cứ vào Quyết định số 02/ 07/ QĐ - NH1 ngày 17/ 8/ 1996 và Thông tư liên bộ số 01/ TT - LB ngày 03/ 08/ 1996 và Quyết định số 198/ QĐ - NH ngày 16/ 9/ 1994 thì việc chấp hành quy định cho vay phải tuân theo đúng chế độ. Do đó, NHNN đã có công văn 417/ CV - NH14 ngày 31/ 05/ 1997 và công văn 02/ 04/ CV - TD2 ngày 16/ 7/ 1997 để bổ sung, sửa đổi đảm bảo tính thực tiễn của các chính sách, chế độ nhằm tháo gỡ ách tắc rào cản trong quan hệ cung cầu về vốn giữa các doanh nghiệp với ngân hàng. Nhưng trong thực tế, khi thực hiện các công văn trên thì việc đảm bảo an toàn vốn vay của ngân hàng lại có nhiều vướng mắc. Trước đây, DNNN khi vay vốn các tổ chức tín dụng phải thế chấp tài sản, điều này quy định cụ thể trong luật DNNN. Nay vay vốn không có điều kiện này, gặp rủi ro DNNN phá sản thì ngân hàng sẽ thu nợ như thế nào vì trong Nghị định 59/ CP của Chính phủ đã quy định DNNN chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về dân sự trong phạm vi vốn của mình và theo luật phá sản thì chỉ ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ có đảm bảo trước.
Như vậy, chính môi trường pháp lý chưa đồng bộ trong khi môi trường xã hội còn nhiều nhức nhối đã gây không ít khó khăn cho hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM nói chung và NHNo & PTNT Hà Nội nói riêng.
* Các nguyên nhân về phía khách hàng
- Sự yếu kém về trình độ kỹ thuật, máy móc thiết bị lạc hậu làm cho năng suất lao động thấp, chất lượng kém, giá thành cao dẫn đến hàng hóa ứ đọng, thua lỗ trong kinh doanh.
- Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng còn nhiều hạn chế. Trong nền kinh tế thị trường, muốn thành công trong kinh doanh thì các doanh nghiệp cần phải có kiến thức, kỹ năng quản trị kinh doanh chứ không thể thành đạt chỉ bởi lòng nhiệt tình và sự chịu đựng gian khổ. Nhưng ở nước ta, đặc biệt là ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nhà quản lý chưa đáp ứng được những yêu cầu đó. Một số doanh nghiệp khi vay vốn, họ lập phương án kinh doanh có hiệu quả, chứng minh đầu vào, đầu ra khả thi nhưng do bỏ qua những biến động thị trường nên đã bị thua lỗ.
- Nhiều DNNN không theo kịp sự đổi mới của nền kinh tế, vẫn quen làm ăn theo kiểu bao cấp nên không có hiệu quả kinh tế. Trước đây các DNNN thường được ngân sách cấp vốn để kinh doanh và bù lỗ. Đến nay, khi chuyển sang tự hạch toán kinh doanh, vì vốn ít nên phải đi vay vốn ngân hàng để hoạt động. Mặc dù được nhà nước ưu đãi về nhiều điều kiện vay vốn nhưng nhiều DNNN vẫn không sử dụng vốn vay có hiệu quả bởi họ vẫn có tâm lý trông chờ, ỷ lại vào nhà nước như xin khoanh nợ, xóa nợ nếu có phát sinh nợ quá hạn. Nói chung, họ chưa thực sự lo lắng về hậu quả của việc mất khả năng trả nợ vốn vay của ngân hàng và ngân hàng vẫn phải chịu sự thiệt hại từ sự thiếu trách nhiệm đó bởi việc xiết nợ tài sản thế chấp của DNNN là gần như không thể xảy ra.
- Không ít chủ doanh nghiệp và các cá nhân vay vốn ngân hàng không chỉ kém về năng lực kinh doanh mà còn kém về tư cách đạo đức. Nhiều khách hàng sử dụng tiền vay không đúng mục đích, không đúng như phương án đã phê duyệt khi xin vay vốn nên không thể trả nợ đúng hạn.
- Cuối cùng là các doanh nghiệp do có khó khăn về vốn nên tranh thủ chiếm dụng vốn lẫn nhau hoặc cũng vị lý do nào đó chậm trễ trong thanh toán tiền hàng cho nhau cũng làm cho nhiều doanh nghiệp vay vốn ngân hàng không có thu nhập để trả nợ cho ngân hàng.
