Sau 10 năm đổi mới các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã trải qua nhiều biến đổi. Số các doanh nghiệp thuộc Bộ thương mại trực tiếp quản lý tính đến tháng 10/1992 là 2520 doanh nghiệp. Sau khi sắp xếp lại đến giữa năm 1995 còn 1849 doanh nghiệp, cuối năm 1996 còn 1280 doanh nghiệp. Sắp tới các doanh nghiệp thương mại Nhà nước sẽ tiếp tục giảm do giải thể và cổ phần hoá một số doanh nghiệp. Tuy vậy các doanh nghiệp còn lại chủ yếu vẫn là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, tính đến năm 1996 trong số 82 doanh nghiệp thương mại thì có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng là 67%, chỉ có 3 đơn vị quy mô vốn trên 50 tỷ đồng: Tổng công ty xăng dầu 1444 tỷ đồng; công ty thương mại và đầu tư 234 tỷ đồng; tổng công ty máy và phụ tùng 128 tỷ đồng. Trong các doanh nghiệp thương mại Nhà nước tình trạng thiếu vốn là phổ biến. Hoạt động tài chính ở các doanh nghiệp thương mại Nhà nước vừa yếu lại vừa lỏng lẻo, chất lượng hiệu quả kinh doanh thấp kém trên thị trường.
Sau một thời gian lúng túng trước cơ chế mới trong một vài năm gần đây các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã phần nào lấy lại được ưu thế và hoạt động có hiệu quả hợp lý hơn đặc biệt là những doanh nghiệp có vốn lớn, điều này thể hiện ở chỗ:
+ Giảm dần tỷ trọng bán lẻ hàng hoá, thay vào đó tập trung vào khâu bán buôn. Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã thâu tóm những nguồn cung ứng những hàng hoá quan trọng.
+ Đã thể hiện rõ vai trò của mình trong việc cung ứng hàng hoá bình ổn định thị trường, chống được tình trạng đầu cơ hàng hoá.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước ở Việt Nam hiện nay (thực trạng và giải pháp), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liệu cho thấy tới 50% số doanh nghiệp bị thua lỗ hoặc có hiệu quả kinh doanh thấp.
Bốn là: Một tình trạng khá phổ biến hiện nay là các doanh nghiệp thương mại Nhà nước chỉ mang cái vỏ kinh tế Nhà nước còn trong “ruột” của nó là kinh tế tư nhân, đặc biệt trong khâu bán lẻ trên địa bàn các tỉnh các huyện. Trên thực tế, các cá nhân tập thể nhỏ được sử dụng tư cách pháp nhân cửa hàng cửa hiệu, vốn của doanh nghiệp thương mại Nhà nước, còn mua bán gì, ở đâu, lúc nào... là do họ tự quyết định, tuỳ thuộc thực trạng thị trường và định kỳ phải nộp cho doanh nghiệp một khoản nào đó.
3. Từ 1996 đến nay:
Sau 10 năm đổi mới các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã trải qua nhiều biến đổi. Số các doanh nghiệp thuộc Bộ thương mại trực tiếp quản lý tính đến tháng 10/1992 là 2520 doanh nghiệp. Sau khi sắp xếp lại đến giữa năm 1995 còn 1849 doanh nghiệp, cuối năm 1996 còn 1280 doanh nghiệp. Sắp tới các doanh nghiệp thương mại Nhà nước sẽ tiếp tục giảm do giải thể và cổ phần hoá một số doanh nghiệp. Tuy vậy các doanh nghiệp còn lại chủ yếu vẫn là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, tính đến năm 1996 trong số 82 doanh nghiệp thương mại thì có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng là 67%, chỉ có 3 đơn vị quy mô vốn trên 50 tỷ đồng: Tổng công ty xăng dầu 1444 tỷ đồng; công ty thương mại và đầu tư 234 tỷ đồng; tổng công ty máy và phụ tùng 128 tỷ đồng. Trong các doanh nghiệp thương mại Nhà nước tình trạng thiếu vốn là phổ biến. Hoạt động tài chính ở các doanh nghiệp thương mại Nhà nước vừa yếu lại vừa lỏng lẻo, chất lượng hiệu quả kinh doanh thấp kém trên thị trường.
Sau một thời gian lúng túng trước cơ chế mới trong một vài năm gần đây các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã phần nào lấy lại được ưu thế và hoạt động có hiệu quả hợp lý hơn đặc biệt là những doanh nghiệp có vốn lớn, điều này thể hiện ở chỗ:
+ Giảm dần tỷ trọng bán lẻ hàng hoá, thay vào đó tập trung vào khâu bán buôn. Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã thâu tóm những nguồn cung ứng những hàng hoá quan trọng.
+ Đã thể hiện rõ vai trò của mình trong việc cung ứng hàng hoá bình ổn định thị trường, chống được tình trạng đầu cơ hàng hoá.
những vấn đề đặt ra đối với tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp thương mại Nhà nước hiện nay.
Vấn đề về vốn và hiệu quả sử dụng vốn:
Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường vốn là điều kiện tiên quyết có ý nghiã sống còn đối với sự thành bại của doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của doanh nghiệp yêu cầu một lượng vốn ngày càng tăng lên không ngừng.
Doanh nghiệp thương mại Nhà nước là một loại hình doanh nghiệp nằm trong hệ thống doanh nghiệp Việt Nam cũng đang trong tình trạng “đói” vốn. Thời gian qua, do thiếu vốn, nhiều doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã làm ăn kém hiệu quả, chưa làm tốt nhiệm vụ là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng, chưa thực sự đóng vai trò chủ đạo trong lĩnh vực thương mại, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế xã hội.
Cũng giống như các loại hình doanh nghiệp khác, vốn trong doanh nghiệp thương mại Nhà nước là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Mục tiêu của quỹ này là phục vụ kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường tuỳ theo từng doanh nghiệp mà quy mô và cơ cấu vốn kinh doanh khác nhau, vốn trong doanh nghiệp thương mại Nhà nước thường gồm ba phần: vốn cố định, vốn lưu động và đầu tư tài chính.
Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp thương mại, tài sản cố định của doanh nghiệp thương mại Nhà nước là những tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử dụng dài, có chức năng là phương tiện kinh doanh chứ không phải để bán.
Phân chia theo hình thái vật chất tài sản cố định có hai loại tài sản hữu hình và tài sản vô hình:
_ Tài sản hữu hình là tài sản có hình thái vật chất cụ thể như kho tàng bến bãi của hàng phương tiện chuyên chở, thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp...
_ Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chật cụ thể như vị trí kinh doanh của doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp...
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề bảo tồn và phát triển vốn cố định luôn được các doanh nghiệp quan tâm. Sau mỗi kỳ hoạt động doanh nghiệp phải tiến hành phân tích, đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định và vốn cố định thông qua các chỉ tiêu phân tích tài chính. Trên cơ sở đó rút ra những bài học về quản lý và bảo tồn vốn cố định.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại Nhà nước là một bộ phận của vốn đầu tư được ứng ra để mua hàng hoá, tài sản lưu thông để phục vụ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp gồm vốn bằng tiền, hàng hoá chưa tiêu thụ và cãc khoản phải thu. Tuỳ theo từng doanh nghiệp mà quy mô cơ cấu tốc độ tăng vốn lưu động có sự khác nhau.
Sự vận động của vốn lưu động là một vòng tuần hoàn khép kín gồm hai giai đoạn.
_ Giai đoạn đầu vốn lưu động được ứng ra để mua hàng hoá, vốn được chuyển từ trạng thái tiền sang trạng thái hiện vật.
