Với sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường hiện nay các DN muốn tồn tại và phát triển phải tìm cách sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Do đó vấn đề sử dụng vốn kinh doanh một cách hợp lí và có hiệu quả là hết sức thiết thực đối với DN, là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững cho cả nền kinh tế.
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1647 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu
ở nước ta trong một thời gian dài nền kinh tế chỉ tồn tại hai thành phần là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, các thành phần kinh tế khác là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Cũng từ đó trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt trong công nghiệp xây dựng, vận tải, thương nghiệp, dịch vụ, kinh tế quốc dân đã chiếm ưu thế tuyệt đối. Nhưng hai thành phần kinh tế này ngày càng tỏ ra kém hiệu quả và sự yếu kém của nó là một trong những nguyên nhân làm cho nền kinh tế trì trệ . Nhận ra sự không hợp quy luật của nền kinh tế chỉ duy trì chế độ sở hữu nhà nước và tập thể về tư liệu sản xuất trong các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực lưu thông , Đại hội đảng lần VI(1986) đã có quyết sách : “chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ”, nghĩa là khẳng định nền kinh tế nước ta cần hình thành cơ cấu đa sở hữu.
Với nhiều thành phần kinh tế như vậy, mỗi thành phần có một vị trí vai trò riêng cuả nó, trong đó kinh tế nhà nước mà chủ yếu là hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN) giữ vai trò chủ đaọ. Tuy nhiên với thực trạng hiện nay trang thiết bị lạc hậu, trình độ quản lí chưa theo kịp với đòi hỏi ngày càng cao của thị trường, DNNN không thể giữ và làm tốt vai trò của mình. Khó khăn cộng với sự bất cập của các cơ chế chính sách quản lí đã làm cho hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN còn cần phải có những thay đổi phù hợp.
Vốn là một yếu tố cần thiết và quan trọng để tiến hành sản xuất kinh doanh đồng thời nó cũng là tiền đề để các doanh nghiệp (DN) tồn tại, phát triển và đứng vững trong cơ chế thị trường. Cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế là quá trình mở rộng quyền tự chủ, giao vốn cho các DN tự quản lí và sử dụng, đòi hỏi các DN phát triển và bảo toàn vốn. Điều này đã tạo nên những cơ hội và thách thức cho các DN trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn không còn mới mẻ nhưng lại luôn đặt ra cho các DN trong suốt quá trình kinh doanh của mình.
Với ý nghĩa đó em xin chọn đề tài:
"Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước"
Trong bài viết không tránh khỏi khiếm khuyết rất mong được sự góp ý của các thầy giáo cô giáo và các bạn.
chương i
Cơ sở lí luận về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
i. Quan niệm chung về vốn
1. Khái niệm về vốn
Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các bước tiếp theo của quá trình kinh doanh. Với vai trò và tầm quan trọng như vậy, việc nghiên cứu phải bắt đầu từ việc làm rõ khái niệm cơ bản của vốn sản xuất kinh doanh của DN.
Theo quan điểm của Marx: “vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất” . Tuy định nghĩa của Marx mang một tầm khái quát lớn nhưng do bị hạn chế bởi những điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên Marx đã quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Paul. A, Samuelson, nhà kinh tế học thuộc trường phái" tân cổ điển " đã thừa kế quan niệm về yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và phân chia các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ra thành ba loại chủ yếu là đất đai,lao động và vốn. Theo ông : “vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xúât của một DN, đó là máy móc, trang thiết bị, nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ... ” Trong quan niệm về vốn của mình Samuelson không đề cập đến các tài sản tài chính, những giấy tờ có giá có thể chuyển đổi đem lại lợi nhuận cho DN, ông đã đồng nhất vốn với tài sản cố định của DN.
Trong cuốn kinh tế học của David Beg, tác giả đã đưa ra hai định nghĩa: “Vốn hiện vật và vốn tài chính của DN. Bản thân vốn là một hàng hoá nhưng được tiếp tục vào quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra các hàng hoá khác, vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của DN”. Như vậy, DavidBeg đã bổ sung vốn tài chính vào định nghĩa vốn của Samuelson.
Nhìn chung, vốn là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật chất và tài sản tài chính được các cá nhân, các tổ chức, các DN bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận.Vốn là một đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh, các tác giả đã thống nhất vốn với tài sản của DN. Vốn và tài sản là hai mặt hiện vật và giá trị của một bộ phận nguồn gốc sản xuất mà DN huy động vào quá trình sản xuất và kinh doanh của mình,
2. Phân loại vốn
2.1 Căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu chuyển giá trị của vốn khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, có thể chia vốn sản xuất kinh doanh của DN thành hai bộ phận: Vốn cố định và vốn lưu động.
_ Vốn cố định là một bộ phân của vốn sản xuất kinh doanh ứng ra hình thành tài sản cố định của DN, Vốn cố định là một khoản đầu tư ứng trước dùng để mua sắm tài sản cố định có hình thái vật chất và tài sản cố định không có hình thái vật chất. Bởi vậy quy mô của vốn cố định quyết định quy mô của tài sản cố định, đặc điểm vận động của tài sản cố định lại quyết định đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định.
_ Vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất ứng ra để mua sắm tài sản lưu động và tài sản lưu thông để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của DN. Nó khác với tư liệu lao động ( các tài sản cố định ), đối tượng lao động ( nguyên vật liệu, nhiên liệu...) chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tượng lao động khác. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn thường xuyên luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy giá trị của nó được dịch chuyển một lần vào giá trị sản phẩm tiêu thụ. Đặc điểm này quyết định sự vận động của vốn lưu động hay hình thái vốn lưu động.
2.2 Căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh của DN vốn được chia thành vốn sản xuất và vốn đầu tư.
_Vốn sản xuất là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất được DN sử dụng hợp lí và có kế hoạch vào việc sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch. Vốn sản xuất được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, tuỳ thuộc vao loại hình sản xuất của DN.
Vốn sản xuất bao gồm hai yếu tố: Tư kiệu lao động và đối tượnglao động. Đây là hai yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuaats, kinh doanh trong bất kỳ đơn vị kinh tế nào. Đối tượng lao động tạo nên thực thể sản phẩm còn tư liệu lao động là phương tiện để chuyển loá đối tượng lao động thành thực thể sản phẩm. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời khỏi quá trình sản xuất.
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân va vốn huy động từ các nguòn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuát xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵm có và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ, dinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong mỗi gia đình. Đối với những cơ sở sản xuất kinh doanh vốn đầu tư được dùng để mua sắm trang thiết bị nhà xưởng...Quá trình sử dụng vốn đầu tư xét về mặt bản chất chính là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền ( vốn đầu tư ) thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh. Như vậy, quá trình sử dụng vốn đầu tư là nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh doanh.