* Các nguyên nhân về phía ngân hàng
Để thực hiện một khoản cho vay hoàn chỉnh, cán bộ tín dụng thường phải thực hiện kiểm tra đánh giá khoản vay trước, trong và sau khi cho vay. Đánh giá rủi ro trước khi cho vay có ý nghĩa rất quan trọng. Mức độ rủi ro đối với những khoản vay sẽ là rất lớn nếu khâu này làm không chính xác. Để làm tốt việc này, các cán bộ tín dụng phải tập hợp và xử lý các thông tin về mọi mặt của khách hàng bao gồm cả tình hình tài chính, kinh doanh, tư cách đạo đức của khách hàng, nghĩa là cán bộ tín dụng phải hiểu rõ khách hàng trước khi có quyết định cho vay. Đánh giá rủi ro trong khi giải ngân giúp cho cán bộ tín dụng kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, tình hình tài sản thế chấp và khả năng thanh toán của khách hàng. Cuối cùng, sau khi khách hàng trả nợ xong, ngân hàng sẽ tiến hành thanh lý hợp đồng và đánh giá hiệu quả vốn vay. Đánh giá giai đoạn này giúp cán bộ tín dụng thấy được khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu vốn vay giúp doanh nghiệp phát triển, doanh nghiệp trả nợ theo đúng hợp đồng thì tiếp tục quan hệ với doanh nghiệp. Ngược lại, nếu vốn vay bị sử dụng lãng phí, khó khăn trong việc thu hồi nợ thì ngân hàng sẽ hạn chế cho vay với khách hàng đó.
Từ các khâu đánh giá kiểm tra như vây, có thể rút ra một số thiếu sót từ phía cán bộ tín dụng của ngân hàng như sau:
+ Mặc dù đã được quan tâm đào tạo, song vẫn chưa đáp ứng được kịp với những diễn biến thay đổi liên tục của nền kinh tế thị trường: sự am hiểu về nền kinh tế còn hạn chế nên quá trình tính toán cho vay còn chưa sát.
+ Chưa quan tâm nhiều đến tính khả thi của dự án vay, mới chỉ chú trọng vào tài sản thế chấp đảm bảo tiền vay của khách hàng dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng vốn sai mục đích.
+ Chưa phân tích hết được năng lực tài chính của khách hàng, thường là vốn tự có tham gia vào dự án thấp, dẫn đến hiệu quả của dự án không cao, khả năng trả nợ thấp.
+ Công tác kiểm tra, kiểm soát các khoản vay tuy đã được chú trọng và tăng cường nhưng công tác tự sửa sai còn chậm nên chưa đáp ứng được yêu cầu.
Chương 3
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT Hà Nội
3.1 Định hướng hoạt động của NHNo & PTNT Hà Nội trong những năm tới
3.1.1 Định hướng chung từ năm 2003 - 2010
Là một ngân hàng thương mại thì vấn đề quan trọng là phải có đủ nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các khách hàng. Song nhu cầu đó phải có những dự án khả thi đem lại hiệu quả kinh tế xã hội thiết thực cho người vay vốn và cho nền kinh tế, đồng thời đáp ứng được các điều kiện vay vốn theo thể lệ chế độ tín dụng hiện hành, đặc biệt là điều kiện có khả năng hoàn trả nợ vay cả gốc và lãi. Với phương châm hoạt động là “đi vay để cho vay”, NHNo & PTNT Hà Nội đã có những định hướng chung cho hoạt động kinh doanh từ năm 2003 - 2010 như sau:
- Về nguồn vốn: Phải đa dạng hóa các hình thức huy động nhằm thu hút được khối lượng vốn lớn phục vụ cho quá trình hoạt động.
- Về sử dụng vốn: Mở rộng công tác cho vay đối với mọi loại hình kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau với phương châm tăng trưởng nhưng phải an toàn tín dụng.
- Kiên trì đổi mới theo cơ chế thị trường trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên địa bàn, đảm bảo lãi suất thực dương và hoạt động kinh doanh có lãi.
- Không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế, củng cố chữ tín trong hoạt động kinh doanh để tiếp tục thu hút ngày càng lớn các nguồn vốn tài trợ ủy thác đầu tư của nước ngoài.
- Từng bước hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh đứng vững trong cạnh tranh, hòa nhập với các ngân hàng trên địa bàn cũng như trên toàn quốc.
3.1.2 Định hướng cho năm 2003
- Nguồn vốn tăng trưởng từ 35 - 40%.
- Tổng dư nợ tăng 30 - 37%.
- Cho vay trung - dài hạn chiếm 35% tổng dư nợ.
- Tỷ lệ nợ quá hạn là 3%.
- Lợi nhuận tăng 5%.
3.2 Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội
Hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn trong đó mức độ rủi ro cao và tín dụng là một trong những lĩnh vực có rủi ro cao nhất. Đối với các NHTM Việt Nam, hoạt động tín dụng đang là một trong những lĩnh vực chiếm tỷ trọng 85 - 90% doanh thu, nên việc đảm bảo chất lượng tín dụng là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu và là một nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển của mỗi NHTM. Để nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể sau:
3.2.1 Tăng cường công tác huy động vốn
Một NHTM mạnh là ngân hàng có nguồn vốn lớn, vì vậy, công tác huy động vốn tại chỗ có ý nghĩa rất quan trọng. Thời gian qua, với lợi thế của mình, NHNo & PTNT Hà Nội đã sử dụng các giải pháp đồng bộ từ khâu củng cố mạng lưới đến quảng cáo, tác phong phục vụ đã tạo ra được một luồng vốn lớn. Nếu chỉ dừng lại ở đó mà không tiếp tục tăng cường thường xuyên các biện pháp tốt thì sẽ bị thụt lùi, không đủ mạnh để cạnh tranh với các ngân hàng khác. Để làm tốt công tác huy động vốn, cần làm tốt hơn các giải pháp cụ thể sau:
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền trực tiếp, tuyên truyền qua mạng lưới thông tin đại chúng, vận dụng các hình thức huy động thích hợp để khuyến khích khách hàng gửi tiền, đảm bảo sự ổn định và tăng cường được nguồn vốn.
