Con người, với bản tính tự nhiên là luôn tìm cách tối đa hóa lợi ích cho mình nên đôi khi dẫn đến sự xung đột với lợi ích của người khác hoặc lợi ích của cộng đồng. Do vậy, Tranh chấp tồn tại như một điều tất yếu. Chừng nào con người còn được thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân thì chừng đó còn có những xung đột về lợi ích. Xét ở một chừng mực nhất định, theo Triết học, mâu thuẫn còn tạo ra động lực cho sự phát triển. Và hệ quả của nó là, để mở đường cho sự phát triển, luôn tồn tại các phương thức để giải quyết tranh chấp.
Tranh chấp KD – TM là một thuật ngữ pháp lý mới xuất hiện cùng với sự ra đời của BLTTDS năm 2004. Trước khi thuật ngữ tranh chấp KD – TM xuất hiện, thực tiễn giải quyết tranh chấp phân chia thành tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế. Các tranh chấp phát sinh trong đời sống dân sự hàng ngày bao gồm các quan hệ nhân thân phi tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản được coi là tranh chấp dân sự và điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự năm 1995. Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế và hoạt động tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp, hoạt động mua bán trái phiếu, cổ phiếu được coi là các tranh chấp kinh tế, được điều chỉnh chủ yếu bởi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
110 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án nhân dân cấp huyện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
minh của mình. Thông qua các biên bản trao đổi, các chứng cứ cụ thể sẽ được làm sáng rõ. Việc thu thập chứng cứ thực tế do chính các bên thực hiện với sự trợ giúp của Tòa án thông qua việc buộc phía bên kia phải trả lời và làm sáng tỏ các nội dung mà phía đối tụng đưa ra đồng thời xuất trình những tài liệu chứng minh. Cách thức tiến hành như vậy sẽ tăng đáng kể sự chủ động cho các đương sự, làm họ có trách nhiệm hơn đối với hành vi của mình, giảm tâm lý chống đối Tòa án.
Hai là, Đề cao trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, tổ chức khi được yêu cầu.
Để các cá nhân, tổ chức khi được Tòa án yêu cầu cung cấp chứng cứ tích cực hợp tác, thiết nghĩ nên tác động vào quyền lợi của họ. Tạo động lực cho họ bằng cách gia tăng lợi ích khi thực hiện yêu cầu của Tòa án (i) và tạo sức ép cho họ bằng cách gây thiệt hại tới các quyền kinh tế và quyền nhân thân nếu cần thiết.
(i) Cần hiểu rằng khi Tòa án yêu cầu cá nhân, tổ chức cung cấp chứng cứ cho việc giải quyết tranh chấp không phải là biện pháp Tòa án chủ động thu thập chứng cứ như một số người quan niệm [20, 16] mà chỉ là biện pháp hỗ trợ của Tòa án đối với đương sự khi cần thiết. Hầu hết pháp luật tố tụng trên các nước trên thế giới cũng đều có những quy định này [21, 27]. Vì thế, đây thực chất vẫn là nghĩa vụ chứng của đương sự và do đó họ cần phải trả phí cho những người không có liên quan nhưng đã phải cung cấp các thông tin, tài liệu để phục vụ cho tranh chấp của họ. Điều này sẽ làm cho bên có trách nhiệm cung cấp thông tin tìm thấy lợi ích trong việc làm của họ và tạo ra động cơ thúc đẩy họ thực hiện công việc của mình. Những cơ quan thường xuyên được Tòa án yêu cầu như Ủy ban nhân dân phường, Các Phòng và Sở tài nguyên môi trường, Phòng Đăng ký kinh doanh ... nên có những biểu phí công khai để cho các đương sự dễ dàng thực hiện. Đối với người được yêu cầu là cá nhân nếu phải triệu tập đến Tòa làm chứng thì nên được trả ít nhất bằng số tiền công của họ trong những ngày phải thực hiện nghĩa vụ tại Tòa.
Bên cạnh đó, thay vì Tòa án ra Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ rồi tự mình đi thu thập chứng cứ như hiện nay, nên được thay đổi bằng cách theo yêu cầu của đương sự, Tòa ban hành Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ để bên yêu cầu đi thực hiện nghĩa vụ thu thập chứng cứ của mình và tự trả phí như đã phân tích. Tòa án chỉ thực hiện quyền năng khi những cá nhân, tổ chức được yêu cầu không thực hiện trách nhiệm cung cấp chứng cứ của mình bằng cách áp đặt chế tài.
(ii) Trong trường hợp các cá nhân, tổ chức không thực hiện trách nhiệm của mình theo yêu cầu của Tòa án, Tòa án có thể áp dụng các chế tài gây thiệt hại tới các quyền kinh tế của họ như phạt tiền hoặc nhận xét trong bản án công khai về thái độ vô trách nhiệm của họ hoặc khởi tố về mặt hình sự tùy vào mức độ vi phạm. Pháp luật tố tụng Việt Nam cũng đã quy định những chế tài này như mục 2.2.5 đã phân tích, tuy nhiên hiện nay UBTVQH không hướng dẫn vấn đề này nên không thể thực hiện trong thực tế. Thiển nghĩ, vấn đề này không cần thiết phải có đến một nghị quyết hay pháp lệnh hướng dẫn mà có thể bổ sung ngay trong bộ luật. Thẩm phán được phân công giải quyết nếu xét thấy có đủ dấu hiệu vi phạm thì có thể áp dụng chế tài. Mức phạt tiền nên quy định là một bội số lần mức lương tối thiểu do nhà nước ban hành (1 nửa, gấp đôi ...).Cơ quan thi hành quyết định phạt phạt tiền của Tòa án là cơ quan thi hành án dân sự với thủ tục như thi hành bản án. Đối với thủ tục cần khởi tố hình sự thì Thẩm phán được ra quyết định khởi tố, những trình tự tiếp diễn sau đó tuân theo Bộ luật tố tụng hình sự. Sự việc được xử lý không quá phức tạp nhưng lại thành điều rối rắm khi cần sự hướng dẫn của một văn bản dưới luật. Nếu có việc hướng dẫn của UBTVQH chưa chắc đã đầy đủ vì cơ quan này không phải là cơ quan tiến hành các công việc tố tụng. Đến khi đó, có lẽ lại phải chờ đến nghị quyết hướng dẫn của HĐTP.
Thứ ba, giới hạn thời điểm xuất trình chứng cứ của các đương sự
Xuất trình chứng cứ là một trong những hoạt động chứng minh của đương sự. Tuy nhiên, nếu hoạt động chứng minh được diễn ra trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp từ khi khởi kiện cho đến khi có phán quyết cuối cùng thì xuất trình chứng cứ nên được giới hạn tại những thời điểm nhất định. Bởi lẽ khi luật tố tụng chủ trương công lý tối đa thì việc xét xử trở thành không có điểm dừng [22, 4]. Giới hạn thời điểm xuất trình chứng cứ sẽ tránh được hai xu hướng là: (i)lợi dụng mánh khóe tố tụng để đưa ra chứng cứ vào thời điểm mà bên kia không có khả năng đáp lại hoặc tại cấp phúc thẩm khi chứng cứ này có khả năng đảo ngược hoặc hủy bỏ quyết định sơ thẩm đã tuyên; (ii) Thụ động không tìm kiếm các chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho mình, đến khi gặp phán quyết sơ thẩm bất lợi mới tìm kiếm chứng cứ để bảo vệ tại cấp phúc thẩm. Với sự giới hạn thời điểm xuất trình chứng cứ, Thẩm phán có thể yên tâm và chuyên chú vào việc đánh giá những chứng cứ hiện có mà không phải lo lắng về sự xuất hiện những chứng cứ mới có thể làm thay đổi lập luận hay phán quyết của mình.