2.3 Căn cứ vào nguồn hình thanh vốn sản xuất kinh doanh, vốn DN chia thành hai loại vốn chủ sở hữu và vốn vay
_ Vốn chủ sở hữu là số tiền vốn của các chủ sở hữu, của các nhà đầu tư đóng góp. Dố vốn này không phải là một khoản nợ và DN không phải cam kết thanh toán. Vốn chủ sở hữu là cơ sở để đánh giá tiềm lực tài chính của một DN vì đây là cái mà DN thực sự có. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn pháp định và vốn tự bổ sung. Vốn pháp định là số vốn tối thiểu phải có để thành lập DN do pháp luật quy định đối với từng loaị hình và ngành nghề kinh doanh. Còn vốn tự có loà nguồn vốn do DN tự bổ dung chủ yếu lấy một phần tằ lợi nhuận để laị DN. Vốn tự bổ sung có thể coi là nguồn tự tài trợ cho nhu cầu vốn của DN.
_ Vốn vay là số tiền vốn mà DN đi vay, đi chiếm dụng của các đơn vị khác, tổ chức cá nhâm bởi vậy DN phải có trách nhiệm thanh toán. Phần vốn này DN được sử dụng với những điều kiện nhất định ( thời hạn sử dụng, lãi suất... ) nhưng không thuộc quyền sở hữu của DN. Vốn vay các tổ chức tài chính và vay dưới dạng trái phiếu của DN.
2.4 Căn cứ vào thời gian huy dộng và sử dụng vốn có thể chia vốn của DN thành hai loại: Vốn thường xuyên và vốn tạm thời.
_ Vốn thường xuyên bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn, đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà DN có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành cho việc đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phậm tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
_ Vốn tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà DN có thẻ sử dụng để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời bất thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Nguồn vốn này bao gồn các khoản vay ngắn hạm từ hgân hàng và các tổ chức tín dụng.
3. Vai trò của vốn đối với DNNN trong nền cơ chế thị trường
Về mặt pháp lý: Mỗi DN khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên DN đó phải có một lượng vốn nhất định. lượng vốn tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định thì địa vị pháp lý của DN mới được xác lập. Như vậy vốn được xem là một trong những cơ sở quan trọng ngất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp lý của một DN trước pháp luật.
Về kinh tế: Trong hoạt động sản xuất knh doanh, vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của từng DN. Một DN muônd đứng vững trên thị trường thì DN đó phải có một lượng vốn ngất định, lượng cốn đó không những đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN diễn ra liên tục mà còn phải dùng để cải tiến máy móc thiết bị. đầu tư, hiện đại hoá công nghiệp. Muốn tồn tại và vươn lên trong cạnh tranh,tất yêú sản phẩm của DN phải có chất lượng tốt, giá thành thấp, năng suất lao động cao. Tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì mỗi DN phải có một lượng vốn nhất định.
Vốn có vai trò thực sự quan trọng đối với DN. Vốn cũng là yếu tố quyết định DN nên mở rộng hay thu hẹp phạm vu hoạt động của mình. Thật vậy, khi đồng vốn của DN ngày càng dinh sôi, nảy nở, htì DN dẽ mạnh dạn mở rộng phạm vi hoạt động vào các thị trường tiềm năng mà trước đó DN chưa có diều kiện tham nhập. Ngược lại, khi đồng vốn hạn chế thì DN nên tập rtung vào một số hoạt động kinh doanh mà DN có lợi thế trên thị trường.
Nhận thức được vai trò của vốn một cách sâu sắc sẽ giúp các DN sử dụng một cách có hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn đồng vốn của mình.
ii. Những vấn đề liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn:
1. Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh:
Để đánh giá trình độ qản lí, diều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của DN, người ta sử dụng thước đo hiệu quả sử dụng sản xuất kinh doanh của DN đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai giác độ là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lí DN, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực các DN để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với chi phí thấp nhất.
Về mặt lượng, hiệu quả kinh tế biểu hiện mối tương quan kết quả thu được và chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so vơí chi phí bỏ ra thì hiệu quả kinh tế càng cao.
Về mặt chất, việc đạt được hiệu quả kinh tế cao phản ánh năng lực và trình độ quản lí, đồng thời cũng đòi hỏi sự gắn bó giữa việc đạt được những mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, khi tiến hành sản xuất kinh doanh mỗi DN đều có mục tiêu khác nhau. Vị trí của từng mục tiêu tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển và điều kiện của từng DN. Các DN thường theo duổi nhiều mục tiêu nhưng cuối cùng các DN đều hướng tới việc làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu nghĩa là không ngừng nâng cao lợi nhuận. Vì vậy, DN phải chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Một DN được coi là kinh doanh có hiệu quả khi DN đó thu được kết quả đầu ra lớn ngất với chi phí đầu vào hợp lí nhất tương ứng.
Hiệu quả sử dụng vốn của DN là quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình kinh doanh hay cụ thể là quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh với toàn bộ chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh đó. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn còn thể hiện ở nhiều chỉ tiêu liên quan khác như chỉ tiêu về khả năng thanh toán, số vòng quay của vốn... Và để đánh giá một cách toàn diẹn về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng, cần phải xem xét một cách toàn diện các yếu tố liên quan, có ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Có như vậy mới tìm ra được các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DN.
2. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Để đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN cầm phải có ba yếu tố cơ bản: Vốn, lao động và kĩ thuật công nghệ. Hiên nay nước ta đang có nguồn lao động dồi dào nhưng lao động vẫn thiếu ở những ngành nghề đòi hòi chuyên môn cao. Những vấn đề này chúng ta hoàn toàn có thể khắc phục được nếu chúng ta có kinh phí để đào tạo và đào tạo lại. Vấn đề công nghệ, kĩ thuật cũng không khó khăn phức tạp vì có thể nhập kĩ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lí tiên tiến của nước ngoài nếu chúng ta có khả năng về vốn, ngoại tệ. Như vậy , yếu tố cơ bản quyết định hiện nay của các DN là vốn và quản lí sử dụng vốn có hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
Nhu cầu về vốn xét trên góc độ mỗi DN là điều kiện duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm, thu nhập cho người lao động... Từ đó tạo điều kiện cho DN tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở rộng xuất khẩu nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của một DN trong nền kinh tế thị trường. Để đạt tới lợi nguận tối đa các DN không ngừng nâng cao trình độ quản lí sản xuất kinh doanh trong đó quản lí và sử dụng vốn là một bộ phâm rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sử dụng vốn cao nhất khi số vốn bỏ vào kinh doanh ít nhất và đạt hiệu quả cao nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tức là di tìm cac biện pháp làm sao cho chi phí về vốn hoạt động sản xuất kinhdoanh ít nhất mà kết quả cuối cùng cuả hoạt động dản xuất kinh doanh cao nhất. Lợi nhuận được xác dịnh qua công thức:
Lợi nhuận = Doanh thu - chi phí
Với một mức lợi nhuận nhất định, chi phí càng nhỏ lợi nhuân càng cao. Các biện pháp làm giảm chi phí, tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sử dụg vốn phải trên cơ sở phản ánh chính xác đầy đủ cac loại chi phí trong điều kiện nền kinh tế luôn có sự biến động về giá, đòi hỏi các DN phải thực hiện nghiêm ngặt các chế độ bảo toàn vốn.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng có nghĩa là nâng cao năng lực quản lí các loại tài sản, tận dụng các lợi thế của DN, phát huy khả năng tiềm tàng để tạo ra sự phát triển của DN.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất có ý nghĩa quan trong trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Vì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng được xác định bằng cách so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra, trong đó các chi phí về vốn là chủ yếu.
