Là một nước đi sau, trong việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. Việt Nam phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt về vốn đầu tư nước ngoài. Song với lợi thế là nước đi sau Việt Nam có điều kiện phân tích những bài học kinh nghiệm thành công và dặc biệt là cả những bài học không thành công của các nước đi trước để từ đó rút ra những kết luận cần thiết cho việc hoạch định và thực thi một chiến lược đúng đắn về phát triển và quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất là một vấn đề mới ở Việt Nam, trong những năm qua chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể có ý nghĩa không nhỏ đối với qúa trình sử dụng phát triển đất nước, tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất còn chưa hiệu quả. Có thể nói bức tranh toàn cảnh của khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam còn nhiều mảng sáng, tối khác nhau nhưng suy cho cùn hiện tượng đó là khó tránh khỏi đối với một mô hình mới.Vấn đề đặt ra lúc này là trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng hiện nay và dự báo triển vọng những năm tới để đưa ra các giải pháp hợp lý từ đó phát huy được hiệu quả của loại hình kinh tế này.
75 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 933 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khu công nghiệp, được ấn định giá cho thuê hoặc bán nhà xưởng và phí dịch vụ với sự thoả thuận của ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh...
Doanh nghiệp đầu tư xây dựng kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất được áp dụng hình thức BOT, BT đối với các công trình hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm đồng bộ hoá với công trình trong khu công nghiệp, khu chế xuất.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, dịch vụ trong khu công nghiệp, khu chế xuất(kể cả doanh nghiệp phát triển hạ tầng khu công nghiệp) được hưởng một số ưu đãi về tài chính. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế của Việt Nam được nộp thuế với mức ưu đãi theo quy định hiện hành. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng các ưu đãi như sau:
Nộp thuế lợi tức với mức thuế suất ưu đãi và được áp dụng trong suốt thời kỳ thực hiện dự án tuỳ từng trường hợp cụ thể:
+ Đối với doanh nghiệp công nghiệp kĩ thuật cao, doanh nghiệp dịch vụ công nghệ cao trong khu công nghiệp nộp thuế lợi tức 10% lợi nhuận thu được và miễn thuế lợi tức 8 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lợi nhuận.
+ Đối với doanh nghiệp chế xuất:
. Nộp thuế lợi tức 10% lợi nhuận thu được và miễn thuế lợi tức 4 năm kể từ khi kinh doanh có lợi nhuận (đôí với doanh nghiệp sản xuất)
. Nộp thuế lợi tức 15% lợi nhuận thu được và miễn thuế lợi tức 2 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lợi nhuận (đối với doanh nghiệp dịch vụ)
. Các hàng hoá, hành lý, ngoại hối từ nước ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất hoặc doanh nghiệp chế xuất ( trực tiếp hoặc qua các cửa khẩu Việt Nam) và từ khu chế xuất hoặc doanh nghiệp chế xuất xuất khẩu ra nước ngoài (trực tiếp hoặc qua các cửa khẩu của Việt Nam) được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
. Các doanh nghiệp chế xuất được mua nguyên liệu, vật tư, hàng hoá từ thị trường nội địa vào khu chế xuất hoặc doanh nghiệp chế xuất phế liệu, phế phẩm còn giá trị thương mại của khu chế xuất hoặc doanh nghiệp chế xuất được tiêu thụ vào thị trường nội địa theo thủ tục hải quan đơn giản thuận tiện.
. Việc mua bán, thanh toán chuyển nhượng và các quan hệ giao dịch khác giữa các doanh nghiệp chế xuất với nhau được thực hiện bằng đồng tiền tự do chuyển đổi thông qua tài khoản ngân hàng (trên sổ sách kế toán phải ghi bằng đồng tiền tự do chuyển đổi)
+ Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp:
. Nộp thuế lợi tức 15% lợi nhuận thu được đối với doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu dưới 50% sản phẩm của mình và được miễn thuế lợi tức 2 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lợi nhuận: trường hợp xuất khẩu từ 50-80% sản phẩm của mình thì được giảm thêm 80% thuế lợi tức trong 2 năm tiếp theo.
. Nộp thuế lợi tức 10% lợi nhuận thu được đối với doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu trên 80% sản phẩm của mình, được miễn thuế lợi tức 2 năm và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lợi nhuận
. Nộp thuế lợi tức 20% lợi nhuận thu được đối với doanh nghiệp có hoạt động dịch vụ và miễn thuế lợi tức 1 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh có lợi nhuận.
. Khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài nộp thuế 5% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài.
+ Đối với doanh nghiệp phát triển hạ tầng khu công nghiệp:
. Nộp thuế lợi tức 10% lợi nhuận thu được và được miễn thuế lợi tức 4 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lợi nhuận và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo.
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế năm 1998, để đạt được một kết quả khả quan, các ngành các cấp đã phải tập trung giải quyết tháo gỡ nhiều khó khăn ách tắc trong hoạt động của các khu công nghiệp như: giảm tới 60% giá đất mà nhà nước cho thuê đối với một số khu công nghiệp liên doanh với nước ngoài để phát triển cơ sở hạ tầng ở miền Bắc; giá cho thuê lại đất cũng giảm phổ biến ở mức 25%, các hình thức miễn giảm thuế, cho phép sử dụng thị trường trong nước, xử lý linh hoạt tỉ lệ góp vốn của phía Việt Nam và hình thức đầu tư , cho phép các doanh nghiệp trong nước thuộc diện di dời được sử dụng tiền bán tài sản tiền chuyển quyền sử dụng đất để tái lập doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Đã thực hiện được việc thí điểm cho phép doanh nghiệp thuê lại đất trong khu công nghiệp cũng có đủ 5 quyền quy định của luật đất đai, đơn giản hoá và làm thông suốt các thủ tục hải quan, thuế quan...
Bên cạnh đó việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để xây dựng, phát triển các khu công nghiệp đã được mở rộng, tạo điều kiện giải quyết khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp khi đi vào xây dựng và hoạt động sản xuất kinh doanh
VII. Những khó khăn tồn tại:
Trong quá trình thực hiện, phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất về mặt khách quan cũng như chủ quan còn có nhiều điểm bất cập cần phải xem xét điều chỉnh.
1. Quá trình quy hoạch, đền bù, giải toả chậm:
Quy hoạch thiếu đồng bộ dẫn đến việc triển khai chậm chễ các dự án. Chẳng hạn như vấn đề điện, nước, đường giao thông...không được quy hoạch đồng bộ, thiếu sự phối hợp của các cấp, các ngành. Vấn đề sử lý chất thải, nước thải của khu công nghiệp chưa được giải quyết triệt để.
Trong khi quy hoạch khu công nghiệp, nhiều hạng mục không thật cần thiết lai chiếm nhiều diện tích (như đường nội khu, vỉa hè...) vì thế phần đất sử dụng thực sự cho kinh doanh chỉ còn trên dưới 60%
Một vấn đề nữa là danh mục quy hoạch các khu công nghiệp chưa sát và chưa đáp ứng nhu cầu phát triển. Mới chỉ nêu được tên, địa điểm diện tích chiếm đất, chưa có nội dung kinh tế kĩ thuật, nên khi xem xét thường không đủ thông tin để quyết định chính xác thủ tục ưu tiên.
