Chiến lược khách hàng là một trong những phương thức mà các ngân hàng sử dụng cho cuộc chiến cạnh tranh của mình, đó là toàn bộ quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện những hoạt động từ việc nghiên cứu, phát hiện nhu cầu đến việc thoả mãn tốt những nhu cầu mong muốn của nhóm khách hàng bằng hệ thống những chính sách, công cụ nhằm duy trì mối quan hệ với khách hàng truyền thống và mở rộng quan hệ với khách hàng tiềm năng trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Do vậy, NH cần xây dựng một chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch ngân hàng. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng.
73 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1628 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng An Bình trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tuyến chức năng, nghĩa là các phòng ban của công ty có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và cùng chịu sự quản lý của giám đốc.
Chi nhánh bao gồm 10 phòng ban:
* Phòng khách hàng doanh nghiệp: Phòng khách hàng doanh nghiệp là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp để khai thác vốn bằng Việt Nam đồng ( VNĐ) và ngoại tệ, thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam, trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp.
* Phòng khách hàng cá nhân: Phòng khách hàng cá nhân là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ, thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam, trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng cá nhân.
* Phòng/ Tổ quản lý rủi ro: Phòng quản lý rủi ro có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của chi nhánh; quản lý giám sát thực hiên danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo tuân thủ các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng. Thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng, dự án, phương án đề nghị cấp tín dụng. Thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
* Phòng quản lý nợ có vấn đề: Phòng quản lý nợ có vấn đề chịu trách nhiệm về quản lý và xử lý các khoản nợ có vấn đề ( bao gồm các khoản nợ: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, nợ quá hạn, nợ xấu); quản lý, khai thác và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay theo quy định của Nhà nước nhằm thu hồi các khoản nợ gốc và lãi tiền vay; quản lý, theo dõi và thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro.
* Phòng kế toán: Phòng kế toán là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch với khách hàng; các nghiệp vụ và công việc liên quan đến công tác quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ tại chi nhánh; cung cấp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạch toán các giao dịch. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt đến từng giao dịch viên theo đúng quy định của Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm của Ngân hàng.
* Phòng/ Tổ Thanh toán xuất nhập khẩu: Phòng Thanh toán xuất nhập khẩu là phòng nghiệp vụ về thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh theo quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
* Phòng Tiền tệ kho quỹ: Phòng Tiền tệ kho quỹ là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam; ứng và thu tiền cho các Quỹ tiết kiệm, các Điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu, chi tiền mặt lớn.
* Phòng Tổ chức hành chính: Phòng Tổ chức hành chính là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam; thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh an toàn chi nhánh.
* Phòng/ Tổ Thông tin điện toán: Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh; bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của chi nhánh.
* Phòng/Tổ tổng hợp: Phòng Tổng hợp là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Giám đốc chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của chi nhánh.
1.3. Tình hình hoạt động của ABBANK007 là năm phát triển vượt
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
Trong năm 2007, tổng huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư của ABBANK đã tăng 350% đạt 6.981 tỷ đồng trong đó huy động từ các tổ chức kinh tế chiếm 72% và từ dân cư chiếm 28%.
Hoạt động huy động vốn từ các tổ chức kinh tế là một trong các hoạt động khởi sắc nhất của ABBANKtrong năm 2007 đạt 5.501 tỷ tăng 323%. Huy động vốn từ các hộ dân cư tăng 487% đạt 1.480 tỷ.Mức tăng trưởng huy động này có được do ABBANK đã mở rộng mạng lưới với 54 điểm giao dịch mới trong năm, việc điều chỉnh lãi suất linh hoạt phù hợp với các thay đổi của thị trường,và việc tăng cường các hoạt động quảng cáo, truyền thông và khuyến mãi.
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
Năm 2007 đánh dấu sự tăng trưởng lớn trong hoạt động tín dụng của ABBANK, đóng góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận. Năm 2007 là năm thứ 3 liên tiếp ABBANK tăng trưởng tín dụng trên cơ sở áp dụng đầy đủ các thông lệ và chuẩn mực quốc tế và của Ngân hàng Nhà nước Việt nam về an toàn tín dụng và phân loại nợ trong hoạt động tín dụng của mình.
ABBANK rất chú trọng việc lựa chọn khách hàng và áp dụng các quy trình thẩm định và tái thẩm định chặt chẽ để giảm thiểu các khoản nợ xấu. Tổng dư nợ tín dụng, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007 tăng 502% đạt 6.858 tỷ trong đó khách hàng doanh nghiệp chiếm61,4% và khách hàng cá nhân chiếm 38,6%. Xét về thời hạn vay, năm 2007 tổng dư nợ ngắn hạn chiếm 50% tổng dư nợ tín dụng, dư nợ cho vay trung hạn chíếm 29% và dài hạn chiếm 21%. Phân bổ theo nhóm khách hàng, doanh số phát vay cho đối tượng được phân chia như sau: (1) Nông, lâm thủy sản chiếm 0,68%, (2) Khai thác và xây dựng chiếm 6,62%, (3) Sản xuất, chế biến chiếm 12,15%, (4) Thương mại, dịch vụ chiếm 43,45%, (5) Đầu tư, góp vốn CP chiếm 2,20%, (6) Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng (tiêu dùng, mua nhà, xe, chữa bệnh, du học, buôn bán nhỏ lẻ…) chiếm 34,9%
HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ
Năm 2007, hoạt động TTQT của ABBANK đã phát triển đầy ấn tượng với các thành tựu sau: triển khai được tất cả các sản phẩm TTQT trên toàn hệ thống, phát triển hệ thống ngân hàng đại lý với trên 2,000 ngân hàng tại hơn 70 quốc gia, doanh số TTQT: hàng xuất khẩu, nhập khẩu đạt 150 triệu USD, xử lý tập trung hoạt động TTQT theo mô hình Ngân hàng hiện đại, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo chuẩn của SWIFT, đạt độ chính xác và an toàn cao. ABBANK hân hạnh được nhận giải “Ngân hàng thanh toán quốc tế xuất sắc 2007” do Wachoviabank – một trong bốn ngân hàng lớn nhất của Mỹ trao tặng. Giải thưởng đã khẳng định được vị thế của ABBANK trên thị trường trong nước và trên thế giới
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
Năm 2007 đánh dấu những nỗ lực to lớn trong hoạt động Đầu tư Tài chính của ABBANK. Chiến lược đầu tư ABBANK lựa chọn là an toàn, hiệu quả, đa dạng và linh hoạt. Trong hoạt động đầu tư dài hạn, Ngân hàng đang góp vốn thành lập các công ty/tổ chức tài chính như: Công ty cổ phần EVN-Campuchia, Công ty cổ phần dịch vụ thẻ Smartlink, Công ty cổ phần tài chính điện lực,...với tổng vốn đầu tư đã thực hiện là hơn 70 tỷ đồng. Thực hiện chiến lược phát triển danh mục đầu tư bền vững thông qua các khoản đầu tư tài chính dài hạn, ABBANK hướng tới một chiến lược đầu tư vào các công ty hoạt động trong các ngành kinh tế trọng điểm của đất nước như điện lực, phát triển cơ sở hạ tầng… Song song với hoạt động góp vốn thành lập mới, ABBANK đầu tư đang nắm giữ cổ phần của các tổ chức tài chính, doanh nghiệp lớn, uy tín, có tiềm năng tăng trưởngcao như: Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, Công ty cổ phần mạng thanh toán Paynet, Công ty cổ phần
Tập đoàn công nghệ CMC.