3. Các chỉ tiêu đánh giá
Việc kểm tra tài chính đối với tài sản cố định, vốn cố định cũng như vốn lưu động là điều quan trọng, cho phép DN và các nhà quản lí tài chính biết được những ưu điểm và những mặt còn tồn tại trong công tác quản lí sử dụng vốn và tài sản tại DN.
3.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
_Hiệu quả sử dụng vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc giá trị tổng sản lượng
Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu( doanh thu thuần)trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ = Số vốn cố định đầu kỳ+số vốn cố định cuối kỳ
2
Số vốn cố định ở đầu kỳ(cuối kỳ) = Nguyên giá TSCĐ ở đầu kỳ(cuối kỳ) - số tiền
khấu hao luỹ kế đầu kỳ(cuối kỳ)
_Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Tổng doanh thu
Số vốn bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định bình quân trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận hay lợi nhuận ròng.
_ Hàm lượng vốn cố định = Số vốn cố định bình quân trong kỳ
doanh thu(doanh thu thuần)trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn cố định.
3.2 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động
_ Hệ số sinh lợi của vốn lưu động = lợi nhuận(truớc hoặc sau thuế)
vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động tạo ra mấy đồng lợi nhuận trong kỳ.
_ Hiệu suất sử dụng vốn lưu động = doanh thu(doanh thu thuần)
vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này còn được gọi là sức sản xuất của vốn lưu động
_ Số vòng quay của vốn lưu động trong năm =
tổng mưc vốn luân chuyển trong năm
vốn lưu động bình quân trong năm
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động, nó cho biết vốn lưu động quay bao nhiêu vòng trong kỳ. Vòng quay vốn càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn, vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả
_ Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động : = doanh thu kinh doanh
vốn lưu động bình quân
Để có được một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
_ Kỳ luân chuyển vốn lưu động = 360
số vòng quay của vốn lưu động trong năm
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian của một vòng càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của DN luân chuyển liên tục, không ngừng từ hình thức này sang hình thái khác. Tại một thời điểm vốn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá trình vận động đó vốn chịu tác động bởi nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của DN.Đó là các nhân tố.
4.1. Chu kỳ sản xuất
Là yếu tố quan trọng gắn liền với hiệu quả sử dụng vốn,bởi lẽ độ dài của chu kì sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp tới lượng sản phẩm dở dang, đến việc sử dụng công suất của thiết bị, máy móc, diện tích sản xuất, đến tình hình luân chuyển vốn lưu động và việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất theo hợp đồng đã kí kết.
4.2 Công nghệ - kĩ thuật sản xuất
Ngày nay khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ vũ bão làm cho làn sóng chuyển giao công nghệ giưã các nước ngày càng tăng, tạo điều kiện cho các DN ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật trọng quá trình sản xúât kinh doanh
Vì vậy, các DN cần chú trọng đầu tư vào kĩ thuật công nghệ phù hợp, tiên tiến vì nó cho phép sử dụng đầy đủ, hợp lí và tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu sử dụng hợp lí công suất của thiết bị, máy móc và sức lao động nhằm góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của đồng vốn đầu tư.
Tuy nhiên, hầu hết các nhà DN Việt Nam hiện nay gặp khó khăn về vốn vì thế khi quyết định đầu tư mua máy móc thiết bị cần phải xem xét kĩ nên lựa chọn công nghệ hiện đại hay hợp lí. Công nghệ hiện đại đòi hỏi trình độ quản lí cao, trình độ tay nghề công nhân giỏi, vì vậy muốn đạt hiệu quả cao cho sản xuất kinh doanh các DN cần chú trọng đến sự đồng bộ giữa các loại máy móc thiết bị cũng như sự phù hợp giữa máy móc thiết bị với trình độ tay nghề người công nhân và các cán bộ quản lí
4.3 Trình độ tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất, tổ chức công tác kế toán.
Vai trò của người lãnh đạo giỏi sẽ biết kết hợp một cách tối ưu và hài hoà các yếu tố sản xuất kinh doanh. Do đó, sẽ giảm một cách tối đa các chi phí không cần thiết, giảm giá thành và tăng lợi nhuận.
Công tác tổ chức sản xuất liên quan trực tiếp đến tiến độ sản xuất, chất lượng sản phẩm. Vì vậy, cần tuân theo nguyên tắc là tổ chức sản xuất trong mỗi DN nhằm đảm bảo cho sản xuất được diễn r a liên tục. Tính cân đối, nhịp nhàng, liên tục.
Trong công tác quản lí DN thì liên quan trực tiếp đến hiệu quả quản lí vốn chính là công việc tổ chức công tác kế tóan đây là nhân tố quan trọng chẳng những đảm bảo cho việc thu nhận, hệ thống hoá thông tin kế toán đầy đủ, kịp thời, đáng tin cậy phục vụ cho công tác quản lí tài chính, kinh tế mà còn giúp DN quản lí chặt chẽ tài sản của DN, ngăn ngừa những hành vi làm tổn hại đến tài sản của DN.
4.4 Trình độ lao động của DN
Trình độ lao động thể hiện qua trình độ tay nghề, khả năng tiếp thu công nghệ mới, khả năng sáng tạo, ý thức giữ gìn bảo quản tài sản. Nếu lao động có tay nghề cao trình độ cao thì các máy móc thiết bị sẽ được sử dụng tốt năng suất lao động tăng
4.5 Đặc điểm sản phẩm
Đặc điểm sản phẩm liên quan đến chu kì vận động của vốn. Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng thì chu kì vận động của vốn ngắn, giúp DN thu hồi vốn nhanh. Còn nếu sản phẩm là tư liệu sản xuất thường có giá trị của nó lớn, vòng quay vốn sẽ chậm hơn. Do đó, DN cần căn cứ vào đặc điểm của sản phẩm để có cơ chế quản lí vốn phù hợp. Đặc điểm của sản phẩm ảnh hưởng đến các quyết định về lựa chọn nguồn tài trợ.
Chương ii
Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của DNNN
i. Mức độ sử dụng, hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của DNNN
1. Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh
Từ khi xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường các DN được quyền chủ động trong việc huy động vốn sử dụng vốn, tìm kiếm thị trường, theo nguyên tắc lấy thu bù chi, đảm bảo có lãi và có nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách nhà nước. Trải qua thời gian dài kinh doanh kém hiệu quả do sức ỳ tâm lí rất lớn mà cơ chế cũ để lại đã làm cản trợ sự nhạy bén thích ứng với phương pháp điều hành kinh doanh điều hành DN mới. Tuy nhiên trong mấy năm gần đây các DN đã dần thích ứng với cơ chế mới và tập trung phát huy thế mạnh nên sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn.