Vấn đề không phải là số lượng khu công nghiệp được cấp giấy phép mà là khả năng lấp đầy khu công nghiệp bằng các dự án. Phát triển hợp lý khu công nghiệp là việc làm cần thiết nếu không sẽ dẫn đến hai hiện tượng phổ biến:
+ Xây dựng xong khu công nghiệp sẽ ít người thuê mướn, gây lãng phí nghiêm trọng về vốn và quỹ đất đai
+ Cạnh tranh không lành mạnh giữa các khu công nghiệp làm giảm tiền thuê đất đai, nhà xưởng, làm cho nhà nước thất thu thuế các doanh nghiệp khu công nghiệp làm ăn kém hiệu quả
Hiện nay việc phát triển khu công nghiệp còn tràn lan chưa đảm bảo về chất lượng. Trong một khu công nghiệp nhất thiết phải có cơ sở gì. Chứ không thể cứ cắm hàng rào xung quanh một bãi đất và gọi đó là khu công nghiệp.
2. Tình trạng thiếu vốn:
Khó khăn lớn nhất hiện nay của các khu công nghiệp là các công ty phát triển hạ tầng, hầu hết là doanh nghiệp Việt Nam đều đang trong tình trạng thiếu vốn để phát triển hạ tầng theo tiến độ được duyệt, khi lập báo cáo khả thi các công ty đều chỉ dựa vào 3 nguồn: vốn tự có, vốn vay tín dụng đầu tư theo kế hoạch và vốn vay trước của khách hàng. Tuy nhiên khi triển khai vốn tự có này rất thấp vì đã tính vào giá trị bất động sản, vốn vay của khách hàng lại chưa đạt con số ban đầu, khó khăn tiếp theo là các công ty chưa mạnh dạn đầu tư vào khu công nghiệp do họ chưa nhìn thấy lợi ịch khi đầu tư vào
3. Những khó khăn về nguồn nhân lực:
Đài Loan được coi là nơi tổ chức khu công nghiệp thành công nhất trên thế giới. Trong 10 yếu tố quyết định sự thành bại của khu công nghiệp, khu chế xuất theo các chuyên gia Đài Loan thì yếu tố số một là ở đó phải có đội ngũ lao động có tay nghề đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư .Đây là một vấn đề khó khăn ở Việt Nam. Chẳng hạn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, hơn 31% công nhân lao động trẻ không có trình độ nghề nghiệp, số lao động tay nghề bậc 6-7 chỉ chiếm 7%, 3% công nhân có trình độ văn hoá cấp 1. Trong đó phần lớn những người có trình độ chuyên môn (65%) lại làm việc ở khu vực phi sản xuất
Một trong những khó khăn là việc tuyển chọn lao động. Không khó mà khó nhất lại là tuyển chọn lao động tại các địa phương theo như cam kết lúc ban đầu. Đây là một trong những vấn đề được đề ra ngay từ khi duyệt đất, bởi ở những nơi này, thanh niên sẽ lâm vào cảnh khó khăn khi không còn đất canh tác. Nhưng vì tỉ lệ lao động địa phương đang làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất còn rất ít nên ít nhiều làm nảy sinh những mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp đóng trên địa bàn và địa phương
Trình độ của lao động tại các địa phương có khu công nghiệp, khu chế xuất chưa đáp ứng được nhu cầu của chủ đầu tư . Trong khi các công nghệ hiện đại đòi hỏi những người có tay nghề cao thì hiện nay tại các địa phương, mặc dù là ngoại thành Hà Nội nhưng tỉ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học đều tương đối thấp, lao động có kĩ năng và tay nghề thành thạo, nhất là đối với các ngành và lĩnh vực kinh tế-kĩ thuật mới thì quá thiếu. Sinh viên, học sinh tốt nghiệp các trường đại học, các trường kĩ thuật, trường dạy nghề hầu hết chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất. Mặt khác nhiều khu công nghiệp không quan tâm đến chỗ ở của công nhân, để người lao động tự lo liệu. Tình trạng này đã và đang gây tác động tiêu cực về nhiều mặt: người lao động không yên tâm làm việc, sức khoẻ không đảm bảo, các địa phương trên địa bàn có khu công nghiệp gặp nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng, quản lý nhân hộ khẩu và nảy sinh nhiều vấn đề xã hội khác như y tế, giáo dục, dân số kế hoạch
4.Những bất cập trong công tác quản lý khu công nghiệp:
4.1. Cơ chế quản lý đối với khu công nghiệp tuy đã có những tiến bộ, nhưng vẫn còn thiếu nhiều nấc chồng chéo, thủ tục phức tạp, sự phối hợp giữa các ngành ở Trung ương, các cơ quan ở địa phương với các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh chưa thật thông suốt.
Đã xuất hiện nhiều hiện tượng phối hợp chưa thông suốt giữa ban quản lý với các cơ sở chức năng của tỉnh, thành phố. Hiện tượng coi khu công nghiệp là của Trung ương trên địa bàn tỉnh không phải là không tồn tại, cho dù là theo quy chế khu công nghiệp thì ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh chịu sự lãnh đạo song trùng của UBND tỉnh, thànhphố và các ngành Trung ương, từ đó dẫn đến coi nhẹ vai trò quản lý của UBND cấp tỉnh, thành phố. Một số ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh chưa kịp thời báo cáo tình hình cấp giấy phép đầu tư , tình hình hoạt động các khu công nghiệp
Vẫn còn hạn chế trong việc thực hiện cơ chế quản lý "một cửa , tại chỗ". Doanh nghiệp còn bị thủ tục"hành" trong khâu nhập khẩu những máy móc, thiết bị, nguyên liệu... như lò hơi, máy nâng hạ, máy in, băng từ ghi chương trình điều khiển máy sản xuất tự động... đều phải gửi hồ sơ hoặc trực tiếp ra Hà Nội xin giấy phép, doanh nghiệp nước ngoài thì ban quản lý cấp tỉnh được quyền phê duyệt kế hoạch nhập khẩu máy móc thiết bị, nhưng đối với doanh nghiệp trong nước thì phải làm thủ tục hồ sơ để chính Bộ thương mại phê duyệt, ban quản lý khu công nghiệp được uỷ quyền tiếp nhận thẩm định và cấp giấy phép thành lập, giấy phép đầu tư đối với các dự án có vốn đầu tư trong nước vào khu công nghiệp. Song để được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, có quy định doanh nghiệp phải lập thêm hồ sơ gửi đến Sở kế hoạch -đầu tư tỉnh, để nơi đây xem xét trình UBND tỉnh. Thậm chí việc thực hiện thủ tục hành chính quản lý nhà nước ở một số khâu vẫn qua nhiều cửa khác ngoài ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh, thành phố. ở Trung ương vẫn chưa thực hiện cơ chế một đầu mối giải quyết các vấn đề liên quan đến khu công nghiệp, nên tình trạng đùn đẩy, sợ trách nhiệm, kéo dài thời gian sử lý hoặc việc rơi vào im lặng... các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh đã nhiều lần đề nghị nhưng đến nay chưa được xác lập, nên lúng túng trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ, đôi khi có việc cần ý kiến của “cơ quan chủ quản” thì không tìm ra cơ quan này là ai ! điều này đã làm nản lòng các nhà đầu tư và làm chậm tiến trình đầu tư.
