Đề tài Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình, khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex

Coalimex là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu không duy trì hệ hệ thống kho bãi, vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình, công ty thực hiện phương thức giao hàng trực tiếp hay còn gọi là giao tay ba. Do đó, hàng tồn kho của công ty chỉ bao gồm hàng đi đường và hàng gửi bán. Hàng về đến cảng sẽ ngay lập tức chuyển thành hàng gửi bán hoặc thuộc về sở hữu của người mua. Thêm vào đó việc tiến hành kinh doanh theo phương thức uỷ thác hay tự doanh đều dựa trên đơn đặt hàng của khách hàng. Khi nhận được đơn đặt hàng Coalimex sẽ tìm nghuồn cung cấp phù hợp. tiến hành giao dịch với nhà cung cấp nên việc đặt hàng thường không được tính toán trứơc. Đối với hàng tồn kho, các chi phí về kho bãi hoàn toàn do người đặt hàng chịu, không tính trong giá hàng vốn hàng bán. Chi phí dự trữ do đó là không đáng kể. Hơn nữa, các phòng nghiệp vụ hoạt động riêng rẽ, mỗi phòng đều có khách hàng riêng, tự quản lý riêng về hoạt động của mình do đó việc quản lý dự trữ nhìn chung không được chú trọng. Việc duy trì mức tồn kho nói chung mang tính ngẫu nhiên vì vậy qua bảng dưới đây ta thấy lượng hàng tồn kho của công ty là không ổn định khi cao nhất vào năm 2001 đạt tới 16,6% nhưng khi thấp nhất - năm 1999 chỉ đạt 0,5% so với tổng tài sản lưu động.

doc81 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1205 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình, khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ty, đặc biệt là khả năng thanh toán, chúng ta cần xem xét chỉ tiêu trong bảng dưới đây: Bảng 8: Vòng quay hàng tồn kho Đơn vị: triệu đồng Tên chỉ tiêu 1999 2000 2001 So sánh 2000/1999 2001/2000 + % + % Doanh thu thuần (1) 67816 62768 66564 -5048 -7 3796 6 Hàng tồn kho (2) 222 7809 19476 7587 3418 11667 149 Vòng quay hàng tồn kho (vòng) = (1)/(2) 305,8 8,04 3,42 -297,76 -97 -4,62 -57 Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex Qua bảng trên ta thấy vòng quay hàng tồn kho của công ty không ổn định trong ba năm chúng ta đã thấy sự giảm sút đáng ngạc nhiên của chỉ tiêu này từ 305,8 vòng vào năm 1999 đã giảm sút nhanh chóng xuống còn rất bé chỉ 8,04 vòng vào năm 2000 - giảm 97%, đến năm 2001 chỉ tiêu này lại giảm sút tệ hại hơn lúc này hàng tồn kho chỉ chu chuyển 3,42 vòng một năm -giảm 57%. Năm 1999 có thể coi là chuẩn mực trong việc tiêu thụ hàng tồn kho đây là con số rất tốt hiếm có doanh nghiệp naò đạt được song rất tiếc là Coalimex lại không duy trì được điều này tệ hơn nữa chỉ tiêu này không những giảm mà còn trở nên quá xấu không thể chấp nhận được nghuyên nhân chính là do trị giá hàng tồn kho ngày càng tăng nhanh - năm 2000 tăng 3418% so với năm 1999 còn năm 2001 lại tăng 149% trong khi đó doanh thu lại không hề tăng mà còn giảm. năm 2000 doanh thu thuần giảm 7% tuy đến năm 2001 chỉ số này có tăng lên 6% song không đáng kể và không thể ngăn được hiện tượng vòng quay hàng tồn kho ngày càng nhỏ. Không nghi ngờ gì nữa, tình hình này chứng tỏ công ty không mấy nỗ lực trong việc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, quan trọng hơn nữa là Coalimex chỉ chủ yếu tiêu thụ theo phương thức uỷ thác, mọi hàng hóa mua về đều dựa theo hợp đồng nên