Đề tài Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Việt nam trong điều kiện hội nhập

Trong phần 2 chương II đã đề cập đến một số thực trạng tình hình hoạt động kinh doanh thương mại của các doanh ngiệp thương mại tư nhân trong hoạt động xuất khẩu của mình trong đó có khó khăn về đất đai làm mặt bằng sản xuất. Chính sách thủ tục về giao đất và thuê đất còn nhiều bất cập, cha được cụ thể hóa nên gây không ít phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp. Mặt khác quy định về quyền sử dụng đất cũng cha rõ ràng nên doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc thế chấp giá trị quyền sử dụng để vay vốn ngân hàng. Vì vậy về chính sách đất đai cần ưu tiên cấp đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu và kinh doanh những mặt hàng mang tính cạnh tranh quốc tế để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Nếu chính quyền các cấp xác định công việc trên có ý nghĩa nh cung cấp một nguồn lực cho các doanh ngiệp thương mại tư nhân xuất khẩu, thì việc đó sẽ góp phần thúc đẩy phát triển xuất khẩu, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đang hoạt động có sử dụng nhiều lao động hoặc liên quan đến bảo vệ môi trường. Cần hoàn thiện các thủ tục đăng ký mua bán, công khai thông tin và tạo thuận lợi các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu di chuyển địa điểm sang những vị trí thuận lợi hơn, từ đó hình thành cơ chế tác động đến việc cung ứng đất cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Cần tạo ra hệ thống đăng ký và hình thành một lại hình dịch vụ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, làm cho việc kinh doanh quyền sử dụng đất được trôi chảy và khắc phục sự bất bình đẳng trong việc phân phối đất theo hướng hình thành thị trường bất động sản.

doc63 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Việt nam trong điều kiện hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c doanh nghiệp được các doanh nghiệp đánh giá nh sau: 10,90% doanh nghiệp cho là tác động rất tích cực, 37,10% cho là tác động tích cực, 26,70% tác động vừa phải; 9,30% là không tác động. Như vậy, số doanh nghiệp nhận được thông tin từ Bộ Thương mại và các Sở thương mại chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Nhìn chung việc cung cấp thông tin về thị trường trong nước và nước ngoài của hai cơ quan này đã giúp phần nào cho doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, chất lượng của các thông tin đó chưa cao, ý kiến phê phán tập trung vào hai điểm dưới đây. Thứ nhất, nội dung thông tin nghèo nàn, giá trị thấp, không cập nhật thường xuyên và thường lạc hậu so với biến động của thị trường. Thứ hai, nhà nước chưa thực sự quan tâm đến việc cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chỉ chú trọng phục vụ đối tượng là các doanh nghiệp nhà nước. Qua điều tra, các doanh nghiệp còn lấy thông tin về thị trường và đối thủ cạnh tranh từ nhiều nguồn khác: Tỷ lệ số doanh nghiệp điều tra khai thác các nguồn đó là như sau: + Sách báo, tạp chí 61,7%. + Nguồn khác (bạn hàng, ngời thân...) 53,6%. + Thông tin đại chúng 52%. + Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam 30%. + Hiệp hội sản phẩm 19,7%. + Chi nhánh văn phòng đại diện ở nước ngoài 6,6%. + Đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài 54,46%. 26.7% 27.4% 90% 20.4%% 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Tác động rất tích cực Tác động tích cực Tác động vừa phải Không tác động Hình 1: Mức độ tác động của thông tin từ Bộ thương mại và các Sở Thương mại đối với kết quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp (% doanh nghiệp) Như vậy, các phương tiện thông tin đại chúng và sách báo, tạp chí là nguồn cung cấp chủ yếu thông tin chính thức về thị trường và đối thủ cạnh tranh, tiếp đến là các nguồn thông tin khác mang tính chất không chính thức từ bạn bè, người thân, bạn hàng... Còn dịch vụ cung cấp thông tin của các tổ chức Việt Nam như đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam được đánh giá ở mức còn hạn chế. Về thuế. Về câu hỏi doanh nghiệp đánh giá như thế nào về tỷ suất thu nhập doanh nghiệp, thuế gia trị gia tăng và thuế thu nhập, tỷ lệ doanh nghiệp điều tra đánh giá như sau: + Thuế thu nhập doanh nghiệp cao 48%. + Thuế giá trị gia tăng cao 47%. + Thuế nhập khẩu cao 16%. Trong vấn đề thuế, việc quy định hoàn thuế giá trị gia tăng trong vòng 3 tháng là điều doanh nghiệp điều tra tỏ ra không đồng ý vì nó ảnh huởng nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mà trên thực tế cũng không phải tất cả các doanh nghiệp đều được hoàn thuế đúng thời gian quy định. Cụ thể phiếu điều tra tỷ lệ doanh nghiệp được hoàn thuế trong vòng 1 tháng chỉ chiếm 14,7% còn từ 1-3 tháng chỉ chiếm 28%. Về lệ phí chỉ có 30% doanh nghiệp đánh giá các loại lệ phí là phù hợp và mức thu lệ phí là trung bình. Số doanh nghiệp còn lại cho rằng việc thu lệ phí còn nhiều vấn đề còn vướng mắ Về tín dụng. Qua phiếu điều tra, số doanh nghiệp cho biết có được hưởng tín dụng xuất khẩu và tín dụng ưu đãi chỉ chiếm 1 tỷ lệ rất nhỏ là 25% trong tổng số doanh nghiệp điều tra. Ngay cả về lãi suất từ các ngân hàng thương mại số doanh nghiệp trả lời có được hỗ trợ lãi suất cũng chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 5%. Còn việc bảo lãnh tín dụng khi thực hiện các hoạt động xuất khẩu cũng chỉ có khoảng 5% doanh nghiệp trả lời có nhận đuợc bảo lãnh tín dụng. Về quyền mua ngoại tệ, đánh giá của doanh nghiệp như sau: Bình thường: 40% doanh nghiệp. Khó khăn: 60% doanh nghiệp. Các khó khăn chính đuợc doanh nghiệp chỉ ra là. - Thủ tục rườm rà; phức tạp. - Ngân hàng không có đủ ngoại tệ để cung cấp. - Tỷ giá luôn luôn thay đổi. Tóm lại, qua khảo sát có thể thấy đuợc tác động tích cực của những giải pháp do chính phủ đề ra và sự phát huy nội lực của giới doanh nghiệp. Tuy nhiên, để tạo bình đẳng trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các loại hình doanh nghiệp trong nước, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, điều quan trọng nhất là thực hiện xúc tiến nhanh việc nâng cấp khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước và hiệu quả sản xuất. Bởi vì hiện nay những lợi thế cơ bản hiện có chỉ là hữu hạn: giá nhân công sẽ được nâng cao dần theo mức thu nhập của khu vực; các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ dần dần cạn kiệt; sự ổn định chính trị mà bên trong đó là cả một thiết chế cồng kềnh, kém hiệu lực, thủ tục hành chính phiền hà và phức tạp sẽ trở thành lực cản, kém hấp dẫn trong thu hút ngoại lực và có thể dẫn đến triệt tiêu nội lực. Vì vậy việc tiếp tục cải tạo và nâng cấp môi trường kinh doanh trong nước ở Việt Nam là hết sức cấp bách. III. Đánh giá hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại ở thị trương Việt Nam. 1. Ưu điểm 1.1. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ , bước tiến quan trọng trên con đường cải cách và hội nhập Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp .Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có nội dung rất phong phú và đa dạng, với những phụ lục khác nhau và rất chi tiết về các sản phẩm và dịch vụ, về đầu tư và sở hữu trí tuệ: đề cập rất nhiều đến các vấn đề và các lĩnh vực như chất lượng sản phẩn trong công nghiệp, nông nghiệp, thuế quan là bước mở màn cho Việt Nam đàm phán thuận lợi để gian nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Khi hiệp định được các cơ quan lập pháp của hai nước thông qua, phía Mỹ trên nguyên tắc sẽ áp dụng thuế suất phù hợp với WTO, tháo gỡ các rào cản phi thuế quan hạn chế định lượng mở đường cho hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ. Riêng hàng dệt may phía Mỹ đề nghị qui định quy chế thương lượng về quota nhập khẩu từ Việt Nam. Quy định này đã được thoả thuận trong các Hiệp định thương mại song phương giữa các nước như Trung Quốc, Bungari, Mông Cổ song quota này cũng sẽ bổ sung thị phần ở mức độ đáng kể cho hàng dệt may của Việt Nam. Để biến khả năng này thành hiện thực, các doanh nghiệp Việt Nam cần có ngay một chương trình hành động cụ thể, bắt đầu từ việc năng cao trình độ tiếng anh thương mại, nghiên cứu luật pháp liên bang và các bang của Mỹ: xây dựng quan hệ thương mại, tìm đối tác, tổ chức tiếp thị để ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp Mỹ. Theo ước tính của một báo cáo của Ngân hàng Thế Giới năm 1999, hiệp định này có thể giúp Việt Nam nâng cao xuất khẩu một cách mạnh mẽ, có thể đạt đến 768 triệu USD ngay trong năm đầu khi hiệp định có hiệu lực. Chúng ta tin rằng với sự năng động và nỗ lực của các doanh nhân Việt Nam sẽ cho phép vượt qua dự báo này, cùng với gia tăng là tạo ra việc làm cho nhiều sản phẩm và dịch vụ khác nhau, kể cả du lịch, sẽ góp phần tích cực để nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhìn vào thực trạng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua sang Mỹ, mặt hàng nông sản chiếm ưu thế lớn. Điều này phản ánh đúng lợi thế so sánh giữa hai quốc gia. Mặt khác thị trường Mỹ là thị trường khó tính đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng, trong đó tiêu chuẩn ISO là quan trọng nhất. Một khó khăn nữa cho doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ là hệ thống luật: Hệ thống luật của Hoa Kỳ rất phức tạp và mỗi bang lại có thể chế riêng nên không thể chủ quan tuỳ tiện áp dụng luật từ thị trường bang này sang bang khác. 1.2. Hợp tác nội khối và vị thế của Việt Nam trong Asean Thành lập cách đây 34 năm, ( ngày 8 tháng 8 năm 1967), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á ( ASEAN) hoạt động nhằm vào ba mục tiêu cơ bản là: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển bền văn hóa, bảo vệ sự ổn định chính trị và kinh tế trong khu vực, chống lại các thế lực bên ngoài; là diễn đàn giải quyết các tranh chấp và xung đột trong khu vực từ chỗ chỉ có 5 quốc gia thành viên đến nay Asean đã quy tụ đầy đủ 10 nước trong khu vực. Mục đích hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, văn hoá của các thành viên trên cơ sở hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau bình đẳng cùng có lợi. Trong gần ba thập kỷ qua, các nước Asean đã thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong phát triển kinh tế xã hội. Năm 1993 các nước này đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7.5% và triển vọng năm 1994 rất sáng sủa. Cùng nằm trong vùng Đông Nam á, lại có nhiều điểm tương đồng về lịch sử và văn hóa, Việt Nam và Asean đã có mối giao lưu từ lâu. Sau khi nước Việt Nam thống nhất, quan hệ Việt Nam – Asean càng phát triển trên cơ sở đề nghị các nước Đông Dương về một Đông Nam á hoà bình, ổn định, hợp tác và chủ trương của Asean về một khu vực hoà bình tự do trung lập. Từ đó mối quan hệ kinh tế thương mại cũng phát triển nhanh chóng, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam với từng nước thành viên Asean đã tăng lên đáng kể, riêng Singapore đã trở thành bạn hàng lớn thứ 2 của Việt Nam sau Nhật( Với kim ngạch mậu dịch năm 1993 là 1.4 tỷ USD) các bạn hàng quan trọng khác phải kể đến Inđônêsia, Malysia và Philipin. Hoạt động đầu tư của các nước Asean tại thị trường Việt Nam ngày càng sôi động, cho đến nay tất cả các nước Asean đều có các dự án đang triển khai ở Việt Nam với giá trị vốn đầu tư vài trăm triệu USD, chỉ trong vòng hơn 3 năm nay, vốn đầu tư của Asean vào Việt Nam tăng trên 10 lần. Đã có 30 hiệp định hợp tác kinh tế thương mại thanh toán tín dụng, hàng không, hàng hải… được ký giữa Việt Nam với các nước thành viên Asean. Cuộc đi thăm hữu nghị của thủ tướng Võ Văn Kiệt tới 6 nước thành viên Asean và chuyến thăm Việt Nam của các nhà lãnh đạo Nhà nước, chính phủ, Quốc hội của các nước Asean tới Việt Nam càng tăng cường thêm các mối quan hệ hữu nghị vốn có tinh thần” khép lại quá khứ, hướng tới tương lai với những triển vọng tốt đẹp”. Tháng 7 năm 1992 với việc tham gia Hiệp ước Bali – một bước lớn trong quan hệ Việt Nam - Asean, Việt Nam đã trở thành quan sát viên của tổ chức này. Tại hội nghị Bộ trưởng ngoại giao Asean lần thứ 26 ( tháng 7 năm 1993) họp ở Singapore, Việt Nam đã tham gia với tư cách là quan sát viên, Hội nghị nhất trí và hoan nghênh Việt Nam dự diễn đàn về chính trị và an ninh khu vực( ARF) với tư cách là một bên đối tác quan trọng. Tháng 12 năm 1993, cuộc hội thảo Việt Nam - Asean lần thứ 3 đã hài lòng ghi nhận những bước phát triển tích cực và nhanh chóng trong mối quan hệ Việt Nam- Asean; và nêu rõ : “ Việc mở rộng Asean để Việt Nam và các nước Đông Nam á khác gia nhập sẽ tạo nên sức mạnh tập thể to lớn để tranh thủ tối đa các cơ hội hợp tác và phát triển…” 2. Một số nhược điểm và nội dung đổi mới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại . Một số doanh nghiệp đã xác định đúng đắn phương hướng kinh doanh kết hợp với kinh doanh tổng hợp. Nhờ thực hiện tốt phương hướng kinh doanh nay nên nhiều công ty đã mở rộng sản xuất kinh doanh, khai thác triệt để nguồn vốn , đội ngũ lao động công nghệ hiện đang có và thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng lao động và công nghệ. Một số doanh nghiệp như tổng công ty máy và phụ tùng .Công ty thiết bị toàn bộ và kỹ thuật ,công ty xuất nhập khẩu sản xuất gia công và bao bì TPHCM. Công ty điện máy Đà Nẵng ,công ty vải sợi miền nam đã giữ được tính chất chuyên doanh, giữ tỷ trọng kinh doanh các mặt hàng chủ yếu khoảng 60-70% còn các mặt hàng phụ khác chiếm khoảng 30-40%. Tổng công ty Muối, tổng công ty xăng dầu Việt Nam giữ tỷ trọng kinh doanh các mặt hàng chủ yếu từ 80-90%. Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh mấy năm qua chứng tỏ rằng. Những công ty nào không có phương hướng không có chiến lược kinh doanh để tạo ra một số mặt hàng chủ yếu, chỉ có “buôn chuyến”,’’đánh quả” từng đợt ngắn, từng thương vụ thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ bấp bênh không ổn định, có thể lãi lớn và cũng có thể “sập tiệm”. Như vậy là những công ty có chiến lược kinh doanh đúng đắn đã tự mình làm lu mờ vai trò của mình trên thị trường trong nước và Thế Giới. - Các doanh nghiệp tăng cường nhu cầu thị trường và giá cả nhằm đáp ứng các nhu cầu,thị hiếu của dân cư trên thị trường trong nước và Thế Giới. Nhiều công ty như công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I, công ty xuất nhâp khẩu-sản xuất gia công bao bì Thành phố Hồ Chí Minh , công ty điện máy-xe đạp xe máy Hà Nội. Công ty điện máy Thành phố Hồ Chí Minh đã dành thời gian để nghiên cứu những đặc điểm của từng thị trường,nhu cầu của thị trường đặc điểm, phong tục tập quán tiêu dùng của khách hàng trong những năm qua từ đó dự báo nhu cầu tiêu dùng hàng hoá trong những năm tới. Khi đã có những tư liệu về thị trường, các công ty đã phân tích, xem xét hàng hoá của mình có phù hợp với thị trường không ? Nếu hàng hoá đã phù hợp với thị trường rồi thì cần tiếp tục nâng cao chất lượng lên,nếu hàng hoá chưa phù hợp thì nhất thiết phải đổi mới hàng hoá sao cho thoả mãn được mọi nhu cầu đa dạng, phong phú của thị trường. Nhu cầu giá cả có ý nghĩa quan trọng giúp nhà sản xuất kinh doanh gắn hoạt động công ty với thị trường, gắn sản xuất kinh doanh với tiêu dùng . Qua nhu cầu giá cả thị trường về những hàng hoá mà công ty kinh doanh, quan hệ tỷ giá giữa các loại hàng hoá, giá giữa các vùng, giá cả trên thị trường Việt Nam và giá Thế Giới sẽ giúp nhà sản xuất kinh doanh rút ra kết luận cần thiết khi định giá để rao cho công ty vừa bán được hàng, vừa có lãi suất cao nhất. Việc coi trọng quảng cáo và xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp đã mở rộng được hoạt động sản xuất kinh doanh bán được nhiều hàng hơn và nhanh hơn. Thông qua quảng cáo và xúc tiến thương mại, công ty định trước được mặt hàng gì sẽ phả sản xuất kinh doanh, bán hàng ở đâu. Khi nào và biết được cho phí lưu thông phải bỏ ra như mặt hàng điện máy,ô tô, xe máy…Nhờ quảng cáo mà người bán và người mua gặp nhau thoả thuận để mua,bán hàng hoá Trong những năm gần đây các doanh nghiệp thuộc Bộ Thương Mại đã tích cực sử dụng các phương tiện quảng cáo để giới thiệu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, giới thiệu ấn phẩm, những tính chất, đặc điểm, cách sử dụng, tác dụng hữu ích giá cả hàng hoá…Tổng công ty xăng dầu Việt Nam đã có những chiến dịch quảng cáo dầu nhờn BP rầm rộ trên thông tin đại chúng và đạt hiệu quả cao : hàng bán rất chạy, nhiều người tiêu dùng thuộc lòng đoạn văn quảng cáo, biểu tượng chữ P của tổng công ty đã gây được tín nhiệm cao trên thị trường trong nước và thị trường thế giới. Một số doanh nghiệp đã chủ trương phát triển mạng lưới đại diện thương mại, tích cực tham gia hội chợ triển lãm thương mại trong nước và thế giới nên đã mở rộng được hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp nào quan tâm nâng cao sản phẩm và bao bì hàng hoá thì chất lượng hàng hoá ngày càng được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thời gian qua doanh nghiệp nào quan tâm giải quyết vấn đề sản phẩm và bao bì thì chất lượng hàng hoá nâng cao hình thức hàng hoá ngày càng đẹp.Một số sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị trường được người tiêu dùng ưa chuộng như dầu nhờn BP của tổng công ty xăng dầu Việt Nam, két bạc và cán cân của công ty thiết bị thương mại, sản phẩm in của công ty in thương mại…Những doanh nghiệp nào ít quan tâm nghiên cứu sản phẩm và bao bì để nâng cao chất lượng hàng hoá rất khó tiêu thụ rất khó xuất khâủ. Một số doanh nghiệp tích cực mở rộng mạng lưới sản xuất kinh doanh, phát triển các cửa hàng, cửa hiệu, đại lý nhằm hoàn thiện hệ thống tiêu thụ sản phẩm, hình thành và phát triển mối quan hệ gắn bó giữa sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng. Trong quá trình hợp tác với các cơ sở sản xuất, các con đường thương mại thường sử dụng các biện pháp kinh tế sau : + Ký hợp đồng tiêu thụ hàng hoá lâu dài với các cơ sở sản xuất hiệp định + Hỗ trợ vật tư, nguyên liệu, tiền vốn, cho cơ sở sản xuất. Khi họ đề nghị. + Đặt các đơn hàng sản xuất, phối hợp với cơ sở sản xuất nâng cao cải tiến mặt hàng nâng cao chất lượng hàng hoá, đáp ứng với mọi nhu cầu của thị trường. Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đã tích cực mở rộng mạng lưới sản xuất kinh doanh hình thành và phát triển mối quan hệ gắn bó giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Cung ứng nguyên liệu sản xuất, tiêu thụ sản phẩm giảI quyết việc làm cho hàng ngũ lao động. - Vận dụng đấu thầu và khoán trong sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả và tạo ra động lực kinh tế cho người lao động. Bản chất của đấu thầu là hình thức cạnh tranh để đạt được lợi nhuận cao nhất cho cả hai phía, người giao thầu và người nhận thầu. Khoán có tác dụng nâng cao tính chủ động sáng tạo, năng suất chất lượng hiệu quả cao và tạo ra động lực kinh tế cho người lao động. Việc vận dụng đấu thầu trong các doanh nghiệp chưa áp dụng nhiều, còn khoán thì hầu như doanh nghiệp nào cũng đã thực hiện. Một số doanh nghiệp đã vận dụng linh hoạt đấu thầu và khoán, có cơ chế kiểm tra giám sát chặt chẽ, thường xuyên nên đạt hiệu quả cao, bảo toàn và phát triển được nguồn vốn, thu nhập của người lao động tăng. Một số doanh nghiệp không những chỉ quan tâm mở rộng hoạt động kinh doanh ở các trung tâm thành phố và khu công nghiệp mà còn quan tâm đến thị trường, nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Các doanh nghiệp đã chú trọng mở rộng hoạt động kinh doanh những mặt hàng thiết yếu nhất, nhu cầu lớn có tác dụng quyết định đến sản xuất và đời sống tập trung chi phối những thị trường đông dân cư có ảnh hưởng lớn đến kinh tế xã hội như thành phố, khu công nghiệp…mở rộng hoạt động kinh doanh vào những thời điểm bùng nổ nhu cầu như NO-EN và Tết dương lịch…Đồng thời cũng đã chú trọng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh ở thị trường nông thôn, miền núi vùng sâu, vùng xa. Trong 5 năm 1991-1995 các doanh nghiệp đã cung ứng 102.284 tấn dầu hoả, 182.589 tấn muối Iốt. 3. Nguyên nhân những hạn chế Hiện nay tổ chức của thương mại quốc doanh đang phân