Tất nhiên, giới hạn thời điểm xuất trình chứng cứ cũng nên có những ngoại lệ. Đó là những trường hợp do cản trở khách quan mà không thu thập được hoặc tại thời điểm đó đương sự không thể biết được tồn tại chứng cứ như thế. Trong trường hợp này Tòa án cũng nên chấp nhận việc xuất trình chứng cứ mới nhưng với điều kiện đương sự phải chứng minh được mình đã rơi vào hoàn cảnh đặc biệt như trên. Và, nếu đã là ngoại lệ thì cũng hiếm khi xảy ra và cũng ít nên áp dụng.
Phù hợp với pháp luật tố tụng hiện hành, thời điểm bị giới hạn xuất trình chứng cứ của đương sự nên là thời điểm Thẩm phán ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Sau khi đã ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, các bên và HĐXX chỉ tập trung vào việc đánh giá các chứng cứ hiện có đã được các bên đưa ra trong suốt quá trình trao đổi tài liệu, đối chất, hòa giải trước phiên tòa.
Thứ tư, đổi mới thủ tục tiến hành phiên tòa
Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành, thủ tục tiến hành phiên tòa trải qua gồm 4 phần; Thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Để đánh giá về trình tự tiến hành phiên tòa như hiện nay, hãy nghe chính lời của những người trong Tòa án trần tình: “ông Bùi Hoàng Danh, Chánh án TAND TPHCM, cho biết: Hiện nay Luật Tố tụng vẫn quy định thủ tục phiên tòa theo kiểu xét hỏi, trong khi đó Nghị quyết 08 lại quy định tranh tụng tại phiên tòa. Sự “đối” nhau này dẫn đến việc rất khó để có tranh tụng thực sự tại tòa” [23, 5].
Thực tiễn tranh tụng tại phiên tòa với trình tự theo luật định hiện hành, có điểm hạn chế là:
(i) Với những quy định về trình tự, thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm chúng ta có thể thấy đây là kiểu tố tụng xét hỏi trong đó đề cao vai trò của Thẩm phán và coi nhẹ vai trò của các bên đương sự. Trong quá trình xét xử tại phiên tòa thẩm phán giữ vai trò chủ động, tích cực. Thẩm phán là người điều khiển phiên tòa, bảo đảm phiên tòa được tiến hành theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Vai trò tích cực và chủ động của Thẩm phán còn được thể hiện ở việc tham gia vào quá trình xét xử tại phiên tòa như: yêu cầu các bên đương sự cung cấp thêm chứng cứ, xét hỏi các đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người làm chứng, xem xét các chứng cứ, tài liệu của vụ án Còn các đương sự không có quyền xét hỏi mà có chỉ quyền đề xuất với Hội đồng xét xử những vấn đề cần được hỏi thêm, được trình bày ý kiến của mình về đánh giá chứng cứ và dựa vào các quy định của pháp luật để phân tích, lập luận, đưa ra các lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
(ii) Sự phân định giữa thủ tục hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên tòa đã làm cho tính tranh tụng của các bên trong phiên tòa không được liên tục. Nhiều khi trong phần thủ tục hỏi, Chủ tọa đã thực hiện cả công việc cho các bên tranh luận, bởi vậy phần tranh luận hầu như chỉ diễn lại những quan điểm mà các bên đã trình bầy. Phần tranh luận chỉ như phần hai bên tóm tắt lại những dữ kiện phù hợp với tình hình và đưa ra quan điểm chính thức của mình trước Tòa mà không có sự đối đáp qua lại. Chính xác hơn, tên của thủ tục không phản ánh chính xác những gì có trong nội dung của thủ tục.
Quy định về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa như trên là chưa phù hợp làm đương sự ỷ lại phụ thuộc vào Tòa án, hạn chế tính tích cực, chủ động của đương sự trong tố tụng; vai trò của luật sư tại phiên tòa bị mờ nhạt, toàn bộ trách nhiệm chứng minh được đặt lên vai Hội đồng xét xử đặt biệt là chủ tọa phiên tòa, còn các bên đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, những người tham gia tố tụng khác chỉ tham gia vào quá trình chứng minh ở mức độ hạn chế. Và khi phải đảm nhiệm toàn bộ trách nhiệm chứng minh ở phiên tòa thì Hội đồng xét xử không có điều kiện tập trung vào xem xét, đánh giá các chứng cứ, hướng quá trình tranh tụng giữa các bên đương sự vào việc làm sáng tỏ các yêu cầu, các căn cứ thực tiễn và pháp lý của các yêu cầu đó cũng như các tình tiết khác nhau về quan hệ pháp luật mà từ đó phát sinh tranh chấp giữa các đương sự.
Để khắc phục nhược điểm vừa nêu, tạo ra tính tranh tụng thực sự tại phiên tòa, trình tự tiến hành phiên tòa như hiện nay nên được diễn ra theo hướng như sau:
(i) Phiên tòa được khai mạc bởi thủ tục bắt đầu phiên tòa như quy định của tố tụng hiện hành;
(ii) Tiếp đó là đến phần tranh luận nội dung vụ việc bởi nguyên tắc kiểm tra chéo. Một bên sẽ đưa ra luận điểm và các chứng cứ của mình và bị bên còn lại kiểm tra về tính xác thực của các chứng cứ đó bằng cách đưa ra các câu hỏi, đồng thời đưa ra quan điểm tranh luận. Bên đưa ra quan điểm phải trả lời, đối đáp lại. Thủ tục lần lượt được diễn ra đối với bên nguyên và bên bị;
(iii) Trong trường hợp HĐXX thấy có vấn đề nào chưa rõ ràng, Hội đồng xét xử sẽ hỏi thêm và các bên phải trả lời và chứng minh các vấn đề đó;
(iv) Trước khi kết thúc, các bên có quyền tổng kết lại vụ việc, tóm tắt theo thứ tự các chứng cứ đã được công nhận trong phiên tòa và đưa ra đề xuất giải quyết vụ việc. Tại phần này, các bên có thể rút một phần hoặc tòan bộ yêu cầu của mình hoặc đạt được sự thỏa thuận với nhau về phương án giải quyết tranh chấp. Nếu thỏa thuận này không vi phạm pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, sẽ được Tòa chấp nhận;
(v) Nếu các bên không đạt được sự nhượng bộ, HĐXX sẽ tiến hành nghị án và tuyên án công khai ngay sau khi nghị án. Bản án có thể được công bố sau 05 ngày kể từ ngày tuyên án để Thẩm phán chủ tọa có thời gian hoàn chỉnh bản án.
Đơn giản hóa thủ tục tố tụng khi bị đơn, người liên quan không cung cấp chứng cứ hoặc có mặt theo triệu tập của Tòa án.
Trong mục 2.2.4 của luận văn, chúng ta đã cùng nghiên cứu về thực trạng triệu tập các đương sự đến Tòa và việc xử lý khi đương sự cố tình vắng mặt không tham gia tố tụng tại Tòa án. Nếu việc vắng mặt đến lần thứ hai của nguyên đơn sẽ phải chịu hậu qủa bất lợi là vụ án bị đình chỉ, yêu cầu của nguyên đơn không được xem xét và tiền tạm ứng án phí bị sung công quỹ nhà nước thì việc xử lý bị đơn, người liên quan vắng mặt tại Tòa lại tỏ ra rất kém hiệu quả, gây ra sự mệt mỏi, chán nản cho cả Tòa án và cả các đương sự khác.
Để cải thiện vấn đề này, trước tiên cần có một sự lựa chọn về hướng xử lý. Hiện nay theo pháp luật tố tụng trên thế giới, có những cách xử lý vấn đề này như sau:
(i) Theo BLTTDS Việt Nam, để đảm bảo lợi ích của đương sự nên chỉ khi nào họ vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do chính đáng mới được coi là cố ý vắng mặt. Việc bị đơn, người liên quan cố ý vắng mặt tại một thủ tục nào đó không được suy đoán là sẽ từ chối tham gia tại các thủ tục tiếp theo. Bị đơn và người liên quan cố ý vắng mặt có thể bị chịu chế tài cảnh cáo, hoặc phạt tiền. Cách xử lý này có ưu điểm là bảo đảm đến cùng quyền được bảo vệ mình của bị đơn, người liên quan và hạn chế thấp nhấp việc không thu thập được các chứng cứ từ phía bị đơn làm cho phán quyết có thể bị sai lệnh vì không đánh giá chứng cứ một cách toàn diện dựa trên cả hai phía cung cấp. Tuy nhiên nhược điểm của cách xử lý này là thời gian giải quyết kéo dài, các văn bản tố tụng phải qua nhiều lần niêm yết. Thêm vào đó, sự hướng dẫn về thẩm quyền cảnh cáo, phạt tiền không có hoặc nếu có mức phạt tiền thấp sẽ không bù đắp nổi chi phí mà cơ quan thi hành bỏ ra để thi hành mức phạt.