4.2. Các chính sách giao đất, đền bù, giải toả chậm, chưa đồng đều và chưa có sự thống nhất.
Một số nơi chính sách đền bù chưa thoả đáng, thủ tục cấp đất cho dân còn phức tạp, chưa rõ ràng thống nhất cho nên trong quá trình đền bù giải phóng mặt bằng, nông dân thường có những thắc mắc và kiện cáo vô cớ vì chưa nắm được các quy định của nhà nước. Chưa có chính sách giải thích vận động có tình, có lý chưa hoàn thành thủ tục đất đai do đó trong thực tế có dự án sau 2 năm được cấp giấy phép mới được giải toả mặt bằng.
Giá cho thuê đất của nhà nước đối với các doanh nghiệp phát triển hạ tầng, chi phí đền bù, giải toả còn cao ở một số địa phương. Tiến độ giao đất chậm nên đã đảy giá cho thuê nặt bằng trong khu công nghiệp, khu chế xuất lên cao dẫn đến sự kém hấp dẫn trong thu hút đầu tư của các khu công nghiệp. Đặc biệt ở khu vực miền Bắc và miền Trung giá cho thuê đất lại cao hơn nhiều so với khu vực miền Nam dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lanh mạnh, không bình đẳng giữa các khu công nghiệp trong cả nước, tạo ra sự chênh lệch về phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở cả ba miền.
4.3. Cơ chế huy động vốn đầu tư và quy định trách nhiệm giữa các bên có liên quan chưa rõ ràng gây ra tình trạng mở nhiều khu công nghiệp về số lượng nhưng chất lượng chưa được đảm bảo
4.4. Chưa có chính sách hấp dẫn nhiều đối với các nhà đầu tư:
Các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp chưa có cùng quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặc dù về nguyên tắc Chính Phủ vẫn khuyến khích đầu tư trong nước tham gia đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, nhưng trên thực tế thì nghị định trên chưa dưa ra một khuyến khích cụ thể nào cho các nhà đầu tư trong nước cả.
Nhà đầu tư trong nước gặp nhiều bất lợi hơn nhiều so với nước ngoài. Ví dụ như: Cả nhà đầu tư trong và ngoài nước khi đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất đều phải đáp ứng các yêu cầu như nhau về bảo vệ môi trường, trả một gía tiền như nhau về các chi phí điện, nước và thuê đất nhưng nhà đầu tư nước ngoài được ưu tiên hơn về thuế thu nhập doanh nghiệp . Trong khi doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chịu thuế suất 20%, 15% và10% thì doanh nghiệp đầu tư trong nước phải chịu thuế suất là 32%, 25%, 20% và 15%. Thời gian miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với 2 loại dự án này cũng khác nhau: Dự án đầu tư nước ngoài được miễn thuế tối đa là 8 năm, còn dự án đầu tư trong nước được miễn 4 năm. Hơn nữa các dự án đầu tư nước ngoài được miễn thiếu nhập khẩu các thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải, vật tư xây dựng trong dây chuyền công nghệ để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp, thì các dự án đầu tư trong nước lai không được hưởng các ưu đãi này.
Theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp trong nước thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp trong nước, như luật doanh nghiệp nhà nước, luật công ty... còn doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì thành lập và hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài. Vì vậy, thủ tục thành lập 2 doanh nghiệp trong nước và nước ngoài khác nhau, trong đó thủ tục đối với khu đầu tư nước ngoài đơn giản hơn. Chính sách ưu đãi cũng có đôi điểm khác nhau: Các doanh nghiệp nước ngoài được ưu tiên hơn về thuế lợi tức và xuất nhập khẩu, ngưng lại phải chi phí cao hơn đầu tư trong nước như: giá đất (theo số liệu của Bộ tài chính thì con số này là 16 lần), giá điện (giá bán điện cho các công ty phát triển hạ tầng nước ngoài 0,717 cent/Kwh, trong nước 639 đồng/Kwh), giá nước, giá thuê nhà, giá sinh hoạt... đều cao hơn. Cuộc tranh cãi ai được ưu đãi hơn ai đang diễn ra rất sôi nổi và chỉ được giải quyết khi ta có một luật đầu tư áp dụng chung cho cả trong nước và nước ngoài. Nhưng vấn đề không đơn giản, vì hiện nay ta chưa bỏ được hoàn toàn
Tóm lại: Chúng ta chưa có chính sách hấp dẫn nhiều đối với các nhà đầu tư , công tác vận động tiếp thị trong các khu công nghiệp còn yếu, vẫn mang tính hình thức chưa có tính thuyết phục cao. Thiếu cả sự chuẩn bị về nội dung mời gọi các nhà đầu tư .Trong các khu công nghiệp được xây dựng ở miền Nam có nội dung hoạt động gần giống nhau, cho nên khi đi vào sản xuất chắc chắn sẽ có nhiều loại sản phẩm giống nhau, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt không cần thiết làm nản lòng các nhà đầu tư .
VIII. Nguyên nhân tồn tại:
1. Khu công nghiệp chưa được thừa nhận là một thực thể kinh tế hoàn chỉnh:
Theo định nghĩa khu công nghiệp trong luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và nghị định 36/CP của Chính Phủ ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao thì khu công nghiệp mới chỉ là "túi đựng" các doanh nghiệp công nghiệp. Trong khi đó quy định của các nước trên thế giới đều coi khu công nghiệp là thành phố công nghiệp. Bên cạnh việc phát triển hạ tầng kĩ thuật trong khu công nghiệp phục vụ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, người ta còn phát triển triển các khu dân cư, các cơ sở y tế, trường học,...biến khu công nghiệp thanh một khu kinh tế, xã hội hoàn chỉnh, đồng thời áp dụng các chính sách ưu đãi hơn để thu hút đầu tư ,cơ chế quản lý phi quan liêu, nới lỏng chế độ thuế khoá nhằm có tốc độ phát triển nhanh, khai thác hiệu quả các nguồn động lực và tiềm năng trên địa bàn, khu vực xác định.
Do vậy khái niệm khu công nghiệp cần phải sửa đổi bổ sung để nó trở thành một thực thể kinh tế - xã hội hoàn chỉnh.
2. Hệ thống tổ chức và cơ chế quản lý chưa đồng bộ và chưa
đáp ứng được nhu cầu phát triển khu công nghiệp:
Hạn chế của mô hình tổ chức bộ máy quản lý hiện nay là: Ban quản lý cấp tỉnh chưa được khẳng định bằng luật pháp (chế định bằng pháp luật) về vị trí trong quản lý nhà nước, nên phải thực hiện quyền quản lý theo cơ chế uỷ quyền, theo đó trách nhiệm và quyền hạn chưa đầy đủ, mô hình chịu sự lãnh đạo song trùng chưa phải là mô hình đáp ứng nhu cầu quản lý trong tình hình hiện nay, khi mà chúng ta chưa bỏ được chức năng "cơ quan chủ quản", ở Trung ương chưa có đầu mối theo quan điểm là chủ quản của các ban quản lý cấp tỉnh.
3. Khu công nghiệp ngày càng phát triển, từ đó yêu cầu chính sách phải theo sát và đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển sát với đặc thù của khu công nghiệp:
Trong khi đó, hiện nay chưa có quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật bằng những cơ chế chính sách hướng các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp thông qua hỗ trợ của nhà nước như: ưu đãi về thuế, vốn, ngân hàng... hay thủ tục hành chính đơn giản hơn so với đầu tư ở ngoài khu công nghiệp.