vòng quay hàng tồn kho như vậy là không thể chấp nhận được ngoài ra vì là doanh nghiệp thương mại nên Coalimex chủ yếu kinh doanh bằng vốn đi vay theo hình thức vay theo hợp đồng nên việc chậm tiêu thụ hàng hoá cũng có nghĩa là khoản lãi phải trả ngân hàng tăng theo đẩy chi phí lên và làm giảm lợi nhuận của công ty. Điều này đòi hỏi công ty phải ra sức mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá nhằm đẩy doanh thu thuần lên và giảm lượng hàng tồn kho xuống để có vòng quay hàng tồn kho cao hơn. 2.Quản lý các khoản phải thu Các khoản phải thu của khách hàng chính là khoản tín dụng thương mại mà công ty cấp cho khách hàng trong một thời gian nhất định vì là một khoản tín dụng nên nó có rủi ro không thu hồi được và đồng thời cũng mang lại cho doanh nghiệp một khoản lãi đáng kể và những lợi ích khác như tăng mức tiêu thụ hàng hoá, tăng uy tín với khách hàng. Chính vì vậy mà ta phải quản lý và theo dõi kỹ tài sản lưu động này. Coalimex là một công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu được hơn 20 năm, do vậy khách hàng của công ty chủ yếu là các khách hàng truyền thống. có mối quan hệ làm ăn lâu dài. Để có thể cấp tín dụng thương mại cho các khách hàng này, công ty thực hiện phân tích các Báo cáo tài chính và lịch sử thanh toán của khách hàng, các phân tích nhìn chung là đơn giản và việc cấp tín dụng thương mại chủ yếu dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau. Tất cả các khoản phải thu đều được theo dõi trên sổ sách kế toán theo trình tự thời gian cuối năm công ty tiến hành lập bảng Phải thu - Phải trả và đối chiếu công nợ. Nhìn chung hoạt động quản lý của công ty còn đơn giản và chưa được chú trọng đúng mức. Như ta đã thấy trên Bảng 7 các khoản phải thu năm 1999 chiếm 68% chủ yếu là các khoản phải thu nội bộ và phải thu khách hàng, song đến năm 2000 tỷ trọng này giảm xuống còn 57,9% trong đó phải thu nội bộ giảm 117% (từ 1451 triệu đồng xuống 254 triệu đồng) và phải thu khách hàng tăng 157%. Điều này có nghĩa là công ty đã tiến hành những biện pháp thu hồi nợ nội bộ một cách khá triệt để nhưng lại không chú trọng thu hồi các khoản phải thu của khách hàng thậm chí còn gia tăng cấp tín dụng cho khách hàng điều này sẽ đẩy công ty đến một tình huống đầy mạo hiểm vì đây là khoản phải thu có rủi ro cao nhất của doanh nghiệp. Sang năm 2001 tình trạng này vẫn tiếp diễn mặc dù công ty đã giảm tỷ trọng của các khoản phải thu trong tổng tài sản lưu động xuống còn 52% song phải thu khách hàng vẫn lớn một cách đáng lo ngaị - tăng 63% so với năm 2000 và chiếm đến 93,4% trong tổng khoản phải thu. Ta có thể kết luận rằng trong các năm qua tỷ lệ phải thu của doanh nghiệp là khá cao đặc biệt là phải thu khách hàng điều này làm vốn bị ứ đọng trong khâu lưu thông và kéo dài quá trình tiêu thụ sản phẩm, công ty bị khách hàng chiếm dụng vốn. Với tỷ lệ vốn bị chiếm dụng cao như hiện nay thì công ty cần phải đẩy nhanh tiến trình thu hồi nợ đồng thời tìm hiểu khách hàng kỹ hơn trước khi cấp tín dụng thương mại cho họ tránh trường hợp cấp tràn lan như hiện nay. Để thấy rõ hơn tình hình quản lý của công ty ta đi vào phân tích chỉ tiêu vòng quay khoản phải thu: Bảng9: Vòng quay khoản phải thu Đơn vị: triệu đồng Tên chỉ tiêu 1999 2000 2001 So sánh 2000/1999 2001/2000 + % + % Phải thu (1) 30243 36286 61036 6043 20 24750 68 Doanh thu thuần (2) 67816 62768 66564 -5048 -7 3796 6 Vòng quay khoản phải thu (vòng) = (3) = (2)/(1) 2,24 1,73 1,09 -0,51 -23 -0,64 -37 Thời gian thu hồi những khoản phải thu (ngày) =360/(3) 160 208 330 48 75 122 340 Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex Theo bảng trên thì trong năm 1999 vòng quay khoản phải thu là quá thấp: 2,24 vòng, đồng thời thời gian thu hồi những khoản phải thu hay còn goi là kỳ thu tiền bình quân là quá cao 160 ngày. Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu có lợi thế kinh doanh như Coalimex thì việc để cho khách hàng chiếm dụng vốn lâu như vậy là thiếu lành mạnh. Đến năm 2000 và 2001 thì tình hình ngày càng xấu hơn vòng quay khoản phải thu giảm dần xuống còn quá thấp đến mức đáng báo động: năm 2000 vòng quay khoản phải thu giảm 23% xuống còn 1,73 vòng năm 2001 chỉ tiêu này lại giảm 37% còn 1,09 vòng đây là mức không thể chấp nhận được, tương tự vậy thời gian thu hồi các khoản phải thu không ngừng tăng lên từ 160 ngày năm1999 sang năm 2000 là 208 ngày và năm 2001 là 330 ngày, tương ứng với tỷ lệ tăng lớn không ngờ - năm 2000 là 75% sang năm 2001 là 340%. Đây thực sự là dấu hiệu xấu. là con số đáng báo động chứng tỏ công ty ngày càng quản lý các khoản phải thu kém hơn đồng thời vốn của công ty bị chiếm dụng nhiều hơn. Trong khi đó doanh thu thuần của công ty lại giảm so với năm 1999 điều này chỉ rõ mặc dù phải cấp tín dụng thương mại nhiều hơn công ty cũng không tăng được lượng doanh thu chứng tỏ việc cấp tín dụng thương mại không phát huy được hiệu lực như nó phải có. Vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý Coalimex là phải tăng vòng quay các khoản phải thu cũng như giảm thời gian thu hồi chúng để kéo công ty khỏi tình trạnh hiện nay không bị sa lầy vào việc bị chiếm dụng vốn, ứ đọng vốn quá lâu nhưng đồng thời cũng phải xem xét kỹ việc cấp tín dụng thương mại để nó vừa làm tăng doanh thu của công ty vừa không đặt công ty vào những hoàn cảnh rủi ro bị động trong thu hồi vốn. Tóm lại qua xem xét thực trạng quản lý hàng tồn kho và các khoản phải thu tại công ty Coalimex trong giai đoạn 1999-2001 ta thấy các chỉ tiêu phản ánh mức độ hiệu quả của việc quản lý hai tài sản này ngày một xấu đi, để chứng minh một cách sinh động nhận xét này ta có biểu đồ 2 dưới đây: 3. Quản lý tiền Thị trường tài chính của Việt Nam chưa phát triển do vậy có thể nói “chứng khoán thanh khoản cao” là một tài sản còn quá xa lạ trong bảng cân đối Thị trường tài chính của Việt Nam chưa phát triển do vậy có thể nói “chứng khoán thanh khoản cao” là một tài sản còn quá xa lạ trong bảng cân đối của các doanh nghiệp. Công ty Coalimex cũng vậy trong bảng cân đối kế toán của công ty khoản mục đầu tư ngắn hạn luôn bằng 0. Chính vì vậy mà doanh nghiệp không hề có một “bước đệm ” vững chắc và an toàn cho tiền mặt điều này gây sức ép đáng kể lên việc quyết định lượng tiền cần duy trì của doanh nghiệp đồng thời nó cũng làm giảm khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Nhưng để thay đổi điều này cần khá nhiều thời gian không chỉ để thị trường chứng khoán hoàn thiện hơn hoạt động có hiệu quả hơn sao cho trên thị trường có những loại chứng khoán thật sự là thanh khoản - tốn ít thời gian và chi phí chuyển đổi thành tiền - mà còn để các doanh nghiệp thay