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng ABBANK
2.1. Nguồn lực tài chính
Như được đề cập ở mục 1.2.3, nguồn lực tài chính hiện có của một Ngân hàng thương mại bao gồm: quy mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời…, do đó để xem xét và đánh giá năng lực tài chính của Ngân hàng ABBANK, ta sẽ tiến hành phân tích các yếu tố này.
* Yếu tố vốn:
Tăng trưởng nguồn vốn, đặc biệt là tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm là một trong những mục tiêu quan trọng của các ngân hàng. Để phân tích quy mô và kết cấu huy động vốn của ABBANK, ta sẽ tập trung phân tích theo hai chỉ tiêu sau:
Quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, đặc biệt là tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm và vay
Cơ cấu nguồn vốn và sự thay đổi cơ cấu
Về quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn:
Bảng 2.4: Tổng nguồn vốn của NH trong ba năm vừa qua
(Đơn vị tính: tỉ VNĐ)
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Tổng nguồn vốn
485,541
1888,002
14478,551
Tăng tuyệt đối so với năm trước
_
1402,461
12590,549
(Nguồn: Báo cáo thường niên )
Về cơ cấu nguồn vốn:
CÔNG TÁC PHÁT HÀNH THẺ VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CHẤP NHẬN THẺ
Trong năm 2007, ABBANK chính thức tham gia thị trường thẻ Việt Nam bằng việc cho ra mắt Thẻ ghi nợ nội địa YOUcard. YOUcard ra đời được khách hàng và giới chuyên môn đánh giá cao trên cơ sở mạng lưới ATM/ POS chấp nhận thẻ rộng khắp trên toàn quốc. Để có thành công này cùng với việc hoàn thiện Hệ thống phát hành thẻ thanh toán riêng, ABBANK đã nỗ lực tham gia và kết nối thành công với các Tổ chức thẻ lớn trong nước: Mạng SmartLink, BanknetVN và Paynet, đưa số Điểm chấp nhận thẻ YOUcard lên đến 5.000 ATM và 10.000 POS trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Năm 2008, ABBANK sẽ tiến hành tham gia các Tổ chức Thẻ quốc tế như VISA, MasterCard … cũng như nghiên cứu các ứng dụng và công nghệ tiên tiến để phát triển Dịch vụ Internet Banking và Mobile Banking áp dụng với thẻ YOUcard nhằm mở rộng phạm vi sử dụng thẻ ra quy mô quốc tế, đồng thời mở rộng mạng lưới ATM từ 16 điểm lên 50 điểm trên toàn quốc. Dự kiến sẽ phát hành 100.000 thẻ trong năm 2008, tập trung vào các khách hàng mục tiêu như Tập đoàn EVN và các Công ty thành viên, các Cổ đông, khách hàng Doanh nghiệp có quan hệ Tín dụng và Tiền gửi với Ngân hàng và các khách hàng cá nhân tại ABBANK.
HOẠT ĐỘNG TRÊN THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG
Với các hoạt động giao dịch trên thị trường liên ngân hàng, ABBANK là một thành viên mới nhưng rất năng động. Kết quả đến cuối năm 2007, cho vay của ABBANK với các tổ chức tín dụng khác đã tăng 267% đạt 5.643 tỷ. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh chứng khoán và đầu tư chứng khoán tăng 975% đạt 3.695tỷ.
QUẢN LÝ RỦI RO
ABBANK xem hoạt động quản trị rủi ro là một trong các công tác có tầm quan trọng hàng đầu nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh tại từng chi nhánh và trong toàn hệ thống.
Quản trị rủi ro tín dụng
Trong năm 2007, ABBANK đã xây dựng và thực hiện nhất quán trong tòan hệ thống một hệ thống quản trị rủi ro tín dụng với các tiêu chuẩn rất cao, đóng vai trò là cơ sở nâng cao chất lượng của công tác đánh giá, thẩm định và giám sát tín dụng trong toàn hệ thống. Mỗi khoản vay, tùy quy mô và mức độ rủi ro, sẽ được phê duyệt bởi Hội đồng tín dụng, Ban tín dụng, hoặc các chuyên viên tín dụng hoạt động độc lập với các đơn vị kinh doanh. Nhờ vậy, ABBANK đã giảm đáng kể tỉ lệ nợ xấu / dư nợ cho vay xuống 1,52%. Phần lớn các khoản nợ quá hạn đều có khả năng thu hồi là do được đảm bảo bằng tài sản có tính khả mại cao, chủ yếu là bất động sản.
Quản trị rủi ro thị trường
Trong năm 2007, ABBANK tiếp tục áp dụng các mô hình quản trị rủi ro thị trường hiện đại và mới nhất bao gồm các hệ thống theo dõi và kiểm soát thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro ngoại hối. ABBANK đã thay đổi lãi suất kịp thời và linh hoạt với các thay đổi thị trường trong các biên độ hợp lý và giới hạn cho phép.
Chính vì vậy, trong thời gian qua, mặc dù lãi suất huy động liên tục tăng nhưng ngân hàng vẫn có một tỷ lệ lãi suất biên hiệu quả. Công tác thiết lập báo cáo thanh khoản được thực hiện định kỳ đã giúp cho ban lãnh đạo và bộ phần nguồn vốn có biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro thích hợp và kịp thời, chi phí thấp nhất và hiệu quả cao nhất.
Các rủi ro vận hành
ABBANK đã rất chú trọng đến việc kiểm soát các rủi ro vận hành vì hoạt động của Ngân hàng đã tăng lên với việc đưa vào áp dụng nhiều sản phẩm và dịch vụ mới và đa dạng.
ABBANK đã thành lập ban kiểm soát nội bộ ngay tại từng PGD và chi nhánh để kiểm tra các hoạt động tín dụng, kế toán, kho quỹ, mua bán ngoại tệ, nhân sự, phong cách làm việc,...
Hợp tác với ABS
ABBANK là một trong các cổ đông thành lập của công ty chứng khoán An Bình (ABS).