_ Giai đoạn kết thúc, hàng hoá được lưu thông trên thị trường và thực hiện giá trị, hàng hoá được bán và thu tiền về.
Với đặc thù của loại hình doanh nghiệp thương mại, vốn lưu động là cực kỳ quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh và trên thực tế việc sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả là vấn đề hết sức phức tạp.
Vốn đầu tư tài chính trong doanh nghiệp thương mại Nhà nước là phần vốn được đầu tư bên ngoài doanh nghiệp. Với hình thức này doanh nghiệp nhằm mục đích tăng cường khả năng sinh lợi từ đồng vốn hiện có, vừa đảm bảo an toàn vốn kinh doanh nếu doanh nghiệp gặp rủi ro. Có nhiều hình thức đầu tư tài chính, phổ biến là mua cổ phiếu, trái phiếu của công ty khác, hoặc hùn vốn liên doanh.
Thời kỳ trước năm 1986.
Trong cơ chế quản lý cũ, vốn của doanh nghiệp thương mại Nhà nước chỉ bao gồm có hai phần: vốn cố định và vốn lưu động.
Hai loại vốn này đều do Nhà nước cấp. Xuất phát từ việc thực hiện nguyên tắc cấp phát giao nộp ngân sách, các doanh nghiệp thương mại Nhà nước không phải tự mình khai thác, huy động nguồn vốn đảm bảo vốn kinh doanh. Nếu doanh nghiệp thiếu vốn Nhà nước tiếp tục cấp phát để doanh nghiệp có đủ vốn hoạt động.
Nhìn nhận một cách khách quan, tính chất độc quyền trong thương mại Nhà nước là phù hợp với cơ chế thời chiến, tuy nhiên cơ chế này đã trở thành ung nhọt, một dị hình kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Do thực hiện quá lâu nền kinh tế khép kín, mua bán không đúng giá trị hàng hoá, trong hạch toán kinh tế tính không đúng, đủ chi phí đầu vào; thực hiện cơ chế mua theo lệnh bán theo chỉ tiêu đã nảy sinh hiện tượng mua bán lòng vòng, móc ngoặc cửa quyền... ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn trong các doanh nghiệp thương mại Nhà nước thời kỳ này thất thoát nghiêm trọng nhiều doanh nghiệp lãi giả lỗ thật, báo cáo sai lệch trong hạch toán kinh doanh.
Thời kỳ đổi mới kinh tế từ 1986 đến nay.
Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt đổi mới chính sách trong cơ chế quản lý kinh tế nói chung, thị trường thương mại dịch vụ nói riêng. Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước được quyền tự chủ trong kinh doanh theo từng nghành hàng mình lựa chọn theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chính từ đây vấn đề vốn của doanh nghiệp thương mại Nhà nước trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu. Thực tế trong vài năm qua đã cho thấy do còn tình trạng lợi dụng vốn trong doanh nghiệp thương mại Nhà nước dẫn đến tình trạng mua bán lòng vòng, nâng giá đầu vào hàng hoá trục lợi cá nhân làm cho hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước thường đắt so với các doanh nghiệp thuương mại thuộc các thành phần khác dẫn đến tình trạng không cạnh tranh nổi dẫn đến ứ đọng hàng hoá, thua lỗ.
Thương mại Nhà nước trong thời gian này giường như bị thả nổi không có cơ chế chính sách kiểm tra, kiểm soát đồng vốn của Nhà nước đã cấp cho doanh nghiệp ; thương nghiệp tư nhân bùng nổ “ nhà nhà đi buôn ; nghành nghành đi buôn” gây rối loạn thị trường.
Vốn do Nhà nước cấp nhiều doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã ỷ lại Nhà nước dẫn đến tình trạng làm ăn kém hiệu quả rồi lại xin Nhà nước hỗ trợ, nhiều nghành xin sự bảo trợ của Nhà nước xin một lần không được xin hai ba lần rồi cuối cùng cũng phải được “ suy cho cùng đó đều là những doanh nghiệp của Nhà nước chẳng nhẽ lại để nó chết”, bởi vậy còn đâu là động lực thúc đẩy cạnh tranh khi mà hoạt động có kém hiệu quả cũng chẳng sao.
Trong khi đó vốn của doanh nghiệp thương mại Nhà nước thì được nhiều cá nhân sử dụng sai nguyên tắc thu lợi cá nhân dẫn đến thất thoát vốn, một suy nghĩ nguy hại khá phổ biến hiện nay là tư tưởng làm một vài cú kiếm đủ rồi thì mặc xác nó ra sao thì ra, cứ với cái kiểu “ sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi”, doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà nước phải lo thì không biết bao giờ doanh nghiệp Nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương mại Nhà nước nói riêng mới hoạt động có hiệu quả, mới tạo khả năng cạnh tranh cho mình.
Nhìn một cách tổng quát doanh nghiệp thương mại Nhà nước sau nhiều năm trao đảo đến nay đã trụ lại được, đang vươn tới cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên do cơ cấu tổ chức bộ máy hệ thống doanh nghiệp thương mại Nhà nước còn cồng kềnh nên khả năng kinh doanh và cạnh tranh còn nhiều hạn chế, nhất là từ khi thực hiện mạnh mẽ chính sách tự do hoá trong thương mại, hàng hoá ngoại nhập và các hàng hoá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tràn ngập thị trường làm cho doanh nghiệp thương mại Nhà nước có nhiều lúng túng trong kinh doanh. Do ít vốn, nhiều doanh nghiệp thương mại Nhà nước lâm vào tình trạng khó khăn ngay ở thị trường trong nước và luôn bị chèn ép ở thị trường nước ngoài.
Theo báo cáo tổng kết của Bộ thương mại, trong những năm gần đây nhiều doanh nghiệp thương mại Nhà nước thiếu vốn kinh doanh trầm trọng, trên 90% số doanh nghiệp không đủ mức vốn pháp định theo quy định tại nghị định số 50/CP ngày 28/8/96 của Chính phủ.
Tính đến năm 1996, tổng nguồn vốn của doanh nghiệp thương mại Nhà nước có 2603 tỷ đồng. Trong đó vốn cố định là 1123 tỷ đồng, vốn lưu dộng là 1480 tỷ đồng, đượcphân bổ như sau:
Bảng 3. Phân bổ vốn của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
STT
Số lượng vốn
Số lượng DN
Tỷ trọng
1
- Dưới 1 tỷ đồng
2
2,4%
2
- Từ 1- 3 tỷ đồng
10
12,2%
3
- Từ 3-10 tỷ đồng
43
52,4%
4
- Từ 10-50 tỷ đồng
24
29,3%
5
- Trên 50 tỷ đồng
3
3,7%
Nguồn về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước, tháng 6/1996.
Nhìn vào bảng thống kê ta thấy rằng lượng vốn phân bổ trong từng doanh nghiệp thương mại Nhà nước rất nhỏ bé và không đồng đều. Có doanh nghiệp vốn chưa tới 1 tỷ đồng Việt nam ( công ty thiết kế và tư vấn dịch vụ đầu tư nước ngoài ). Phần lớn các doanh nghiệp thương mại Nhà nước có số vốn từ 1-3 tỷ đồng, chiếm 52,4%. Số doanh nghiệp có vốn tương đối khá rất ít chỉ có ba doanh nghiệp chiếm 3,75% và giường như ba công ty có số vốn khá ( như tổng công ty xăng dầu Việt nam : 1444 tỷ đồng ; công ty thương mại đầu tư : 234 tỷ đồng ; tổng công ty Máy và phụ tùng : 138 tỷ đồng ) đang độc chiếm thị trường, độc chiếm khách hàng mà chưa có đối thủ cạnh tranh chính trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay và không biết khi có đối thủ cạnh tranh thực sự liệu những doanh nghiệp này có trụ vững được không.