1.1. Quy mô và hiệu quả kinh doanh
Tính đến 1/1/2000, số lượng DNNN hiện có 5700 trong đó có 732 DN công ích, DN trung ương là 1802
_ Nghiệp vụ quản lí ở một số DN còn nhiều hạn chế dẫn đến việc quản lí tài chính chưa thực hiện chặt chẽ và có hiệu quả.
Trên đây là một số nguyên nhân cơ bản đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động quản lí sử dụng vốn nói riêng. Trên cơ sở này, cần tìm ra những giải pháp nhanh chóng đưa ra cho các DN thoát khỏi những khó khăn này.
Các công ty hoạt động trong cùng ngành nghề thì chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số các tổng công ty. Ví dụ lĩnh vực xây dựng cả nước có 24 tổng công ty chiếm 20% tổng số.
Chỉ tiêu
Tỉ trọng (% )
Số lượng DN
Tổng số DN
Nộp ngân sách
Lãi
Nộp ngân sách
Tổng số
100
100
100
100
100
Có hiệu quả
Chưa có hiệu quả
Không hiệu quả
40,3
44
15,7
71,5
22,9
5,6
70,8
23,3
5,9
94,1
5,9
0
82,6
13,5
3,9
1.2. Về tài sản cố định và vốn kinh doanh của DN
Đến nay, ước tính TSCĐ của các DN là 156000 tỉ đồng, so với năm 1996 tăng 53%, vốn kinh doanh ước tính là 112000 tỉ đồng so với năm 1998 tăng 4,6% trong đó bổ sung từ quỹ đầu tư phát triển là 31000 tỉ đồng, bằng 27% tổng số vốn cả nước. Trong tổng số vốn hiện có của DN, vốn đầu tư vào tài sản cố định khoảng 90000tỉ đồng. Vốn đầu tư cho tài sản theo cơ chế hiện hành chủ yếu DN phải tự huy động bằng nguồn vốn tín dụng của ngân hàng, nhà nước và các tổ chức tín dụng khác.
Giá trị TSCĐ đến 1/1/2000 còn là 181,5 ngàn tỉ đồng bằng 2,59 lần năm 1995 tăng bình quân 26,8% năm và chiềm 58,9 % trong tổng số giá trị tài sản nói chung. Cũngnhư nguồn vốn, giá trị tài sản cố định của các DN nhà nước chiếm 32,7% bình quân 33,2 tỉ đồng / DN, khu vực tập thể,tư nhân chiếm 5,7 % bình quân 1,5 tỉ đồng / DN, hộ cá thể chiếm 7,1% bình quân 0,02 tỉ đồng / hộ. Tình trạng trang thiết bị tài sản cố định thấp của DNNN, tư nhân và đặc biệt là các hộ cá thể,đã phản ánh thực trạng trình độ kĩ thuật công nghệ nói chung của các cơ sở thuộc khu vực trong nước thấp, lạc hậu xa so với các DN khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
2. Thực trạng sử dụng vốn của doanh nghiệp
Vốn cố định là khoản vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định, quy mô của vốn cố định sẽ quyết định quy mô của TS CĐ. Song đặc biệt vận động của TSCĐ lại quyết định lại quyết định đến sự tuần hoàn và chu chuyển vốn cố định. Do đó, nếu tài sản cố định được sử dụng tối đa công suất thì DN sẽ nhanh chóng thu hồi được đồng vốn cố địnhđể đầu tư vào các tài sản đó.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ của DN thông qua sử dụng chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhằm tăng sức cạnh tranh của DN trên thị trường trong nước và thế giới. Các DN có thể giảm đáng kể lượng vốn lưu động cần thiết nghĩa là tăng nhanh vong quay vốn lưu động, từ đó tăng tỉ suất lợi nhuận, bằng cách áp dụng phương pháp " Vừa đúng thời điểm " trong dự trữ vật tư. Để làm được điều đó, DN cần chọn những nhà cung ứng ở gần, có khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu nguyên vật liệu và các loại vật tư khác ngay khi cần đến. Nếu áp dụng phương pháp này,c ác DN cón có cơ hội giảm bớt nhu cầu kho tàng, giảm nhu cầu vốn cố định và vốn đầu tư ngay cả khi có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh.
ii. một số đánh giá về tình trạng sử dụng vốn kinh doanh của các DNNN
1. Những thành tích đạt được trong việc quản lí và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh.
Những năm qua nền kinh tế nước ta phải vượt qua nhiều khó khăn do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, song sản xuất vẫn đạt được những thành tựu lớn. góp phầnquyết định vào tốc độ tăng trưởng và dịch chuyển cơ cấu kinh tế quốc dân.
Sản xuất liên tục tăng trưởng ở mức cao, năm 1999 so với 1998 tăng 11,6%. Năm 2000 so 1999 tăng cao nhất là 15,7% trong đó khu vực nhà nước tăng 9,5%. Sự tăng trưởng và phát triển này của sản xuất góp phần cải thiện đáng kể nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và đa dạng của toàn xã hội, tăng khối lượng và chủng loại của sản phẩm xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ để tiếp tục đầu tư. Ngày nay sản xuất trong nước khôngnhững đáp ứng được nhu cầu trong nước, cạnh tranh với hàng nhập khẩu mà bước đầu được bổ sung vào thị trường, thay thế cho hàng nhập khẩu như ôtô, xe máy, tủ lạnh, máy giặt, máy văn phòng...
Trong quản lí và sử dụng vốn cố định, một số DN đã thành công trong việc tập trụng huy động các nguồn lực để đầu tư thay thế và đổi mới các trang thiết bị hiện đại. Cũng như với sự tăng lên của nguyên giá TSCĐ là hiệu suất sử dụng tài sản cố định cũng tăng lên đặc biệt là năm 1998. Về hiếu suất sử dụng vốn cố định trong những năm qua doanh thu và lợi nhuận tăng cao nên hiệu quả sử dụng vốn cố định cũng tăng. Năm 1998 hiệu quả sử dụng vốn cố định tăng 80% tuy nhiên sang năm 1999 hiệu quả này lại giảm do đó tỉ lệ tăng vốn cố định tăng nhanh hơn hiệ u quả tăng lợi nhuận.
Sử dụng vốn có hiệu qủa làm cho nhu cầu về nguồn vốn của DN giảm tương đối do đó sẽ cần ít vốn hơn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh nhất định. Từ đó chi phí cho sử dụng vốn giảm đi, tăng lợi thế cạnh tranh về chi phí và tăng sức cạnh tranh của DNNN.