- Cải tiến và thay đổi phong cách giao dịch, lề lối làm việc, giải quyết nhanh và chính xác mọi công việc, không để làm mất thời gian của khách hàng.
3.2.2 Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ngân hàng
Thẩm định tín dụng là xác định khả năng hay ý muốn của người vay trong việc hoàn trả tiền vay. Có nhiều yếu tố mà các ngân hàng cần phải xem xét về khả năng và sự sẵn lòng hoàn trả tiền vay, phù hợp với các điều khoản trong hợp đồng tín dụng hay không. Trong đó cần chú ý đến 5 nhân tố quan trọng, đó là năng lực, uy tín, vốn, tài sản thế chấp và điều kiện hoạt động. Trong các nhân tố này, uy tín là nhân tố quan trọng nhất. Nếu như khâu thẩm định được thực hiện tốt thì các nhà quản trị ngân hàng sẽ đưa ra được những quyết sách đúng đắn. Tuy nhiên, để là được điều đó, các ngân hàng cần phải:
* Thực hiện thu thập và xử lý thông tin một cách chính xác
- Đối với doanh nghiệp
+ Ngân hàng cần phải biết bản chất các hoạt động của doanh nghiệp, những sản phẩm nào được sản xuất, được buôn bán, những sản phẩm dịch vụ nào được đưa ra, được coi là hàng hóa chính hay hàng hóa phụ, phục vụ cho mục đích tiêu dùng hay sản xuất. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần thu thập thông tin về tính ổn định của nguồn nguyên liệu, lao động, thị trường nơi doanh nghiệp cung ứng sản phẩm.
+ Để có được đầy đủ thông tin về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, ngân hàng phải xem xét báo cáo tài chính, thu thập các thông tin về tình hình vay trả của đơn vị vay vốn trong quá khứ, để từ đó đưa ra đánh giá về uy tín của đơn vị vay. Bên cạnh đó, ngân hàng cần điều tra các thông tin từ bên ngoài như điều tra về nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, điều tra từ bạn hàng của đơn vị vay vốn, các nguồn thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng tại ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, hoạt động của trung tâm này còn nhiều hạn chế. Vì vậy, ngân hàng cần trang bị các phương tiện thông tin hiện đại, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, làm công tác thu thập thông tin phòng ngừa rủi ro để tra cứu thông tin về doanh nghiệp được chính xác, qua đó ngân hàng từng bước sàng lọc và chọn khách hàng để đầu tư.
+ Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với doanh nghiệp sẽ giúp cho ngân hàng có điều kiện nắm vững thông tin có liên quan đến khách hàng, đánh giá được đúng chất lượng khách hàng, tiết kiệm được chi phí thẩm định và kiểm tra giám sát. Thông qua việc quan hệ thanh toán với ngân hàng, có thể nắm bắt được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Căn cứ vào số dư trên tài khoản của họ, ngân hàng biết được khả năng tiềm tàng và chu kỳ sử dụng vốn, cũng như quan hệ của họ với các bạn hàng trong việc mua nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Đây cũng là cách tốt nhất để thu thập thông tin về doanh nghiệp, là cơ sở để ngân hàng tiết kiệm chi phí thẩm định và tránh được rủi ro về đạo đức.
- Đối với hộ sản xuất
Nguồn thông tin thu thập chủ yếu là tuổi, trình độ học vấn, đạo đức, khả năng, kỹ năng lao động, tình hình kinh tế và kinh nghiệm sản xuất, các tệ nạn xã hội. Ngoài ra cần tìm hiểu thêm qua chính quyền địa phương để xác định rõ thêm về tư chất của hộ vay. Như vậy, trên cơ sở thông tin đã thu thập được, ngân hàng tiến hành phân tích và xử lý thông tin để từ đó đưa ra những quyết định chính xác, có đầu tư hay không.
* Phân tích tài chính đơn vị vay vốn
Việc thường xuyên phân tích tài chính đơn vị vay vốn để hiểu rõ năng lực tài chính đơn vị, từ đó làm cơ sở đưa ra những phán quyết tín dụng là việc làm hết sức cần thiết. Chính vì vậy, cán bộ tín dụng cần đi sâu phân tích các khoản phải thu, phải trả, thu nhập và chi phí, khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, đồng thời tính toán được hệ thống các chỉ số, đặc biệt là chú trọng các chỉ số đánh giá khả năng thanh toán.
Nên duy trì phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính của đơn vị vay vốn 6 tháng 1 lần để kịp thời phân loại khách hàng trong từng thời kỳ, từ đó có định hướng đầu tư và cơ chế ưu đãi phù hợp.