Vốn ngân sách cấp thì hạn chế, vay ngân hàng thì lãi suất lại quá cao, mặt khác các khoản vay này lại không phù hợp với đặc thù kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp thương mại, không phù hợp với đặc điểm chu chuyển thực tế của từng mặt hàng nghành hàng. Nhất là đối với các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng nông sản xuất khẩu phải thu mua sản phẩm theo vụ mùa như lạc, gạo, mía, hạt điều và các loại rau quả khác.
Để đối phó với tình hình trên nhiều doanh nghiệp đã phải tính toán kinh doanh theo kiểu “ ăn sổi, ở thì” trong nhiều nghành hàng. Không ít doanh nghiệp dùng phương thức đánh quả chụp giật từng chuyến hàng, từng thương vụ đơn lẻ hòng có lãi cao, tăng nhanh vòng quay đồng vốn ( do chỉ được vay vốn ngắn hạn ). Do đó doanh nghiệp không chủ động được vốn trong kinh doanh. Có nhiều thương vụ sau khi làm song thủ tục vay tiền thì đã muộn vè thời gian hoặc bị các doanh nghiệp khác chiếm lĩnh thị trường. Do đó doanh nghiệp kinh doanh bấp bênh, mất tín nhiệm với bạn hàng. Chẳng hạn trong năm 1994 chỉ vì lợi ích trước mắt đã có doanh nghiệp không thực hiện hợp đồng xuất khẩu cho Singapore, HôngKông, Malaixia, Hàn Quốc mà lại bán sản phẩm trên cho Trung Quốc thu lợi nhuận cao đã làm mất thị trường xuất khẩu ở ba nước trên. Như vậy những doanh nghiệp thương mại Nhà nước nào thiếu vốn cũng kinh doanh không có chiến lược kinh doanh mà trước mắt cũng như lâu dài đã tự mình đánh mất vai trò chủ đạo của mình trên thị trường và mất bạn hàng thường xuyên ổn định mà trước hết là trong nội bộ kinh tế quốc doanh giữa doanh nghiệp sản xuất với doanh nghiệp thương mại với nhau, thử hỏi như vậy thì sức cạnh tranh ở đâu ?.
Tóm lại tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đang gặp rất nhiều khó khăn, vốn thiếu, sử dụng lại kém hiệu quả. Đây là một vấn đề nhức nhối cần giải quyết càng sớm càng tốt, có như vậy chúng ta mới có thể hy vọng vực dậy được vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Vấn đề về tổ chức quản lý và con người.
Cơ cấu lao động trong một số doanh nghiệp thương mại Nhà nước vẫn chưa hợp lý tuy đông về số luợng nhưng hoạt động rất kém hiệu quả.
- Bộ máy quản lý doanh nghiệp Nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương mại Nhà nước nói riêng còn quá cồng kềnh chi phí hành chính và tiếp khách còn quá lớn, đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh trước hết là ban giám đốc chậm được đổi mới.
Bảng 4.
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp Nhà nước
Bộ máy hành chính gián tiếp
5 người
38 người
Chi phí hành chính gián tiếp
3,8%
24%
Theo số liệu điều tra ở tỉnh Vĩnh Phú đối với một doanh nghiệp Nhà nước có vốn 2 tỷ đồng và một doanh nghiệp tư nhân có vốn tương tự và hoạt động kinh doanh nghành nghề giống nhau đã cho thấy điều đó.
Đa phần các giám đốc của doanh nghiệp thương mại Nhà nước vẫn là hãnh tiến, nguyên vị từ cơ chế bao cấp chuyển sang chưa có sự sàng lọc tuyển chọn khách quan theo tiêu chuẩn của người giám đốc trong cơ chế thị trường. Trong những năm qua nhiều lớp đào tạo bồi dưỡng đã được mở ra song xem ra việc học hành chỉ mang tính chất chiếu lệ cho nên kiến thức rơi rụng nhiều, chắp vá thiếu tính hệ thống. Thêm vào đó ý thức trách nhiệm và khả năng quản lý rất hạn chế. Có trường hợp một doanh nghiệp rất nhỏ nhưng xe con của giám đốc và những trang thiết bị cho giám đốc làm việc đã chiếm đến 36% giá trị tài sản của doanh nghiệp. Vậy thì còn bao nhiêu vốn để giành cho sản xuất kinh doanh ?.
- Sự hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước còn bị bó chặt trong một cơ chế tài chính khô cứng. Cơ chế khoán, đặc biệt là “khoán trắng” và khoán “mặc kệ” đã làm lu mờ vai trò và uy tín của thương nghiệp quốc doanh.
Các doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh chủ động và đem lại hiệu quả kinh tế cao thì trong cơ cấu vốn bao giờ vốn lưu động cũng chiếm một tỷ lệ thích ứng. Nhưng do những suy nghĩ cũ của thời bao cấp còn đè nặng cho nên họ thường ỷ lại trông chờ vào bên trên.
Khi có vốn lưu động khi phải vay hay có sự đóng góp của cán bộ nhân viên thì việc sử dụng vốn lại không đúng mục đích.
Việc áp dụng hình thức khoán kinh doanh là hình thức mới xuất hiện trong doanh nghiệp thương mại Nhà nước từ khi chuyển đổi cơ chế kinh tế, khoán kinh doanh là biện pháp tình thế và thực chất là cho cán bộ công nhân viên thuê cơ sở vật chất và biển hiệu quốc doanh với giá thấp hơn cho tư nhân thuê.
Nhờ có được nguồn hàng tập trung ban đầu, doanh nghiệp thương mại Nhà nước tiến hành giao khoán cửa hàng, quầy hàng và cung ứng hàng hoá cho người nhận khoán ; lúc đầu là 70/30, 70 là hàng công ty cho người nhận khoán ; 30 là hàng tự chạy của người nhận khoán. Nhưng dần dần nguồn hàng tập trung của công ty không còn tỷ lệ trên sẽ đảo ngược lại tỷ lệ là 30/70, thậm chí không có hàng cung ứng đơn vị nhận khoán phải lo tất cả. Trong tình hình như vậy, đơn vị nhận khoán lợi dụng cửa hàng biển hiệu của quốc doanh để thoả sức bóp chẹt người tiêu dùng và vai trò uy tín của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước cũng lu mờ từ đó.
- Tính độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thương mại Nhà nước chưa được thực hiện.
Thực tế cho thấy chừng nào cơ quan chủ quản là sở còn trực tiếp quản lý một số doanh nghiệp thương mại thì hoạt động của doanh nghiệp này bị chi phối nhiều mặt, mất tính độc lập. Đã đến lúc phải chuyển chủ hữu sang chức năng quản lý Nhà nước ( hội đồng quản trị ), còn chức năng sản xuất kinh doanh, nhân sự bộ máy và giám đốc thuộc về doanh nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể hoạt động có hiệu quả tạo ra sức cạnh tranh cho mình.
Để tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường và đảm bảo tính độc lập tự chủ của doanh nghiệp, việc kiểm tra giám sát của các cơ quan thừa hành pháp luật của Nhà nước là cần thiết song nên có quy định chức năng cụ thể của từng nghành ; tránh chồng chéo làm mất quá nhiều thời gian đón tiếp và giải trình đối với doanh nghiệp.