tán và manh mối, Nhà nước không có khả năng đầu tư thêm nhiều vốn cho các doanh nghiệp nhà nước. - Chẳng hạn trong những năm gần đây mỗi năm Bộ thương mại chỉ bổ sung vốn 10 tỷ đồng nên chỉ mang tính chất “cứu đói- rải mành” và như muối bờ biển. Nhà nước chưa có chính sách vốn thoả đáng đối với các doanh nghiệp kinh doanh các nông sản xuất khẩu phải mua theo thời vụ như gạo, lạc ,mía, hạt điều Do các doanh nghiệp này phải vay ngân hàng với lại suất cao nên không thể dùng vốn vay để đầu tư phát triển sản xuất,ứng trước vốn cho nông dân thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, dự trữ nguồn hàng xuất khẩu với khối lượng lớn và đáp ứng được nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến diễn ra liên tục quanh năm các doanh nghiệp không đủ vốn để dự trữ lưu thông với khối lượng cần thiết. Việc điều hành quản lý vốn của Bộ thương mại trước đây và Bộ tài chính hiện nay cũng chưa linh hoạt và kém hiệu quả. Có doanh nghiệp thừa vốn hàng chục tỷ đồng trong khi có doanh nghiệp khác lại thiếu vốn, không vay được tiền của ngân hàng để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, không bảo đảm được mức thu nạp trung bình cho công nhân viên chức. Đa số các doanh nghiệp nhà nước chưa có phương hướng kinh doanh rõ ràng chưa có chiến lược kinh doanh hoặc không xem xét kỹ các phương án kinh doanh để có sự lựa chọn chính xác nhằm tạo ra một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu,thị trường xuất khẩu ổn định và chiếm lĩnh thị trường trong nước. Nhiều doanh nghiệp nhà nước chỉ lo “buôn chuyến”, “đánh quả” từng đợt ngắn, từng thương vụ nên hiệu quả sản xuất kinh doanh rất bấp bênh không ổn định có thể lãI lớn và cũng có thể “sập tiệm”-không gây được tín nhiệm với khách hàng và có lúc đã làm mất bạn hàng. Trong năm 1994 vì lợi ích trước mắt đã có doanh nghiệp không thực hiện hợp đồng xuất khẩu cao su cho Singapore, Hông Kông.Malaixia Để bán sang thị trường Trung Quốc vì được giá cao hơn. (mặc dù các công ty này cầm trong tay nhân dân tệ hoặc đổi hàng chứ không được nhận ngoại tệ mạnh) Như vậy những doanh nghiệp nhà nước không có chiến lược kinh doanh đúng đắn đă tự mình làm lu mờ vai trò của doanh nghiệp trên thị trường và mất bạn hàng thường xuyên ổn định. Một số doanh nghiệp nhà nước có vốn lớn, vay được nhiều tiền của ngân hàng nhưng lại thiếu năng lực sản xuất kinh doanh đúng đắn, hàng hoá không phù hợp với nhu cầu thị trường, sử dungh vốn không đúng mục đích (chẳng hạn dùng vốn lưu động để xây dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị…) dẫn đến tình trạng kinh doanh thua lỗ, nợ nần chồng chất. Một số doanh nghiệp đưa vốn lưu động vào liên doanh liên kết, nhưng chưa phát huy hiệu quả hoặc không có hiệu quả, thậm chí còn có doanh nghiệp thất thoát vốn trong quá trình liên doanh hàng chục tỷ đồng. -Việc đối xử của cơ quan quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp chưa bình đẳng hợp lý. Những doanh nghiệp nào được chọn làm thiết yếu thường có”lợi nhuận siêu ngạch”, hoạt động sản xuất kinh doanh dễ dàng, còn các doanh nghiệp nhỏ phảI làm đạI lý, uỷ thác thì cơ cực trăm bề và hoạt động sản xuất kinh doanh thường kém hiệu quả. Đội ngũ cán bộ chậm được đổi mới, đào tạo và đào tạo lại chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, một bộ phận không ít thoái hoá biến chất không được xử lý và kiên quyết, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Các vụ chức năng của Bộ chưa giành nhiều quan tâm và đIều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, việc xử lý các văn bản có lúc còn chậm sự phối hợp hoạt động giữa các vụ chưa thật nhịp nhàng. Việc xây dựng hệ thống thu thập và xử lý thông tin thị trường và hoạt động kinh doanh làm cơ sở cho các doanh nghiệp, làm căn cứ xây dựng kế hoạch và đIều hành kinh doanh trong mấy năm gần đây có nhiều cố gắng phục vụ khá tốt nhưng so với yêu cầu chất lượng thông tin vẫn chưa được cao chưa kịp thời công tác phân tích và dự báo còn yếu, chưa làm được chức năng định hướng cho các doanh nghiệp trong hoạt độngkinh doanh. Để thành công hội nhập các doanh nghiệp thương mại không ngừng đổi mới hoạt động kinh doanh để đáp ứng tốt yêu cầu mà quá trình hội nhập đặt ra. chương 3: Một số giải pháp năng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập Qua những số liệu phân tích ở chương II có thể khẳng định rằng. Sự suy yếu của thị trường trong nước là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế trong những năm qua. Do đó cùng với việc phát triển tối đa có thể được của thị trường ngoài nước cần gấp rút củng cố thị trường trong nước. Đây chính là khâu mấu chốt để tạo nên hợp lực đủ mạnh thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Điều tra mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 1999, thu nhập bình quân đầu người một tháng tính theo giá hiện hành của chung cả nước là 295 nghìn đồng tăng 30,1% so với năm 1996, bình quân tăng 9,2%/năm. Như vậy, xét trên quy mô tổng thể nền kinh tế, việc chỉ tiêu tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ở thị trường trong nước hiện đang tăng chậm là do nguyên nhân sức mua yếu của thị trường nông thôn. Cuộc điều tra cho thấy kết quả đáng loại ngại là trong vòng 3 năm 1996 - 1999 thu nhập của dân cư khu vực nông thôn từ sản xuất công nghiệp và dịch vụ chẳng những không tăng mà còn giảm xuống. Cụ thể nếu như thu nhập từ hai nghành sản xuất năm 1996 chiếm 16,6% trong tổng thu nhập của dân cư dịch vụ nông thôn, thì tỷ trọng nay trong năm 1999 giảm xuống chỉ còn 14,08%, trong khi thu nhập từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng từ 57,3% lên 58,5%. Điều này cũng có nghĩa là, thu nhập của dân cư khu vực nông thôn vẫn chủ yếu dựa vào lực lượng nông nghiệp. Những lợi ích lớn của lĩnh vực kinh tế công nghiệp và dịch vụ thì họ được thụ hưởng chả nhiều. Để lợi ích của dịch vụ dịch vụ đến với dịch vụ nông thôn, thì phát triển thương mại trong nước một cách sôi động sẽ dần dần san sẻ được lợi ích của dịch vụ dịch vụ đối với khu vực nông thôn. Điều này xin được chứng minh sau:Nhưng để phát triển được thương mại cần có những tiền đề nhất định. Sau đây là một số định hướng phát triển thương mại, mà người viết đề tài muốn đề cập tới. I. Một số định hướng phát triển hoạt động thương mại ở nước ta trong thời gian tới. 1. Thúc đẩy sản xuất nông sản hàng hoá dựa trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng tạo điều kiện cho hoạt động thương mại giữa các vùng được phát triển: Căn cứ vào tiềm năng, lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh của từng vùng, các địa phương phải xây dựng các quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng phát triển chuyên canh. Sản xuất nông sản hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng mạnh tới xuất khẩu. Việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch của các địa phương cần được sự phối hợp, chỉ đạo, điều hoà của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhằm khắc phục tình trạng nông dân tự phát trong sản xuất hàng hoá. Cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Thương mại ở cấp Trung Ương và giữa các cơ sở ở cấp địa phương trong việc tìm kiếm, thu nhập và cung cấp các thông tin về thị trường làm căn cứ vững chắc cho các quy hoạch kế hoạch dự án phát triển sản xuất nông sản hàng hoá. Bên cạnh đó, cần tăng cường đầu tư cho hệ thống các cơ quan nghiên cứu và triển khai để tạo ra những tập đoàn giống cây trồng, vật nuôi tiên tiến phù hợp với điều kiện tự nhiên, khí hậu của từng vùng, tiểu vùng, tăng cường đầu tư cho các hoạt động khuyến nông, phòng trừ dịch bệnh cho vật nuôi, cây trồng, kiểm soát việc cung ứng thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm. 2. Dùng chính sách thương mại can thiệp tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại tư nhân Có những thời kỳ giá nông sản hàng hóa tụt thấp tới mức người dân không còn muốn thu hoạch nữa. Cụ thể năm 1998 giá lúa trong đồng bằng sông Cửu Long sụt rất thấp (nguyên nhân do không xuất khẩu được) nông dân đã bỏ không thu hoạch nhiều hecta lúa, vì chi phí để thu hoạch cao hơn doanh thu bán lúa. Đây là một thực tế đã xảy ra. Để giải quyết tình trạng tương tự đối với sản phẩm nông sản khác Đảngvà Nhà nước cần có những chính sách kịp thời để xử lý tình trạng trên. ở đây, người viết đề tài này xin đa ra một phương hướng giải quyết những trường hợp tương tự trên. Khi giá nông sản sụt mạnh, Nhà nước có thể tung tiền ra mua sản phẩm làm dự trữ. Điều này đòi hỏi nhà nước phải chi một khoản khá lớn mới có thể bình ổn giá sản phẩm được. Điều này đã thực hiện nhưng ít thành công. ở đây, có thể cũng sử dụng phương pháp mua trợ giá đối với nông sản phẩm. Nhưng đồng thời với quá trình mua nông sản phẩm ấy nhà nước có thể làm tăng giá nông sản phẩm ở thị trường khác. Nói cách khác dùng thị trường để bù giá cho thị trường. Cụ thể để tăng giá cho nông sản nhà nước có thể vừa mua trợ giá một phần từ nông dân, mặt khác bằng các cách khác làm cho khu vực có thu nhập cao (như thành phố, thị xã, thị trấn) mua giá nông sản cao hơn. Thực chất là sử dụng phương pháp này là phân chia lại thu nhập giữa các vùng với nhau. Khi thực hiện theo phương hướng đó nhà nước có thể tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân tham gia kinh doanh thương mại giữa các vùng. Đồng thời kích thích khả năng tiêu thụ nông sản bị ứ đọng. Có một số phản ứng phụ có thể xảy ra khi giải quyết theo phương án này là giá nông sản cao ở thành thị có thể là nhân tố đẩy lạm phát lên cao. Thực ra nhà nước có thể kiểm soát được điều này bằng cách dự trữ nông sản mua từ nông thôn, nhưng không bán ồ ạt mà bán có kiểm soát để giữ giá ở mức có thể tạo ổn định cho nền kinh tế. Chấp nhận một mức lạm phát nào đó ta có thể kích thích tiêu dùng và tăng độ sôi động trong nền kinh tế và nguy cơ giảm phát là không còn. Thực hiện được điều trên thì hoạt động thương nghiệp nhà nước ở thị trường nông thôn là công cụ điều tiết của Nhà nước, làm đối trọng với các thành phố kinh tế khác, giúp nông dân đỡ bị ép cấp, ép giá khi mua vật tư và bán sản phẩm ở thị trường nông thôn. Nghiên cứu đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của thương nghiệp nhà nước ở thị trường này. 3. Chủ trương phát triển công nghiệp nói chung và phát triển công nghiệp chế biến nông sản nói riêng gắn với từng vùng nguyên liệu, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại trong nước và hướng tới xuất khẩu. Thị trường hoạt động thương mại phụ thuộc vào sản xuất công nghiệp rất nhiều. Nông sản phẩm cần được chế biến để có thể xuất ra nước ngoài. Và cạnh tranh với thị trường trong nước, tạo điều kiện liên kết giữa các nhà kinh doanh thương mại và các nhà sản xuất hình thành những kênh lưu thông đặc thù cho từng sản phẩm. Xuất khẩu sản phẩm thô bao giời cũng bất lợi vì bị nhiều đối thủ cạnh tranh. Thật vậy nền công nghiệp chế biến đống vai trò quan trọng để năng cao chất lượng hàng hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế cho sản phảm xuất khẩu. Do vậy về lâu dài để có thể cạnh tranh được trong nước cần phải phát triể công nghiệp chế biến 4. Tiến hành xây dựng hệ thống thông tin vững mạnh để tiến tới xây dựng một nền thương mại hiện đại bắt kịp với các vùng trong khu vực. Kinh doanh thương mại dịch vụ ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin. Ngày nay thương mại điện tử hơn lúc nào hết đang chứng tỏ được sức mạnh và sự tiêu lợi trong buôn bán trên thương trường quốc tế. Ngày nay chúng ta không lo lạc hậu mà sợ tụt hậu. Đặc biệt là về thông tin. Do vậy trong những năm tới cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc hoàn thiện hệ thống internet ở các khu đô thị và trung tâm thương mại. Những định hướng trên đây chỉ mang tính chất xu hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động thương mại trong nước phát triển. Còn phát triển nó bằng cách gì là câu trả lời của những nhà nghiên cứu khoa học về kinh tế. Sau đây, xin được trình bày một số giải pháp để phát triển thị trường thương mại trong nước và từ đó hướng tới thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô thông qua việc phát triển các doanh nghiệp thương mại tư nhân làm chất "xúc tác" cho mục tiêu tăng trưởng. II. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh trânhcủ doanh nghiệp thương mại. Bằng lý luận và thực tiễn chuyên đề đã đa ra việc phát triển các doanh nghiệp thơng mại tư nhân như là một chất "xúc tác" khiến "phản ứng" tăng trưởng kinh tế diễn ra mạnh mẽ hơn. Thật vậy nền kinh tế nước ta đặt trong mục tiêu là: "Tăng trưởng nhanh và ổn định". Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để thúc đẩy thị trường trong nước phát triển từ đó có cơ sở điều kiện để phát huy các yếu tố ngoại lực. Cụ thể vấn đề đó ra là phải có những nhiệm vụ cụ thể, như làm thế nào để tăng thu nhập cho khu vực nông thôn, làm thế nào để tăng trưởng thương mại mạnh mẽ? làm thế nào để chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế? làm thế nào để hàng hóa trong nước có thể cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài? và làm thế nào để giải quyết việc làm cho lao động?... Như vậy từ một mục tiêu kinh tế xã hội chúng ta phải làm rất nhiều công việc và sử dụng những phơng pháp khác nhau thì mới đạt được mục tiêu ấy. 1. Tăng số doanh nghiệp thương mại tư nhân trong nền kinh tế thông qua giảm vốn pháp lệnh thành lập doanh nghiệp đối với những mặt hàng cần tính cạnh tranh cao. Lý do để chọn giải pháp này vì: Thứ nhất: khi tăng số donah nghiệp thương mại tư nhân trong nền kinh tế chúng ta chắc chắn sẽ giải quyết được một số lớn lao động trong xã hội làm tăng thu nhập và kích thích tiêu dùng đầu tư. Thật vậy, nhìn vào các con số thống kê việc làm trên các tạp chí và báo gần đây, đều nói đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên, tình trạng thừa thấy thiếu thợ của nền kinh tế (theo một con số thống kê gần đây số tiến sỹ gấp đôi số công nhân bậc bảy). Câu hỏi đặt ra tại sao những thanh niên tri thức trẻ không tham gia vào guồng máy kinh doanh được? Câu trả lời có thể có nhiều, song nguyên nhân chính là họ không có đủ vốn để tham gia vào quá trình kinh doanh. Do vậy, khi giảm số vốn pháp lệnh thành lập doanh nghiệp thương mại tư nhân xuống chắc chắn ý chí làm giàu của những ngời có một ít vốn sẽ có cơ hội tự chủ kinh doanh. Như vậy, khi số doanh nghiệp thương mại tư nhân phát triển, thì số lao động trí thức sẽ đợc huy động vào guống máy kinh doanh, số người lao động trong khu vực .dịch vụ tăng cơ cấu lao động thay đổi. Huy động được một lượng lớn đội ngũ lao động chất xám vào nguồn vốn cho nền kinh tế, cho phát triển kinh tế. Lý do thứ hai: khi tăng số doanh nghiệp thương mại nên cạnh tranh thương mại sẽ gay gắt hơn buộc các nhà kinh doanh phải nghĩ cách để giảm chi phí, lúc đó sẽ tạo cho sản phẩm sức cạnh tranh cao hơn. Tuy nhiên về lâu dài để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm chúng ta phải hướng vào chất lượng sản phẩm. Lý do thứ ba: khi số doanh nghiệp thương mại tư nhân tăng thêm cơ hội đầu tư trong nước sẽ tăng.theo. Vì nguyên tắc khôn ngoan của đầu tư của một tư nhân là "không bỏ trứng vào một giỏ" thì việc có nhiều doanh nghiệp sẽ là cơ sở để huy động hết nguồn vốn ở các doanh nhân. Hay nói cách khác khi số doanh nghiệp tăng sẽ là cho môi trường đầu tư của các đầu tư an toàn hơn. Đó chính là một hình thức thu hút đầu tư hữu hiệu đối với các nhà đầu tư trong nước. Lý do thứ tư: khi doanh nghiệp tư nhân được phát triển đường lối của Đảng và Nhà nước được lòng dân tin tưởng hơn. Với những lý do nói trên, việc lựa chọn giải pháp đã đưa ra là hiển nhiên để thực hiện được điều đó không phải chỉ giảm vốn pháp lệnh trong việc thành lập doanh nghiệp tư nhân. Đó chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ. Sau đây xin đề nghị thêm mấy giải pháp để hỗ trợ cho việc phát triển các doanh nghiệp thương mại tư nhân 2. Thông qua chính sách đất đai tạo điều kiện thuận lợi cho những doanh ngiệp thương mại tư nhân hoạt động kinh doanh. Trong phần 2 chương II đã đề cập đến một số thực trạng tình hình hoạt động kinh doanh thương mại của các doanh ngiệp thương mại tư nhân trong hoạt động xuất khẩu của mình trong đó có khó khăn về đất đai làm mặt bằng sản xuất. Chính sách thủ tục về giao đất và thuê đất còn nhiều bất cập, cha được cụ thể hóa nên gây không ít phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp. Mặt khác quy định về quyền sử dụng đất cũng cha rõ ràng nên doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc thế chấp giá trị quyền sử dụng để vay vốn ngân hàng. Vì vậy về chính sách đất đai cần ưu tiên cấp đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu và kinh doanh những mặt hàng mang tính cạnh tranh quốc tế để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Nếu chính quyền các cấp xác định công việc trên có ý nghĩa nh cung cấp một nguồn lực cho các doanh ngiệp thương mại tư nhân xuất khẩu, thì việc đó sẽ góp phần thúc đẩy phát triển xuất khẩu, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đang hoạt động có sử dụng nhiều lao động hoặc liên quan đến bảo vệ môi trường. Cần hoàn thiện các thủ tục đăng ký mua bán, công khai thông tin và tạo thuận lợi các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu di chuyển địa điểm sang những vị trí thuận lợi hơn, từ đó hình thành cơ chế tác động đến việc cung ứng đất cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Cần tạo ra hệ thống đăng ký và hình thành một lại hình dịch vụ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, làm cho việc kinh doanh quyền sử dụng đất được trôi chảy và khắc phục sự bất bình đẳng trong việc phân phối đất theo hướng hình thành thị trường bất động sản. 3. Nhà nước cần giúp đỡ các doanh nghiệp bảo vệ kiểu dáng công nghiệp cho các sản phẩm xuất khẩu . Người Nhật có khẩu hiệu là: Business is war, điều đó nói lên rằng kinh doanh là một sống một chết. Vì vậy trong nước có thể môi trường kinh doanh chưa cạnh tranh đến mức đó mà chúng ta lơ là chăng? Qua một số bài báo gần đây cho biết có khi nhiều mặt hàng có uy tín sản xuất tại nước ta hiện nay muốn xuất khẩu và lưu thông ở nhiều nước phải được sự cho phép của một công ty nước ngoài "lạ hơ lạ hoắc" đang nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN - thơng hiệu, kiểu sáng, mẫu mã của sản phẩm) mà thực chất lẽ ra quyền đó phải được cấp cho doanh nghiệp Việt Nam. Đầu tiên phải kể đến là nhãn hiệu thương mại Bia Sài Gòn - anh cả trong ngành bia rượu Việt Nam được cả thế giới biết đến với nhãn hiệu là lớn bia 333. Một điều tra thị trường gần đây do một tổ chức KINH Tế Tư NHâN của Mỹ cho thấy bia lon 333 xếp thứ 5 chỉ đứng sau các nhãn hiệu Heineken, Sanmiguel và Tiger... Trong số hơn 20 loại bia lon đợc sử dụng phổ biến ở Mỹ. Vậy mà giờ đây bia lon 333 đi vào thị trờng Mỹ không phải là chuyện dễ dàng dù cho công chúng Mỹ có đa cả 2 tay ra đón nhận. Nguyên nhân chính cuối năm 2001, một công ty kinh doanh của Mỹ đã nhanh chân làm thủ tục xin độc quyền làm nhà phân phối bia lon 333 trên đất Mỹ và một số nước khác. Với mảnh giấy độc quyền kiểu dáng công nghiệp được cấp với nhiều nhãn hiệu bia lon 333 và khi đó để đa sản phẩm của mình vào đất Mỹ công ty của ta cũng phải chịu một số khoản lệ phí rất vô lý. Tương tự nhãn hiệu Vinataba của Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam bị một doanh nghiệp xấu tính của Indonesia cướp mất. Doanh nghiệp nọ sau khi được cấp giấy chứng nhận độc quyền đã trâng tráo gửi thông cáo đến 9 nước châu á xác nhận là chủ nhân hợp pháp của Vinataba. Vỏ bao thuốc lá của công ty này không khác so với các sản phẩm của Việt Nam nhưng chất lượng thì không nói có thể đoán ra là gì rồi. Kế đó nhãn hiệu Vinamilk (thương hiệu cô gái Hà Lan), cà phê Trung Nguyên cũng chịu chung số phận. Quả thật nếu không được những "tên cướp giàu có này" cho phép thì xem như các doanh nghiệp Việt Nam ăn cắp kiểu sáng công nghiệp của chính mình và cánh cửa mở vào thị trường màu mỡ này gần như đóng sập lại. Câu hỏi