* Đánh giá tính khả thi của phương án, dự án sản xuất kinh doanh và trình độ của người điều hành
Dựa vào hồ sơ xin vay của khách hàng và các thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau. Ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá phương án, dự án sản xuất kinh doanh mà khách hàng sử dụng vốn vay để đầu tư. Bởi phương thức sản xuất kinh doanh có khả thi, có triển vọng tốt sẽ phần nào đảm bảo vốn vay của ngân hàng chắc chắn được hoàn trả. Hơn nữa, phương án đem lại hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng, trình độ và kinh nghiệm của người quản lý. Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào xảy ra trong quá trình sản xuất kinh doanh thì với một người quản lý năng động, sáng tạo và có kinh nghiệm sẽ có thể giải quyết một cách nhanh chóng, có hiệu quả. Đây cũng là một yếu tố đáng quan tâm trước khi xem xét có cho vay hay không.
3.2.3 Phân loại khách hàng
Để đánh giá khách hàng phải dựa vào một số tiêu chí nhất định, qua đó phân loại khách hàng ở các mức độ khác nhau. Sau khi phân loại được khách hàng, ta có thể đưa ra được các giải pháp như tiến hành tập trung cho vay các khách hàng có tài chính lành mạnh, quan hệ với ngân hàng sòng phẳng. Còn những khách hàng khó khăn về tài chính, nếu ổn định được sản xuất kinh doanh, có dự án khắc phục thì có thể kiểm tra thẩm định để cho vay, từ chối những khách hàng không có khả năng ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh, không có dự án khả thi.
3.2.4 Thực hiện nghiêm túc các thể lệ, chế độ tín dụng hiện hành
* Quy chế thể lệ tín dụng
Những năm gần đây, chế độ thể lệ tín dụng của NHTM luôn luôn được bổ sung, thay đổi để phù hợp với chính sách đổi mới của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, trong thực tế giải quyết công việc, cán bộ tín dụng khó có thể nắm vững hết những văn bản pháp quy trong lĩnh vực này đang còn hoặc đã hết hiệu lực và khó lường trước được nội dung trong văn bản pháp quy có mâu thuẫn hoặc phủ nhận lẫn nhau không? Thực trạng này đang là một khó khăn, lúng túng cho những cán bộ làm công tác tín dụng.
Chính vì vậy, trong điều kiện kinh tế xã hội và pháp luật hiện nay, cần phải coi trọng việc vận dụng các văn bản pháp quy vào thực tế cho phù hợp với tình hình từng khách hàng. Ngoài ra, cần giữ vững quy trình giải quyết cho vay theo hình thức 3 công đoạn: cán bộ tín dụng thẩm định, trưởng hoặc phó phòng tín dụng tái thẩm định (nếu cần thiết) và ký kiểm soát, lãnh đạo ký quyết định cho vay. Giải quyết công việc theo quy trình này đảm bảo được tính dân chủ, phân định rõ ràng trách nhiệm và kiểm tra, đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Song để thực hiện nghiêm túc các chế độ thể lệ tín dụng thì ngoài việc giáo dục ý thức cho cán bộ cần phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trong việc chấp hành chế độ, một mặt vừa nâng cao trách nhiệm cán bộ tín dụng trong khi cho vay, vừa phát hiện được những thiếu sót để có biện pháp sửa chữa kịp thời.
* Quy chế bảo đảm tiền vay
Thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản khi vay vốn ngân hàng là một trong những biện pháp đảm bảo tín dụng ở các NHTM.
Từ năm 1999 trở về trước, các doanh nghiệp nhà nước không phải thế chấp tài sản. Sang năm 2000 thì các tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn khách hàng để cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài sản và tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình. Vì vậy, theo những quy định trong Nghị định 178 của Chính phủ, Thông tư 06 của NHNN và quyết định 167 của Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam thì hầu hết đều phải có thế chấp bằng tài sản, trừ những trường hợp vay theo QĐ 67/ TTg, người vay vốn ngân hàng là những doanh nghiệp nhà nước, những hộ vay vốn có đủ các điều kiện sau đây sẽ được tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay:
+ Có tín nhiệm với tổ tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ ngân hàng đúng hạn gốc và lãi.
+ Có dự án đầu tư, hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi.
+ Có khả năng tài chính và các nguồn thu hợp pháp để có thể trả nợ cho tổ chức tín dụng.
+ Cam kết thực hiện các biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay sai mục đích và cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay.
+ Đối với doanh nghiệp nhà nước, cần phải có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi trong 2 năm liền kề.
3.2.5 Quản lý rủi ro:
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, nghiệp vụ chủ yếu là huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế của đất nước và là trung gian tài chính - tiền tệ của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy có thể thấy rằng tính chất hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là kinh doanh trên rủi ro, có thể nói rằng rủi ro của Ngân hàng thương mại là tổng rủi ro của các doanh nghiệp cho nên để đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình, việc tìm ra các biện pháp quản lý rủi ro là việc làm hết sức bức thiết đối với Ngân hàng thương mại.