Trong thực tế vừa qua đã có những doanh nghiệp một năm phải tiếp và giải trình với hơn 10 đoàn kiểm tra từ viện kiểm soát công an thanh tra, thuế vụ kiểm tra thị trường... và đã chi phí hàng trăm triệu đồng vào công việc này. Những chi phí này lại được tính vào giá thành sản phẩm, như vậy đã làm cho giá thành sản phẩm đắt lên tương đối. Một thực tế rất nực cười tồn tại ở nước ta là tình trạng doanh nghiệp nào có lãi thì hết đoàn này đến đoàn khác đến kiểm tra... trong khi đó nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả cần được kiểm tra để đánh giá tình hình hoạt động thì chẳng đoàn nào muốn tới, không biết trong nghịch lý này có điều gì khuất tất hay không.
Kết quả đánh giá của các đoàn kiểm tra rất khác nhau. Đã có nhiều đoàn kiểm tra sau khi kiểm tra ở doanh nghiệp đánh giá là hoạt động tốt có lãi nhưng đến khi thanh tra Nhà nước xuống kiểm tra thì mới té ngửa ra là doanh nghiệp lỗ nặng lên đến hàng tỷ đồng. ở đây nếu xem xét đến cả khía cạnh nghiệp vụ thì cũng không thể hiểu tại sao lại có những chuyện buồn cười như vậy, phải chăng hệ thống kiểm tra giám sát có vấn đề. Trong khi đó những sai trái trong nghiệp vụ thanh tra lại không bị xử lí, đây chính là một kẽ hở và chính kẽ hở này cũng góp phần làm cho nhiều doanh nghiệp Nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương mại Nhà nước nói riêng hoạt động kém hiệu quả nhưng vẫn tồn tại.
Về mặt hoạt động :
Nói đến hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước còn phải kể đến những khiếm khuyết của chính bản thân chính sách thuương mại và hình thức tổ chức các doanh nghiệp thương mại Nhà nước hiện nay. Việc phân phối côta xuất khẩu và việc quy định chỉ cho phép một số công ty độc quyền làm cho thị trường vốn đã hoạt động kém lại càng trở nên thiếu lành mạnh gây nhiều thua thiệt cho nền kinh tế và người tiêu dùng. Chẳng hạn, theo đoàn quốc tế IDRC thì : “ sự phân biệt đối xử chống lại nghành lúa Việt Nam trên thị trường xuất khẩu quốc tế bắt nguồn từ chỗ các công nghệ quản lý chất lượng sau thu hoạch hiện đại như các thiết bị xay, phân loại, lưu kho và các thiết bị còn sử dụng rất hạn chế”. Kết quả là một số gạo của Việt Nam cũng như cà phê đã được các trung gian môi giới mua với giá thấp hơn giá quốc tế, sau đó gạo mua sẽ chuyển sang Singapore ( hoặc Hồng Kông ) để sấy khô phân loại, tái chế rồi bán trên thị trường quốc tế với giá đầy đủ, khoản chênh lệch bỏ túi các nhà môi giới này.
Để cắt nghĩa vì sao các nhà xuất khẩu Việt Nam không làm được điều này đoàn chuyên gia quốc tế cho rằng “ nó tập chung vào vai trò độc quyền của hai doanh nghiệp Nhà nước xuất khẩu gạo lớn nhất là VINAFOOD 1 và 2, những doanh nghiệp thống trị trong lĩnh vực xuất khẩu gạo. Các yếu tố khác là việc dùng hạn nghạch xuất khẩu khiến các cơ hội xuất hẩu rơi vào tay các nhà môi giới quen biết.
Tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp thương mại Nhà nước thiếu sự gắn bó giữa sản xuất và thương mại xuất hiện không chỉ ở các công ty thương mại thuần tuý mà ngay ở các công ty thương mại thành viên trong cùng một tổng công ty, trong đó có các đơn vị sản xuất làm cho người sản xuất phải chịu thiệt thòi, cả một nghành kinh tế khó có cơ hội phát triển. Người sản xuất là những đơn vị kinh tế nhỏ lẻ như các hộ nông dân thiếu tiềm lực kinh tế, thiếu năng lực kinh doanh, thiếu thông tin cần thiết và đặc biệt là thiếu một hệ thống tổ chức liên kết họ lại và bảo vệ lợi ích của họ, trong điều kiện thương mại bất bình đẳng thì càng chịu thua thiệt nhiều hơn. Các công ty thương mại hoạt động như những người “ thu gom” hàng hoá như thời bao cấp và ở thế “chèn ép” người sản xuất hơn là ở thế những đối tác cùng có lợi. Chen vào giữa các hộ tư nhân và các công ty thương mại Nhà nước là những nhà môi giới trung gian hoạt động như những “chủ vựa ,đầu nậu” trước kia càng làm cho các hộ nông dân thiệt thòi. Đành rằng không có thương mại, sản xuất không thể phát triển được, song thương mại theo lối đó cũng không giúp cho sản xuất phát triển và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước cũng như của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
III.phân tích khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Từ những thực trạng nêu trên, có thể thấy một điều đáng buồn là nhiều doanh nghiệp Nhà nước trong đó có các doanh nghiệp thương mại Nhà nước hoạt động kém hiệu quả chưa phát huy được những lợi thế của mình trên thị trường, không cạnh tranh nổi với các thương nghiệp ngoài quốc doanh.
Một điều dễ nhận thấy là trên lĩnh vực bán lẻ mà trước đây các doanh nghiệp thương mại Nhà nước nắm giữ giờ đây đã phải nhường lại chỗ cho các doanh nghiệp thương mại thuộc các thành phần kinh tế khác trừ xăng dầu, nghành hàng mà Nhà nước vẫn nắm độc quyền.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước trên lĩnh vực lý thuyết thể hiện ở việc có ưu thế về vốn, tuy nhiên trên thực tế do kém năng động hầu hết các doanh nghiệp thương mại Nhà nước trong quá trình hoạt động đều lâm vào tình trạng “ đói vốn”, điều này đã làm tê liệt hoạt động của nhiều doanh nghiệp thương mại Nhà nước tạo thời cơ cho các doanh nghiệp thương mại thuộc nhiều thành phần kinh tế khác bung ra chiếm lĩnh thị trường.
Do cơ cấu lao động quá đông cũng là một cản trở lớn đối với hệ thống doanh nghiệp Nhà nước cũng như các doanh nghiệp thương mại Nhà nước làm cho bộ máy cồng kềnh, tạo ra một gánh nặng về chi phí. Trong khi đó đội ngũ đông đảo này lại thiếu nhạy bén không có khả năng hoạt động trong cơ chế thị trường do vậy họ phải bám chắc vào Nhà nước đây chính là một cản trở lớn đối với các doanh nghiệp thương mại Nhà nước trong cạnh tranh.
đánh giá tổng quát
Từ phân tích thực trạng của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước ta có thể đi đến một đấnh giá chung nhất. Trong những năm chiến tranh, do nền sản xuất còn thấp kém năng lực sản xuất chưa cao trong khi đó lại phải tập chung sức người sức của cho việc giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà, thương nghiệp quốc doanh ( hệ thống doanh nghiệp thương mại Nhà nước ) hoạt động trong một môi trường không có cạnh tranh và đã phát huy tốt vai trò của mình, đảm bảo phân phối của cải vật chất theo sự chỉ đạo của Nhà nước góp phần không nhỏ vào chiến thắng. Sau năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, nước ta bước vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng CNXH trên toàn quốc. Trong thời gian này thương nghiệp quốc doanh vẫn hoạt động trong một môi trường gần như độc quyền biến các doanh nghiệp thương mại Nhà nước thành những tổng kho cung ứng theo chỉ thị của Nhà nước. Trong một môi trường như vậy đã làm cho hệ thồng thương nghiệp quốc doanh ngày một hoạt động kém hiệu quả, trì trệ không đảm bảo cung ứng hàng hoá đáp ứng nhu cầu của nhân dân và nguyên nhân sâu xa cũng xuất phát từ nền sản xuất thấp kém.