Cơ sở vật chất kĩ thuật được tăng cường cho sản xuất nhất là cho công nghiệp thể hiện qua nguồn vốn và tài sản cố định ở các cơ sở công nghiệp. Tổng nguồn vốn đến đầu năm 2000 ( Theo giá thực tế ) gấp 2,41 lần năm 1995, bình quân tăng 24,6% năm. Đến thời điểm 1/1/2000 toàn ngành công nghiệp có 308 ngàn tỉ đồng trong đó DNNN chiếm 127,6 tỉ đông chiếm 41,4 % bình quân 71,4 tỉ đồng một DN.
Vai trò và tiềm năng của các khu vực và thành phầm kinh tế được củng cố và tăng cường một bước. Do chủ trương tổ chức sản xuất nên trong 9 năm từ năm 1991-1999 số DN giảm 36% ( gồm 1000DN), từ 2782 DN ( 1990)
1973 DN (1995) và 1786 DN ( đầu năm 2000) nhưng các DN còn lại đã được củng cố và tăng cường, nguồn vốn tăng113% ( từ 59789 tỉ đồngnăm 1995 lên 127594 tỉ đồng đầu năm 2000)
Phần lớn những sản phẩm trọng yếu của nền kinh tế quốc dân do DNN N sản xuất toàn bộ hoặc chiếm tỉ trọng cao: sản xuất điện 99,9%, sản xuất than 97,4% máy công cụ 100%,bia 70,6%...
Tóm lại DNNN giảm về số lượng DN nhưng khả năng tích luỹ tăng lên, quy mô mở rộng, năng lực của một số ngành quan trọng được bổ sung sản xuất kinh doanh phát triển và đang nâng cao dần hiệu quả.
2. Những tồn tại cần khắc phục trong việc quản lí và sử dụng vốn kinh doanh
Chia những phân tích thực trạng sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh đã cho thấy mặc dù trong thời gian qua đã liên tục có những cố gắng vượt bậc nhưng việc quản lí và sử dụng vốn kinh doanh của DN vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém.
Thứ nhất, mặc dù đã có nhiều chú trọng đầu tư cho vùng sâu vùng xa vùng có nhiều khó khăn nhưng số vốn đâù tư cho các vùng này còn nhỏ và bé so với yêu cầu phát triển kinh tế nên chưa tạo được, đã thúc đẩy cho sự phát triển.
Thứ hai, trong đầu tư xây dựng cơ bản mới chú trọng xây dựng mới, chưa quan tâm đến thiết bị nên chưa phát huy được hiệu quả đầu tư, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay trang thiết bị trong một số thiết bị quá lạc hậu và xuống cấp ngiêm trọng không đáp ứng nhu cầu phục vụ đời sống nhân dân .
Thứ ba, là trình độ quản lí của cán bộ quản lí DN còn nhiều bất cập, nhiều khi sự yếu kém của DN do chính những người lãnh đạo cố ý làm trái hoặc cố ý tham nhũng:
Có những DN dùng vốnvay ngắn hạn để thay toán công nợ, để mua bất động sản hoặc dùng vào việc khác sai với mục đich sử dụng vốn mà không quan tâm đến nguyên tắc tín dụng.
Thứ bốn, những tồn tại trong quản lí và sử dụng tài sản cố định TSCĐ trong các DN đã được khấu hao gần hết mà việc đầu tư trở lại để nâng cấp cải tạo các tài sản cố định này lại rất ít, nhất là máy móc thiết bị dùng cho sản xuất. Vì vậy, giá trị còn lại của TSCĐ trong các DN chỉ bằng 46% nguyên giá. Điều này cho thấy TSCĐ trong các DN chậm được đổi mới. Nguyên nhân của việc chậm đổi mới và hiện đại hoá TSCĐ trong các DNNN là do thiếu vốn/
Thứ năm, là những tồn tại trong quản lí và sử dụng vốn lưu động. Vốn lưu động thường xuyên của các DN thường âm, có nghĩa là TS lao độn g và đầu tư ngắn hạn ( Ngắn hạn phải trả ).
Điều này cho thấy một phần nợ ngắn hạn được DN sử dụng cho tài sản cố định, vì vậy DN phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán các khoản nợ ngắn han đến hạn trả, tài sản huy động không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của DN mất thăng bằng. Bên cạnh đó các DN còn sử dụng vốn dài hạn để tài trợ cho nhu cầu ngắn hạn, điều đó đã làm tăng chi phí vốn giảm lợi nhuận của DN. Tóm lại, việc sử dụng vốn vay của DN nhiều khi không được sử dụng đúng mục đích, tình trạng này là phổ biến hiện nay trong các DNNN.
Do vậy, mặc dù trong những năm qua trong ngành công nghiệp doanh thu liên tục tăng, tăng lợi nhuận như sức sinh lợi của vốn lưu độngchưa phải là cao, bên cạnh đó vòng quay vốn lưu động tăng giảm thất thường. Năm 1998 đạt 12 vòng / năm, năm 1999 lại tụt xuống 11 vòng / năm. Sự không ổn định là do tỉ lệ tăng doanh thu thấp hơn tỉ lệ tăng vốn lưu động bình quân .
Thực tế cho thấy, trong những năm qua tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng chững lại trong khi nhu cầu vốn kinh phí để đáp ứng các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội ngày càng tăng trong khi khả năng ngân sách còn có hạn _ mới đạt mức 5,6% GDP.
Việc cấp phát vốn cho các DNNN từ nguồn ngân sách đang dần bị cắt giảm. Do đó, các DN tìm đến nguồn vốn vay ngày một nhiều hơn. Tuy nhiên việc vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụnglà cần thiết nhưng phải được cân nhắc kĩ lưỡng và sử dụng có hiệu quả đúng mục đích. Nhưng hiên nay việc xác định nhu cầu vốn chưa được quan tâm đúng mức, huy động chưa hợp lí, sử dụng lại kém hiệu quả do đó tỉ lệ nợ phải trả trên tổng nguồn vốn trên tổng DN là rất cao. Vì vậy, các DN không độc lậpvề mặt tài chính, nguy cơ bị phá sản đối với nhiều DNNN hiện nay là rất cao. Giài pháp cho vấn để này hiện nay đang là vấn đề bức xúc.
3. Nguyên nhân của những hạn chế trong quản lí và sử dụng vốn
3.1 Nguyên nhân khách quan
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực đã tác động đến tình hình sản xuất của hầu hết các DN, nhất là đối với những DN có hoạt động xuất khẩu.
Việc tiêu thu sản phẩm ngày càng khó khăn hơn do sản phẩm bị cạnh tranh gay gắt. Vì vậy các DN phải giảm giá bán, như sản phẩm của xí nghiệp điện cơ thống nhất, dệt len mùa đông, công ty dệt kim Hà Nội...
Mặc dầu đã có nhiều yếu tố làm tăng giá thành sản phẩm các DN vẫn phải trích khấu hao cơ bản cao để trả nợ vay vốn đầu tư khiến cho giá thành sản phẩm bị đôị lên, gây khó khăn cho tiêu thụ.