Ta chưa có điều kiện tạo mặt bằng pháp lý bình đẳng cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, để làm được điều này ta cần phải có luật để điều chỉnh.
4. Hiện nay, ta giới hạn trong khu công nghiệp chỉ có hoạt động công nghiệp và dịch vụ công nghiệp phục vụ xuất khẩu:
Các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc cho phép mở khu thương mại tự do, phát triển hoạt động thương mại trong khu chế xuất để các nhà đầu tư kinh doanh sử dụng lợi thế vị trí địa lý của khu chế xuất tự do giao lưu với nhau và sử dụng thị trường bên ngoài là chủ yếu. Do vây, cần thiết có quy định mở rộng chức năng hoạt động của khu chế xuất, nhằm tạo thêm động lực phát triển .
Chương III
Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của
khu công nghiệp, khu chế xuất.
Trước thực trạng hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất còn nhiều yếu kém, vấn đề đặt ra là phải có giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy sự phát triển của loại hình kinh tế này, góp phần tích cực thực hiện chủ trương công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước.
I. Định hướng phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian tới.
Vấn đề hình thành phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất là một trong những nội dung cơ bản của quốc sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá, điều này được nghị quyết đại hội Đảng VIII đề ra đó là:
- Cải tạo các khu công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng cà công nghệ sản xuất .
- Xây dựng mới một số khu công nghiệp, phân bố rộng trên các vùng.
Chương trình phát triển công nghiệp của Đảng cũng đã xác định:
+ Hình thành các khu công nghiệp tập trung, tạo địa bàn thuận lợi cho việc phát triển xây dựng các cơ sở công nghiệp mới.
+ Phát triển công nghiệp nông thôn và ven đô thị, ở các thành phố thị xã cần nâng cấp cải tạo các cơ sở hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra khỏi thành phố, hạn chế việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư.
Trong báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá X Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhấn mạnh: "đẩy mạnh xây dựng và nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng đề án thí điểm lập đặc khu kinh tế , khu mậu dịch tự do ở vị trí thích hợp".
Theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2005 sẽ có khoảng 100 khu công nghiệp, khu chế xuất và sẽ có khoảng 17 khu công nghiệp được lấp đầy với tổng diện tích là 1701 ha, trong đó Hà Nội chiếm 2 khu công nghiệp với diện tích 64 ha (giai đoạn I), Đồng Nai chiếm 5 khu công nghiệp với diện tích 741 ha, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 4 khu công nghiệp với diện tích 374 ha, Bình Dương chiếm 4 khu công nghiệp với diện tích 374 ha, Cần Thơ chiếm 1 khu công nghiệp với diện tích 100 ha (giai đoạn I), Bà Rịa- Vũng Tầu 1 khu công nghiệp với diện tích 75 ha. Đến khi các doanh nghiệp trong diện tích 3500 ha đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra được giá trị sản lượng 16 tỷ USD và thu hút được khoảng 12 triệu lao động.
Thực hiện phương hướng trên vừa có ý nghĩa chiến lược vừa là giải pháp lớn góp phần đảm bảo nhịp độ tăng trưởng công nghiệp những năm 2000- 2005. Đến năm 2005 GDP bình quân khoảng 800 USD/ năm, tỷ trọng nông nghiệp khoảng 17-18%, công nghiệp và xây dựng 35-36%, dịch vụ 46-47% GDP.
Do nhu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu quy hoạch chính trong các đô thị lớn, xây dựng công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản để phát triển nông nghiệp và nông thôn, bảo vệ môi sinh môi trường đi đôi với việc phát triển, làm giàu và tạo việc làm cho nhân dân lao động thì hầu hết các tỉnh đều có nhu cầu hình thành khu công nghiệp với quy mô vừa khoảng 100 ha. Tất nhiên, phải phù hợp với khả năng huy động vốn để phát triển công trình hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp, sự phát triển của các doanh nghiệp trên địa bàn lãnh thổ và khả năng thu hút đầu tư. Việc phát triển này không chỉ mang ý nghĩa kinh tế xã hội mà còn mang cả ý nghĩa an ninh quốc phòng.
Quy hoạch phát triển khu công nghiệp đến năm 2010 bao gồm các mục tiêu chủ yếu sau:
- Việc xây dựng hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao trên phạm vi cả nước phải mang tính phù hợp chung đối với quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ và quốc gia.
- Các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao phải được xây dựng trên những vùng đất chủ yếu là đất xấu, cằn cỗi, không thể canh tác hoặc phát triển nông nghiệp cho năng suất cao. Việc lựa chọn địa điểm xây dựng như vậy vừa tận dụng được đất đai lại vừa có thể làm giàu đất đai đó lên nhiều lần so với sản xuất nông nghiệp.
- Xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao phải đặc biệt đảm bảo đúng quy định về an toàn môi sinh, môi trường.
- Như dự kiến năm 2005 sẽ hình thành 100 khu công nghiệp, khu công nghệ cao thì tổng diện tích đất khoảng 10000 ha.
Không ít ý kiến cho rằng, chú trọng phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2000 là thiếu cơ sở vững chắc, là phát triển tràn lan. Cần phải xác dịnh rõ ràng việc xây dựng cả 100 khu công nghiệp, khu chế xuất là không đơn giản mà điều này đòi hỏi ở chúng ta một quá trình phấn đấu không mệt mỏi trong nhiều năm.
Bên cạnh các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao được xây dựng tại các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước thì đối với một số địa phương có điều kiện để hình thành địa bàn trọng điểm để phát triển công nghiệp để tạo khả năng phát huy các nguồn lực sẵn có như nguyên liệu, lao động, đất đai... thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Do vậy tại các địa phương có khả năng trên, nên chăng chúng ta cũng có xu hướng xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất với quy mô vừa và nhỏ cho phù hợp với khả năng thực tế của vùng.
Nhìn chung, quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp từ nay đến năm 2010 mới chỉ nêu lên những hướng đi chủ yếu dựa vào những kết quả ban đầu đã đạt được. Măc dù quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp đã được Thủ tướng phê duyệt nhưng thực tế vẫn còn rất nhiều khó khăn vướng mắc cần phải sửa đổi từng bước trong quá trình hình thành và xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất trên phạm vi cả nước.
Trong giai đoạn tới việc hình thành các khu công nghiệp mới cần được cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo tính khả thi trên cơ sở đáp ứng các điều kiện sau:
+ Phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng vùng, lãnh thổ.
+ Ngành nghề kêu gọi đầu tư vào khu công nghiệp phải phù hợp với quy hoạch phát triển ngành kinh tế kỹ thuật.
+ Phản ánh đầy đủ nhu cầu và có biện pháp khả thi về huy động vốn để xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội cả trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp.
+ Có phương án khả thi trong việc thu hút đầu tư nhất là đầu tư nước ngoài trong những năm tới.
II. Hệ thống các quan điểm cơ bản cần được nhận thức rõ trong quá trình đưa ra các giải pháp:
1. Quan điểm về phát triển cơ cấu công nghiệp nhiều thành phần:
Để động viên, khai thác mọi nguồn lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, coi trọng, chý ý khai thác nguồn nội lực của từng vùng, từng địa phương.