Sau đại hội năm 1986, nước ta tiến hành đổi mới kinh tế. Đây là thời kỳ chuyển từ nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, có nhiều thành phàn tham gia hoạt động thương mại. Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước đứng trước những thách thức mới. Các nghành và các doanh nghiệp sản xuất được toàn quyền tổ chức bán buôn và bán lẻ hàng hoá do đơn vị mình sản xuất. Các công ty xuất nhập khẩu được bán hàng nhập khẩu. Các loại hàng hoá, kể cả hàng nhập khẩu không phải giao cho các doanh nghiệp thương mại Nhà nước như trước đâymà tự do lưu thông kể cả bán buôn và bán lẻ. Trong một môi trường mới như vậy do ảnh hưởng của thời kỳ trước đã làm cho các doanh nghiệp thương mại Nhà nước gặp vô vàn khó khăn trong lúc thiếu vốn lại không được cung cấp nguồn hàng và lúng túng trong cơ chế kinh tế mới, nên hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước, kể cả các HTX mua bán càng khó khăn phức tạp hơn. Cơ sở vật chất từ cơ chế cũ để lại còn khá đồ sộ nhưng rất lạc hậu, không được sử dụng hoặc không được sử dụng hết công xuất vẫn bị khấu hao. Tổ chức quản lý của doanh nghiệp vẫn bị hạn chế bởi cơ chế chính sách cũ, cán bộ công nhân viên chức vẫn chưa nắm bắt được thị trường... mặt khác lại bị thương nghiệp tư nhân cạnh tranh quyết liệt với nhiều hình thức dịch vụ phong phú đa dạng nên thương nghiệp quốc doanh hoạt động kém hiệu quả, không cạnh tranh lại nổi với thương nghiệp tư nhân, nhiều đơn vị thua lỗ dẫn đến giải thể. Hầu hết hệ thống các doanh nghiệp thương mại Nhà nước thuộc tỉnh huyện bị giải thể trong đó có nhiều HTX mua bán.
Sau một thời gian bỡ ngỡ trước cơ chế mới, nhờ tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp thương mại Nhà nước, nhiều doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã dần dần lấy lại được phần nào ưu thế của mình và đã hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên nếu đánh giá trên giác độ khả năng cạnh tranh thì vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn, một cách khách quan mà nói khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước phần lớn do ưu thế về vốn kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật và lòng tin của nhân dân vào Nhà nước. Còn đứng trên góc độ so sánh về mặt tổ chức, hoạt động, cách thức phục vụ, năng lực và trình độ quản lý thì nhiều doanh nghiệp thương mại Nhà nước chưa bằng được so với các doanh nghiệp thương mại khác. Hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước bị thu hẹp đáng kể, trước đây hệ thống của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực, giờ đây hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước chỉ tập trung vào khâu bán buôn là chủ yếu còn khâu bán lẻ đã phải dần nhường chỗ do không cạnh tranh nổi với tư nhân trừ nhũng hàng hoá do Nhà nước độc quyền điều phối như xăng dầu... Điều này là kết quả tất yếu của việc trì trệ trong đổi mới phương thức kinh doanh. Nguyên nhân có nhiều do chủ quan và khách quan, nhưng nổi bật nhất là những nguyên nhân thuộc về chủ quan của doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
chương III
những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Nhà nước
Trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, doanh nghiệp thương mại Nhà nước phải thực sự đóng vai trò chủ đạo ở những lĩnh vực địa bàn, mặt hàng quan trọng, làm tốt chức năng hướng dẫn liên kết các thành phần kinh tế khác trong hoạt động kinh doanh, góp phần quyết định vào việc phát triển thị trường, mở rộng giao lưu hàng hoá trên tất cả vùng miền, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Thông qua công tác tổ chức tốt thị trường và lưu thông hàng hoá làm cho việc lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước thực sự là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất ; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lao động xã hội; góp phần ổn định giá cả kìm chế lạm phát, góp phần xây dựng nền thương nghiệp phát triển lành mạnh, có khả năng hội nhập với thị trường khu vực và quốc tế.
Để đạt được điều này vấn đề cần quan tâm là làm sao nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước, và sau đây là một số biện pháp.
kinh nghiệm của một số nước.
Cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước cũng như doanh nghiệp thương mại Nhà nước , đây là một trong những biện pháp đã mang lại hiệu quả cao ở một số nước, đã tạo ra khả năng cạnh tranh cho hệ thống doanh nghiệp thương mại Nhà nước , cải cách thường tiến hành theo hai bước:
Thứ nhất, tiến hành thanh lọc sắp xếp lại và hợp lý hoá từng đơn vị và toàn bộ khu vực doanh nghiệp Nhà nước .
Để hợp lý hoá từng đơn vị và toàn bộ khu vực doanh nghiệp Nhà nước cần bắt đầu xác định lại mục tiêu ( thương mại và phi thương mại ) của từng doanh nghiệp , từng nhóm và toàn bộ khu vực doanh nghiệp Nhà nước ; xác định yêu cầu khả năng và mức độ tài chính của chúng cùng những nguồn lực và chi phí của Nhà nước cần thiết để nuôi dưỡngvà giám sát chúng về lâu dài, từ đó làm cơ sở cho việc quyết định những doanh nghiệp Nhà nước nào sẽ được giữ lại và phần sở hữu của Nhà nước trong doanh nghiệp đó đến đâu, những doanh nghiệp Nhà nước nào sẽ loại bỏ và cách thức để loại bỏ. Việc quy hoach giữ lại hay loai bỏ các doanh nghiệp Nhà nước đó không chỉ làm một lần, mà nhiều lần, thường xuyên, và những quyết định được đưa ra một phần dựa trên những kiến nghị của một chính phủ chuyên trách theo dõi, đánh giá kết quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước theo mục tiêu thương mại và phi thương mại. Về nguyên tắc, để tránh xung đột lợi ích, cơ quan này hoạt động tách biệt với cơ quan đảm nhiệm vai trò sở hữu Nhà nước .
Những quyết định tăng, giảm khu vực doanh nghiệp Nhà nước ở các nước phụ thuộc vào mục tiêu, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở mỗi nước chứ không hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ chính trị mà mỗi dân tộc theo đuổi, xu hướng gần đây trên toàn thế giới là sự thu hẹp khu vực này mà các giải pháp thường dùng phục vụ cho mục đích đó là quá trình tư nhân hoá khu vực doanh nghiệp Nhà nước với hai phương thức cơ bản là tư nhân hoá có sự chuyển đổi sở hữu và tư nhân hoá không có sự chuyển đổi sở hữu.
- Tư nhân hoá có chuyển đổi sở hữu bao gồm chuyển đổi một phần hay toàn bộ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước sang tay tư nhân :
Lợi ích của việc này là hợp lý hoá nền tài chính và nâng cao hiệu quả kinh tế trong khu vực Nhà nước , tạo môi trường phát triển khu vực tư nhân và tăng đầu tư nước ngoài, cải thiện quan hệ giữa Chính phủ – con nợ, với các chủ nợ nước ngoài trong các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Quá trình này có thể diễn ra bằng hai cách:
_ Bán đứt trực tiếp hoặc bán công khai trên thị trường chúng khoán.
_ Cổ phần hoá: bán cổ phần cho tư nhân, bao gồm bán tài sản, gia tăng đầu tư và bán cho cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp với những điều kiện ưu đãi. Những doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước có thể chung vốn với một doanh nghiệp Nhà nước để hình thành một liên doanh – cổ phần mới.