(ii) Nếu bị đơn, người liên quan vắng mặt thì họ đã tự lựa chọn cách hành xử cho mình và coi như đã từ bỏ quyền tự bảo vệ mình trước khởi kiện của người khác. Phán quyết sẽ được dựa trên những chứng cứ mà bên nguyên đưa ra.
Cách thức này được thể hiện rất rõ trong lập luận tại bản án ngày 9/3/2006 của Tòa phúc thẩm Paris trong tranh chấp giữa Công ty Hàng Không Việt Nam (VietNam Airline) và Luật sư người ý Maurizio LIBERATI như sau: “nhu cầu bảo vệ quyền bào chữa của bị đơn bị vắng mặt không được tính đến khi bị đơn thụ động không làm gì, mặc dù đã biết rõ có việc khởi kiện chống lại mình ”.[24, 22]
(iii) Kết hợp cả cách thức bên vi phạm phải chịu cả chế tài phạt tiền lần chịu một phán quyết bất lợi. Nếu bị đơn, người liên quan cố tình vắng mặt, không làm tròn việc cung cấp các tài liệu thuộc quyền kiểm soát của mình hay không trả lời các câu hỏi có liên quan thì có thể bị phạt tiền hay bị tước quyền xác nhận một số tình tiết của vụ việc hay bị tước quyền trình bày một số chứng cứ tại phiên toà xét xử. Trong trường hợp đặc biệt, Toà án có thể quyết định xét xử vắng mặt Bên vi phạm [25, 1].
Với những quy định kém hiệu quả như hiện nay, BLTTDS nên tiếp thu cách xử lý thứ (ii) hoặc thứ (iii) đối với trường hợp bị đơn, người liên quan vắng mặt. Thiết nghĩ cách thứ (ii) là phù hợp hơn với thực tế tại Việt Nam hiện hành, vì nếu có quy định phạt tiền cũng rất khó thực hiện. Hơn nữa, theo nguyên tắc Không ai bị buộc phải có các hành động để chống lại chính mình. Do đó, trong trường hợp này họ không phải chịu chế tài nào nhưng từ bỏ một số quyền của mình và có thể phải chịu hậu quả bất lợi về phán quyết chỉ dựa trên chứng cứ của bên nguyên.
Theo hướng xử lý như trên, quy định pháp luật tố tụng nên được thay đổi như sau:
(1) Tòa án thông báo cho bị đơn, người liên quan biết về việc thông báo thụ lý vụ án. Hết thời hạn ấn định trong thông báo mà bị đơn, người liên quan không có phản hồi bằng văn bản gửi tới Tòa án xin gia hạn hoặc đáp lại yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì có thể coi bị đơn, người liên quan đã từ chối sự hợp tác tố tụng cần thiết với nguyên đơn, do đó thủ tục hòa giải giữa hai bên là không cần thiết. Và Tòa án sẽ tiến hành thủ tục (2)
(2) Tòa án ra thông báo lần 2 khẳng định lại nghĩa vụ chứng minh của bị đơn trong giải quyết tranh chấp và ấn định cho bị đơn, người liên quan biết về giới hạn thời điểm xuất trình chứng cứ. Nêu rõ sau thời điểm này nếu bị đơn, người liên quan không xuất trình các chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình thì sẽ bị tước quyền cung cấp chứng cứ. Nếu họ xuất trình chứng cứ thì vụ án sẽ được tiến hành theo thủ tục chung. Nếu không xuất trình chứng cứ, sẽ tiến hành theo thủ tục (3)
(3) Sau thời hạn thông báo ở thủ tục (2) đưa ra, người có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ vẫn không cung cấp các chứng cứ để tự bảo vệ mình thì Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử và mở phiên tòa xét xử. Khi đó, sự có mặt hay vắng mặt của bị đơn, người liên quan không làm cản trở việc tiến hành xét xử. Nếu xuất hiện tại phiên tòa, bị đơn, người liên quan chỉ có quyền đưa ra quan điểm của mình và nêu ý kiến tranh luận về tính đầy đủ, tính logíc về những chứng cứ mà nguyên đơn đưa ra mà không có quyền đưa ra chứng cứ mới để chống lại các chứng cứ của nguyên đơn và bảo vệ quan điểm của mình.
Với hướng xử lý vừa mềm dẻo vừa nghiêm khắc như trên, Tòa án có thể rút ngắn được thời gian giải quyết vụ án, nếu có chỉ phải niêm yết 2 văn bản tố tụng chứ không phải niêm yết tới 5 văn bản tố tụng như trước đây, đồng thời tăng tính tự chịu trách nhiệm của bị đơn đối với các hành vi của mình.
Xây dựng thủ tục rút gọn áp dụng cho những tranh chấp kinh doanh, thương mại đơn giản.
Khi xây dựng BLTTHS, nhà làm luật đã xây dựng thủ tục rút gọn để áp dụng đối với các vụ án hình sự đơn giản, chứng cứ rõ ràng nhằm giảm tải cho quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong lần sửa đổi tới đây, BLTTDS nên tham khảo và đưa vào BLTTDS thủ tục này.
Thực chất, trong những quy định của thủ tục của BLTTDS, cũng đã tiềm ẩn quy định về phán quyết rút gọn, đó là thủ tục ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Theo thủ tục này, nếu các bên đạt được sự nhượng bộ, Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành và nếu sau 07 ngày, không bên nào có sự phản đối về thỏa thuận đã được lập thì Tòa án sẽ ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm (điều 186, 187, 188 BLTTDS). Tuy nhiên, theo thủ tục này vẫn phải trải qua các thủ tục Thông báo thụ lý vụ án; thủ tục viết bản khai; thủ tục hòa giải, mà nhiều khi còn phải hòa giải nhiều lần mới đạt được sự thỏa thuận giữa các bên.
Thiết nghĩ, đối với những tranh chấp có giá trị thấp, chứng cứ rõ ràng, chỉ có sự tham gia của hai bên đối kháng nên được áp dụng một thủ tục rút gọn hơn để đảm bảo hiệu quả thời gian của giải quyết tranh chấp, đồng thời cũng không ảnh hưởng đến việc kinh doanh của các bên.
a) Những điều kiện để xem xét một tranh chấp có thể được áp dụng thủ tục rút gọn đó là:
Điều kiện về giá trị tranh chấp:
Thủ tục rút gọn chỉ nên được áp dụng đối với những tranh chấp có giá trị không lớn. Đa số pháp luật tố tụng của các nước xây dựng thủ tục rút gọn đều có quy định này. Vì thủ tục rút gọn có đặc điểm là thời gian giải quyết ngắn (i) và thủ tục rất đơn giản, không cần có sự tranh luận giữa hai bên (ii), bởi thế nếu những tranh chấp có giá trị lớn thì sẽ rất khó khắc phục hậu quả nếu xảy ra sai sót. Hoặc giả định rằng, các bên có thể lợi dụng việc giải quyết tranh chấp bằng thủ tục rút gọn để che dấu một mục đích khác, ví dụ như lẩn tránh pháp luật hoặc lẩn tránh nghĩa vụ đối với bên thứ ba.
Điều kiện về sự hạn chế của những người liên quan tới tranh chấp:
Một tranh chấp được giải quyết bởi thủ tục rút gọn chỉ nên là tranh chấp đơn giản. Có nghĩa chỉ là tranh chấp giữa bên có quyền (nguyên đơn) và bên có nghĩa vụ (bị đơn). Nếu tranh chấp xảy ra có liên quan tới quyền và lợi ích của nhiều người thì không nên áp dụng thủ tục rút gọn. Điều đó có nguy cơ ảnh hưởng tới quyền lợi của những người này và những khả năng mà vụ việc nếu giải quyết bằng thủ tục rút gọn không lường trước được.