Vốn lưu động thiếu phải vay ngân hàng thêm vào đó phải nộp tiền thuê đất cho nhà nước.
3.2 Nguyên nhân chủ quan
Một số DN chưa năng động để mở rộng thị trường tiêu thụ, nhất là các tỉnh xa các vùng nông thôn.
Các công trình đầu tư mới bằng nguồn vốn tín dụng nhà nước gần đây có chiều hướng giảm do vốn tín dụng có đầu tư hạn hẹp, thủ tục còn nhiều phức tạp, lãi xuất chưa hấp dẫn... Trong khi đó, đầu tư từ các nguồn vốn lư u động khác thông thưòng quy mô nhỏ bé, chỉ có tính chất bổ sung thiết bị, do vậy chưa tạo ra được nănglực sản xuất mới, chưa phát huy hết năng lực sẵn có về đầu tư.
_ Một số DN đầu tư không đúnghướng làm giảm hiệu quả của vốn kinh doanh.
_ Các DN còn để khách hàng chiếm dụngvốn trong khi vốn này lại là vốn vay dẫn đến phải trả lãi quá hạn./
Chương iii
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh
i. Một số giải pháp chung
1. Cổ phần hoá DNNN góp phần giải quỷết những khó khăn về vốn.
Các DN luôn trong tình trạng “đói vốn”, tình trạng DN phải ngừng sản xuất do đói vốn đã xuất hiện và có nhiều hướng tăng. Trong khi đó hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp, nguy cơ thất thoát vốn ra tăng, DNNN làm ăn thua lỗ tăng nhanh trong vài năm lại gần đây. Hệ quả của nó là công nghệ lạc hậu thấp xa so với các nước trên thế giới thường từ hai đến ba thế hệ, cá biệt có công nghệ lạc hậu đến năm sáu thế hệ.
Thiếu vốn đang là khó khăn lớn nhất cho hoạt động hiện tại và cho phát triển trong tương lai của các DN VN. Số vốn thực tế cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một DN hiện nay chỉ mới đạt 70% mức yêu cầu về vốn cố định, 50% mức yêu cầu về vốn lưu động. Thêm vào đó, với cơ cấu tài sản trong đó tài sản cố định chiếm phần lớn trong tổng số tài sản nhưng đa phần là tài sản cũ lạc hậu thì nhu cầu vốn cho đổi mới công nghệ đang là một yêu cầu sống còn đối với môĩ DN. Rõ ràng nhu cầu về vốn hiện nay của các DN là rất đảm bảo cho sự tồn tại của chính bản thân DN và cho sự phát triển của nền kinh tế.
Bên cạnh đó tiềm lực vốn trong dân và trong các tổ chức trong xã hội là rất lớn lại chưa được tận dụng khai thác và sử dụng có hiệu quả cho sản xuất. Thị trường vốn của Việt Nam còn phát triển chậm nên nguồn vốn duy nhất mà các DN có thể khai thác hiện nay là nguồn vốn tín dụng. Song nguồn vốn tín dụng chỉ có thể đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn lại rất hạn chế. Hơn nữa, ngay cả các DN ngân hàng cũng đang gặp khó khăn bất cập về quản lí, về hoạt động kinh doanh.
Việc cổ phần hoá các DNNN tạo điều kiện bán cổ phần thu hút vốn đầu tư của nhiều thành phần kinh tế, mở cửa cho việc đa dạng hoá sở hữu, không riêng gì các nhà DNNN được cổ phần hoá, mà còn góp phần đa dạng hoá sở hữu của cả nền kinh tế. Việc chuyển các DNNN thành công ty cổ phần chính là để tận dụng ưu điểm vốn của nó trong công ty cổ phần về huy động vốn, đó là:
Các công ty cổ phần có thể thu hút được các nguồn vốn ở quy mô rất lớn đến các ngân hàng ( các ngân hàng tham gia với tư cách là các cổ đông) đến các khoản vốn vô cùng nhỏ bé của các tầng lớp dân cư, đầu tư dài hạn, gắn trách nhiệm của người sở hữu vốn với kết quả hoạt động kinh doanh của công ty ( trong phạm vi vốn góp ). Do đó cơ chế hoạt động vốn của các công ty cổ phần ở trình độ xã hội hoá rất cao so với huy động vốn của các ngân hàng.
Với sự nhìn nhân của công chúng sẽ càng được nhân lên khi thị trường trao đổi cổ phiếu được hình thành trên thị trường này, có những công ty cổ phần mớithực sự là đối tượng để các nhà đầu tư rót vốn. Xong điều cốt lõi của bài toán về vốn là hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN sau khi cổ phần hoá có được nâng lên hay không. Hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần các DN hoàn toàn tự chủ trong hoạt động kết quả hoạt động gắn liền với tiền vốn của bản thân người lãnh đạo và những người lao động trong DN, sản xuất kinh doanh thực sự gắn kết với thị trường,lấy thị trường là thước đo đánh giá kết quả hoạt động của DN.
Với việc huy động một lượng vốn lớn, hiệu quả hoạt độngkinh doanh không ngừng nâng cao thì việc đổi mới những công nghệ lạc hậu là việc làm đương nhiên để không ngừng phát triển mở rộng DN.
2. Nâng cao hơn nữa năng lực của các cán bộ quản lí và trình độ tay nghề của công nhân
Hiện nay trong một số DN, năng lực tổ chức và khả năng điều hành của một số cán bộ quản lí cón chưa đáp ứng được tình hình sản xuất kinh doanh. Đội ngũ cán bộ lao động đủ về số lượng nhưng yếu kém vế chất lượng.
Giải pháp vấn đề này là giám đốc các DN kịp thời tổ chức các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ trong DN, đồng thời mạnh dạn thay đổi những cán bộ yếu, đề bạt một số cán bộ trẻ có khả năng đáp ứng được yêu cầu mới. Có kế hoạch đào tạo đội ngũ công nhân bậc cao, làm lực lượng nòng cốt cho lực lượng công nhân toàn DN sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.
Các DN cần có sự đổi mới trong tổ chức cơ cấu bộ máy quản lí sao cho phù hợp. tinh giảm biên chế gọn nhẹ có hiệu quả. Bộ máy quản lí có sự phân cấp rõ ràng từ trên xuống dưới đúng người đúng việc, phân công rõ trách nhiệm và quyền hạn phát huy tối đa năng lực của người lao động có sự kết hợp với nhau để tạo điều kiện tốt cho nhau trong công việc. Tuyển dụng và thường xuyên nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ kĩ thuật và công nhân phụ trách phân xưởng cũng như công nhân trực tiếp sản xuất. Thực hiện chính sách khuyến khích bằng vật chất đối với những cán bộ công nhân viên chức hoàn thành tốt công việc đồng thời cũng phải sử dụng nghiêm những trường hợp sai trái.
ii. Một số giải pháp đối với DNNN
1. Nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Xuất phát từ sử dụng tài sản cố định của DNNN là hiệu quả sử dụng tài sản cố định còn thấp chưa khai thác tối đa công suất của máy móc thiết bị. Mặc dù có sự tăng lên nguyên giá tài sản cố định nhưng tốc độ tănghiệu suất sử dụng lại thấp hơn tốc độ tăng quy mô tài sản cố định, chứng tỏ DN chưa sử dụng tối đa hiệu quả nguồn vốn đầu tư và tài sản cố định.