Mỗi Ngân hàng có một cách đi riêng trong công việc này. Song nhìn chung thì biện pháp phân tán rủi ro đang được nhiều Ngân hàng thương mại áp dụng nhất dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ngân hàng có thể cho vay hợp vốn, mọi vấn đề đều được san sẻ : từ mức vốn góp đến lợi nhuận, rủi ro, trách nhiệm, quyền hạn ... Khi khách hàng đề nghị một khoản tín dụng lớn mà Ngân hàng thấy cần phải cho vay hợp vốn thì Ngân hàng cần xem xét sẽ hợp tác với ai, nhường đi bao nhiêu quyền lợi để san sẻ rủi ro, ai sẽ quản lý tài sản thế chấp...
Có thể sáp nhập, hợp nhất, liên doanh liên kết. Đây là biện pháp phù hợp với các Ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay, xuất phát từ thực trạng các Ngân hàng này có vốn nhỏ, uy tín thấp, khả năng thanh toán thường xuyên không được đảm bảo... Giải pháp này vừa tiết kiệm chi phí, nâng cao tiềm lực và lợi thế cạnh tranh, đa dạng hoá hoạt động, vừa đem lại khả năng chống đỡ rủi ro cao. Ngoài ra, Ngân hàng có thể biến khoản cho vay thành vốn góp liên doanh. Đây cũng là một hình thức phân tán rủi ro.
Hoặc Ngân hàng có thể lập quỹ dự phòng rủi ro và tham gia bảo hiểm tín dụng. Rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng thường xuyên tồn tại và tác động trực tiếp tới lợi nhuận cũng như hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Đối với rủi ro tín dụng có thể được bảo hiểm bằng kỹ năng quản lý tín dụng quỹ dự phòng rủi ro và hợp đồng bảo hiểm, nhằm đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên cho Ngân hàng.
Cũng có thể đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư. Để giảm bớt các rủi ro phải gánh chịu, các Ngân hàng không nên cho vay một doanh nghiệp, một ngành ... khoản tín dụng quá lớn. Xuất phát từ hướng đi, mục tiêu tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc gia, bối cảnh kinh tế - tài chính quốc tế... mà có tỷ trọng tối ưu cho từng ngành, từng khu vực kinh tế trong từng thời kỳ.
3.2.6 Tăng cường kiểm tra, giám sát các khoản vay
Các khoản tín dụng thực sự có hiệu quả phải là những khoản cho vay ra được thu hồi về đúng kỳ hạn. Muốn vậy, cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Đây là những bước thực hiện đúng theo quy trình nghiệp vụ vì thông qua kiểm tra mới có thể biết được khách hàng sử dụng vốn vay như thế nào? kết quả sản xuất kinh doanh ra sao?
Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác kiểm tra kiểm soát ở NHNo & PTNT Hà Nội chưa thực sự có hiệu quả, vì thế, đã xuất hiện nhiều khoản nợ quá hạn phát sinh do nguyên nhân từ phía khách hàng. Để giải quyết vấn đề này, trong thời gian tới, ngân hàng cần quan tâm hơn nữa đến công tác kiểm tra kiểm soát, tổ chức các đợt kiểm tra điểm, kiểm tra chéo nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng. Công tác kiểm tra giám sát không chỉ đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà còn là để phát hiện những thiếu sót chủ quan từ phía Ngân hàng, qua đó có những biện pháp uốn nắn cán bộ được kịp thời.
3.2.7 Giải quyết tốt các khoản nợ quá hạn
Trong những năm qua, các NHTM nói chung có tỷ lệ nợ quá hạn lớn và có xu hướng gia tăng. Việc giải quyết như thế nào là vấn đề các NHTM còn nhiều lúng túng.
Thực tế tại NHNo & PTNT Hà Nội, nợ quá hạn đang còn ở mức hơi cao, cần phải có những biện pháp chỉ đạo cụ thể để thu hồi được nợ trong thời gian nhanh nhất. Việc đầu tiên là phải phân tích các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi để tìm hiểu nguyên nhân phát sinh, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp cụ thể là:
+ Nếu những khách hàng có khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng do những nguyên nhân bất khả kháng thì có thể áp dụng các chế tài tín dụng như gia hạn nợ, giảm nợ, hoặc là thu nợ dần.
+ Nếu những khách hàng cố tình chây ỳ, không chịu trả nợ ngân hàng thì phối hợp với chính quyền địa phương, xử lý tín dụng để thu hồi nợ hoặc khởi kiện trước pháp luật. Cán bộ tín dụng phải kiên trì bám sát khách hàng để đôn đốc thu hồi nợ quá hạn và đề xuất các biện pháp xử lý nợ.
+ Kiểm tra, củng cố hồ sơ vay vốn, hồ sơ tài sản bảo đảm tiền vay của các khoản nợ quá hạn, xử lý dứt điểm từng bước theo đúng quy trình nghiệp vụ và các quy định của pháp luật, làm cơ sở cho việc xử lý nợ theo văn bản 238 của NHNo & PTNT Việt Nam.