Trong năm 2006, ABBANK đã góp vốn 5 tỉ dồng vào ABS, cung ứng khoản tín dụng 150 tỉ đồng và mở 3 điểm giao dịch chung, nơi các khách hàng của ABS được nhân viên của
ABBANK cung cấp dịch vụ thu chi tiền giao dịch chứng khoán và các hoạt động thanh toán khác. Mô hình phục vụ chung ABBANK-ABS đã được khách hàng đánh giá cao và khen ngợi vì thuận tiện và thời gian phục vụ nhanh.
Hợp tác với EVN
Đằng sau sự phát triển ngoạn mục của ABBANK trong năm 2007 là sự hỗ trợ về mọi mặt của đối tác chiến lược - Tập đoàn Điện lực Việt Nam - EVN. Việc khai thác tiềm năng to lớn của EVN đã đem lại cho ABBANK những thành công đáng kể trong mọi lĩnh vực:
- Đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ tài khoản, quản lý nguồn tiền, dịch vụ cho vay, tài trợ EVN, các công ty thành viên, nhà thầu và các nhà cung cấp sản phẩm dịch vụ của EVN. Dư nợ khối khách hàng EVN đã gần 1.500 tỷ VND, Nguồn tiền huy động từ EVN đạt gần 5.000 tỷ VND, Thanh toán quốc tế đạt gần 70 triệu USD….
- Trong năm 2007, song song với việc phát triển mạnh mạng lưới hoạt động trên toàn quốc lên hơn 54 chi nhánh/phòng giao dịch tại phần lớn các tỉnh thành trên toàn quốc nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu của khối khách hàng EVN, ABBANK ký thoả thuận hợp tác toàn diện với các công ty thành viên của Tập đoàn điện lực Việt Nam, cụ thể: Tháng 4/2007 ký kết với Công ty Điện lực Hà Nội; Tháng 5/2007 ký kết với Công ty Điện lực 2; Tháng 7/2007 ký kết với Công ty Điện lực 1; Tháng 8/2007 ký kết với Công ty Điện lực TP Hồ Chí Minh, Công ty Điện lực 3 và sắp tới là các Công ty điện lực thành viên khác.
- Năm 2007, ABBANK đang tiến hành các bước cần thiết để hoàn tất thủ tục bảo lãnh phát hành trái phiếu cho EVN Telecom, và tiếp đến là các thành viên khác của EVN.
- Năm 2007 ABBANK đã bước đầu triển khai hoạt động thu hộ tiền điện, cước dịch vụ viễn thông và sản phẩm tài khoản thanh toán cho các đơn vị thành viên của Tập đoàn Điện lực Việt Nam: Công ty thông tin viễn thông Điện lực – EVN Telecom; Công ty Điện lực 1; Công ty Điện lực 2; Công ty Điện lực 3; Công ty Điện lực Hà Nội; Công ty Điện lực TP Hồ Chí Minh.
- Hiện tại ABBANK đã ký kết HĐ hợp tác xây dựng cổng thanh toán hóa đơn và phát hành thẻ đồng thương hiệu với EVNTelecom; Ký kết HĐ thanh toán hóa đơn tiền điện với công ty Điện lực Hà Nội; Dự án thanh toán hóa đơn của EVN (phối hợp với EVN IT và các PC):
+ Hoàn thành thử nghiệm kết nối với hệ thống EVN để thanh toán tiền điện tại quầy (Webclient).
+ Hoàn thành kết nối hệ thống với EVN để thanh toán hóa đơn của EVN bằng thẻ tại ATM và POS.
+ Triển khai thanh toán thí điểm tiền điện qua POS tại 7 quận Huyện của Điện lực Hà nội.
Xác định rõ mục tiêu chiến lược là phát huy tối đa khối khách hàng tiềm năng từ EVN, ABBANK đã hình thành và hoàn thiện một đội ngũ nhân sự chuyên trách đồng thời xây dựng những bộ sản phẩm tài chính ngân hàng chuyên biệt với những ưu đãi đáng kể cho khối khách hàng này, trong đó có thể kể tới sản phẩm nhà thầu điện lực, sản phẩm về quản lý và thanh toán vốn xây dựng cơ bản,…
Hợp tác với Agribank
Ngày 15/03/2007, ABBANK đã ký Thỏa thuận hợp tác toàn diện với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank).
Agribank là một trong những ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam, có năng lực tài chính và khả năng phát triển mạnh, mạng lưới chi nhánh rộng khắp cả nước. Việc mở rộng hợp tác, tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác với Agribank sẽ là lợi thế rất lớn và quan trọng đối với ABBANK trong lộ trình phát triển và cạnh tranh với các định chế tài chính khác.
PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI
Nhằm nâng cao khả năng phục vụ khách hàng, trong năm 2007, ABBANK đã đưa vào hoạt động thêm 40 điểm giao dịch. Như vậy tính đến cuối năm 2007, toàn hệ thống ABBANK có 54 chi nhánh và PGD, trải dài rộng khắp trên 20 tỉnh thành trên toàn quốc.
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Để đáp ứng đòi hỏi về tăng trưởng và phát triển của ABBANK, cùng với nhận thức nguồn nhân lực chính là tài sản quý nhất của Ngân hàng, ABBANK đã có những chiến lược và quy trình chuẩn và rõ ràng trong việc tuyển dụng, đào tạo các cán bộ quản lý và nhân viên mới.
Tuyển dụng:
Với các cán bộ quản lý trung cấp và sơ cấp, ABBANK tập trung việc tuyển dụng các ứng cử viên đã có kinh nghiệm từ các ngân hàng khác và các nhân sự đã tốt nghiệp sau đại học từ nước ngoài. Với nhân viên, ABBANK đã tuyển dụng một số lượng lớn nhân sự từ các trường Đại học, Cao đẳng thuộc khối ngành Kinh tế. Các nhân viên mới đều được tuyển dụng kỹ lưỡng theo các quy trình tuyển dụng chuẩn, sau khi tuyển dụng được tham dự các chương trình đào tạo nghiệp vụ, quy trình phục vụ khách hàng và kỹ năng giao tiếp trong thời gian thử việc.
Kết quả đạt được trong năm 2007, nguồn nhân lực của ABBANK đã tăng lên cả về chất lượng và số lượng. Tính đến ngày 31/12/2007, tổng số nhân viên của ABBANK là 1.123 người.