Điều kiện về sự đầy đủ, rõ ràng của chứng cứ:
Chứng cứ rõ ràng, đầy đủ là điều kiện không thể thiếu khi xem xét áp dụng thủ tục rút gọn. Sự đầy đủ, rõ ràng của chứng cứ được thể hiện ở chỗ:
- Các chứng cứ xác định được rõ ràng thẩm quyền của Tòa án nơi nguyên đơn khởi kiện;
- Chỉ dựa vào các chứng cứ đó đã đủ khẳng định quyền của nguyên đơn đối với bị đơn. Ví dụ như Biên bản thương lượng giữa nguyên đơn và bị đơn trong đó bị đơn đã thừa nhận một cách rõ ràng nghĩa vụ của mình.
b) Thủ tục rút gọn sẽ được quy định như sau:
(i) Nguyên đơn khởi kiện và yêu cầu được áp dụng thủ tục rút gọn
(ii) Nếu xét đủ điều kiện để thụ lý vụ án và áp dụng thủ tục rút gọn thì Tòa án sẽ ban hành cho nguyên đơn một Quyết định, trong đó nêu rõ:
- Các căn cứ để ra quyết định;
- Công nhận những yêu cầu cụ thể của nguyên đơn đối với bị đơn và buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nguyên đơn;
- Án phí mà bị đơn phải chịu (án phí này nên được quy định thấp hơn án phí giải quyết thông thường);
- Tranh chấp này đã được giải quyết theo thủ tục rút gọn và nếu bị đơn không đồng ý với quyết định này thì phải phản hồi bằng văn bản đến Tòa án trong một thời hạn nhất định (07 ngày là hợp lý) kể từ khi nhận được Quyết định. Trong trường hợp như vậy, tranh chấp sẽ được giải quyết theo thủ tục chung.
Khi được ban hành Quyết định này, nguyên đơn có nghĩa vụ tống đạt cho bị đơn. Nếu bị đơn tự nguyện thi hành thì điều đó tốt cho cả hai, nếu bị đơn không thi hành thì hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày bị đơn nhận được quyết định mà không có văn bản gửi đến Tòa án và nguyên đơn nêu nên sự phản đối thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Thi hành án dân sự thi hành quyết định của Tòa án.
Hạn chế quyền kháng nghị của VKS đối với phán quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Quyền kháng nghị và tham gia vào quá trình tố tụng của VKS cũng cần được giới hạn. Những quyết định, thông báo thông thường của Tòa án không cần thiết phải gửi cho VKS để tránh làm lãng phí nguồn lực. Chỉ nên quy định VKS nhận được quyết định cuối cùng mang tính kết thúc quá trình tố tụng như Quyết định đình chỉ, Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, bản án. Và, nếu lợi ích công bị xâm phạm (lợi ích công trong trường hợp này cần phân biệt với trật tự công, gồm cả trật tự pháp luật mà chỉ giới hạn là lợi ích của nhà nước, của xã hội không được ai trực tiếp bảo vệ) thì VKS mới nên thực hiện kháng nghị của mình với vai trò là người bảo vệ lợi ích công. Còn nếu lợi ích công không bị xâm phạm thì việc có đưa tranh chấp ra xem xét theo thủ tục phúc thẩm hay không là tùy vào quyền của đương sự. Họ không kháng cáo cũng có nghĩa họ đồng ý với phán quyết của Tòa án. Không nên quy định VKS có quyền kháng nghị trong trường hợp này.
Nâng cao quyền uy của Tòa án và uy tín của Thẩm phán
Nâng cao quyền uy của Tòa án
Để hiểu rõ hơn quyền của ngành tư pháp trong hệ thống quyền lực nhà nước, những lời nhận xét sau đáng để suy ngẫm:
Những người đã nghiên cứu các ngành quyền đều nhận thấy rằng, trong một Chính Phủ mà các ngành được phân định rõ ràng, ngành tư pháp là lúc nào cũng là ngành quyền ít nguy hiểm nhất đối với những quyền tự do chính trị ghi trong hiến pháp, bởi vì ngành này có ít khả năng nhất để ngăn cản hoặc xâm hại những quyền tự do hiến định đó. Ngành hành pháp không những có quyền phân phối các vinh dự mà lại có quyền sử dụng võ lực. Ngành lập pháp không những có quyền kiểm soát tài chính mà lại còn có quyền quyết định các luật lệ chi phối sự sinh hoạt của các công dân. Ngành tư pháp thì trái lại không có quyền sử dụng võ lực hoặc có quyền kiểm soát tài chính, không có quyền quyết định tích cực nào cả. Có thể nói rằng ngành tư pháp vừa không có lực lượng lại vừa không có ý chí, mà chỉ có trí phán đoán mà thôi, và cần phải dựa trên sự trợ giúp của ngành hành pháp thì mới có thể thi hành quyết định trí phán đoán của mình.” [26, 19]
Muốn công lý được tỏa sáng thì người thắp lên ánh sáng ấy và bảo vệ nó phải đủ mạnh. Điều đó cũng có nghĩa sức mạnh của Tòa án cần được nâng cao và cần được trợ giúp bởi ngành tư pháp và lập pháp. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay và với lịch sử truyền thống để lại, chưa bao giờ chúng ta có một ngành tư pháp mạnh. Để nâng cao quyền uy của Tòa án, cần có những cải thiện từ cả phía hệ thống quyền lực nhà nước, chủ động từ phía Tòa án và xây dựng hình ảnh Tòa án trong xã hội.
a) Trước hết cần thay đổi tận gốc rễ quan điểm coi Tòa án cũng như Công an, kiểm sát, nhà tù chỉ là các công cụ bạo lực để bảo vệ lợi ích giai cấp đã ăn sâu vào tư duy một số lãnh đạo cao cấp của Đảng và nhà nước do cách quan niệm trước đây. Tư duy về nhà nước pháp quyền phải coi Tòa án là cơ quan được trao giữ quyền tư pháp (quyền ra các phán quyết dựa trên công lý) – một ngành tương đối độc lập so với quyền hành pháp và lập pháp như điều 2 Hiến pháp đã ghi nhận. Theo đó, Tòa án phải là thiết chế bảo vệ tính công bằng của pháp luật, ngăn ngừa sự lạm quyền của Chính Phủ và Quốc hội nếu xâm phạm thái quá đến các quyền công dân. Do đó và từ đó, xác định lại vai trò nhân văn sâu sắc của Tòa án chứ không phải vai trò công cụ của bạo lực. Chỉ khi thay đổi tận gốc quan điểm này mới có sự thay đổi về cách hành xử đối với Tòa án. Một khi Tòa án không bị can thiệp theo kiểu “bị chỉ đạo” và trở thành thiết chế giám sát quyền lực công, vị thế của Tòa án sẽ gia tăng.
b) Đối với cộng đồng doanh nhân, cần xây dựng văn hóa biết tôn trọng pháp luật, sử dụng pháp luật và tin cậy Tòa án. Các quy định của pháp luật hiện hành có thể còn nhiều điểm bất cập, nhưng dù sao nó vẫn đang là quy tắc chung của mọi người. Tạo lập thói quen tôn trọng pháp luật ở chính nước nhà thì khi buôn bán, hội nhập với thế giới, giới doanh nhân mới không khỏi bỡ ngỡ bởi luật xứ người. Tìm đến với Tòa án, có thể gặp nhiều khó khăn, nhưng ít ra phương thức này cũng có nhiều cái lợi không thể tính bằng tiền. Giới Doanh nhân với bản tính khôn ngoan cần hiểu rằng Tòa án là nơi cần được tôn trọng chứ không phải là nơi sợ hãi, các thủ tục tố tụng cần phải được hiểu và sử dụng thông minh chứ không phải để lẩn tránh. Giới doanh nhân là bộ phận cấp tiến nhất trong xã hội, với bản tính năng động và dễ chuyển đổi của mình cần thoát ly khỏi ảnh hưởng truyền thống của dân tộc để đưa một cách nhìn mới về hình ảnh của Tòa án trong lòng xã hội.
c) Muốn người khác tôn trọng mình, trước hết hãy làm cho mình đáng được người khác tôn trọng. Tòa án muốn nâng cao quyền uy của mình cũng cần chủ động xác lập quyền lực và hình ảnh của mình dựa trên những quy định sẵn có. Nếu so sánh giữa Tòa án Việt Nam và Tòa án Mỹ thì quả là khập khiễng, nhưng trong gian đoạn hội nhập, cả thế giới gần nhau hơn và như chung một mái nhà thì việc nhìn xem Tòa án nước bạn như thế nào cũng là điều đáng nên làm. Trong nhiều năm phát triển, Pháp viện tối cao Hoa Kỳ đã dần củng cố quyền lực và ảnh hưởng của mình. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, cũng như trong bất cứ văn bản pháp luật nào đều không nhắc tới quyền bảo hiến của Tòa án Hoa Kỳ. Tuy nhiên, bằng phán quyết của cụ thể của mình trong vụ án nổi tiếng Mabury kiện Madison, Tòa án Hoa Kỳ đã dành cho mình quyền là trọng tài cuối cùng của luật pháp. Như vậy, dựa vào vỏn vẹn vài chữ được ghi nhận tại điều III, khoản 11 Hiến pháp Hoa Kỳ: “Ngành tư pháp của Hoa Kỳ sẽ được trao cho Pháp viện tối cao và những tòa án cấp dưới mà quốc hội có thể thành lập trong một số trường hợp”, thông qua hoạt động cụ thể, bằng trí phán đoán, kinh nghiệm và sức mạnh của sự lập luận chặt chẽ, Pháp viện tối cao đã dần nâng cao ảnh hưởng của cả ngành Tòa án [27, 8].
Trong việc gây dựng ảnh hưởng và quyền uy của Tòa án tại Việt Nam, Tòa án tối cao phải góp phần chủ động quan trọng và hoàn toàn có thể dành được sự chủ động đó trên những quy định của Hiến pháp 1992. Khi xem xét những tranh chấp, Tòa án tối cao cần tích cực phát huy vai trò giải thích pháp luật và bảo vệ hiến pháp. Mặc dù Hiến pháp trao quyền giải thích pháp luật cho UBTVQH và không chính thức trao quyền cho Tòa án vai trò bảo hiến, tuy nhiên điều đó không có nghĩa ngăn trở quyền này của Tòa trong những trường hợp cụ thể. Khác với giải thích pháp luật của UBTVQH với tư cách là cơ quan được ủy quyền lập pháp nên cách giải thích đó sẽ lập ra các quy tắc chung, Tòa án chỉ giải thích pháp luật trong trường hợp cụ thể của tranh chấp và cách giải thích đó không vượt ra ngoài phạm vi tranh chấp. Cũng như vậy, dựa vào quy định ngay trong bản thân Hiến pháp rằng nó là văn bản mang giá trị pháp lý cao nhất, các loại văn bản khác đều thấp hơn và có giá trị pháp lý theo một trật tự được quy định trong Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Tòa án có quyền từ chối các văn bản mà nội dung của nó mâu thuẫn với những văn bản cao hơn như Luật và Hiến pháp trong tranh chấp cụ thể mà Tòa đang xem xét. Như vậy, bằng cách giải thích pháp luật của Tòa trong trường hợp cụ thể sẽ làm mềm mại tính cứng nhắc của luật, bổ khuyết những chỗ lồi lõm mà nhà lập pháp vô tình đã tạo nên. Đồng thời bảo vệ Luật và hiến pháp, Tòa ngăn cản được sự lạm quyền từ phía các cơ quan hành pháp đối với dân chúng. Những điều này sẽ làm cho Tòa có một vị trí xứng đáng ngang hàng với cơ quan lập pháp và hành pháp. Đổi mới Tòa án hiện nay rất cần động lực của Tòa án tối cao, muốn làm và dám làm.
Nâng cao uy tín của Thẩm phán
Nâng cao quyền uy của Tòa án và nâng cao uy tín của Thẩm phán tuy hai mà là một. Tòa án là cái vỏ, công việc của Thẩm phán là cái ruột. Khi Thẩm phán có uy tín thì Tòa ắt có quyền uy và ngược lại, Tòa có quyền uy thì địa vị, uy tín của các Thẩm phán trong xã hội cũng được nâng cao.
Trong giới hạn đề tài giải quyết tranh chấp KD – TM bằng Tòa án, để nâng cao uy tín của Thẩm phán, cần có cả những động lực bên trong và sự thúc ép bên ngoài. Đó là:
(i) Thay đổi cách lựa chọn, bổ nhiệm Thẩm phán hiện hành. Mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán.
Có lẽ còn lâu người ta mới quên được câu nói tai tiếng của nguyên Chánh án TATC Nguyễn Văn Hiện khi phát biểu trước Quốc hội rằng “ngành Tòa án đã cố gắng, tạm gọi là vơ vét, tận dụng lực lượng đã có để bổ nhiệm cho đủ” [28, 60]. Thật sợ hãi khi Thẩm phán – những người ban phát công lý lại phải “vơ vét” nguồn để bổ nhiệm. Thực tế, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 không hề hạn chế nguồn bổ nhiệm Thẩm phán chỉ là những người trong ngành. Phải chăng vì quan điểm vị kỷ mà TANDTC đã tự giới hạn mình trong sự giới hạn đó. Mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán sang cả những luật sư giỏi, những giáo sư về luật, chuyên gia luật có uy tín ... không những khắc phục được tình trạng thiếu nguồn bổ nhiệm thẩm phán mà còn làm cho ngành Tòa án được thêm luồng sinh khí mới của những con người đã có địa vị cao trong xã hội và trình độ chuyên môn đã được công nhận ở một mức nhất định.
Cần phân biệt rõ giữa ngạch Thẩm phán và Thư ký. Thư ký theo công việc tố tụng hiện nay chỉ cần những người có trình độ luật vừa phải, không nhất thiết cần phải là trình độ đại học như hiện nay. Điều đó sẽ tránh được sự lãng phí các nguồn lực xã hội đối việc sử dụng nhân lực.
(ii) Nâng cao chuyên môn về luật KD – TM và hiểu biết về KD – TM của Thẩm phán và các thành viên trong HĐXX.
Tranh chấp KD – TM là tranh chấp khá đặc thù. Trong một xã hội càng phát triển thì tốc độ thay đổi càng lớn. Lĩnh vực KD – TM luôn là lĩnh vực đầy biến động, các luật lệ của nó cũng liên tục phải thay đổi cho phù hợp với đời sống xã hội. Điều đó càng đúng hơn nữa đối với pháp luật về KD – TM của Việt Nam hiện nay. Tính hay thay đổi của các đạo luật không chỉ dừng ở mức thay đổi các quy định mà còn ở cả mức thay đổi tư duy pháp lý ẩn chứa đằng sau đạo luật đó. Vì thế, rất khó làm cho các Thẩm phán cấp huyện tiếp cận những đạo luật mới và hiểu nó một cách có hệ thống. Vậy để đưa những quy định mới vào áp dụng, cần thiết phải có sự đào tạo lại các Thẩm phán. “Không thầy đố mày làm nên”, việc nâng cao trình độ của các Thẩm phán không thể chỉ dựa vào nỗ lực bản thân của chính họ mà cần có sự đào tạo lại, đào tạo liên tục của TANDTC để cập nhật được những kiến thức hiện đại.