Việc cổ phần hoá được tiến hành rộng rãi hơn do nó có những ưu điểm:
_ Tạo khả năng chuyển hoá sở hữu các doanh nghiệp có quy mô lớn, giá trị tài sản cao.
_ Tạo điều kiện để chuyển sang các phương pháp và hình thức tổ chức quản lý mới.
_ Cho phép duy trì các quan hệ kinh tế đã có.
_ Cho phép thu hút thêm các nguồn vốn ( kể cả vốn đầu tư nước ngoài ) vào việc trang bị lại kĩ thuật, thay đổi công nghệ, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp Nhà nước hiện có.
Có thể cổ phần hoá toàn bộ một doanh nghiệp Nhà nước hoặc chỉ một phần để vừa giữ được sự kiểm soát của Nhà nước , vừa đổi mới cách quản lý và cải thiện cơ cấu vốn. Tuy nhiên, việc cổ phần hoá dễ gây tình trạng manh mún, phân tán trong sở hữu, do đó, không tăng được thêm sự quan tâm đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp của những chủ sở hữu nhỏ, nhất là những người không làm việc trực tiếp trong doanh nghiệp . Ngoài ra, khả năng tiếp tục duy trì sở hữu Nhà nước bằng cách nắm số cổ phiếu khống chế sẽ không giảm được bao nhiêu nguy cơ can thiệp trực tiếp của các cơ quan Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp .
-Tư nhân hoá không có chuyển đổi sở hữu diễn ra theo các hình thức sau:
_ Cho thuê : là chuyển giao quyền điều hành một doanh nghiệp Nhà nước cho một doanh nghiệp tư nhân để lấy tiền thuê hoặc thu một phần lợi nhuận. Khi đó, Chính phủ giữ nguyên trách nhiệm của mình đối với món nợ hiện tồn của doanh nghiệp , về sau có thể doanh nghiệp tư nhân này mua luôn doanh nghiệp Nhà nước .
_ Hợp đồng kế hoạch: là hợp đồng thương lượng giữa Chính phủ và doanh nghiệp. Trong đó ghi rõ thoả thuận giữa hai bên về mục tiêu kinh tế – xã hội phi thương mại, chỉ tiêu sản xuất, tiêu chuẩn chất lượng, giới hạn sử dụng lao động, nguồn thu nhập, nguồn và tỷ lệ vốn của doanh nghiệp cùng nghĩa vụ của Chính phủ về việc bù lỗ những mục tiêu phi thương mại mà doanh nghiệp thực hiện theo lệnh Chính phủ. Những hợp đồng này xuất hiện đầu tiên ở Pháp năm 1969, nhằm chống lại những mục tiêu mơ hồ và thiếu quyền tự chủ giành cho những người quản lý doanh nghiệp Nhà nước . Những hợp đồng kiểu này thúc ép các doanh nghiệp phải vươn lên đạt tới một mức thành tích kinh doanh kỹ thuật nhất định.
_ Thầu khoán: là sự ký kết hợp đồng giữa Chính phủ với một doanh nghiệp tư nhân để sản xuất một số lượng hàng hoá hay dịch vụ nào đó, hoặc thuê một doanh nghiệp tư nhân quản lý một doanh nghiệp thương mại Nhà nước . Phương thức này cho phép Chính phủ không phải bỏ ra những chi phí lớn để điều hành mà doanh nghiệp vẫn có được những sản phẩm hoặc dịch vụ với giá cả và chất lượng tốt.
Thứ hai, thiết lập môi trường kinh tế xã hội vĩ mô thúc đẩy tạo điều kiện tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước.
Mục tiêu chủ yếu của quá trình này là đảm bảo cho doanh nghiệp thương mại Nhà nước sau khi thanh lọc, sắp xếp và hợp lý hoá lại sẽ vận hành một cách thuận lợi, đạt được những mục tiêu đề ra với phí tổn ít nhất cho Chính phủ. Nội dung của quá trình này bao gồm :
_ Xác định rõ những mục tiêu cụ thể, lâu dài và không mâu thuẫn nhau, tránh những mục tiêu mơ hồ cho doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
_ Thi hành những hạn chế gắt gao về ngân sách, từng bước làm cho doanh nghiệp phải tự đài thọ cả về đầu tư lẫn chi phí hoạt động ; đồng thời nâng nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp.
_ Cải tiến chế độ báo cáo và kiểm soát các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
_ Quy định trách nhiệm rõ ràng, cải cách cơ chế kích thích đối với người quản lý và nhân viên trong doanh nghiệp thương mại Nhà nước. Quy định cụ thể đề cao trách nhiệm nghĩa vụ vật chất trước những quyết định của doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
_ Tạo môi trường kinh doanh khuyến khích cạnh tranh bình đăng giữa các doanh nghiệp thương mại Nhà nước với các doanh nghiệp thương mại thuộc thành phần kinh tế khác ( về giấy phép hoạt động, thuế lao động và kỹ thuật ) nhằm thúc đẩy tính hiệu quả về kỹ thuật và phân phối của doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
_ Đẩy mạnh những cải cách hành chính: tăng cường sức mạnh và khả năng cạnh tranh của khu vực tài chính.
những giải pháp vi mô.
Giải pháp về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Một là: Để tạo ra lực lượng vật chất cần thiết đủ mạnh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thương mại Nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, cần thiết phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau.
+ Nguồn vốn từ ngân sách : Nguồn vốn này không chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn doanh nghiệp cần có để kinh doanh nhưng chính nó lại đóng vai trò quan trọng, là tiền đề vật chất nhất định, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có vốn đầu tư kinh doanh . Vì vậy Nhà nước cần cấp bổ xung đủ 30% vốn lưu động định mức cho doanh nghiệp thương mại Nhà nước để các doanh nghiệp có phương án và chiến lược kinh doanh tầm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn rõ ràng để doanh nghiệp có được nguồn vốn cấp ổn định, Nhà nước cần nới lỏng cơ chế cấp phát vốn. Trong những trường hợp đặc biệt, Nhà nước có thể vận dụng cấp vốn cho các doanh nghiệp này lượng vốn lớn hơn định mức, ví dụ đối với doanh nghiệp thu mua nông sản theo vụ mùa cần một lượng vốn tập chung vốn lớn vì vậy Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi hơn cho những doanh nghiệp này.
+ Nguồn vốn từ ngân hàng : Đây là nguồn vốn được tất cả các loại hình doanh nghiệp quan tâm nhất. Chính nó giúp doanh nghiệp có thêm vốn để thực hiện phương án kinh doanh của mình. Nhà nước phải tạo môi trường điều kiện pháp lý thuận lợi để ngân hàng thực hiện được nhiệm vụ là cầu nối cung tiền tệ cho các doanh nghiệp, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của các ngân hàng, chấm dứt thủ tục phiền hà, chồng chéo tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay được vốn nhanh chóng kịp thời khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo đồng vốn cho các doanh nghiệp vay. Nhà nước nên xem xét tính hợp lý về thời gian và mức lãi suất vay phù hợp với loại hình doanh nghiệp thương mại Nhà nước, phù hợp với từng mặt hàng, nghành hàng và vòng chu chuyển của từng loại hàng hoá. Trong đó cần nâng tỷ lệ các khoản vay vốn trung và dài hạn, nhất là vốn dài hạn đối với một số mặt hàng xuất khẩu chiến lược có thời gian chu chuyển dài.