Về cơ cấu lao động theo trình độ như sau:
Trình độ Số lượng Tỷ lệ (%)
Sau đại học: 20 người 2%
Đại học: 805 người 72%
Cao đẳng, trung cấp… 188 người 17%
Phổ thông 110 người 9%
Các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực:
ABBANK khuyến khích cán bộ, nhân viên của mình nâng cao trình độ nghiệp vụ để tăng tính sáng tạo và tự chủ trong công việc. Trong năm 2007, có 80% tổng số cán bộ, nhân viên của ABBANK đã tham dự các khoá đào tạo nghiệp vụ ngắn, trung và dài hạn về các lĩnh vực khác nhau trong hoạt động Ngân hàng. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã cử một số cán bộ, nhân viên tham gia các khoá hội thảo, tập huấn tại nước ngoài nhằm cập nhật kiến thức, học tập kinh nghiệm thực tiễn.
Về môi trường làm việc và chế độ đãi ngộ
- Ban lãnh đạo ngân hàng đã tuyên bố một hệ thống văn hóa công ty mới đòi hỏi tất cả cán bộ và nhân viên của ngân hàng tập trung vào việc thỏa mãn nhu cầu và sự hài lòng của khách hàng và thực thi các công việc của mình với sự minh bạch, sáng tạo và trách nhiệm cao. Trao đổi và làm việc theo nhóm được khuyến khích và nhìn nhận như là các công cụ để tạo ra các dịch vụ chất lượng cao và một ngân hàng luôn học hỏi và đổi mới.
- Ban lãnh đạo ngân hàng hiểu rõ được sự gắn kết giữa hiệu quả làm việc với chính sách và hệ thống đãi ngộ đối với nhân viên. Vì vậy ngoài việc áp dụng các quy định hiện hành, ABBANK áp dụng các khoản thu nhập thưởng cho các chi nhánh và nhân viên ngân hàng có thành tích xuất sắc trong việc tăng năng suất lao động và doanh thu hoặc giảm chi phí. Cơ hội thăng tiến cũng được áp dụng như các đãi ngộ với các cán bộ, nhân viên có cống hiến đáng kể và hiệu quả cho sự phát triển của ngân hàng.
CÁC HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- Nhận thức được trách nhiệm với cộng đồng, ABBANK đã tham gia vào nhiều hoạt động xã hội ủng hộ đồng bào trên cả nước bị thiên tai, bão lụt. Trong năm 2007, ngân hàng đã lập Quỹ “Tài khoản tương lai” giúp các em nghèo, học giỏi có đủ khả năng tiếp tục con đường học vấn đến hết lớp 12.
2.2. Năng lực quản trị, điều hành
Trong giai đoạn 2001 đến nay, NH đã liên tục thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực quản lý rủi ro, đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng và đầu tư. Các chỉ tiêu về chất lượng thường xuyên được rà soát, đánh giá và chấn chỉnh đảm bảo mục tiêu tăng trưởng bền vững. Mô hình tổ chức tại NH cũng được cải tiến, trong đó có một bộ phận chuyên trách về phân tích và cảnh báo rủi ro. Danh mục tài sản của ngân hàng được quản lý tập trung, điều chỉnh bởi các công cụ điều hành như chính sách giá điều chuyển vốn nội bộ, hạn mức hoạt động của từng bộ phận, đơn vị, chỉ tiêu lợi nhuận đối với từng sản phẩm và kênh bán hàng.
2.3. Trình độ công nghệ
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các Ngân hàng thương mại muốn giữ được thị trường, khách hàng thì công nghệ trong cung ứng dịch vụ được coi là một thứ vũ khí lợi hại, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Công nghệ cung ứng dịch vụ bao gồm tổng hợp các yếu tố như con người, máy móc thiết bị, cách thức tổ chức, quy trình nghiệp vụ cung ứng…Khi một ngân hàng tập hợp đầy đủ các yếu tố nói trên, các ngân hàng đã có thể cung ứng một dịch vụ mới hoàn hảo, mang tính khác biệt cao, nó làm cho sản phẩm của ngân hàng này có tính cạnh tranh hơn hẳn sản phẩm cùng loại do một ngân hàng khác cung ứng. Thay đổi về chất các yếu tố tạo nên một công nghệ trong cung ứng dịch vụ chính là lúc ngân hàng đang thực hiện công nghiệp hóa dịch vụ. Công nghiệp hóa dịch vụ chính là quá trình hoàn thiện công nghệ cung ứng dịch vụ nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho các Ngân hàng thương mại.
Trước xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, để đảm bảo năng lực cạnh tranh của mình, Ngân hàng An BÌnh đã không ngừng tự đổi mới các trang thiết bị điện tử, nghiên cứu ứng dụng các phần mềm vi tính trong hoạt động nghiệp vụ và phục vụ khách hàng, từ đó không ngừng nâng cao hơn trình độ công nghệ của mình. Trình độ công nghệ tại NH đã dần dần được cải thiện. Mọi hoạt động giao dịch với khách hàng đều được xử lý bằng máy vi tính, giảm thiểu tới mức tối đa các rủi ro trong giao dịch và cung cấp kịp thời thông tin cho công tác quản lý và giám sát. Hàng loạt các sản phẩm dịch vụ mới được cung ứng như dịch vụ thanh toán thẻ, máy rút tiền tự động, connect 24, dịch vụ Ngân hàng Internet, E-bank .v.v…
Tuy nhiên, hiện nay, mức độ áp dụng công nghệ thông tin trong hệ thống Ngân hàng AB còn khá chênh lệch so với hệ thống Ngân hàng trong khu vực. Công nghệ cung ứng dịch vụ của NH hiện vẫn đang ở mức lạc hậu. Điều này thể hiện ở chỗ các dịch vụ Ngân hàng hiện đại mà NH cung ứng chỉ mới bắt đầu áp dụng trong phạm vi hẹp các đối tượng khách hàng sử dụng, chưa mang tính phổ biến. Mặc dù trong thời gian qua, NH đã đẩy mạnh tin học hoá vào hệ thống ngân hàng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Công nghệ đầu tư không đồng bộ mà đơn lẻ, manh mún nên hiệu quả sử dụng không được cao, do đó không có khả năng cung cấp thông tin kịp thời và chính xác để phục vụ công tác quản lý điều hành. Tính không ổn định của công nghệ đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển cuả hệ thống ngân hàng, ngoài ra còn làm cho rủi ro công nghệ rất cao.
Cho đến nay, NH vẫn chưa lắp đặt được các hệ thống chương trình nhằm chuẩn hóa dịch vụ ngân hàng, chưa thực hiện được việc nối mạng trong toàn hệ thống để có được một cơ sở dữ liệu thông tin thống nhất về khách hàng. Do vậy, các dịch vụ khá đơn giản và mang lại tiện ích cho khách hàng như gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi, vay một nơi, rút vốn nơi khác, cho đến nay vẫn chưa thực hiện được.