Bên cạnh việc đào tạo về luật, xét xử KD – TM cũng đòi hỏi Thẩm phán hiểu biết ít nhiều về các hoạt động KD – TM trên thực tế. Trước sự bùng nổ của thị trường chứng khoán vào năm 2006, TAND thành phố Hà Nội đã phải tổ chức khóa đào tạo cho các Thẩm phán về thị trường chứng khoán. Đây là nhận thức đúng đắn về sự đào tạo nhận thức chung về KD – TM cho Thẩm phán. Đáng là kinh nghiệm cho toàn ngành học tập. Chỉ khi hiểu biết về hoạt động KD – TM, Thẩm phán mới có thể đánh giá chính xác vấn đề và hòa giải để các bên đạt được sự nhượng bộ.
Các Hội thẩm nhân dân tham gia giải quyết tranh chấp KD – TM nên là những đại diện của giới Doanh Nhân do Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) bầu chọn. Cái nhìn hiểu biết của người trong nghề sẽ góp phần giúp Tòa án giải thích đúng những quy định pháp luật trong thực tế cũng như hạn chế bớt sự thô ráp của pháp luật nếu nó không phù hợp trong thực tế.
(iii) Tạo ra cơ chế đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán khi xét xử
Điều này đã được bàn luận rất nhiều và có cũng có rất nhiều các công trình nghiên cứu công phu về đề tài này. Luận văn không có tham vọng trình bầy một cách cặn kẽ mà chỉ nêu lên một số quan điểm cần và có thể thực hiện ngay để nâng cao sự độc lập của Thẩm phán:
- Tạo một cơ chế lương bổng phù hợp. Nâng lương cho Thẩm phán cấp huyện;
- Kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán cấp huyện lên 7 năm hoặc 9 năm thay vì 5 năm như hiện nay;
- Hạn chế quyền lực của Chánh án trong hoạt động tố tụng; đề cao tính tự lập của các Thẩm phán khi giải quyết tranh chấp;
- Bãi bỏ áp dụng nghị định 158/2007/NĐ-CP ban hành luân chuyển các Thẩm phán khỏi nơi trị nhiệm hoặc vị trí công tác.
Thiết lập án lệ trong xét xử và công bố bản án rộng rãi
Thiết lập án lệ trong xét xử
Trong chương 2. luận văn đã trình bầy một số những vướng mắc trong thực tiễn xét xử và những quy phạm cần được giải thích khi áp dụng pháp luật. Điều đó đã gây khó khăn cho các Thẩm phán cấp huyện khi thực hiện công việc. Gặp phải trường hợp đó, TAND cấp huyện thường có công văn “xin ý kiến” TANDTC để giải quyết, và TANDTC cũng đã có những công văn nêu ý kiến về các trường hợp này. Tuy nhiên, lo sợ ảnh hưởng bởi nguyên tắc Độc lập xét xử nên các công văn của TANDTC thường ghi chú ý kiến đã đưa ra chỉ có ý nghĩa tham khảo và không lưu trong hồ sơ vụ án. Điều này không những làm vụ án bị kéo dài vì TAND cấp huyện phải mất thời gian trao đổi công văn với Tòa cấp trên mà ngay cả khi có trả lời rồi, các Thẩm phán vẫn không yên tâm khi áp dụng cách trả lời của TANDTC. Một phương án đưa ra không rõ ràng, không có giá trị ràng buộc nên mỗi Thẩm phán đều có thể tùy ý hoặc áp dụng hoặc không và vận dụng điều luật, xử lý tình huống theo cách hiểu của riêng mình. Tình trạng đó đã dẫn đến việc xét xử không được thống nhất. Những vụ việc tương tự nhau nhưng lại được giải quyết bởi các phương án hết sức khác nhau.
Thực tiễn xét xử nảy sinh nhu cầu của Thẩm phán cấp huyện là cần có một phương án rõ ràng khi gặp phải những tình huống như đã nêu và phương án đó phải được công nhận để khi gặp những tình huống tương tự, họ sẽ hướng giải quyết chính xác mà không sợ mắc phải sai lầm dẫn tới bị hủy hoặc sửa án. Giới Doanh nhân thì muốn có sự đối xử công bằng trong những trường hợp tương tự nhau. Điều đó có tác dụng thống nhất trong cách ứng xử của họ, tránh xu hướng kẻ nhát thì không dám khởi kiện vì không hiểu Tòa sẽ xử như thế nào còn kẻ liều thì cứ kiện bừa với hy vọng Tòa sẽ xử thắng về phía mình.
Giải pháp cho tình trạng này không phải điều quá mới mẻ trong lịch sử tố tụng trên thế giới và cả ở Việt Nam.
Tại Anh, cách đây khoảng 6 thế kỷ, khi xét xử lưu động trên khắp đất nước, các Thẩm phán Hoàng gia đã làm quen với các tập quán khác nhau và những quy định khác nhau ở mỗi vùng (vì khi đó Anh tuy thống nhất một đất nước nhưng lại cát cứ phong kiến ở mỗi vùng). Mỗi khi gặp nhau ở London, họ thường thảo luận với nhau về các điểm mạnh, điểm yếu của các phương án đưa ra. Dần dà, điều này đã đưa đến kết quả là các Thẩm phán Hoàng gia Anh ngày càng đưa ra những phán quyết giống nhau trong những tình huống tương tự ở khắp mọi nơi trên đất nước. Nhờ vậy mà pháp luật trở nên thống nhất thành hệ thống Common Law như hiện hành. Sự thống nhất đó được đóng góp quan trọng bởi nguyên tắc án lệ (nguyên tắc Stare decisis). Có thể tóm tắt nguyên tắc án lệ đó là: Hai vụ việc việc có những tình tiết tương tự nhau thì sẽ được xét xử như nhau [29, 2, tr 79 - 80].
Đối với lịch sử tố tụng Việt Nam, án lệ đã từng được vận dụng:
(i): Trong chương Điền Sản, Điều 397 Bộ cổ luật Hồng Đức có ghi: “ Người ông là Trần Giáp sinh được trai gái hai con, trai trưởng là Trần Ất, gái là Trần Thị Bính. Trần Ất sinh được một con gái Trần Thị Đinh, còn thơ ấu thì Trần Ất chết. Ông là Trần Giáp lập chúc thư giao phần ruộng đất hương hỏa cho Trần Thị Bính giữ. Khi Trần Thị Bính chết thì phần hương hỏa phải trả lại cho con gái Trần Ất là Trần Thị Đinh giữ.”. Điều 397 đã trích có lẽ là một vụ án cụ thể đã được phân xử còn giữa nguyên cả chi tiết cá biệt là tên thật của các đương sự. Nhà làm luật đã giữ y lại phán quyết đó ghi vào trong điều luật để cho quy định có tính cụ thể và dễ hiểu. Bên cạnh những điều luật có tính có định và mang tính trừu tượng, vì không muốn Bộ luật có tính cách quá lý thuyết nên đã xây dựng kỹ thuật lập pháp như trên.
(iii) Theo quy định tại thông tư của Thủ tướng chính phủ số 442/TTg ngày 19/01/1955 có quy định: “Kinh nghiệm xét xử một số loại phạm pháp đã trở thành án lệ. Tuy nhiên, án lệ ấy còn khác nhau giữa các địa phương. Đường lối xét xử không được thống nhất, rõ ràng và có nơi không được đúng. Cần phải thống nhất những án lệ ấy trong quy định chung sau đây để hướng dẫn Tòa án trừng trị một số tội phạm thông thường.”
(iii) Trong các báo cáo tổng kết công tác ngành của TANDTC nêu những vụ án điển hình và rút kinh nghiệm, đưa ra phương hướng xét xử cho cả ngành [30, 57]. Mới đây TANDTC cũng đã cho công bố tuyển tập các Quyết dịnh giám đốc thẩm của HĐTP vào các năm 2003 đến 2006 [31, 58]. Những vụ án này tuy không được thừa nhận là án lệ nhưng thực tế còn có tác dụng ràng buộc hơn cả án lệ vì đã được rút kinh nghiệm. Nếu Thẩm phán nào không áp dụng chúng trong những trường hợp tương tự thì nguy cơ sẽ bị hủy án. Điều đó làm ảnh hưởng tới con đường sự nghiệp khi tái bổ nhiệm, thăng chức của Thẩm phán. Điều mà không ai muốn làm.