Bên cạnh những mặt tích cực do lợi thế của công nghiệp quốc doanh mang lại, thành phần này đã bộc lộ những hạn chế khó khắc phục như kém năng động, hiệu quả kinh tế thấp, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, sức cạnh tranh kém. Nhằm tăng cường tính năng động sáng tạo ra sức cạnh tranh đồng thời khai thác và huy động mọi nguồn lực về vốn, công nghệ, quản lý để đẩy nhanh phát triển công nghiệp theo hướng đa dạng hoá cần lựa chọn mô hình hợp lý để có thể thu hút các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển có sự hỗ trợ và định hướng của Nhà nước. Với quan điểm này chúng ta chủ trương xây dựng các khu công nghiệp có quy mô từ 15 đến 20 ha, hạ tầng kỹ thuật được đầu tư vừa phải phù hợp với khả năng kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ là hợp lý, có khả năng khai thác được nhiều nguồn nội lực của các thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp. Các khu công nghiệp vừa và nhỏ được phân bố xen kẽ và kết hợp với các khu chế xuất trên dưới 100 ha, có hạ tầng kỹ thuật hiện đại đã được hình thành trên địa bàn.
2. Quan điểm hiệu quả trong đầu tư phát triển khu công nghiệp:
Hiệu quả trong đầu tư phát triển khu công nghiệp phải được nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn bao gồm hiệu quả kinh tế trực tiếp mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp và hiệu quả xã hội giải quyết tối ưu các mục tiêu kinh tế xã hội của mỗi địa phương vùng lãnh thổ có phân bố khu công nghiệp như: tác động chuyển dịch cơ cấu, tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương, giải quyết việc làm, bảo vệ môi trường sinh thái vùng lãnh thổ. Với quan điểm này vận dụng vào điều kiện thực tiễn ở nước ta những năm qua có thể nhận thấy: Vấn đề "lạm phát khu công nghiệp" tỉnh nào cũng muốn xây dựng khu công nghiệp bởi vì đều muốn thúc đẩy và đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội một cách nhanh chóng". nhưng vấn đề là có đủ điều kiện để đầu tư hạ tầng và đáp ứng được lợi ích của các doanh nghiệp và nhà đầu tư hay không.
3. Quan điểm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp:
Góp phần giải quyết cơ bản vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị do các cơ sở sản xuất gây ra. Nhằm đảm bảo sự phát triển bền vũng cho từng doanh nghiệp và toàn xã hội.
Môi trường các khu vực đô thị như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên là do các cơ sở sản xuất, chế biến công nghiệp đang hoạt động không coi trọng đầu tư xử lý chất thải công nghiệp. Trong những năm tới nếu không có những giải pháp đồng bộ thì tình trạng ô nhiễm tiếp tục gia tăng. Và một trong những giải pháp đó là hình thành và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất.
4. Quan điểm toàn diện và đồng bộ trong đầu tư phát triển
khu công nghiệp:
Hình thành và phát triển công nghiệp theo mô hình khu công nghiệp chỉ là một trong nhiều vấn đề của tổ chức sản xuất và quản lý công nghiệp theo lãnh thổ. Phát triển hệ thống công nghiệp theo lãnh thổ có tác dụng quan trọng, thúc đẩy phát triển tổng thể kinh tế xã hội theo vùng lãnh thổ. Với quan điểm toàn diện và đồng bộ, muốn phát huy hiệu quả mô hình khu công nghiệp phải giải quyết tốt mối quan hệ đối với các bộ phận khác như: Đầu tư phát triển các ngành kinh tế nông, lâm nghệp, thương mại, dịch vụ, đào tạo nguồn nhân lực, quy hoạch phát triển hạ tầng giao thông, điện nước, khu dân cư, đô thị vùng lãnh thổ gắn liền với phát triển khu công nghiệp.
Đồng thời giải quyết đồng bộ các vấn đề như đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô, cải cách bớt các thủ tục phiền hà, ách tắc, cửa quyền trong xét duyệt đầu tư theo hướng "một cửa". Và hoàn thiện môi trường đầu tư tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các khu công nghiệp trong thời gian trước mắt cũng như trong giai đoạn tiếp theo.
III. Giải pháp về cơ chế quản lý và đầu tư phát triển khu công nghiệp - khu chế xuất:
1. Xem xét lại quy hoạch phát triển Khu công nghiệp:
Việc xây dựng khu công nghiệp trước hết phải xuất phát từ hiệu quả kinh tế xã hội, không thể quyết định một cách chủ quan. Hơn nữa sau khủng hoảng kinh tế khu vực, khả năng tăng đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam chưa mạnh, cho nên trong quy hoạch phát triển khu công nghiệp trong những năm tới cần có những điều chỉnh thích hợp.
Không thành lập thêm các khu công nghiệp mới, cần soát xét kỹ tất cả các khu công nghiệp, tập trung vốn đầu tư hoàn thành xây dựng hạ tầng chonhững khu công nghiệp đang xây dựng dở dang, tạm hoãn các khu công nghiệp chưa xây dựng hoặc ít có triển vọng thu hút đầu tư. Tình trạng "vừa cấp giấy phép vừa tiến hành quy hoạch" như ở một số nơi hiện nay đang gây ra nhiều khó khăn lúng túng, lãng phí và thiếu đồng bộ.
Đối với các địa phương nằm trong vùng quy hoạch dự định hình thành khu công nghiệp, khu chế xuất phải có sự thông báo rộng rãi cho nhân dân biết và tiến hành nhanh việc cắm cột mốc để ngăn chặn tình trạng xâm chiếm, mua bán đất bất hợp pháp, gây khó khăn cho việc giải toả đền bù về sau.
Trung ương cần định hướng các khu công nghiệp cần phát triển trong cả nước và trong toàn khu vực, tránh tình trạng lạm phát khu công nghiệp, ứ đọng vốn đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng cần xem xét lại giá cho thuê đất để có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, cũng như việc thu tiền thuê đất không nhiều so với hiệu quả khi đầu tư đem lại.
Không nên coi khu công nghiệp, khu chế xuất là "con gà đẻ trứng vàng" chỉ có thể coi là phương tiện để giải quyết mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội sắp xếp lại dân cư, chỉnh trang đô thị. Cần tập trung vốn cho các công trình trọng điểm, không nên dàn trải. Nhiệm vụ của chúng ta trước mắt chưa phải là mau chóng tăng số lượn ccs khu công nghiệp mà trước hết là naang chất.
Để chấm dứt tình trạng quy hoạch xây dựng khu công nghiệp không đồng bộ, thì ngay sau khi phê duyệt cho dự án xây dựng hạ tầng một khu công nghiệp, chính phủ cần cân đối các nguồn vốn, kể cả các hình thức huy động vốn kế hoạch xây dựng đồng bộ hạ tầng cả trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp theo yêu cầu của tiến trình phục vụ sản xuất các doanh nghiệp khu công nghiệp và đời sống của dân cư khu vực.
Muốn vậy phải thực hiện tốt kế hoạch đền bù, giải phóng mặt bằng. Nhà nước cần có chính sách đền bù thống nhất và hợp lý đồng thời ở từng khu vực cần xây dựng và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng nhanh có hiệu quả. Chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng phải được hạch toán vào giá thành cho thuê lại đất, nhằm thúc đẩy công ty phát triển hạ tầng cũng như các cơ quan chức năng quan tâm đến hiệu quả kinh tế sử dụng đất.