Dịch vụ thanh toán thẻ tuy đã được NH thực hiện nhưng do công nghệ không đồng bộ, không hiện đại nên không thu hút được nhiều khách hàng, thị trường thanh toán thẻ chuyển dần sang các Ngân hàng nước ngoài, có công nghệ cao hơn như Hongkong Bank, ANZ…
Thực tiễn trên cho thấy, công nghệ lạc hậu không những làm hạn chế khả năng cung ứng các dịch vụ mới của Chi nhánh mà còn làm giảm đi hiệu quả trong công tác quản lý của các nhà lãnh đạo ngân hàng.
2.4. Uy tín, thương hiệu
Trong những năm qua, hoạt động thông tin tuyên truyền là phương tiện hữu hiệu, thực sự đã mang lại hiệu quả trong việc quảng bá hình ảnh, thương hiệu của Ngân hàng ABBANK.
Việc cung cấp thông tin được NH tiến hành cho cả ba đối tượng nhằm giải quyết nhu cầu thông tin trong mối quan hệ: thông tin nội bộ ngân hàng – giới truyền thông – khách hàng.
Trước tiên, thông tin trong nội bộ ngân hàng: Đó là việc phổ biến những thông tin về sản phẩm,dịch vụ, định hướng phát triển đến toàn thể cán bộ nhân viên của NH. Bởi hơn ai hết, cán bộ nhân viên là những người trực tiếp giao dịch, tiếp xúc với khách hàng – đây là kênh truyền tải thông điệp từ ngân hàng đến với khách hàng thông qua các mối quan hệ của nhân viên hoặc khi có điều kiện tiếp xúc với người tiêu dùng rất hiệu quả. Hơn nữa, chính sự hiểu biết sâu sắc về những sản phẩm, dịch vụ cũng như nhiệm vụ phát triển của đơn vị mình sẽ làm cho cán bộ nhân viên của NH ý thức được trách nhiệm của mình trong công việc. Đồng thời sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc tư vấn, giới thiệu sản phẩm. Từ đó tạo động lực để mỗi cán bộ nhân viên phải là một đầu mối marketing để giới thiệu, cung cấp được nhiều thông tin tốt của Chi nhánh đến khách hàng.
Thứ hai, thông tin cho báo giới, cơ quan truyền thông: Ngày nay, với trên 630 đầu báo và tạp chí cùng với việc phát triển của công nghệ thông tin đối với báo điện tử thì áp lực về cập nhật thông tin, thông tin chính xác để phục vụ bạn đọc là rất lớn đối với báo giới. Đặc biệt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng – một lĩnh vực rất nhạy cảm – thì yêu cầu về thông tin càng đòi hỏi cao hơn. Chính vì vậy, NH đã cố gắng để có thể cung cấp các thông tin về sản phẩm, dịch vụ của mình một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời cho báo giới và cơ quan truyền thông để tránh việc có những thông tin không đúng làm ảnh hưởng đến hình ảnh của NH
Thứ ba, cung cấp thông tin cho khách hàng: Mối quan hệ hữu cơ giữa khách hàng - ngân hàng sẽ chi phối và quyết định phần lớn sự tồn tại của ngân hàng. Trong môi trường với rất nhiều thông điệp tiếp thị xuất hiện liên tục trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các bảng hiệu, tờ rơi, website v.v, thì việc lôi kéo sự quan tâm, chú ý của khách hàng là việc làm rất khó. Hơn nữa, bộ nhớ con người là có giới hạn, nó không thể nhớ tất cả các thông tin, đặc biệt những thông tin chung chung, giống nhau, trong khi đó nó thường tiếp nhận những thông tin mới, lạ, khác biệt. Do vậy, NH đã chú trọng nhiều hơn tới việc đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, quan tâm hơn đến phong cách giao dịch của mỗi cán bộ nhân viên trong NH để có thể tạo được uy tín và ấn tượng với khách hàng, đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của họ.
Chính nhờ sự nỗ lực không ngừng trong những năm qua, hiện nay NHđã khẳng định được một vị thế nhất định trên thị trường.
Tuy nhiên, công tác bảo vệ và phát triển thương hiệu chưa được quan tâm đúng mức, hoạt động quảng bá thương hiệu cũng chỉ dừng lại ở những hình thức đơn giản, phổ thông; trong khi đó vấn đề này đang ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết khi Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Do vậy, Ngân hàng An Bình cần triển khai thực hiện công tác này tốt hơn trong thời gian tới để thương hiệu của mình có thể tồn tại và phát triển trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài.
2.5. Phân tích năng lực cạnh tranh của Ngân hàng ABBANK theo mô hình Kim cương của Michael Porter
2.5.1. Môi trường kinh doanh, cơ cấu của ngân hàng và đối thủ cạnh tranh
Về môi trường kinh doanh: Trong những năm gần đây môi trường kinh doanh đối với các dịch vụ ngân hàng đã từng bước được cải thiện, đặc biệt là môi trường luật pháp hướng tới sự tự do hoá trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng và thị trường tài chính, tiền tệ. Quá trình chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, và việc phát triển mạnh mẽ các loại hình tổ chức tài chính khác nhau bao gồm ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng với nhiều loại hình sở hữu khác nhau đã tạo nên sự đa dạng về sở hữu, trên cơ sở đó đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm tính minh bạch, công khai của hoạt động ngân hàng.
Như vậy, môi trường kinh tế vĩ mô mà NHđang hoạt động tương đối ổn định và lành mạnh. Sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và chắc chắn trong những năm qua, tỷ lệ lạm phát thấp và môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi cho việc kinh doanh, đã tạo điều kiện cho NHthực hiện chức năng trung gian tài chính một cách ổn định. Nhờ sự ổn định kinh tế vĩ mô, NH đã huy động được một lượng tín dụng ngày càng tăng từ các thành phần kinh tế quốc dân, tạo lợi nhuận và mở rộng mạng lưới hoạt động để phục vụ nhiều khách hàng hơn. Hiện nay, NH đã có chỗ đứng tương đối vững chắc trên thị trường xét về mạng lưới hoạt động, hiểu biết khách hàng và sự tin cậy. Tuy nhiên, các thể chế và chính sách còn chưa đồng bộ, còn chồng chéo và mâu thuẫn với nhau. Nhiều quy định còn chưa được thống nhất hoặc còn chưa được sửa đổi kịp thời để tạo ra sự đồng bộ trong khuôn khổ chính sách và thể chế. Điều này làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển hoạt động dịch vụ ngân hàng của NH.
Về cơ cấu của Ngân hàng: Cơ cấu tổ chức bộ máy của chi nhánh Ngân hàng An BÌnh còn cồng kềnh, chưa được phân bố hợp lý Về đối thủ cạnh tranh: Ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh mãnh liệt trong cả thị trường nội địa và quốc tế khi sự xuất hiện của các Ngân hàng thương mại cổ phần và các Ngân hàng nước ngoài ngày càng gia tăng.