Một trong các yếu tố có thể đảm bảo cho DN thu hồi đủ vốn đầu tư là phát huy năng lực hiện có về đầu tư mà cụ thể là khai thác tối đa công suất thiết bị. Muốn vậy, các DN phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ, tìm những khách hàng mới. Thực tế cho thấy, trong thời gian qua hoạt động sản xuất của các DNNN diễn ra không đều, ít ổn định,tìnhtrạng sản xuấtkhi thì thong thả, cầm chừng, khi thì vội vã khẩn trương gây nên những lãng phí về sức người, sức của. Nhất là các DN thuộc ngành dâ giày, ngành dệt may, bhành sản xuất thực phẩm, đồ uống. Sản phẩm do ngành da giày sản xuất ra hiện nay trên thị trường có nhiều chủng loại do nhiều hãng, nhiều DN khác nhau sản xuất. Thị trường trong nước thì hạn hẹp, trong khi đó thị trường nước ngoài rất rộng lớn nhưng lại cạnh tranh gay gắt. Do vậy, để thu hút được một khách hàng nào đó cho DN đã khó mà giữ lại thành khách hàng truyền thống lại càng khó. Chẳng hạn mặt hàng giày da cũng như các loại giày vải có những đặc điểm khác nhau so với các sản phẩm tiêu dùng khác. Thông thường sản phẩm này nhu cầu tiêu dùng của xã hội vào mùa đông thường cao hơn mùa hè và trong những tháng này cac DN sản xuất liên tục thậm chí 3 ca / 1 ngày. Nhưng sang mùa hè, do thời tiết nóng nực nhu cầu mặt hàng này giảm xuống rất nhiều, nhất là trong nước, khiến cho thị trường tiêu thụ vốn đã nhỏ bé lại càng trở nên eo hẹp hơn. Tốc độ tiêu thụ hàng hoá bị giảm sút, không có đơn giản, tốc độ cản xuất chậm lại thậm chí có tháng không có việc làm máy móc thiết bị lúc đó để không hoặc sử dụng không hết công suất, giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thị trường không ổn định làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu suất sử dụng TSCĐ. Để khắc phục tình trạng này một mặt các DN cần nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, đẩy mạnh công tác Marketing ( khâu này hiện nay rất yếu trong các DNNN ), mặt khác tích cực tìm kiếm thị trường, vươn ra thị trường xuất khẩu để ổn định sản xuất kinh doanh do thị trường nước ngoài nhu cầu lớn. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu luôn đòi hỏi sản phẩm chất lượng với mẫu mã đẹp đồng thời mức độ cạnh tranh lại cao hơn.
Đồng thời với việc mở rộng hơn nữa thị trướng sản phẩm của DN, các DN cần cân đối không để các khâu, các bộ phận phải chờ đợi nhau, gây lãng phí thời gian, đảm bảo thực hiện các chế độ khuyến vật chất đối với người quản lí và sử dụng tài sản cố định.
1. Lựa chọn phương pháp tính khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao cơ bản một cách hợp lí.
Có nhiều phương pháp tính khấu hao khác nhau, mỗi phương pháp có những ưu, nhược điểm khác nhau. Việc lựa chọn phương pháp khấu hao nào cho hợp lí luôn là câu hỏi khó đối với các DN VN .
Thực tế ở VN hiện nay, còn rất nhiều các DN áp dụng phương pháp khấu hao đều, đây là phương pháp đơn giản nhất. Tuy nhiên, phương pháp này còn chứa đựng nhiều bất hợp lí, không khoa học. Bởi lẽ, giả sử trong năm DN mua một dây chuyền sản xuất trị giá 100 triệu đồng và khấu hao trong 5 năm, tức là mỗi năm trích ra 20 triệu đồng khấu hao cơ bản. DN sẽ gặp phải vấn đề là trong thời gian sử dụng tài sản đó có năm DN làm ăn hiệu quả, có năm lại khấu hao như nhau, điều đó có nghĩa là có năm khoản chi đó trở thành gánh nặng cho DN, có năm thì lại nhẹ nhàng. Như vậy chứng tỏ phương pháp này không khoa học.
Trong mấy năm gần đây, một số DN nước ngoài đã áp dụng phương pháp khấu hao nhanh ( phương pháp khấu hao luỹ thoái ) những tài sản có giá trị và công nghệ cao nhưng vấp phải vấn đề nan giải đó là khấu hao nhanh sẽ keó theo sự tăng lên của giá thành sản phẩm, dẫn đến cầu sản phẩm giảm ( do giá cao _ kém sức cạnh tranh), doanh thu giảm.
Mục đích của quỹ khấu hao là nhằm tái đầu tư tài sản cố định. Với việc lựa chọn phương pháp khấu hao hợp lí giúp DN nhanh chóng thu hồi vốn, đầu tư trở lại tài sản cố định. Đốivới những DN kinh doanh có hiệu quả, sử dụng các nguồn vốn hợp lí ( tận dụng vốn nhàn rỗi ) đúng mục đích. Các DN cần cân nhắc kĩ lưỡng khi sử dụng quỹ nào vào mục đích bổ sung vốn cho hoạt động kinh doanh nhằm vừa tạo ra lợi nhuận, vừa có khả năng thu hồi lại vốn khi cần đầu tư cho tài sản cố định.
2. Tăng cường đầu tư đổi mới tài sản cố định đặc biệt là đổi mới, hiện đại hoá máy móc thiết bị phục vụ trực tiếp cho sản xuất.
Hầu hết các DN hiện nay đều có trang thiết bị máy móc cũ kĩ lạc hậu do không chú trọng đầu tư mới, hiện đại hoá tài sản cố định. Do vậy, sản phẩm mà DN sản xuất có chất lượng kém, khả năng cạnh tranh thấp, chưa tạo được vị trí trên thương trường. Những năm qua, ngân sách nhà nước đang dần cắt giảm để tăng cường tính năng động tự chủ cho các DN. Nhu cầu vế vốn rất lớn,nhưng việc vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng rất khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là DN gặp phải là lãi suất cao. Vì vậy các DN chỉ có thể vay những khoản nhỏ, đủ để cải thiện chút ít tình hình sản xuất và đủ để bổ sung thiết bị.
Nhu cầu vốn cho đổi mới máy móc thiết bị thì nhiều nhưng các DN lại không xây dựng được những phương án sản xuất kinh doanh, những dự án có tính khả thi.