Các trung tâm công nghiệp lớn có thể thành lập những khu công nghiệp chuyên ngành: khu công nghiệp may, khu công nghiệp chế biến hải sản, khu công nghiệp cơ khí... Với cách này vừa tránh được sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các khu công nghiệp, vừa phát triển tốt các loại hình dịch vụ chuyên ngành trong đó có việc xử lý chất thải gây ô nhiễm.
Khi xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất nên chọn vị trí hợp lý như: nằm gần sân bay, hải cảng, và chúng được nối với các công trìmh này bằng đường giao thông thuận tiện, hoặc nằm trên vùng đô thị chính, có nhân công nhàn rỗi rẻ tiền, có cơ sở hạ tầng chấp nhận được và một hoạt động dịch vụ thuận lợi. Một điều quan trọng khác là các ưu thế trường học và dịch vụ y tế phù hợp, điều kiện sống tương đối dễ chịu và nhà ở cho các nhà quản lý và gia đình họ
Cùng với vị trí thích hợp, khu công nghiệp, khu chế xuất cần phải cung cấp đầy đủ tiện nghi, phải được nối liền với đường giao thông, có những nhà xưởng tiêu chuẩn cho thuê, có chỗ cho những nhà đầu tư muốn thuê đất và tự xây dựng nhà xưởng của họ, và các tiện nghi phụ trợ bao gồm từ nhà cửa cho các cơ quan hành chính và dịch vụ cho bến ô tô buýt, bãi để ô tô và hàng rào cao xung quanh phần đã triển khai của khu. Mắc được đường điện thoại là một thành quả không nhỏ ở nhiều nước đang phát triển, nơi mà những người muốn có điện thoại thường phải đợi đến vài năm.
Xây dựng theo giai đoạn tuỳ theo nhu cầu về không gian là một nguyên tắc mấu chốt để thành công ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Rất nhiều khu công nghiệp trong thời gian đầu đã xây dựng quá nhiều các tiện nghi đi trước nhu cầu, gặp phải tỷ lệ chiếm chỗ thấp và không bao giờ bồi hoàn được các chi phí. Cũng có những chuẩn mực về quy mô đem lại kết quả tốt nhất, đó là từ không dưới 15 ha đến 200 ha. Dịch vụ cũng là một yếu tố chủ chốt để thành công. Những khu được quản lý tốt thường cung cấp những dịch vụ mà các công ty trong khu cần nhất, bao gồm đảm bảo vệ sinh, dọn rác và bảo dưỡng các loại. Mỗi khu chắc chắn còn nhiều loại dịch vụ thuận lợi như phòng cháy, dịch vụ ngân hàng và bưu điện, giới thiệu việc làm, cung cấp thực phẩm, trung tâm trông trẻ, các tổ chức dậy nghề, và các dịch vụ kinh doanh thông thường. Ban quản lý khu luôn phải sẵn sàng giúp đỡ các công ty trong việc giao thiệp với chính quyền, bố trí các tiện nghi công cộng và với các nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ bên ngoài khu.
Việc quản lý khu, các dịch vụ và không khí kinh doanh là tối quan trọng, song năng lượng, kỹ năng và các tài nguyên dùng để hấp dẫn các nhà đầu tư tương lai cũng không kém ý nghĩa. Nếu như không thu hút được các nhà đầu tư thích hợp thì tất các thứ còn lại chỉ là con số không.
Cần có sự phối hợp đa mục tiêu việc xây dựng khu công nghiệp. Khi xây dựng khu công nghiệp chúng ta sẽ tập trung các cơ sở sản xuất hiện có trong thành phố vào đây. Để di chuyển ra địa điểm mới đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiền để thuê đất chi phí cho di chuyển nhà máy... đồng thời phải bán địa điểm cũ. Để giải quyết vấn đề này cần chính sách ban điều phối chung có nhiệm vụ dịch chuyển giá trị cơ sở sản xuất cũ để khấu trừ vào chi phí di chuyển. Đồng thời sử dụng cơ sở cũ vào mục tiêu kinh doanh thích hợp, ch1/4ng hạn xây dựng các khu chung cư cao tầng để bán.
2. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính đối với
khu công nghiệp khu chế xuất:
Đây là việc làm cần thiết. Cần thực hiện tốt cơ chế một cửa giao quyền cho ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, cấp giấy phép xây dựng cơ bản và một số chức năng khác sao cho ban quản lý thực sự là người chủ, thực sự tự chủ và thực sự rạo ra động lực.
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạ quản lý Nhà nước của ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh (quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất trên địa bàn, lãnh thổ) được mở rộng thêm một số nhiệm vụ quản lý thông qua việc thực hiện cơ chế uỷ quyền của các bộ, ngành trung ưng và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh như: cấp giấy phép đầu tư nước ngoài, xét duyệt kế hoạch và quản lý xuất nhập khẩu, cấp giấy chứng chỉ xuất xư hàng hoá, thực hiện một số chức năng về quản lý lao động... Một số nội dung quản lý thuộc lĩnh vực chuyên ngành như hải quan, công an, thuế vụ... Thực hiện theo phương thức đặt cơ quan đại diện đủ thẩm quyền giải quyết trực tiếp công việc tại từng khu công nghiệp, cụm khu công nghiệp. Xoá bỏ dần chế độ xét duyệt từng trường hợp cụ thể, đối với một số thủ tục có thể ban hành điều lệ mẫu theo đó ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh xây dựng và tổ chức thực hiện.
Các quy định chung về tổ chức cán bộ cũng đã được ban hành, tạo hành lan để các doanh nghiệp khu công nghiệp tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh, các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ cần giám sát và thực hiện các biện pháp chế tài khi ccs doanh nghiệp vi phạm các quy định mẫu và hướng dẫn chung đã nêu, hạn chế đến mức thấp nhất việc xét duyệt từng trường hợp một.
Đồng thời xoá bỏ những khác biệt trong đối xử giữa các dự án đầu tư nước ngoài và dự án đầu tư trong nước sẽ khuyến khích các nhà đầu tư trong nước đưa dự án vào các khu công nghiệp và khả năng "lấp đầy" các khu công nghiệp sẽ mau chóng được thực hiện bằng cách nhanh chóng triển khai Luật doanh nghiệp, trước hết là bãi bỏ 84 "giấy phép con", sẽ giảm nhẹ gánh nặng cho doanh nghiệp ĐTTN khi đưa các dự án vào khu công nghiệp.
3. Hoàn thiện và đồng bộ hoá hệ thống pháp luật, toạ môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển khu công nghiệp:
Xây dựng ban hành mới một số cơ chế chính sách còn thiếu, bổ sung sửa đổi một số chính sách đã có nhưng không còn phù hợp để tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, hình thành "luật chơi" hoàn chỉnh cho hoạt động của các khu công nghiệp.
Từ phía chính sách, yếu tố chủ chốt gây nên thất bại hoặc sự nghèo nàn của khu công nghiệp, khu chế xuất là ban hành các chính sách cần thiết quá chậm nhiều các điều lệ, điều luật không thích hợp ảnh hưởng tới khu công nghiệp, khu chế xuất. Ví dụ như: thể thức thuế quan cứng nhắc, phiền hà, tốn thời gian. Do đó trong khu cần phải có chính sách hợp lý, quyền sở hữu phải được xác định rõ ràng và bảo hộ một cách đáng tin cậy, còn sự can thiệp và kiểm tra của luật pháp phải giảm tới mức tối thiểu, để tránh những chậm chễ vô lý hoặc đắt giá gây ra bởi chính quyền. Quyền thuê và thải công nhân với chi phí lao động thấp là đặc biệt quan trọng. Việc giao dịch giữa các công ty trong khu cần được để thực sự tự do, không có điều tiết.