2.5.2. Các điều kiện về cầu
Sự phát triển của nền kinh tế, của khoa học kỹ thuật, mức sống của người dân, và tác động mạnh mẽ của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mở thêm nhiều cơ hội cho các khách hàng sử dụng thêm những dịch vụ ngân hàng khác nhau phù hợp với nhu cầu sống và làm việc mới. Do vậy, nhu cầu dịch vụ ngân hàng trong tương lai gần sẽ có xu hướng ngày càng tăng cao. Điều này được chứng minh thông qua việc phân tích những yếu tố sau đây:
Thứ nhất, sự biến đổi về cơ cấu dân cư, sự tăng dân số ( đặc biệt là khu vực đô thị), sự tăng lên của các khu công nghiệp, khu đô thị dẫn đến số doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu dịch vụ ngân hàng tăng lên rõ rệt;
Thứ hai, số người Việt Nam sống, lao động và làm việc ở nước ngoài tăng lên nên nhu cầu chuyển tiền (ngoại tệ) cũng như các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng có chiều hướng tăng cao;
Thứ ba, thu nhập bình quân của người Việt nam dần được nâng lên, qua đó các dịch vụ về ngân hàng sẽ có những bước phát triển tương ứng;
Thứ tư, các hoạt động kinh doanh và đầu tư giữa Việt nam với nước ngoài ngày càng phát triển, cũng như số lượng các doanh nghiệp Việt nam tăng trong những năm tới sẽ làm gia tăng về các dịch vụ ngân hàng;
Thứ năm, cơ sở hạ tầng ngày càng phát triển, đặc biệt là lĩnh vực bưu chính viễn thông tạo điều kiện cho những tiện ích của dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng phát triển mạnh hơn.
Như vậy, khi tất cả các hoạt động của nền kinh tế tăng lên, nhu cầu và cơ hội để Chi nhánh cho vay và huy động vốn cũng tăng lên.
Tuy nhiên, với một môi trường canh tranh mạnh mẽ như hiện nay, sự lựa chọn và yêu cầu của khách hàng đối với những sản phẩm và dịch vụ sẽ cao hơn. Điều này đòi hỏi Chi nhánh tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm.
2.5.3. Các ngành phụ trợ và liên quan
Sự phát triển của ngành ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực khác như tin học viễn thông, giáo dục đào tạo, giao thông vận tải.. , trong đó ngành tin học điện tử viễn thông có liên quan trực tiếp và hỗ trợ rất nhiều cho sự phát triển của các hoạt động dịch vụ ngân hàng. Trong những năm qua, công nghệ tin học, viễn thông đang từng bước phát triển mạnh và đem lại những lợi ích quan trọng cho ngành ngân hàng trong việc kết nối trong hệ thống và kết nối toàn cầu. Việc kết nối mạng hệ thống toàn cầu đã cho phép nhiều ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ thanh toán về thẻ và thành lập những trung tâm thẻ, qua đó các giao dịch chi trả và thương mại được thực hiện.
Bên cạnh ngành tin học điện tử viễn thông, hệ thống giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực có vai trò quan trọng đối với ngành ngân hàng. Để phục vụ công tác phát triển nguồn nhân lực cho ngành ngân hàng, bên cạnh hệ thống các trường đại học quốc lập và dân lập thuộc các khối kinh tế và thuộc các khoa chuyên ngành ngân hàng, tài chính của các trường đại học, sự hiện diện của ngày càng nhiều trung tâm đào tạo tập trung vào đội ngũ cán bộ ngân hàng đã tạo điều kiện cho những đổi mới và cải tiến trong nội dung đào tạo phục vụ yêu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
2.5.4. Các điều kiện về yếu tố đầu vào
Về nguồn lực tài chính: Quy mô và mạng lưới hoạt động của Chi nhánh không ngừng mở rộng. Quy mô vốn tuy còn nhỏ nhưng có xu hướng tăng dần qua các năm. Chi nhánh đã chủ động tìm kiếm khách hàng để huy động vốn và cho vay, đa dạng hoá sản phẩm và hình thức huy động vốn, đồng thời cung cấp nhiều sản phẩm tín dụng cho khách hàng. Chất lượng tín dụng ngày càng được cải thiện nhờ áp dụng đồng loạt các giải pháp tăng cường năng lực tự kiểm soát chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó, cơ cấu sử dụng vốn của Chi nhánh đang được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư và phi tín dụng, đa dạng hoá cơ cấu huy động vốn và sử dụng vốn. Tuy nhiên, chất lượng tài sản có thấp, tốc độ tăng tài sản có tuy lớn nhưng khả năng sinh lời không được cải thiện tương ứng, do đó khả năng tự bổ sung vốn tự có bị hạn chế.
CHƯƠNG 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG
1. Phương hướng , mục tiêu
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của các nước kinh tế đang phát triển muốn tiếp cận nhanh nền kinh tế tiên tiến. Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế là một hướng đi đúng và quan trọng là làm tiền đề cho việc tạo dựng vị thế trên trường quốc tế, đồng thời mang lại nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng thương mại – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng đứng trước những thách thức lớn. Để vượt qua những thách thức và tận dụng tốt cơ hội đòi hỏi các Ngân hàng thương mại Việt Nam phải phân tích những điểm mạnh những điểm yếu của mình để đưa ra chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn của sự phát triển, để từ đó hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể cạnh tranh một cách chủ động và phát triển.
1.1. Cơ hội đối với NH ABBANK
Đối với ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và NH An Bình nói riêng, hội nhập quốc tế mở ra cơ hội để trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạch định chính sách tiền tệ, đề ra biện pháp phòng ngừa rủi ro, qua đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng. Đồng thời, ngành ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, có khả năng theo kịp yêu cầu phát triển thị trường tài chính trong nước và ngoài nước ... Cụ thể là:
* Một sân chơi lớn hơn và công bằng hơn:
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu của Việt Nam tiếp cận nhiều thị trường và thu hút nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Khi thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài và tất cả hoạt động của nền kinh tế tăng lên, nhu cầu và cơ hội để Ngân hàng cho vay và huy động vốn cũng tăng lên. Khi kinh tế phát triển, nhiều doanh nghiệp làm ăn có lãi thì khả năng trả nợ của họ cũng tăng lên, điều này có tác động tích cực tới Ngân hàng. Danh mục kinh doanh và tài sản của Ngân hàng sẽ có chất lượng tốt hơn, đây là điều kiện cần thiết để Ngân hàng tiếp cận thị trường vốn, tăng vốn chủ sở hữu và trở nên lớn hơn.