+ Mạnh dạn áp dụng các cơ chế tài chính cho phép để giải quyết các khoản nợ tồn đọng một cách có hiệu quả, cụ thể là khi phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi mà ngân hàng đã xiết nợ bằng tài sản. Những tài sản đó có đủ hồ sơ pháp lý hợp pháp thì thực hiện pháp mại. Trường hợp tài sản xiết nợ bán chậm hoặc khó bán thì ngân hàng được phép cho thuê tài sản hoặc sử dụng vào mục đích phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo nguồn thu bù đắp khoản vay bị rủi ro. Trường hợp đã xử lý hết tài sản mà vẫn còn nợ thì đề nghị xử lý theo văn bản 238 của NHNo & PTNT Việt Nam.
3.2.8 Thực hiện các hoạt động Marketing ngân hàng
Đây là biện pháp quảng cáo để khách hàng hiểu rõ hơn về ngân hàng. Muốn làm được như vậy, hoạt động Marketing ngân hàng có nhiều biện pháp như:
+ Tuyên truyền thông qua phương tiện thông tin đại chúng.
+ Tổ chức các hội nghị khách hàng để giới thiệu những sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, đồng thời tham khảo những ý kiến đóng góp của khách hàng.
+ Ngân hàng có thể tác động vào tâm lý của khách hàng qua việc trao đổi quà tặng cho các khách hàng thường xuyên gửi tiền vào ngân hàng hoặc có những lãi suất ưu đãi khi họ có nhu cầu vay vốn ngân hàng.
+ Thực hiện đa dạng hóa các hình thức hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro.
3.2.9 Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Trong mọi lĩnh vực, con người là yếu tố quyết định. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì việc đảm bảo chất lượng tín dụng trước hết phải do chính những cán bộ trực tiếp làm công tác tín dụng thực hiện. Vì vậy, cán bộ tín dụng không những am hiểu về nghiệp vụ mà còn phải có phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng tiếp cận được với thị trường. Chiến lược để nâng cao chất lượng tín dụng là tiếp tục đổi mới đội ngũ cán bộ tín dụng, thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ tín dụng. NHNo & PTNT Hà Nội trong những năm qua đã rất quan tâm và chú trọng nâng cao trình độ cho cán bộ, đã cử rất nhiều cán bộ đi học nâng cao trình độ ở các trường đại học, nhờ đó, trình độ cán bộ nói chung và nghiệp vụ tín dụng nói riêng được nâng lên rõ rệt.
3.3 Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT hà nội
3.3.1. Đối với Nhà nước và các cấp chính quyền
- Các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước điều chỉnh hoạt động tín dụng thì không nên hình sự hoá các quan hệ tín dụng, không luật hoá các loại hình bảo đảm tiền vay của NHTM, nhưng phải nâng cao tính pháp lý của hợp đồng tín dụng. Việc NH cho vay có thế chấp, cầm cố hay không là do bên cho vay và bên vay thoả thuận trong hợp đồng, nếu bên nào vi phạm sẽ do toà án kinh tế xét xử. Chính phủ không nhất thiết phải can thiệp quá sâu vào các nghiệp vụ NH.
- Nhà nước cần sớm đưa thị trường chứng khoán ở Hà Nội vào hoạt động để hình thành nơi trao đổi, mua bán các giấy tờ có giá. Điều này giúp khách hàng yên tâm hơn khi gửi tiền có kỳ hạn, bởi vì khi cần vốn đột xuất họ có thể đem mua bán trên thị trường chứng khoán để có thể nhận được khối lượng tiền theo nhu cầu.
- Nhà nước cần nhanh chóng phê chuẩn và đưa vào hoạt động tổ chức mua bán nợ. Nhiệm vụ của tổ chức này là mua toàn bộ số nợ tín dụng xấu của các NHTM để phân tích xử lý thu hồi nợ theo kiểu chuyên môn hoá, bất kể số nợ ấy có tài sản thế chấp cầm cố hay không. Có như vậy mới “làm sạch” được bảng cân đối tài sản của các NHTM và để cho các NHTM có thời gian chấn chỉnh hoạt động theo phương án cải tổ mới.
- Nhà nước cần tăng cường năng lực tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước cụ thể là tăng cường vốn tự có cho các doanh nghiệp này. Đồng thời Nhà nước cũng cần xây dựng những định hướng đầu tư phù hợp cho các doanh nghiệp nhà nước.
- Tiếp tục củng cố và sớm hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, từ đó tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nhà nước phải có chính sách ưu tiên đối với hoạt động ngân hàng (vốn điều lệ, công nghệ), hoạt động ngân hàng có vai trò là đòn bẩy của nền kinh tế. Nếu hoạt động ngân hàng không tốt, không phát huy hiệu quả dẫn đến nền kinh tế kém phát triển, đồng thời về lâu dài sẽ không có đủ sức cạnh tranh với hệ thống ngân hàng nước ngoài.
- Cần quy định rõ trách nhiệm của UBND các cấp, các bộ, ngành có liên quan khi tham gia phê duyệt, thẩm định dự án đầu tư, sản xuất kinh doanh và trách nhiệm của ngân hàng, tránh tình trạng khi có rủi ro xảy ra thì mọi trách nhiệm đều thuộc về phía ngân hàng.