Như vậy, án lệ không phải là điều quá xa lạ đối với lịch sử tố tụng Việt Nam. Tuy vậy, nó chưa bao giờ được ý thức để phát triển trở thành một nguyên tắc. Có nhiều quan điểm không ủng hộ cho sự phát triển án lệ thành một nguyên tắc vì lo sự tùy tiện tạo thành các quy phạm pháp luật của các Thẩm phán và sự xâm lấn của cơ quan tư pháp vào quyền lực lập pháp. Tuy nhiên, dù biện giải thế nào, công nhận Án lệ cũng là nhu cầu khách quan mà thực tiễn áp dụng pháp luật đặt ra chứ không phải dựa trên sự suy diễn chủ quan nào. Lịch sử tố tụng và thực tiễn xét xử đã và đang khẳng định điều đó.
Trong giới hạn nghiên cứu, luận văn không có ý muốn tranh luận về việc công nhận hay không công nhận nguyên tắc án lệ và coi án lệ là một nguồn luật mà chỉ đề xuất việc thiết lập án lệ như là một giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc đã nêu trong chương 2.
Dựa vào các quy định hiện hành, TANDTC hoàn toàn có thể làm được điều đó. Với vai trò “Hướng dẫn Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án” (K1 điều 19 Luật tổ chức TAND năm 2002), TAND tối cao hoàn toàn có thể lựa chọn để công bố những bản án mẫu mực của mình. Đó là những Bản án mà phương án đưa ra đã có tác dụng bổ sung cho sự khiếm khuyết của luật, giải thích và vận dụng pháp luật vào tình huống cụ thể mà Tòa án đã xét xử. Để cho sự công bố có hiệu lực, người công bố nên là HĐTP TANDTC. Kèm với việc đó, Viện khoa học xét xử nên có những bình luận khoa học để thấy được các quy tắc “ẩn nấp” trong phán quyết của Tòa. Điều này rất có tác dụng nâng cao nhận thức cho Thẩm phán cấp huyện, các Doanh nhân, làm họ hiểu rõ hơn về phán quyết của TANDTC đưa ra để có thể áp dụng trong trường hợp tương tự. Đối với nhà lập pháp, việc này cũng rất có ích khi xây dựng, hoàn thiện pháp luật sẽ trừu tượng và quy phạm hóa các quy tắc đã được đưa ra để trở thành QPPL.
Để các Thẩm phán cấp huyện làm quen với Án lệ, TANDTC nên tự mình thực hành trước điều này. Trong các phán quyết của TANDTC hoàn toàn có thể trích dẫn, tham khảo các Án lệ trong phần Xét Thấy của bản án mà không nêu tại phần căn cứ để ra quyết định của Bản án. (Bản án hiện nay thông thường gồm ba phần: Phần nội dung vụ án, phần xét thấy nêu nhận định của Tòa án và phần quyết định nêu phán quyết mà Tòa đưa ra). Không có điều luật hiện hành nào ngăn cản cách làm như vậy. Với cách làm đó sẽ tránh được những chỉ trích cho rằng Án lệ không phải là nguồn của luật nên không được căn cứ vào đó để ra phán quyết.
Học tập cách làm của Tòa án cấp trên, các Thẩm phán cấp huyện cũng sẽ làm như vậy và nguyên tắc án lệ sẽ được củng cố trên thực tế mà không cần bất cứ cuộc tranh luận nào về tính hợp hiến, hợp pháp của nó.
Công bố tất cả những bản án đã xét xử một cách rộng rãi
Công khai bản án là một trong những yêu cầu của nền tư pháp minh bạch. Việc công khai bản án đem lại những lợi ích sau đây:
Thứ nhất, việc công bố bản án sẽ củng cố việc áp dụng thống nhất pháp luật.
Trong thực tế, rất nhiều vấn đề pháp lý không chưa được rõ ràng nhưng Tòa án vẫn phải giải quyết. Và ở đây, thường có nhiều quan điểm khác nhau và các Thẩm phán có thể đưa ra những phán quyết không thống nhất. Xin trích một ví dụ trong thực tế pháp lý để minh họa, đó là việc tính lãi đối với khoản tiền do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Bản án số 08/2008/KD – TM của TAND quận Hai Bà Trưng đã xử buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn và kèm theo khoản lãi phát sinh do chậm nghĩa vụ thanh toán. Khoản lãi này được tính bằng cách lấy lãi suất cơ bản của Ngân hàng trung ương với thời gian chậm thanh toán nhân với số tiền chậm thanh toán. Tuy nhiên, cũng tại TAND quận Hai Bà Trưng, Bản án số 02/2009/DSST lại có cách tính lãi khác. Lãi chậm thanh toán được tính bởi lãi suất do Ngân hàng trung ương công bố tại thời điểm xét xử nhân với khoản tiền chậm thanh toán. Hai cách làm trên đều được cấp phúc thẩm chấp nhận.
Như vậy, rõ ràng hai vụ việc khác nhau, nhưng giải pháp lại khác nhau. Việc công bố các bản án sẽ giúp các luật gia thấy được sự không thống nhất để từ đó tìm ra hướng giải quyết chung.
Thứ hai, việc công bố bản án có lợi cho công tác lập pháp.
Trong thực tế, khi xây dựng một quy phạm pháp luật, các nhà làm luật thường xuất phát từ một hoàn cảnh pháp lý cụ thể trong khi đó một bản án cho biết một hoàn cảnh pháp lý cụ thể và giải pháp tương ứng của Tòa án. Do vậy, việc công bố bản án cho phép nhà lập pháp biết thực trạng pháp luật của nước mình và đánh giá tính hợp lý của quy phạm ghi nhận trong bản án được công bố đối với một hoàn cảnh pháp lý cụ thể.
Thứ ba, việc công bố bản án sẽ làm tăng chất lượng của các Thẩm phán, các luật gia
Nó tạo cho công tác xét xử minh mạch hơn, sẽ làm giảm hiện tượng thẩm phán tùy tiện trong hoạt động tố tụng. Nó sẽ làm giảm hiện tượng một vấn đề pháp lý hôm nay được giải quyết thế này trong một bản án và ngày mai được giải quyết khác trong một bản án khác. Khi biết rằng bản án của mình sẽ được công bố, các thẩm phán sẽ thận trọng hơn, nghiêm túc hơn khi xét xử và viết án.
Việc công bố bản án không chỉ góp phần vào củng cố chất lượng của Thẩm phán mà cả của học sinh, sinh viên, những người nghiên cứu pháp luật. Bản án được công bố sẽ là tài sản vô giá đối với họ. Khi được tiếp cận thường xuyên các bản án được công bố, những người này sẽ có cách nhìn và tư duy thực tiễn hơn. Họ sẽ ít bỡ ngỡ hơn khi đi vào thực tiễn.
Thứ tư, việc công bố bản án rộng rãi sẽ làm người dân, doanh nhân dễ dàng tiếp cận hơn với công lý.
Đã đến lúc chúng ta phải cho rằng các phán quyết của Tòa án tối cao không phải là tài sản riêng của Tòa án mà là tài sản chung của quốc gia. Tất cả mọi người dân đều có quyền được thụ hưởng những lợi ích mà tài sản đó phát sinh. Tra cứu dễ dàng các bản án sẽ làm tăng nhận thức của người dân, doanh nhân đối với pháp luật và gần gũi hơn với Tòa án. Đồng thời, họ cũng tìm ra cho mình trong những tình huống tương tự cách hành xử khôn ngoan để không phải xảy ra tranh chấp. Điều này không những làm giảm chi phí của họ khi giao dịch mà còn có thể làm giảm sức ép khối lượng công việc giải quyết tranh chấp đối với Tòa án.
Thực tế ở Việt Nam, các Bản án chưa được ngành TAND công bố rộng rãi, vì thế đã không đạt được những hiệu quả đã nêu. Gần đây, trong những nỗ lực để tạo sự tiếp cận dễ dàng cho cả giới nghiên cứu và giới doanh nhân đối với phương án của Tòa, trang web của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam ( trang web sưu tầm án lệ Việt Nam ( đã đăng những bản án của một số Tòa án công khai trên mạng. Riêng ngành Tòa án, Tạp chí TAND – một tạp chí chuyên ngành của TANDTC đã thường xuyên công bố các Quyết định giám đốc thẩm của HĐTP. Tuy nhiên, những nỗ lực này chưa được đặt trong một chiến lược tổng lực.