* Sự tham gia của Ngân hàng nước ngoài:
Tất nhiên khi hội nhập kinh tế quốc tế, khi mở cửa thị trường thì cạnh tranh khắc nghiệt hơn sẽ xảy ra đối với Ngân hàng. Nhưng điều này cũng sẽ mang lại kết quả là Ngân hàng phải hoạt động tốt hơn, nhờ đó khách hàng sẽ có cơ hội được chọn lựa nhiều sản phẩm và chất lượng dịch vụ cao hơn. Như vậy khách hàng cũng như nền kinh tế sẽ được hưởng lợi hơn.
Khi các hạn chế về sở hữu nước ngoài trong các Ngân hàng Việt Nam được dỡ bỏ, các Ngân hàng nước ngoài có thể mua cổ phần của các Ngân hàng Việt Nam và trở thành cổ đông chiến lược. Như vậy, các Ngân hàng trong nước sẽ có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Điều này sẽ giúp các Ngân hàng trong nước mạnh hơn và cạnh tranh hơn. Hơn nữa, đối với Ngân hàng trong nước, việc một lượng cổ phần của mình được nắm giữ bởi một Ngân hàng quốc tế thì uy tín của Ngân hàng trong nước trong mắt của các nhà đầu tư và của công chúng sẽ tăng lên đáng kể.
Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho Ngân hàng tiếp cận và chuyên môn hoá các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Chính hội nhập quốc tế cho phép các Ngân hàng nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, điều này buộc các Ngân hàng trong nước phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở Việt Nam.
* Sự trao đổi, hợp tác quốc tế
Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các Ngân hàng thương mại trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong các giao dịch quốc tế . Nó tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với hội nhập quốc tế.
Như vậy, hội nhập quốc tế tạo ra nhiều thuận lợi và cơ hội cho các ngân hàng Việt Nam phát triển thành một hệ thống ngân hàng hoạt động năng động, an toàn, hiệu quả và phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế
1.2. Thách thức đối với NH ABBANK
Hội nhập quốc tế mang lại cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng An Bình nói riêng không ít những cơ hội để phát triển, tuy nhiên bên cạnh những cơ hội đó, Chi nhánh cũng phải đối mặt với hàng loạt thách thức. Cụ thể là:
Thứ nhất, cạnh tranh trong việc giữ và mở rộng thị trường: Việc loại bỏ dần các hạn chế đối với các Ngân hàng nước ngoài có nghĩa là các Ngân hàng nước ngoài sẽ từng bước tham gia vào lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại nước ta. Không chỉ chịu áp lực cạnh tranh gay gắt bởi các Ngân hàng thương mại nước ngoài, các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn phải chịu áp lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính trung gian khác và các định chế tài chính khác như thị trường chứng khoán, cho thuê tài chính, bảo hiểm ... Điều này sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh trong ngành Ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt Nam nói chung và NH An Bình nói riêng phải tăng thêm vốn, đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương thức quản trị và hiện đại hoá hệ thống thanh toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.
Thứ hai, hội nhập quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi đó cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân hàng của NH còn rất đơn giản, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa có hiệu quả và hiệu lực để bảo đảm việc tuân thủ nghiêm pháp luật về ngân hàng và sự an toàn của hệ thống ngân hàng, nhất là trong việc ngăn chặn và cảnh báo sớm các rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
2. Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng ABBANK
Để giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, NH cần xây dựng cho mình hình ảnh một Ngân hàng có uy tín, đủ năng cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả cao, an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư.
2.1. Giải pháp của NH
2.1.1.Thứ nhất, nâng cao năng lực tài chính
Để có thể tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì điều quan trọng là Ngân hàng phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh. Năng lực tài chính của NH là một lợ thế do đó NH nên chú trọng phát huy ưu thế này để nâng cao năng lực cạnh tranh. Về chiến lược thu hút tiền gửi, NH cần xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng thói quen sử dụng tài khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng.
Bên cạnh đó, NH cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng.
2.1.2.Thứ hai, phát triển công nghệ kỹ thuật ngân hàng hiện đại, chú trọng hoạt động Marketing, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến.
Công nghệ ngân hàng của NH dù được chú trọng trong thời gian qua nhưng vẫn bị đánh giá là là vẫn còn nhiều tồn tại. Nhìn chung, các phần mềm NH đang ứng dụng đều là những phần mềm thế hệ mới được nhiều ngân hàng trên thế giới đang sử dụng. Tuy nhiên, công tác triển khai chậm và khi triển khai xong, lại chưa tạo được một cơ chế nhằm khai thác hiệu quả công nghệ đó.
Song song với việc hiện đại hoá công nghệ, NH cần có chính sách khai thác công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán chéo cho khách hàng. Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và hạn chế bớt rủi ro trong quá trình hoạt động.
Ngoài ra, NH cần cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục vay vốn nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng.
2.1.3.Thứ ba, xây dựng chiến lược khách hàng phù hợp
Chiến lược khách hàng là một trong những phương thức mà các ngân hàng sử dụng cho cuộc chiến cạnh tranh của mình, đó là toàn bộ quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện những hoạt động từ việc nghiên cứu, phát hiện nhu cầu đến việc thoả mãn tốt những nhu cầu mong muốn của nhóm khách hàng bằng hệ thống những chính sách, công cụ nhằm duy trì mối quan hệ với khách hàng truyền thống và mở rộng quan hệ với khách hàng tiềm năng trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Do vậy, NH cần xây dựng một chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch ngân hàng. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng.
2.1.4Thứ tư, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm
Các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên việc tạo ra sự khác biệt là hết sức quan trọng. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu của khách hàng ngày càng nhiều hơn và yêu cầu cao hơn. Do vậy, để cạnh tranh với các đối thủ khác, mỗi ngân hàng đều cần quan tâm đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm. NH ABBANK cũng không phải là một ngoại lệ. NH phải xác định được dịch vụ cốt yếu của mình và tập trung phát triển chất lượng các dịch vụ đó. Việc đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng nên gắn liền với việc chuyên môn hoá các dịch vụ mà khách hàng của mình sử dụng, tránh việc đầu tư dàn trải.
2.1.5.Thứ năm, nâng cao năng lực quản trị điều hành
NH cần đẩy mạnh việc chuẩn hoá các quy trình quản lý và vận hành. Tất cả các quy trình trong NH cần được tích hợp trong hệ thống tự động để đảm bảo các hoạt động được thực hiện một cách có hiệu quả và giảm bớt chi phí hành chính. Đồng thời, năng lực quản trị chiến lược của cán bộ lãnh đạo Nh cần được cải thiện hơn để có thể nhanh chóng nắm bắt xu thế phát triển và đưa ra những chiến lược có hiệu quả.