- Vấn đề thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi vay vốn ngân hàng thì tài sản thế chấp chủ yếu là nhà đất, nhưng giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất chưa được cấp đầy đủ, do đó rất khó cho ngân hàng trong việc mở rộng cho vay. Vì vậy, UBND Thành phố, Sở Địa chính có kế hoạch đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tạo thuận lợi cho nhân dân có đủ căn cứ pháp lý thế chấp vay vốn ngân hàng để phát triển kinh tế.
- Hoạt động NHNo & PTNT gắn liền với sự phát triển nông nghiệp và nông thôn, Nhà nước cần có những chính sách ưu tiên về vốn, về thuế, nhất là về xử lý nợ do nguyên nhân bất khả kháng.
3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- NHNN nên rà soát lại các văn bản, xóa bỏ tình trạng các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không phù hợp với thực tế, làm cho hệ thống văn bản ngành mang tính pháp lý cao chứ không đơn thuần là hướng dẫn nghiệp vụ như hiện nay.
- Cần nâng cao hiệu lực thanh tra, chú trọng vào các biện pháp khắc phục những tồn
tại và có thái độ kiên quyết đối với những đơn vị có sai phạm mà không chịu sửa sai.
- NHNN cần phải tiêu chuẩn hóa các tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng, xây dựng một chính sách lãi suất phù hợp với từng ngành, từng vùng, cân đối giữa lãi suất cho vay và hiệu quả kinh tế của người nông dân để có một cơ chế về lãi suất hợp lý, tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển.
- NHNN cần tăng cường đẩy mạnh hoạt động của bộ phận trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro vì đây là đầu mối để thu hút và cung cấp thông tin cho các NHTM nhằm giúp cho NHTM có được những quyết định đúng đắn trong hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, cũng cần quy định một mức độ liên đới trách nhiệm của trung tâm này trong trường hợp các NHTM bị rủi ro do sử dụng thông tin thiếu chính xác mà trung tâm này cung cấp.
3.3.3. Đối với NHNo & PTNT Việt Nam
- Trong thời gian qua rủi ro đối với hoạt động tín dụng có xu hướng tăng lên, các NHTM phải tự chịu trách nhiệm về các rủi ro trong cho vay, đặc biệt có thể gia tăng rủi ro đạo đức do chính cán bộ tín dụng trong việc thực hiện các thể lệ chế độ gây ra. Dư nợ cứ tiếp tục tăng nhanh, trong khi số lượng cán bộ tín dụng hầu như không tăng, điều kiện giao thông ở nông thôn rất khó khăn... làm tăng áp lực lên các cán bộ tín dụng. Đồng thời trách nhiệm và khối lượng công việc của cán bộ tín dụng gia tăng nhưng cơ chế tiền lương chậm được cải thiện cũng làm tăng tính rủi ro của lĩnh vực tín dụng. Xét thấy NHNo&PTNT Việt Nam sau khi khảo sát thực tế cần xây dựng một số định mức tương đối chuẩn đối với cán bộ tín dụng. Kèm theo việc kiểm tra, phân loại cán bộ tín dụng theo bậc lương, trình độ năng lực, bằng cấp... Quy định hệ số tiền lương và chế độ thù lao thoả đáng đối với cán bộ tín dụng nhằm giải quyết một số vấn đề mà thực tiễn nhiều nơi đang diễn ra đó là: Có nhiều cán bộ có năng lực nhưng rất sợ làm cán bộ tín dụng.
Việc sử dụng tài sản thế chấp hiện nay là một vấn đề khó khăn và phức tạp, cần có biện pháp để tháo gỡ. NHNo & PTNT Việt Nam cần có sự chỉ đạo và tác động tới các cấp chính quyền và các cơ quan chức năng để hỗ trợ và ủng hộ ngân hàng trong việc xử lý tài sản thế chấp thu nợ cho ngân hàng.
- Là cơ quan hoạch định các chiến lược kinh doanh và cơ chế tài chính, NHNo&PTNT Việt Nam cần có sự điều chỉnh lại cơ chế khoán tài chính nhằm mục đích phải tạo ra động lực thúc đẩy các hoạt động kinh doanh ngân hàng đạt hiệu quả cao, tránh gây áp lực cho các đơn vị thành viên và các chi nhánh cơ sở nhất là đối với các đơn vị và chi nhánh đang gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Điều này bản thân nó lại có ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Kết luận
Nền kinh tế thị trường đặt các NHTM trước những thuận lợi và thách thức mới vì hoạt động tín dụng ngân hàng luôn gắn với môi trường cũng như các lĩnh vực của nền kinh tế. Mục tiêu kinh doanh hàng đầu của các NHTM là lợi nhuận, nhưng trên con đường tìn kiếm lợi nhuận tối đa đó, các NHTM luôn gặp phải một rào cản lớn, đó là rủi ro. Đây là một điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, mức độ rủi ro đó còn tùy thuộc vào cơ chế quản lý, điều hành, quy trình tác nghiệp cũng như môi trường kinh doanh của từng NHTM.
Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM trong mọi thời kỳ, nhất là hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường với mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt. NHNo&PTNT Hà Nội cũng không nằm ngoài quy luật chung đó.