Đối với chính sách khu chế xuất, khả năng tiếp cận nhanh chóng và chắc chắn với tư liệu sản xuất nhập khẩu với giá hạ có lẽ là yếu tố quan trọng nhất để tăng khả năng nhận được tư liệu sản xuất cần thiết và đúng lúc các công ty, nhằm đảm bảo thời hạn giao hàng và giảm thời gian chờ đợi và chi phí lưu kho, thứ chi phí có thể chiếm một phần đáng kể trong tổng chi phí sản xuất. Vì thế, việc cơ quan thuế quan giải phóng các tư liệu sản xuất nhập khẩu và hàng xuất khẩu nhanh chóng, với chi phí thấp là cực kì quan trọng. Chế độ nhập khẩu miễn thuế và không hạn chế đối với tư liệu sản xuất và thiết bị cũng có ý nghĩa quyết định. Ngoài ra còn phải có 1 chế độ chính sách đầu tư nước ngoài rõ ràng, cho phép thành lập xí nghiệp 100% sở hữu nước ngoài và đảm bảo việc chuyển lợi nhuận về nước và thanh toán nhanh chóng các nghĩa vụ bằng ngoại tệ.
Về mặt pháp lý thì khu công nghiệp nước ta chưa được thừa nhận là một thực thể kinh tế. Trong khi đó, hệ thống quốc tế cũng như các nước trong khu vực coi khu công nghiệp là một dạng của đơn vị kinh tế đặc biệt mà ở đó người ta áp dụng các quy định khác, quy định chung về kinh tế và hành chính nhằm có tốc độ phát triển nhanh khai thác có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng, thế mạnh trên địa bàn khu vực nhất định. Vị trí pháp lý của khu công nghiệp như là một đơn vị kinh tế chính là vấn đề mấu chốt nhất cần được luật hoá trong luật khu công nghiệp từ đó mới có thể thực hiện được việc quy đinh khác với quy định chung để phát huy đầy đủ thế mạnh của khu công nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Có chính sách cơ chế huy động vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp - khu chế xuất, xác định rõ trách nhiệm của các đối tác có liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp. Đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp nhằm tạo điều kiện cho họ làm quen với lĩnh vực kinh doanh có lợi này và tạo thêm việc làm.
Tuy nhiên cần quản lý chặt chẽ đối với liên doanh, nhất là việc kiểm soát gia vật tư, thiết bị nhập khẩu và phía Việt Nam phải "chia sẻ" lợi ích cũng như rủi ro với bên nước ngoài. Nếu tìm được các đối tác có năng lực tài chính và khả năng vận động đầu tư thì cần tận dụng thời cơ, không hạn chế thành lập liên doanh để đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp.
5. Cần có chính sách thuế đất hợp lý hơn, nên miễn tiền thuế đất hoặc chỉ thu tượng trưng với mức thấp nhất để phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Phải coi việc giải phóng mặt bằng để lập khu công nghiệp thuộc loại đất sử dụng vào mục đích công cộng vì lợi ích quốc gia thì mới có chính sách đền bù và giải toả nhanh.
Cho phép các doanh nghiệp thuê lại đất trong khu công nghiệp cũng có đầy đủ các quyền theo quy định của pháp luật, ít nhất phải có quyền chuyển nhượng để tạo điều kiện cho họ tiếp tục cho thuê lại mới thuận lợi cho việc thu hút đầu tư lấp đầy khu công nghiệp.
6. Cần có cơ chế chính sách tài chính và thuế hợp lý để thực sự khuyến khích hoạt động của các khu công nghiệp.
Muốn vậy phải nới lỏng việc sử dụng thị trường nội địa cho các khu công nghiệp tại Việt Nam sử dụng thị trường trong nước đối với những sản phẩm mà trong nước chưa sản xuất được hoặc đã sản xuất nhưng kém hiệu quả và sức cạnh tranh. Song nên khuyến khích họ từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, hạn chế hình thức đơn thuần gia công để vừa đảm bảo chiến lược hướng về xuất khẩu nhưng cũng không coi nhẹ thị trường nội địa.
Có thể giảm thuế đối với các dự án đầu tư trong nước, và có thể gia thêm thời hạn miễn thuế đối với các dự án đầu tư trong nước để xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa dự án đầu tư nước ngoài và dự án đầu tư trong nước. Và tuỳ theo từng trường hợp việc miễn thuế có thể là toàn bộ hay từng phần và có thể kết hợp với các khuyến khích khác như: miễn trừ khấu hao hoặc trả sau, không hạn chế mức thua lỗ, giảm thuế cho các khoản lợi nhuận tái đầu tư.
Các khuyến khích về tài chính bao gồm việc miễn mọi chế độ quản lý về ngoại hối, đảm bảo cho chuyển về nước không hạn chế số lợi nhuận thu được... và một số các biện pháp khuyến khích khác như:
- Trợ cấp về thành tích xuất khẩu.
- Có trao giải thưởng hàng năm cho các công trình sáng tạo hoặc cải tiến sản phẩm .
- Trợ cấp khấu hao nhanh.
- Trợ cấp lãi suất vay tín dụng.
- Trợ cấp một phần chi phí cho tài sản cố định, chi phí đào tạo công nhân.
7. Đào tạo tay nghề công nhân cung ứng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất:
Tập trung đầu tư cho việc đào tạo đội ngũ lao động đang chuẩn bị làm việc trong các khu công nghiệp - khu chế xuất vì vấn đề này đang là điểm yếu trong giáo dục - đào tạo của chúng ta, hiện nay sự khan hiếm lao động kỹ thuật đã bộc lỗ rõ ở nhiều tỉnh miền Đông nam Bộ nước ta, nơi có nhiều khu công nghiệp. Do vậy vấn đề lao động kỹ thuật và lao động quản lý phải là giải pháp cần được quan tâm trước hết. Tương lai thành công hay không thành côn phần lớn phụ thuộc vào đội ngũ những nhà lao động và những nhà quản lý này.
Do khu công nghiệp và khu chế xuất hầu hết đang ở giai đoạn xây dựng và hoàn thiện, mới chỉ có ít nhà máy nên số lương chưa cần nhiều nhưng những năm tới chắc chắn chúng ta phải cần tới một số lượng lớn.
Do đó chúng ta phải có một kế hoạch đào tạo sát thực với nhu cầu và đáp ứng được yêu cầu của chủ đầu tư. Điều tất yếu không thể đào tạo một cách ồ ạt mà trung âm phải xuống tận nơi, phối hợp từng huyện xã để phát phiếu học nghề đăng ký theo trình độ. Nên đào tạo trình độ tiếng Anh, ôn tập văn hoá và đào tạo mọi người làm quen với tác phong công nghiệp.
Đào tạo công nhân về mặt kỉ luật lao động như đi làm đúng giờ, yên lặng và thói quen làm việc. Điều này, trước mắt là yêu cầu cần thiết để các xí nghiệp khu công nghiệp, khu chế xuất đạt được kết quả tốt trong sản xuất kinh doanh. Song về lâu dài nó góp phần vào việc hình thành tập quán và tâm lý lao động của nền công nghiệp hiện đại cho công nhân.