đặt ra là hàng hóa tại nhiều nước phát triển khó bị đối phương chiếm đoạt thương hiệu kiểu dáng công nghiệp. Tại sao vậy? Xét ở góc độ nhà nước, đơn giản là họ được bảo vệ bởi nhiều thành phần hiện có là các hiệp ước quốc tế về bảo hộ hàng hóa các nước thành viên. Hai hiệp ước phổ thông nhất trên thế giới hiện nay là thỏa ước Lacorno về phân loại quốc tế kiểu dáng công nghiệp và thỏa ước Lahay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp. VN hiện chưa tham gia thỏa ước Locarno, nhưng đang áp dụng bảng phân loại và tra cứu xét nghiệm đơn kiểu dáng công nghiệp. Đối với hiệp ước Lahay Thụy Sỹ đã hoan nghênh cam kết ủng hộ. chúng ta tham gia. Việc tham gia sẽ mang lại nhiều lợi ích về thương mại xuất nhập khẩu. ở góc độ doanh nghiệp, mỗi đơn vị phải nỗ lực, chiến đấu bảo vệ đòi lại bằng được những quyền lợi chính đáng bị tước đoạt mất. chính sách xem cuộc khiếu kiện không khoan nhượng của Thái Lan bảo vệ cho thương hiệu một loại gạo đặc sản của họ mới thấy được ý nghĩa của thương hiệu và kiểu dáng công nghiệp quan trọng đến mức nào. Vì vậy doanh nghiệp trong nước không thể thờ ơ phó mặc mọi việc để cho Chính phủ mà cần khẩn trương tự bảo vệ và tạo thương hiệu cho mình. 4. Bộ Thương mại cần tăng cường tổ chức xúc tiến thương mại giúp các doanh nghuiệp thương mại tư nhân trong nước có cơ hội tiếp xúc với khách hàng nhiều hơn. Hiện tại ở Việt Nam doanh nghiệp xuất khẩu chưa đủ mạnh để mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài. Còn các doanh ngiệp thương mại tư nhân trong nước ngay cả với thị truờng nội địa cũng chưa tiếp xúc đuợc đầy đủ. Hội chợ triển làm là một cách tiếp cận với khách hàng nội địa rất tốt. ở Việt Nam, hiện đã và đang có những tổ chức xúc tiến thơng mại nh Trung tâm Phát triển ngoại thuơng và đầu tư của TP.Hồ Chí Minh, phòng thuơng mại và công nghiệp VT (VCCI) với nhiều chi nhánh ở các thành phố và các tỉnh và các Hiệp hội công thuơng. Tuy nhiên cần có một tổ chức xúc tiến thương mại cấp quốc gia để có thể vừa làm công tác xúc tiến thuơng mại trong nước và xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Cần tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước nhiều hơn nữa về mặt thông tin. Những thông tin ở thị trường ngoài nước có thể bị hạn chế, nhưng thị trường trong nước cần phải tăng cuờng hơn nữa. Đặc biệt nên tổ chức các cuộc điều tra phỏng vấn đối với các doanh ngiệp thương mại tư nhân 5. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý vĩ mô đối với doanh nghiệp thương mại tư nhân. Đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới sắp xếp lại các doanh ngiệp thương mại tư nhân trong nền kinh tế. Cần xác định rõ ràng những mặt hàng các doanh ngiệp thuơng mại tư nhân không dược phép kinh doanh, và những mặt hàng cần khuyến khích các doanh nghiẹp thơng mại t nhân kinh doanh để từ đó có cá chính sách hỗ trợ trong nước đối với các doanh nghiệp tham gia kinh doanh mặt hàng được khuyến khích. Cần chú trọng việc đào tạo các lao động ở những doanh nghiệp thương mại tư nhân vì đó là nơi mà lao động được đào tạo có tính chuyên môn cao và khá hiệu quả. Cần có chính sách đối với những doanh ngiệp thương mại tư nhân hoạt động kinh doanh ở những vùng miền núi vùng xâu vùng xa. Đặc biệt cần gấp rút đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng cho hoạt động thương mại ở những vùng trọng diểm có tính chiến lược trong chiến luợc phát triển kinh tế đất nước. 6. Về các giải pháp kinh tế tài chính nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của khu vực doanh ngiệp thương mại tư nhân. Việc thúc đẩy thị trường trong nước phát triển là nhằm để có thể đứng vững đuợc khi tiến hành hội nhập. Do vậy cần tạo điều kiện về tài chính cho các doanh ngiệp thương mại tư nhân tham gia xuất khẩu. Qua tổng hợp phiếu điều tra dã nêu ở Chương II có thể nêu ra một số khó khăn chính của các doanh ngiệp thương mại tư nhân nhu sau. Thứ nhất là khó khăn về vốn hoạt động, đặ biệt là vốn để đỏi mới công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật. Song việc vay vốn ngân hàng với những quy định ngặt nghèo về thế chấp làm cho doanh nghiệp khó vay được vốn. Chẳng hạn, ngân hàng không chấp nhận thế chấp để cho vay đối với đất đai của doanh nghiệp nếu khong có nhà xuởng trên phần dất đó, mặc dù doanh nghiệp dã được cấp quyền sử dụng đất và chỉ chấp nhận thế chấp để cho vay đối với đất mà quyền sử dụng đất được cấp cho doanh nghiệp không rõ thời hạn sử dụng, trong khi phần lớn doanh nghiệp phải thêu dất của Nhà nước có thời hạn để xây dựng nhà xưởng sản xuất. trong bối cảnh đó hầu hết các doanh nghiệp đều phải dùng vốn tự có và huy động tư các nguồn khác không chính thức với lãi xuất cao hơn nên quy mô vốn không lớn. Thứ hai, là khó khăn về thuế khoá. Các doanh nghiệp còn mơ hồ về cách tính thuế. Các thông báo trước thuế xuất khẩu và các chính sách ưu đãi đầu tư theo luật khuyên khích đầu tư trong nước chưa được niêm yết công khai hoặc chưa được tuyên truyền tới các doanh nghiệp tư nhân để họ có thể tính toán hiệu quả trước khi thực hiện các thương vụ xuất khẩu. Chế độ ưu đãi về thuế trong luật khuyên khích đầu tư trong nước và các luật thuế nhất là thuế thu nhập doanh nghiệp, chưa được quy định một cách đồng bộ. Xét cho cùng, động lực cho tăng trưởng kinh tế nói chung, và cho xuất khẩu nói riêng trong giai đoạn tới sẽ là sự tham gia của khu vực tư nhân vào hoạt động xuất khẩu. Do vậy, các luật thuế cần được công bố hệ thống đồng bộ với các ưu đãi trong luật khuyến khích đầu tư trong nước để khuyến khích các doanh nghiệp thương mại tư nhân hoạt động hiệu quả và kinh doanh theo pháp luật. Trên đây là một giải pháp và phương hướng kiến nghị để tạo điều kiện cho các doanh ngiệp thương mại tư nhân phát huy hết tác dụng của mình trong nền kinh tế. Khi các mặt mạnh của các doanh nghiệp này được phát huy các yếu tố tiêu cực sẽ được hạn chế. Kết luận Qua việc trình bày tình hình diễn biến kinh doanh nói riêng của các doanh nghiệp thương mại và nền kinh tế đất nước em rút ra một số luận điểm sau: Thứ nhất; Nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn nhất là vấn đề vốn. để huy động hết nguồn vốn có trong dân có thể sử dụng nhiều phương thức khác nhau trong đó tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển là một phương thức tạo lực huy động vốn mạnh nhất khi mà tích luỹ vốn của dân chưa đủ để tham gia vào sản xuất và đủ để tham gia hoạt động thương mại. Do vậy, phát triển các doanh nghiệp thương mại là một tất yếu khách quan trong định hướng phát triển kinh tế đất nước. Thứ hai; Những thông tin phân tích từ thực trạng cho thấy cơ chế quản lý của Nhà nước luôn là vấn đề then chốt kích động