Như vậy, các DN cần cố gắng hơn nữa trongviệc tìm tòi nghiên cứu, xây dựng các phương án đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng được những phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả để thu hút được vốn đầu tư của nhà nước và các tổ chức tín dụng. Đồng thời, tích cực tìm kiếm đối tác kinh doanh nhằm huy động nguồn vốn và thông qua việc liên doanh liên kết các DN có cơ hội được tiếp xúc với các trang thiết bị, công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lí.
3. Giảm phí tổn về vốn
Để giảm bớt phí tổn về vốn cần lựa chon các nguồn vốn có phí tổn thấp nhất và tối thiểu hoá lượng vốn sử dụngcho việc sản xuất ra một đơn vị sản lượng, hoặc thực hiện một khối lượng dịch vụ nhất định, Do đó, cần khai thác các nguồn vốn khác nhau, đặc biệt nguồn vốn nợ, vì đó là một nguồn vốn đòi hỏi tương đối thấp đối với các DN và tạo khả năng mang lại thu nhập cao hơn.
Trong các nguồn vốn được sử dụng hiện nay, có nguồn vốn viện trợ chính thức của chính phủ (ODA) thường được sử dụng trong các dự án phát triển công nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần chú ý đặc thù của loại vốn này là điều kiện ràng buộc tương đối, đôi khi dẫn đến phí tổn cao và sử dụng kém hiệu quả, đặc biệt xem xét trên phương diện kinh tế vĩ mô. Vì vậy, cần có biện pháp phân bổ và kiểm tra việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nói trên, nhằm tránh tình trạng thêm gánh nợ.
Ngoài ra, cần tìm các biện pháp giảm bớt nhu cầu về vốn, như giảm nhu cầu về vốn dự trữ, giải quyết tốt khâu thanh toán, rút ngắn chu kì sản xuất trong phạm vi công nghệ cho phép.
4. Hạ giá thành sản phẩm là biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận cho DN
Nhiều DN giá thành sản phẩm còn cao đổi mới sản phẩm chậm vì vậy sản phẩm kém sức cạnh tranh. Trên thị trường hiện nay, tràn ngập nhiều chủng loại hàng hoá do nhiều hãng, nhiều DN khác nhau sản xuất trong đó hàng hoá của các DN nhà nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng Trung Quốc giá rẻ, chất lượng chấp nhận được nhất là may mặc bánh kẹo các loại và sản phẩm giấy...Muốn hạ giá thành phải thực hiện đồng bộ nhiều phương hướng và biện pháp khác nhau.
_ Giảm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu năng lượng trong giá thành sản phẩm:
Trong giá thành sản phẩm nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng cần phải cải tiến kết cấu sản phẩm, cải tiến phương pháp công nghệ,sử dụng tổng hợp nguyên liệu, lợi dụng triệt để phế liệu, sử dụng vật liệu thay thế...
Thông thường trong kết cấu giá thành tỉ trọng nguyên vật liệu chiếm bộ phậ n lớn nhất, có DN chiếm từ 60-80% vì vậy tiết kiệm nguyên vật liệu sẽ làm cho giá thành giảm nhiều.
_ Giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm. Muốn giảm chi phí tiền lương các DN cần có biện pháp tăng nhanh năng suất lao động, bảo đảm cho năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân và tiền công. Như vậy cần cải tiến tổ chức sản xuất, cải tiến tổ chức lao động áp dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật công nghệ, nâng cao trình độ cơ giới hoá tự động hoá hoàn thiện định mức lao động, tăng cường kỉ luật lao động áp dụng các biện pháp tiền lương tiền thưởng và trách nhiệm vật chất để kích thích lao động đào tạo, bồi dưỡng nângcao trình độ kĩ thuật của công nhân.
_ Giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm :
Muốn giảm chi phí cố định trong gí a thành sản phẩm cần phấn đấu tăng nhanh và tăng nhiều sản phẩm sản xuất ra. Để tăng sản phẩm hàng hoá cần sản xuất nhiều. Muốn sản xuất nhiều phải sản xuất nhanh trên cơ sở tăng năng suất lao động mở rộng quy mô sản xuất, giảm các hao hụt mất mát do ngừng sản xuất gây ra.
iii. Một số kiến nghị
1. Đối với nhà nước:
_ Đối với các DN có dự án đầu tư có hiệu quả, trong điều kiện sản xuất kinh doanh có lãi được chủ động trích khấu hao tài sản cao.
_ Nhà nước cho phép DN được tăng tỉ lệ chi phí khuyến mại, quảng cáo, đồng thời giảm giá thuế đất và không thu thuế vốn.
_ Chính phủ cần giành một tỉ lệ thoả đáng vốn tín dụng ưu đãi cho các DN vay, đồng thời hạ lãi suất ( hiện nay 0,07% / 1 tháng )
_ Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ giúp các DN thuận lợi trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
_ Nhà nước nên tăng cường những biện pháp chống buôn lậu, sản xuất hàng giả trốn thuế tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các DN. Nhanh chóng hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, thị trường vốn, đưa thị trường vào hoạt động ổn định và có sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật.
Đối với cơ quan quản lí cấp trên trong những năm gần đây các DN được quyền tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh làm trên nghĩa vụ đối với nhà nước.
2. Đối với các DN
Hiện nay, trong các DN còn tồn đọng nhiều hàng hoá tồn kho, các DN cần nhanh chóng giải phóng lượng hàng này để thu hồi vốn để phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Lãnh đạo DN cần mạnh dạn hơn trong việc bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân viên, chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ công nhân viên, đồng thời có biện pháp cải thiện tốt môi trường làm việc cho người lao động, tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên tham gia hăng say sản xuất .
kết luận
Với sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường hiện nay các DN muốn tồn tại và phát triển phải tìm cách sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Do đó vấn đề sử dụng vốn kinh doanh một cách hợp lí và có hiệu quả là hết sức thiết thực đối với DN, là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững cho cả nền kinh tế.
Từ cơ sở lí luận và tình hình thực tế em xin đưa ra một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của các DNNN. Do trình độ hiểu biết còn hạn chế cũng như tính chất phức tạp của hoạt động sản xuất kinh doanh, chắc chắn những kiến nghị trên còn nhiều điểm chưa phù hợp và cần tiếp tục xem xét. Tuy nhiên đó là những cố gắng của em trong việc tìm ra những giải pháp khả thi trên cơ sở những ngiên cưú về thực trạng tài chính và các hoạt động sản xuât kinh doanh của các DNNN.
tài liệu tham khảo
I. Sách
Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp
Chủ biên: TS - Vũ Duy Hào
2. Giáo trình: Phân tích hoạt động kinh doanh
Chủ biên: PGS-TS Phạm Thị Gái
3. Giáo trình: Kinh tế và tổ chức sản xuất doanh nghiệp
Chủ biên: PGS- TS Phạm Hữu Huy
II. Tạp chí
1. Tạp chí tài chính
2. Con số và sự kiện
3. Kinh tế dự báo
4. Kinh tế và phát triển
5. Tạp chí công nghiệp
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35367.doc