+ Các nguồn vốn khác: Ngoài việc huy động vốn từ hai nguồn trên, doanh nghiệp cần phải nâng cao khả năng sử dụng vốn, tăng nhanh vòng quay và lập những phương án kinh doanh có hiệu quả, tăng tích lũy nội bộ. Tiếp tục cổ phần hoá những doanh nghiệp thương mại Nhà nước nếu xét thấy khả năng có thể thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp. Thông qua nguồn vốn huy động từ cổ đông, từ trái phiếu cổ phiếu, từ vốn góp của các thành viên. Đẩy mạnh hoạt động liên doanh liên kết với kinh tế khác nhất là liên doanh liên kết với nước ngoài để tranh thủ được nguồn vốn, khoa học công nghệ cũng như kinh nghiệm của tổ chức quản lý của họ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Hai là: Đẩy mạnh thu hồi công nợ bằng nhiều biện pháp, tất cả các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thất thoát đều phải được đưa ra xem xét từng trường hợp cụ thể, quy trách nhiệm cá nhân, trách nhiêm tập thể để có phương thức xử lý kỷ luật thoả đáng, Những trường hợp trước đây làm ăn thua lỗ do những nguyên nhân khách quan, nay vực dậy làm ăn có hiệu quả, Nhà nước nên khoanh các khoản nợ cho các doanh nghiệp và tiếp tục xử lý theo đúng pháp luật, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Trước mắt cho doanh nghiệp ghi giảm vốn lưu động để họ có thể cân đối lại tổng nguồn vốn. Nhà nước cho phép kiểm kê tài sản cố định, thanh lý bán đấu thầu những tài sản cố định không cần dùng, cho phép doanh nghiệp chuyển số tiền này vào vốn lưu động, giúp doanh nghiệp khắc phục tình trạng thiếu vốn.
Ba là: Chú trọng mở rộng mạng lưới đại lý khắc phục tình trạng mua đi bán lại qua nhiều khâu dẫn tới tăng giá vừa tiếc kiệm được vốn lưu động ứng trước, tăng nhanh vòng quay đồng vốn. Mặt khác tận dụng tốt hơn những cơ sở vật chất: cửa hàng, kho bãi, phương tiện vận chuyển tiếc kiệm lao động xã hội.
Bốn là: Nhà nước cần có chính sách thuế suất cơ động, hợp lý đối với loại hình doanh nghiệp thương mại Nhà nước. Tránh tình trạng thay đổi biểu thuế liên tục, tính thêm thuế xuất thường xuyên ảnh hưởng tới kế hoạch cũng như hiệu quả kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này.
Giải pháp về tổ chức quản lý và con người.
Từ những vấn đề đã nêu ở phần thực trạng, để có thể hoạt động tốt nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước, một vấn đề rất quan trọng cần phải giải quyết hiện nay là tinh giảm bộ máy của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước, tổ chức đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ quản lý và những người lao động trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp thương mại Nhà nước phải được tổ chức gọn nhẹ, tinh giảm bộ máy hành chính.
Tổ chức tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Không ngừng bồi dưỡng kiến thức quản lý nền kinh tế thị trường và rèn luyện đạo đức tác phong cho đôị ngũ cán bộ quản lý các doanh nghiệp trong nghành thương mại để họ có đủ tri thức lập trường, tư tưởng vững vàng trong sự nghiệp đổi mới tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Giải pháp về đổi mới cơ cấu của doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Đổi mới cơ cấu cũng là một biện pháp được đánh giá là phù hợp trong điều kiện hiện nay, việc sắp xếp lại và cải cách doanh nghiệp Nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương mại Nhà nước cần tập chung ở một số mặt:
_ Mạnh dạn xoá bỏ các công ty trung gian. Theo điều tra hầu hết các doanh nghiệp thương mại ở thành phó Hồ Chí Minh, thủ đô Hà Nội và một số nơi hầu hết các giám đốc doanh nghiệp đều trả lời: các công ty thực chất là cấp trung gian, không những không tích cực tác động đến doanh nghiệp mà còn cản trở hạn chế quyền chủ động của doanh nghiệp gây khó khăn doanh cho nghiệp thành viên trong quá trình hoạt động.
_ Phát động việc chuyển đổi sở hữu các doanh nghiệp thương mại Nhà nước không cần thiết tồn tại dưới hình thức quốc doanh sang công ty cổ phần hoặc doanh nghiệp hợp tác, công ty của các cán bộ công nhân viên hoặc là công ty trách nhiệm hữu hạn của những người lao động... thành một phong trào quần chúng sôi động đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia nhiệt tình của quần chúng.
_ Đẩy mạnh việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp thương mại Nhà nước và để tháo gỡ vướng mắc hện nay, sau khi có nghị định 44/CP ngày 29/06/98 cần tập trung giải quyết các công việc sau:
+ Không để các giám đốc tự nguyện thực hiện cổ phần hoá mà Nhà nước lựa chọn, khi thấy cần Nhà nước ra quyết định bắt buộc.
+ Tiếp tục nghiên cứu xác định nhanh giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Đây là khâu phức tạp, khó khăn và mất nhiều thời gian nhất.
+ Đơn giản hoá quy trình cổ phần hoá. Hiện nay quy trình cổ phần hoá trải qua bốn bước, mỗi bước phải làm hàng chục công việc với thời gian kéo dài làm cản trở tiến độ cổ phần hoá.
Giải pháp về đổi mới hoạt động và phương thức kinh doanh.
Vấn đề đổi mới hoạt động ở đây cần khẳng định rõ là doanh nghiệp thương mại Nhà nước nên tập chung vào những nghành hàng mà mình có ưu thế.
+ Tập chung nắm giữ một số khâu, một số nghành hàng quan trọng. Phát huy ưu thế về vốn. Trứơc mắt nên hướng tới doanh nghiệp thương mại Nhà nước trong một số khâu, nghành hàng sau: xuất nhập khẩu, thuốc chữa bệnh, thóc gạo, một số hàng công nghiệp chủ yếu.
+ Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước cần chú ý nhiều hơn đến những hoạt động dịch vụ sau bán hàng, đặc biệt là những loại dịch vụ mới phục vụ sản xuất như ứng dụng tin học trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm, hoàn thiện và tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông nhằm hoàn thiện giá trị của sản phẩm, thiết kế chế tạo , quản lý và xử lý thông tin thị trường. Trong hoạt động thương mại, cần phát triển mạnh mẽ các dịch vụ bổ xung như nghiên cứu nhu cầu, môi giới cho sản xuất kinh doanh, mở rộng các dịch vụ bán hàng văn minh cũng như các dịch vụ ngoại thương, du lịch quảng cáo cung cấp thông tin.
+ Đối với doanh nghiệp bán lẻ cần thiết phải giữ chữ “tín” đối với khách hàng, các hợp tác xã mua bán cần từng bước phục hồi dưới hình thức mới để thông qua nó mà cung ứng hàng công nghệ phẩm cho nông dân và thu mua nông sản ở nông thôn.
Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp thương mại Nhà nước phải chấp nhận cạnh tranh và do đó vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm là vô cùng quan trọng. Chất lượng sản phẩm ở đây không có nghĩa chỉ là sản phẩm tốt mà đứng trên quan điểm của một nhà kinh doanh thương mại thì đó là sự tổng hợp những sự thoả mãn của khách hàng sau khi đã sử dụng sản phẩm, nó phải là một sản phẩm tốt, giá cả hợp lý và những dịch vụ đi kèm ( dịch vụ trong và sau khi bán ). Để nâng cao chất lượng sản phẩm cần phải:
+ Tăng cường nghiên cứu thị trường và giá cả nhằm đáp ứng các yêu cầu thị hiếu của dân cư trên thị trường trong nước và quốc tế. Mục đích nghiên cứu là để biết đặc điểm của thị trường, nhu cầu thị trường, phong tục tập quán tiêu dùng của khách hàng... Từ đó dự báo nhu cầu tiêu dùng cho những năm tới. Khi đã có tư liệu về thị trường các doanh nghiệp xem xét phân tích xem hàng hoá đã phù hợp với nhu cầu chưa, để rồi cải tiến hoàn thiện sản phẩm tạo ra ưu thế về sản phẩm so với các đối thủ khác.