Ngày nay, ngành Tòa án đã được cải thiện một cách đáng kể về cơ sở vật chất. Các Tòa án quận, huyện tại địa bàn Hà Nội đã được trang bị máy tính và có nối mạng. TANDTC nên có kế hoạch xây dựng Tòa án điện tử, không những chỉ công khai các bản án mà còn công khai cả những thủ tục khởi kiện, các loại mẫu đơn, lịch xét xử để người dân, Doanh nhân có thể sử dụng các dịch vụ công một cách hữu dụng nhất và đó cũng là cách giám sát chất lượng, buộc TAND phải nâng cao hiệu quả hoạt động của mình một cách tốt nhất.
KẾT LUẬN
Giải quyết tranh chấp KD – TM tại Tòa án là cả quá trình kể từ khi Người khởi kiện thực hiện tốt quyền của mình bằng thủ tục khởi kiện tại Tòa và kết thúc bởi sự định đoạt của nguyên đơn, sự dàn xếp giữa các bên hoặc phán quyết bắt buộc của Tòa án. Trong sự liên quan ràng buộc và quy định lẫn nhau, quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM bị ảnh hưởng bởi nhiều các yếu tố. Có thể phân chia những yếu tố này thành hai nhóm. Nhóm yếu tố tác động bên trong quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM bao gồm: (i) Các tài liệu, chứng cứ các bên xuất trình cho Tòa án; (ii) Các quy định của Luật nội dung liên quan đến quan hệ tranh chấp; (iii) Các quy định của luật thủ tục để các bên thực hiện tố quyền và Tòa án làm việc; (iv) Năng lực, trình độ của Thẩm phán – những người giải quyết tranh chấp KD – TM. Nhóm các yếu tố tác động từ bên ngoài vào quá trình bao gồm: (i) Sự phát triển của nền KD – TM; (ii) Quan điểm của giới doanh nhân đối với việc giải quyết tranh chấp KD – TM; (iii) Sự hỗ trợ từ các cơ quan bổ trợ tư pháp và (iv) cơ sở vật chất để phục vụ cho quá trình giải quyết tranh chấp. Để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM cần phải đánh giá thực trạng của các yếu tố này và phân tích sự ảnh hưởng của chúng tác động đến quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM. Từ đó, tăng cường những ảnh hưởng tích cực, loại bỏ những cản trở tiêu cực để quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM tại Tòa án được thông suốt, mang lại sự làm việc khoa học cho Tòa án và lợi ích cho doanh nhân.
Luận văn đã cố gắng nêu ra và phân tích những yếu tố ảnh hưởng cơ bản nhằm thể hiện hiệu quả thực tế giải quyết tranh chấp KD – TM đang diễn ra tại TAND cấp huyện. Những khó khăn đến từ luật thủ tục chưa phù hợp, lực cản từ truyền thống kinh doanh tại Việt Nam và trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đã làm cho quá trình giải quyết tranh chấp chưa thực sự hiệu quả. Hoàn thiện các thủ tục tố tụng để đảm bảo tố quyền của doanh nhân; xây dựng văn hóa doanh nhân biết tôn trọng pháp luật và tin cậy ở Tòa án; nâng cao địa vị của Tòa án và uy tín của Thẩm phán chính là các giải pháp mà luận văn hướng tới để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Làm cho người dân, doanh nhân cảm nhận được lẽ công bằng và tình yêu công lý vừa là mục tiêu, vừa là động lực để Tòa án nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Điều này không thể đạt được ngay tức khắc mà cần có thời gian chuyển biến. Tuy nhiên, trước bối cảnh cấp tập cải cách nền tư pháp dưới sức ép của cạnh tranh kinh tế đã mang tính toàn cầu, hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM cần phải được liên tục hoàn thiện. Bởi lẽ, nếu không trông đợi được vào pháp luật bảo vệ, Doanh nhân sẽ tự tìm đến các biện pháp thô bạo bằng “luật rừng”, bằng cách “hình sự hóa” các quan hệ kinh doanh hoặc phải nín chịu sự bất công. Điều đó không có lợi cho việc xây dựng nền kinh doanh có đạo đức, cho sự ổn định của người dân và môi trường kinh doanh lành mạnh.
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KD – TM BẰNG CON ĐƯỜNG TÒA ÁN 4
1.1 Tranh chấp KD – TM và những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp KD – TM. 4
1.1.1 Khái niệm về tranh chấp KD – TM 4
1.1.2 Những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp KD – TM 6
1.2 Đặc điểm giải quyết tranh chấp KD – TM bằng con đường Tòa án 7
1.3 Một số tiêu chí để đánh giá hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM bằng Tòa án. 8
1.3.1 Nhìn từ phía Tòa án. 8
1.3.2 Nhìn từ phía các đương sự 11
1.3.3 Nhìn từ phía cộng đồng doanh nhân 13
1.4 Những yếu tố ảnh hưởng tới việc giải quyết tranh chấp KD – TM bằng Tòa án 14
1.4.1 Các yếu tố tác động từ bên trong 14
1.4.2 Các yếu tố tác động bên ngoài 15
Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP 20
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TAND CẤP HUYỆN HIỆN NAY 20
2.1 Một số khó khăn khi áp dụng thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp KD – TM theo quy định hiện hành. 20
2.1.1 Về Quyền khởi kiện 20
2.1.2 Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD – TM của Tòa án 25
2.1.3 Về chế định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời 37
2.1.4 Về cách thức xử lý bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt. 41
2.1.5 Về Nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ 46
2.1.6 Về sự tham gia của VKS vào quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. 53
2.2 Thực trạng truyền thống văn hóa và nhận thức của giới Doanh nhân Việt Nam với tố tụng Tòa án. 54
2.3 Thực trạng địa vị của Tòa án, năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân cấp huyện. 58
2.3.1 Địa vị của TAND còn thiếu tính độc lập, chưa tương xứng với vai trò là nơi bảo vệ công lý. 58
2.3.2 Năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm phán cấp huyện về pháp luật kinh doanh – thương mại còn hạn chế. 61
2.3.3 Thiếu những quy định đảm bảo cho vị thế xét xử của Thẩm phán 66
2.3.4 Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong qúa trình giải quyết tranh chấp KD – TM không hiệu quả 72
2.3.5 Hệ lụy của những thực trạng trên tới quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM 74
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KD – TM TẠI TAND CẤP HUYỆN 77
3.1 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện. 77
3.2 Hoàn thiện thủ tục tố tụng – tạo ra quy trình hợp lý, khoa học để thúc đẩy tiến trình giải quyết tranh chấp KD – TM. 81
3.2.1 Xác định một tinh thần thống nhất cho BLTTDS 81
3.2.2 Nâng cao sự chủ động chứng minh, tranh tụng của các đương sự khi tham gia vào giải quyết tranh chấp. 82
3.2.3 Đơn giản hóa thủ tục tố tụng khi bị đơn, người liên quan không cung cấp chứng cứ hoặc có mặt theo triệu tập của Tòa án. 88
3.2.4 Xây dựng thủ tục rút gọn áp dụng cho những tranh chấp kinh doanh, thương mại đơn giản. 91
3.2.5 Hạn chế quyền kháng nghị của VKS đối với phán quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. 93
3.3 Nâng cao quyền uy của Tòa án và uy tín của Thẩm phán 94
3.3.1 Nâng cao quyền uy của Tòa án 94
3.3.2 Nâng cao uy tín của Thẩm phán 97
3.4 Thiết lập án lệ trong xét xử và công bố bản án rộng rãi 99
3.4.1 Thiết lập án lệ trong xét xử 99
3.4.2 Công bố tất cả những bản án đã xét xử một cách rộng rãi 103
KẾT LUẬN 106
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2003.doc