Từ khi thành lập hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam đến nay, NHNo&PTNT Hà Nội đã trải qua nhiều bước thăng trầm, có lúc tưởng như không trụ vững nổi. Chính trong những lúc khó khăn đó, ngân hàng đã tìm ra lối thoát để tồn tại. Từ việc kiện toàn lại bộ máy tổ chức, phân tích đánh giá khách quan thực trạng hoạt động kinh doanh để thấy rõ kết quả đạt được và quan trọng hơn là tìm ra những tồn tại và nguyên nhân của nó, từ đó rút ra những bài học thực tiễn sâu sắc, đồng thời chớp lấy thời cơ, vận hội mới để xác định rõ mục tiêu kinh doanh, tìm giải pháp mở rộng chất lượng hoạt động kinh doanh.
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng là một đề tài vô cùng rộng lớn và phức tạp. Do quá trình thực tập còn có nhiều hạn chế, cộng thêm kiến thức về lĩnh vực này còn hạn hẹp nên chuyên đề thực tập của em vẫn còn rất nhiều thiếu sót. Em mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và các cán bộ ngân hàng để bài viết này sát với thực tiễn hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tài đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương 1 - lý luận chung về chất lượng tín dụng Ngân hàng
Tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường 3
1.1.1 Khái niệm tín dụng 3
1.1.2 Đặc trưng của tín dụng 5
1.1.3 Phân loại tín dụng 5
1.1.4 Vai trò của tín dụng Ngân hàng 8
1.2 Quy trình cấp tín dụng của ngân hàng 11
1.2.1 Khái niệm 11
1.2.2 Nội dung của quy trình cấp tín dụng 12
1.3 Chất lượng của tín dụng ngân hàng 14
1.3.1 Khái niệm chất lượng tín dụng 14
1.3.2 Vai trò của chất lượng tín dụng 15
1.3.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng 16
1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng 18
Chương 2 - Thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội
2.1 Một vài nét về NHNo&PTNT Hà Nội 24
2.1.1 Sự hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Hà Nội 24
2.1.2 Bộ máy tổ chức của NHNo&PTNT Hà Nội 24
2.1.3 Các hoạt động chủ yếu của NHNo&PTNT Hà Nội 29
2.2 Thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội
trong những năm gần đây 30
Công tác huy động vốn 31
Công tác sử dụng vốn 35
Nhận xé khái quát về hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Hà Nội 42
2.2.3.1 Những kết quả đạt được trong hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT HN 42
2.2.3.1.1 Những kết quả đạt được 42
2.2.3.1.2 Nguyên nhân của những kết quả đạt được 43
2.2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân 44
2.2.3.2.1 Những điểm hạn chế 44
2.2.3.2.2 Một số nguyên nhân chủ yếu 46
Chương 3 - Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng tín dụng tại NH No&PTNT Hà Nội 51
Định hướng hoạt động của NHNo&PTNT Hà Nội trong những năm tới 51
Định hướng chung từ năm 2003 – 2010 51
Định hướng cho năm 2003 51
Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT HN 52
Tăng cường công tác huy động vốn 52
Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng Ngân hàng 53
Phân loại khách hàng 55
Thực hiện nghiêm túc các thể lệ, chế độ tín dụng hiện hành 55
Quản lý rủi ro 56
Tăng cường kiểm tra, giám sát các khoản vay 58
Giải quyết tốt các khoản nợ quá hạn 58
Thực hiện hoạt động Marketing Ngân hàng 59
Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng 59
Một số kiến nghị 60
Đối với Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền 60
Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 62
Đối với NHNo&PTNT Việt Nam 62
Kết luận 64
Tài liệu tham khảo
STT
Tên tài liệu
Năm xuất bản
Tên tác giả
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Nghiệp vụ kinh doanh NH nâng cao
Tài liệu lý thuyết tiền tệ Ngân hàng
Quản trị kinh doanh Ngân hàng
Tài trợ dự án
Quy chế vay của cán bộ Tín dụng đối với khách hàng (ban hành kèm theo QĐ 324/1998/QĐ-NHTM của Thống đốc nhnn)
Quy định cho vay đối với khách hàng (ban hành kèm theo QĐ số 180/QĐ-HĐQT ngày 15/12/98 của HĐQT – NHNo&PTNT Việt Nam)
Tạp chí NH số 1/2001 bài “Đẩy mạnh khai thác các nguồn vốn quốc tế trong nước, đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
Tín dụng Ngân hàng
Nghiệp vụ Kinh doanh Ngân hàng
1999
9/2000
1999
2000
2000
2000
TS Tô Ngọc Hưng
Nguyễn Kim Anh
Bộ môn Tiền tệ-Học viện Ngân hàng
TS Phan Đình Thế
Nguyễn Thanh Sơn
TS Tô Ngọc Hưng
TS Trương Quốc Cường
TS Hồ Diệu
TS Tô Ngọc Hưng
Nhận xét của đơn vị thực tập
--------------------------------------
Nhận xét chuyên đề thực tập của sinh viên
Nguyễn duy anh Lớp Tài chính A Khoá 10B
Giám đốc
Phòng Kinh doanh NHNo&PTNT Hà Nội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0237.doc