+ Lựa chọn những nguồn hàng có chất lượng tốt, ổn định. Đây cũng là một biện pháp giúp doanh nghiệp nâng cao được uy tín và khả năng cạnh tranh của mình. Vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm đang là vấn đề được đặt lên hàng đầu, tuy nhiên cái quyết định về chất lượng sản phẩm lại thuộc về doanh nghiệp sản xuất chứ không phải là doanh nghiệp thương mại vì vậy cần phải có sự phối hợp giữa hai loai hình doanh nghiệp này, có như vậy mới nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
+ Tạo nguồn mua hàng hợp lý, mua hàng là hoạt động nghiệp vụ cơ bản của doanh nghiệp thương mại. Nếu không mua được hàng hoặc mua hàng không phù hợp với nhu cầu thị trường doanh nghiệp sẽ có nguy cơ mất khách hàng.
+ Doanh nghiệp phải thực hiện tốt vấn đề dự trữ hàng hoá. Vì dự trữ hàng hoá đảm bảo cho doanh nghiệp khả năng cung ứng hàng hoá một cách thường xuyên, liên tục và đồng bộ. Dự trữ hợp lý giúp doanh nghiệp sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh, giảm chi phí và duy trì nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường, dự trữ là một phương tiện để tăng uy tín với khách hàng, tạo ra khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
+ Doanh nghiệp cần nghiên cứu sản phẩm và bao bì hàng hoá để thuận tiện hơn cho người tiêu dùng, ngoài ra bao bì đẹp cũng làm tăng giá trị sản phẩm khiến người tiêu dùng có cảm tình hơn với sản phẩm .
III. những giải pháp vĩ mô.
+ Từng bước xoá bỏ độc quyền của doanh nghiệp thương mại Nhà nước trong một số nghàng hàng không cần thiết buộc các doanh nghiệp này phải cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác.
+ Nghiên cứu lại để có mô hình Tổng công ty phù hợp hơn, đảm bảo tổng công ty thực sự là một tổ chức có mối liên kết chặt hơn và thực sự đủ mạnh về tiềm lực tài chính, công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh.
+ Tổ chức lại các công ty đặc biệt là các Tổng công ty sao cho chống lại tình trạng độc quyền và tạo mối liên kết tốt hơn giữa sản xuất và thương mại.
+ Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách thương mại tự do và bình đẳng hơn giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Với một môi trường cạnh tranh lành mạnh sẽ có những công ty thương mại xứng đáng thúc đẩy hiệu quả hoạt động trong nước, gắn bó được sản xuất với thương mại, thúc đẩy xuất khẩu cạnh tranh được trên thị trường quốc té.
+ Tăng cường kiểm tra giám sát chặt chẽ về tài chính, cần mạnh dạn xoá bỏ các khoản ưu đãi thiếu căn cứ, thực hiện thu thuế đất và chi phí về nhà xưởng theo giá thị trường như đối với các thành phần kinh tế khác.
+ Tăng cường công tác chống buôn lậu và làm hàng giả. Chừng nào việc buôn lậu qua biên giới và sản xuất hàng giả trong nước còn là quốc nạn như hiện nay thì hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước còn khó khăn và kém hiệu quả.
+ Cần phải quán triệt quan điểm là các doanh nghiệp thương mại Nhà nước phải mạnh và đóng vai trò chủ đạo ở chất lượng hiệu quả kinh doanh, đáp ứng tốt các nhu cầu của thị trường và Nhà nước chứ không phải bằng số lượng đông hoặc bù lỗ của ngân sách hoặc các ưu đãi của Nhà nước.
+ Cần phân biệt quyền quản lý Nhà nước với quyền quản lý kinh doanh, do đó cần phải đổi mới quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp thương mại quốc doanh. Từ trước đến nay các doanh nghiệp thương mại Nhà nước phải chịu sự quản lý theo hai mặt: quản lý Nhà nước theo quy định của pháp luật và quản lý Nhà nước theo chủ sở hữu vốn của doanh nghiệp Nhà nước. Trên thục tế hai mặt này đều chưa tốt và có lúc bị lẫn lộn do không phân định rõ ràng về quyền hạn, trách nhiệm giữa người đại diện chủ sở hữu vốn với người sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Để khắc phục tình trạng này cần phải đổi mới tổ chức quản lý theo quy định của Luật Doanh nghiệp Nhà nước. Hoàn thiện phương thức quản lý đổi mới chế độ hạch toán và cơ chế tài chính của doanh nghiệp, xác định khoán cho người lao động và có hình thức thưởng phạt nghiêm minh.
+Đẩy mạnh công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu và gian lận thương mại
.
+ Nâng cao năng lực và phẩm chất kinh doanh của nhiều giám đốc doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
kết luận.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay vấn đề cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi, tuy nhiên từ thực tế của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước trong thời gian qua đã bộc lộ rõ nhiều yếu kém, điều này đã gây ảnh hưởng lớn, làm lu mờ vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và các doanh nghiệp thương mại Nhà nước trong nền kinh tế. Để khẳng định vai trò của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước thì biện pháp tốt nhất không phải là sự hỗ trợ của Nhà nước thâu tóm những nghành hàng quan trọng vào tay các doanh nghiệp thương mại Nhà nước mà điều cần làm là tìm ra nhũng giải pháp để thúc đẩy hiệu qủa kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước. Có như vậy, các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và các doanh nghiệp thương mại Nhà nước nói riêng mới có đủ sức đứng trên thị trường, không phải nhờ chỗ dựa là Nhà nước mà bằng trên chính đôi chân của mình, để doanh nghiệp thương mại Nhà nước thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu trong việc ổn định thị trường, bình ổn giá cả, thục hiện các chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, là đầu tàu dẫn hướng cho khu vực thương mại ngoài quốc doanh hoạt động theo định hướng của Nhà nước với mục tiêu là một hệ thống thương mại lành mạnh, hoạt động theo đúng quy luật khách quan của thị trường. Điều đó đật ra một trách nhiệm nặng nề lên vi các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Những biện pháp được đề cập trong bài viết này có thể là chưa đầy đủ, song đó là nhưng biện pháp được đánh giá là hữu hiệu nhất trong thời điểm hiện nay.
Chắc chắn với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước sẽ tìm ra những biện pháp thúc đẩy khả năng cạnh tranh của ác doanh nghiệp Nhà nước nói chung và các doanh nghiệp thương mại Nhà nước nói riêng.
Tài liệu tham khảo.
Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, viện nghiên cứu kinh tế và phát triển.
Báo cáo chính sách thương mại Việt nam năm 1998.
Trung tâm kinh tế quốc tế.
Nghiên cứu kinh tế số 229- tháng 6/1997.
Tham luận của thứ trưởng Bộ thương mại Hồ Huấn Nghiêm tại hội thảo- kiểm soát giá cả khuyến khích cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng-tổ chức ngày 4/4/2000.
Giáo trình Kinh tế Thương mại.
NXB Giáo dục _ năm 1997.
Giáo trình Lý thuyết Marketing.
NXB Thống kê, Hà nội 1999.
Tạp chí thương mại.
Tạp chí kinh tế phát triển.
Thời báo kinh tế Việt nam.
Báo thương mại.
Tạp chí Thống kê kinh tế xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0090.doc