tới các thành phần kinh tế đặc biệt là những ảnh hưởng tới doanh nghiệp thương mại, trong đó vấn đề đất đai, vấn đề thuế, ... luôn là vấn đề nổi cộm trong quá trình phát triển kinh tế đất nước nói chung và phát triển các doanh nghiệp thương mại nói riêng. Trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay các chính sách thương mại trong nước cần có sự phù hợp với các quy định của các tổ chức kinh tế thế giới. Chúng ta cần xây dựng hệ thống chính sách về thương mại sao cho vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế đất nước vừa phù hợp với các luật định của các tổ chức kinh tế thế giới. Đó là những thách thức không nhỏ của nền kinh tế nói chung và của Nhà nước nói riêng. Tóm lại, để tăng trưởng phát triển ổn định, các chính sách thương mại trong nước cần hướng và việc tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, trong đó phát triển các doanh ngiệp thương mại làm chất xúc tác cho nền kinh tế phát triển. Em xin chân thành cám ơn thầy giáo ThS. Trịnh Anh Đức đã tận tình giúp đỡ em trong việc hoành thành chuyên đề này. Chuyên đề chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em mong các thầy cô chỉ dậy thêm. Tài liệu tham khảo 1. Cạnh tranh bằng giảm tối đa phí tổn thương mại - JEAN GUIONY - NXB Thành phố Hồ Chí Minh - 1995. 2. Hệ thống chính sách thương mại của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Tập 1,2) - NXB - Chính trị quốc gia - 1996. 3. Niên Giám Thống kê 2000 - Tổng cục Thống kê. 4. Luật Thương mại - NXB Chính trị Quốc gia - 1997. 5. Luật Doanh nghiệp - NXB Chính trị Quốc gia - 1999. 6. Văn kiện Đại Hội Toàn quốc lần thứ IX - NXB Chính trị quốc gia - 1999. 7. Giáo trình Kinh tế Thương mại - NXB Thống kê - ĐH KTQD - 1998. 8. Kinh tế chính trị Tập II - NXB Giáo dục - Trờng ĐH KTQD - 1998. 9. Giáo trình chính sách kinh tế - xã hội - NXB Khoa học và kỹ thuật - Khoa Khoa học quản lý. 10. Giáo trình chính sách quản lý thương mại - NXB Thống kê - 2000. 11. Tạp chí cộng sản: Số 19 (10-2001) - Thị trường trong nước là động lực quan trọng để kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững - Nguyễn Đình Bích. 12. Tạp chí Phát triển Kinh tế số 133/99. Từng bước phát triển hoàn thiện thị trường ở nước ta hiện nay - Nguyễn Văn Nghệ. 13. Tạp chí Phát triển Kinh tế 105/99 - Tìm thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp - TS. Lê Khoa. 14. Tạp chí Thương mại số 2/99 Phát triển thị trường nội địa là biện pháp quan trọng để chống suy thoái kinh tế - Trung Bộ. 15. Đổi mới quản lý kinh tế Nhà nước 6/2000. TS. Nguyễn Đình Tài. 16. Tạp chí Tài chính số 4 (426) - Ngổn ngang phí, mục lục Lời mở đầu 1 Chương I: Cơ sở lý luận về Doanh nghiệp thương mại và cạnh tranh của các doanh nghiệp Thương mại trong nền kinh tế thị trường. 4 I. Doanh nghiệp thương mại và cạnh tranh của Doanh nghiệp Thương mại trong nền kinh tế thị trường. 4 1. Khái quát chức năng, đặc điểm của doanh nghiệp. 4 1.1. Khái niệm về doanh nghiệp. 4 1.2. Doanh nghiệp thương mại. 5 2. Cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp. 6 2.1. Khái niệm. 6 2.2. Các loại hình cạnh tranh. 7 2.3. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. 8 2.4. Mục đích cạnh tranh của doanh nghiệp. 10 3. Đặc điểm cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường. 11 II.Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của DN. 12 1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 12 2. Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 13 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 14 3.1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp. 14 3.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp 19 Chương II:Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại ở thị trường Việt Nam giai đoạn 1996 - 2002 22 I. Sơ lược về đặc điểm tình hình kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm đổi mới 22 1. Khái quát tình hình thị trường thương mại trong nước trong giai đoạn 1996-2002. 22 2/Những mặt còn tồn tại; 26 II/Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong những năm đổi mới. 27 1/Hệ thống Doanh nghiệp thương mại ở thị trường Việt Nam 27 1.1. Doanh nghiệp TM tập thể: 27 1.2. Doanh nghiệp TM tư nhân: 27 1.3. Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp doanh: 28 1.4. Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 30 2.Tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại. 31 2.1. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp thương mại nhà nước. 31 2.2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp thương mại tư nhân. 35 III.Đánh giá hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại ở thị trương Việt Nam. 39 1. Ưu điểm 39 2.Một số nhược điểm và nội dung đổi mới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại 41 3. Nguyên nhân những hạn chế 45 Chương 3: Một số giải pháp năng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập 48 I. Một số định hướng phát triển hoạt động thương mại ở nước ta trong thời gian tới. 49 1. Thúc đẩy sản xuất nông sản hàng hoá dựa trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng tạo điều kiện cho hoạt động thương mại giữa các vùng được phát triển 49 2. Dùng chính sách thương mại can thiệp tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại tư nhân 49 3. Chủ trương phát triển công nghiệp nói chung và phát triển công nghiệp chế biến nông sản nói riêng gắn với từng vùng nguyên liệu, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại trong nước và hướng tới xuất khẩu. 51 4. Tiến hành xây dựng hệ thống thông tin vững mạnh để tiến tới xây dựng một nền thương mại hiện đại bắt kịp với các vùng trong khu vực. 51 II. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh trânhcủ doanh nghiệp thương mại. 52 1. Tăng số doanh nghiệp thương mại tư nhân trong nền kinh tế thông qua giảm vốn pháp lệnh thành lập doanh nghiệp đối với những mặt hàng cần tính cạnh tranh cao. 52 2. Thông qua chính sách đất đai tạo điều kiện thuận lợi cho những doanh ngiệp thương mại tư nhân hoạt động kinh doanh. 53 3. Nhà nước cần giúp đỡ các doanh nghiệp bảo vệ kiểu dáng công nghiệp cho các sản phẩm xuất khẩu . 54 4. Bộ Thương mại cần tăng cường tổ chức xúc tiến thương mại giúp các doanh nghiệp thương mại tư nhân trong nước có cơ hội tiếp xúc với khách hàng nhiều hơn. 56 5. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý vĩ mô đối với doanh nghiệp thương mại tư nhân. 57 6 Về các giải pháp kinh tế tài chính nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của khu vực doanh ngiệp thương mại tư nhân. 57 Kết luận 59 Tài liệu tham khảo 61

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0075.doc
Tài liệu liên quan