Các trung tâm huấn luyện tay nghề có thể được thành lập theo chuyên ngành: cơ khí, điện tử - công nghiệp may... Nguồn kinh phí để thành lập các trung tâm là nguồn việc trợ từ ODA, địa phương góp phần xây dựng đất xây dựng trường, một phần kinh phí đào tạo tuyển dụng của doanh nghiệp.
Một vấn đề quan trọng là học phí cho người lao động. Theo đánh giá của một lãnh đạo huyện ngoại thành Hà Nội, mức giá từ 700.000 - 800.000 đồng cho một lao động cộng cả xin việc là một con số quá cao so với đời sống và thu nhập của một gia đình nông dân hiện nay. Hiện trạng đó đòi hỏi phải có một chính sách đào tạo riêng cho người các địa phương tại những nơi đã phải nhường đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất.
8. Thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào khu công nghiệp,
khu chế xuất:
Các giải pháp ở trên về quy hoạch phát triển khu công nghiệp và khu chế xuất, về hoàn thiện chính sách quản lý, đào tạo lực lượng lao động cho khu công nghiệp và khu chế xuất... nếu được thực hiện tốt thì nó sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Dưới đây là một số giải pháp bổ sung:
Trước hết cần thay đổi tư duy về khu công nghiệp. Nếu hiểu theo luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và Nghị định 36/CP về quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất khu công nghệ cao thì "Khu công nghiệp là khu chuyển sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp do chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập". Nếu chỉ dừng lại ở khái niệm như vậy thì khu công nghiệp của ta là một túi đựng các doanh nghiệp công nghiệp. Trong khi đó, theo kinh nghiệm ở nhiều nước để khu công nghiệp thực sự trở nên hấp dẫn đối với các nhà đầu tư bên cạnh việc phát triển cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp phục vụ các doanh nghiệp cần phát triển các khu dân cư, cơ sở khám chữa bệnh, trường học,... biến khu công nghiệp thành một khu kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, như một thành phố công nghiệp.
Để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài các nước muốn tiếp nhận vốn đều phải tìm cách tạo môi trường đầu tư thuận lợi trong đó bao gồm cả môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện đi đôi với môi trường kinh doanh thuận lợi. Môi trường pháp lý lành mạnh, tiến bộ phù hợp với thông lệ quốc tế là một tiêu chí để nhà đầu tư lựa chọn quyết định đầu tư. Môi trường pháp lý đó phải có định hướng rõ ràng hỗ trợ có định hướng rõ ràng hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động ở nước sở tại một cách dễ dàng, thuận lợi nhất.
Về môi trường kinh doanh, chúng ta phải tạo được môi trường kinh doanh thuận lợi trong đó bao gồm các yếu tố như kết cấu hạ tầng phải tương đối hiện đại, hệ thống luật pháp và tư pháp tốt, hệ thống thông tin và tư vấn tốt, hệ thống tài chính và tiền tệ ổn định, có hiệu quả, an ninh kinh tế và an toàn xã hội được đảm bảo
Phải có hình thức tuyên truyền vận động quảng cáo trên các phương tiện truyền thông để cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thấy rõ lợi ích và quyền lợi khi vào các khu công nghiệp hoạt động.
Những ý kiến trên có thể mới chỉ đề cập tới một vài khía cạnh của vấn đề. Muốn đẩy mạnh việc lấp đầy các khu công nghiệp hiện có cần tiến hành hàng loạt các biện pháp cấp bách trong đó điều quan trọng trước hết là phải tạo một số sân chơi bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cũng như giữa các nhà đầu tư trong nước thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Kết luận
Là một nước đi sau, trong việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. Việt Nam phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt về vốn đầu tư nước ngoài. Song với lợi thế là nước đi sau Việt Nam có điều kiện phân tích những bài học kinh nghiệm thành công và dặc biệt là cả những bài học không thành công của các nước đi trước để từ đó rút ra những kết luận cần thiết cho việc hoạch định và thực thi một chiến lược đúng đắn về phát triển và quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất là một vấn đề mới ở Việt Nam, trong những năm qua chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể có ý nghĩa không nhỏ đối với qúa trình sử dụng phát triển đất nước, tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất còn chưa hiệu quả. Có thể nói bức tranh toàn cảnh của khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam còn nhiều mảng sáng, tối khác nhau nhưng suy cho cùn hiện tượng đó là khó tránh khỏi đối với một mô hình mới.Vấn đề đặt ra lúc này là trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng hiện nay và dự báo triển vọng những năm tới để đưa ra các giải pháp hợp lý từ đó phát huy được hiệu quả của loại hình kinh tế này.
Việc xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất suy cho cùng phải xuất phát từ mục đích tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào chương trình sản xuất hướng về xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới trong xu thế quốc tế hoá đời sống ngày càng mạnh mẽ. Số lượng, chất lượng, quy mô khu công nghiệp, khu chế xuất không thể tách rời mà ngược lại phải gắn bó với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như chiến phát triển kinh tế đề ra.
Xây dựng khu công nghiệp - khu chế xuất thành công sẽ trở thành mô hình kinh tế năng động có hiệu quả cao, đem lại nhiều triển vọng cho đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Các khu chế xuất Châu á - Thái Bình Dương và Việt Nam - Mai Ngọc Cường - NXB Thống kê-1995
2. Chiến lược phát triển khu công nghiệp tập trung - Viện chiến lược –
Bộ Kế hoạch đầu tư -1995
3. Giáo trình hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước - Khoa Khoa học
quản lý ĐHKTQD - NXB Khoa học kỹ thuật 1998
4. Khu công nghiệp khu chế xuất với cơ hội đầu tư vào Việt Nam –
Tạp chí kinh tế dự báo UBKHNN 12/1993)
5. Công báo số 35 ngày 30/12/1998
Quyết định số 989/QĐ-TTg chuẩn bị thành lập khu công nghệ cao - TPHCM
6. Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ về ban hành quy chế khu công nghiệp - khu chế xuất, khu công nghệ cao
7. Tạp chí thông tin khu công nghiệp (các số năm 1998, 1999)
8. Tạp chí "con số và sự kiện" (các số năm 1999) - Tổng cục Thống kê
9. Tạp chí "Kinh tế và dự báo" (các số năm 1998, 1999), Bộ Kế hoạch và đầu tư.
10. "Thời báo kinh tế Việt Nam" (các số năm 1999, 2000) Hội Kinh tế Việt Nam
11. Tạp chí "Nghiên cứu kinh tế" (các số năm 1998, 1999, 2000)
Viện kinh tế học
12. Tạp chí "Đầu tư" (các số năm 1998, 1999, 2000, Bộ Kế hoạch
và đầu tư.
13. Một số tư liệu lưu tại thư viện Trung tâm hợp tác nghiên cứu
Việt Nam (CVSC)
14. Công báo số 31/99-QĐ TTg về việc phê duyệt chiến lược quản lý chất thải rắn tại các đô thị và KCN Việt Nam đến năm 2000.
15.Tham khảo “ Luận văn tốt nghiệp” của Khuất Quang Huy K37A- ĐHKTQD-HN.
16. Giáo trình “ Quản lý kinh tế " Chủ biên Đỗ Hoàng Toàn,Mai Văn Bưu- Khoa Khoa học quản lý - KTQD
17. Tạp chí “ Phát triển kinh tế "_ ĐHKTQD-HN (các số năm 1999, 2000).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0014.doc