Bên cạnh đó, NH cần chú ý hơn nữa đến các hoạt động kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro nhằm đảm bảo ngân hàng vận hành an toàn, đặc biệt việc áp dụng các hệ thống đánh giá rủi ro tín dụng và kiểm soát nợ xấu có thể xảy ra nên được NH chú ý thực hiện.
2.1.6.Thứ sáu, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng.
Sự thành công trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào trình độ của đội ngũ cán bộ nhân viên. Do đó, công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ phải được đầu tư thích đáng, được coi là nhiệm vụ thường xuyên của ngân hàng. Đặc biệt đối với NH, đội ngũ cán bộ trẻ chiếm tỷ lệ đông đảo, còn thiếu kinh nghiệm thực tế, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, cho nên công tác đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cần được chú trọng hơn nữa. NH cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại. Công tác đào tạo phải được thực hiện ở nhiều lĩnh vực, cấp độ khác nhau:
Đào tạo cơ bản đối với cán bộ mới bao gồm cán bộ mới tuyển dụng, cán bộ mới từ nghiệp vụ khác chuyển sang.
Đào tạo nâng cao đối với cán bộ nghiệp vụ có trình độ và thời gian công tác nhất định chủ yếu nhằm nâng cao kỹ năng tác nghiệp, trình độ xử lý các tình huống nghiệp vụ.
Đào tạo chuyên sâu: Mỗi nghiệp vụ ngân hàng nên chia thành cấp độ chuyên sâu khác nhau như huy động vốn, sử dụng vốn, thanh toán và nghiệp vụ ngân hàng quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc, chuẩn bị điều kiện cho hội nhập khu vực và quốc tế.
Nhưng dù ở lĩnh vực nghiệp vụ nào cũng cần quán triệt sâu sắc quan điểm từng cán bộ phải phát huy hết khả năng, năng lực của mình đóng góp vào hoạt động của ngân hàng.
Hơn nữa, NH cần phải chú trọng đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực tiếp cận thị trường, trang bị tốt kiến thức về marketing, khả năng giao tiếp với khách hàng, tập huấn các văn bản chế độ mới liên quan tới ngân hàng bởi dưới con mắt của khách hàng, nhân viên giao dịch là hình ảnh, là người quyết định mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Chất lượng dịch vụ mà họ nhận được có sự đóng góp rất to lớn từ thái độ phục vụ, kiến thức, kinh nghiệm làm việc của nhân viên ngân hàng. Được trang bị đầy đủ kiến thức nhân viên ngân hàng mới có khả năng nắm bắt được tình hình kinh doanh của khách hàng từ đó có khả năng tư vấn cho khách hàng tốt hơn.
2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ
* Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam là vấn đề quan trọng cần được thực hiện nhằm tạo lập hành lang pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Điều này sẽ thiết thực phục vụ cho lộ trình hội nhập quốc tế và tạo lập một hệ thống các quy định thận trọng để đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nên xem xét cân nhắc những kiến nghị sau:
Thứ nhất, về hệ thống pháp lý: Ngân hàng Nhà nước cần tiến hành rà soát tổng thể và đối chiếu toàn bộ các quy định và văn bản luật hiện hành và tính tương thích của các quy định và văn bản luật này với các cam kết và yêu cầu của các hiệp định quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và dịch vụ tài chính. Nhiệm vụ này cần được thực hiện để xác định các lỗ hổng về mặt pháp lý, các trở ngại, các khác biệt và mâu thuẫn giữa hệ thống các quy định pháp lý.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần sớm xây dựng các cơ chế và chính sách về minh bạch hoá và công khai các thông tin của các tổ chức tín dụng theo hướng tạo điều kiện cho các ngân hàng tham gia vào thị trường chứng khoán. Một mặt thị trường chứng khoán là kênh tạo vốn quan trọng cho các ngân hàng tăng cường khả năng tài chính, mặt khác các ngân hàng được niêm yết sẽ phải hoạt động minh bạch hơn và có hiệu quả hơn.
Thứ hai, về tăng cường năng lực cho các ngân hàng Việt Nam: Ngân hàng Nhà nước cần thúc đẩy hơn nữa và thể chế hoá việc áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng ( CAMELs, BASEL) vào trong thực tiễn quản trị và hoạt động của tất cả các ngân hàng tại Việt Nam.
Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần xem xét để sớm xoá bỏ các văn bản, thủ tục có tính chất bảo hộ và phân biệt đối xử giữa các ngân hàng trong nước trước khi thực hiện các biện pháp tự do hoá hơn nữa.
* Kiến nghị đối với Chính phủ và các bộ ngành liên quan
Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần đẩy mạnh sự phát triển của các yếu tố đầu vào và các ngành liên quan như thị trường chứng khoán, công nghệ thông tin, kế toán, kiểm toán, và giáo dục đào tạo ... để hỗ trợ sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng.
Bên cạnh đó, Chính phủ và các bộ ngành, địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa việc cải cách doanh nghiệp Nhà nước để trợ giúp cho các ngân hàng trong việc giải quyết vấn đề nợ quá hạn. Nếu không các ngân hàng Việt Nam, đặ biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn phải tiếp tục đối mặt với tình trạng nợ xấu của các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
Ngoài ra, Chính phủ và các bộ ngành liên quan như bộ Tư pháp, Toà án cần tăng cường thực thi pháp luật nhằm giải quyết hiệu quả các trường hợp gian lận ngân hàng, người vay mất khả năng trả nợ và điều kiện để phát mại các tài sản cầm cố ... Nếu lợi ích của cả người đi vay và người cho vay được bảo đảm thì sẽ kích thích họ thực hiện nhiều giao dịch và kinh doanh hơn.
KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện đang là xu hướng phát triển tất yếu của thời đại và là yêu cầu khách quan đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của một nước. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực như : trao đổi hàng hóa, dịch vụ, chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia và khu vực, lưu chuyển vốn quốc tế,… tạo điều kiện cho các quốc gia có thể hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật công nghệ,… trong hoạt động kinh doanh. Trong lĩnh vực ngân hàng, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam, tạo điều kiện trao đổi kinh nghiệm về vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ, hoạch định chính sách tiền tệ,… Từ đó có giải pháp phòng ngừa hoặc giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao uy tín kinh doanh trên thị trường tài chính quốc tế .
Trong xu thế đó, Ngân hàng An Bình đã có những chủ động và đang từng bước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Sau gần 15 năm hoạt động, NH đã khẳng định được năng lực của mình bằng những bước đi vững chắc khi không ngừng mở rộng quy mô hoạt động và đối tượng khách hàng thông qua các quan hệ tín dụng tiền tệ và phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng khác .
Tuy nhiên, để có thể tồn tại và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi NH phải từng bước chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn, nhanh chóng tiếp cận và phát triển các hình thức dịch vụ ngân hàng hiện đại, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22406.doc