đổi lối suy nghĩ và thực sự chấp nhận chứng khoán như là một tài sản được ưu tiên trong bảng cân đối kế toán vừa có khả năng sinh lợi cao vừa có tính thanh khoản. Hiện nay đối với công ty công tác quản lý tiền mặt không được coi trọng lắm nên việc duy trì một lượng tiền bao nhiêu cũng mang tính ngẫu nhiên và hoàn toàn phụ thuộc vào việc mua bán hàng hoá việc thu hồi các khoản phải thu và thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của bản thân công ty. Trong hoạt động quản lý, công ty cũng không lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để xác định các nguồn tiền và sử dụng tiền của mình như thế nào.Trên thực tế. công ty duy trì một lượng tiền tại két là 1 tỷ VND phần còn lại sẽ được gửi vào tài khoản tiền gửi ngân hàng tại các ngân hàng thương mại với mức lãi suất khoảng 0,3% tháng. Tỷ trọng vốn bằng tiền so với tài sản lưu động của công ty trung bình là 30%. theo nguyên tắc chung thì con số này nếu lớn hơn 10% và nhỏ hơn 50% là có thể chấp nhận được. 4. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ở phần trên chúng ta đã xem xét công tác quản lý tài sản lưu động của công ty Coalimex nhưng vấn đề đặt ra là ta phải đánh giá hiệu quả chung của quá trình quản lý tài sản lưu động của công ty điều này đưa ta tới việc khảo sát các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động, khả năng sinh lợi của vốn lưu động và chu vận động của tiền mặt của công ty. _ Các chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển vốn lưu động Coalimex là một doanh nghiệp thương mại nên vốn nhất là vốn lưu động vận động không ngừng thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp vì vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần xem xét các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Bảng10: Các chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Đơn vị: triệu đồng Tên chỉ tiêu 1999 2000 2001 So sánh 2000/1999 2001/2000 + % + % Doanh thu thuần (1) 67816 62768 66564 -5048 -7 3796 6 Vốn lưu động bình quân (2) 20154 16548 17389 -3606 -18 814 5 Hệ số luân chuyển VLĐ (vòng)(3) = (1)/(2) 3,3648 3,7931 3,8280 0,4283 13 0,0349 1 Thời gian luân chuyển 1vg VLĐ(ngày) =360/(3) 107 95 94 -12 -11 1 1 Hệ số đảm nhiệm VLĐ = (1)/(3) 0,2972 0,2636 0,2612 -0,0336 -11 -0,0024 -1 Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex Kết quả ở trên cho ta thấy tốc độ luân chuyển vốn lưu động ngày một tăng so với năm 1999 thì năm 2000 số vòng quay vốn lưu động tăng thêm 0,283 vòng thời gian một vòng quay giảm được 12 ngày và hệ số đảm nhiệm vốn lưu động (một đồng doanh thu cần mấy đồng vốn lưu động) giảm thêm được 0,0336 đồng. Nếu tốc độ luân chuyển vốn năm 2000 không thay đổi so với năm 1999 thì để đạt được mức doanh thu năm 2000, công ty cần lượng vốn lưu động là: Tổng doanh thu thuần năm 2000 = Hệ số luân chuyển năm 1999 62816 triệuVND = 3.3648 triệuVND = 18669 (triệuVND) Như vậy việc đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động năm 2000 đã giúp công ty tiết kiệm được 18669 triệu VND - 16548 triệu VND= 2121(triệu VND) Đến năm 2001 hệ số luân chuyển vốn lưu động so với năm 2000 lại tăng thêm được 0,0349 vòng. thời gian luân chuyển vốn lưu động giảm thêm 1 ngày nữa, hệ số luân chuyển vốn lưu động cũng giảm thêm được 0,0014 đồng còn 0,2612 đồng. Tương tự như trên nhờ đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động so với năm 2000 công ty đã tiết kiệm được lượng vốn lưu động là 160 (triệuVND). Như vậy, kết quả của ba năm từ 1999 đến 2001 cho thấy tính tích cực của công ty trong việc đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn. thể hiện việc sử dụng tài sản lưu động của công ty ngày càng có hiệu quả. Tuy nhiên cũng cần để ý rằng các hệ số chỉ tốc độ luân chuyển vốn lưu động của công ty là còn yếu do đó vẫn tồn tại sự lãng phí vốn. _Khả năng sinh lợi của vốn lưu động Theo bảng dưới ta thấy khả năng sinh lợi của vốn lưu động ngày càng tăng năm 1999 ta có 100 đồng vốn lưu động chỉ tạo ra 4,0517 đồng lợi nhuận cho công ty thì đến năm 2000 nó tạo ra được 6,5826 đồng tăng 62% và sang năm 2001 chỉ số này đã giảm xuống một ít còn 6,5069 đồng có thể nói đây là tình trạng rất tốt phản ánh khả năng sinh lợi nội bộ của tài sản lưu động là khá khả quan. Bảng 11: Các chỉ tiêu khả năng sinh lợi vốn lưu động Đơn vị: triệu đồng Tên chỉ tiêu 1999 2000 2001 So sánh 2000/1999 2001/2000 + % + % Lợi nhuận sau thuế (1) 817 1089 1131 272 33 42 4 VLĐ bình quân(2) 20154 16546 17389 -3606 -18 814 5 Khả năng sinh lợi của VLĐ = (1)*100/(2) 4,0517 6,5826 6,5069 2,5309 62 -0,0757 1 Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex _Chu kỳ vận động của tiền mặt Bảng 12: Chu kỳ vận động của tiền mặt Đơn vị: triệu đồng Tên chỉ tiêu 1999 2000 2001 So sánh 2000/1999 2001/2000 + % + % Hàng tồn kho (1) 222 7809 19476 7587 3418 11667 149 Doanh thu thuần (2) 67816 62768 66564 -5048 -7 3796 6 Thời gian vận động của hàng hoá (ngày) (3) =360*(1)/(2) 75 45 105 -30 -40 60 133 Thời gian thu hồi những khoản phải thu (ngày) (Bảng 9)(4) 160 208 330 48 75 122 340 Khoản phải trả (5) 35375 32852 50379 -2523 -7 17527 53 Giá vốn hàng bán (6) 58506 51590 54515 -6916 -12 2925 6 Thời gian chậm trả những khoản phải trả (ngày) (7)=360*(5)/(6) 218 229 333 11 5 104 45 Chu kỳ vận động của tiền mặt (ngày) =(3)+(4)-(7) 15 24 103 9 60 79 329 Nguồn:Phòng Kế hoạch kinh tế -tài chính công ty Coalimex Từ bảng trên ta thấy chu kỳ vận động của tiền ngày càng dài ra thể hiện xu hướng không tốt của quá trình quản lý tài sản lưu động. hiệu quả quản lý ngày càng có chiều hướng xấu đi. Từ năm 1999 chu kỳ vận động của tiền mặt là 15 ngày đây là con số rất tốt chứng tỏ công ty đã có những nỗ lực trong việc đẩy nhanh thời gian vạn động của hàng hoá 75 ngày và thời gian thu hồi các khoản phải thu 106 ngày đồng thời kéo dài thời gian chậm trả những khoản phải trả 218 ngày. Sang năm 2000 thời gian vận động của hàng hoá đã được giảm đi đáng kể song lại có sự tăng vọt của thời gian thu hồi những khỏan phải thu từ 106 lên 208 ngày tăng 96% đã làm tăng đáng 60% chu kỳ vận động của tiền mặt lên 24 ngày. Đến năm 2001 thì chính sự gia tăng của cả hai chỉ tiêu thời gian vận động của hàng hoá và thời gian thu hồi các khoản phải thu đã làm chu kỳ tiền mặt tăng vọt 329% lên đến 103 ngày mặc dù chỉ tiêu thời gian chậm trả những khoản phải trả đã gia tăng đáng kể từ 229 lên 333 ngày - tăng 45% - cũng không làm chu kỳ vận động của tiền mặt giảm xuống được. Tóm lại sự gia tăng của chu kỳ vận động tiền mặt đến mức báo động như hiện nay phản ánh rõ rệt sự quản lý tài sản lưu động yếu kém của Coalimex và ta cũng thấy nguyên nhân của việc này là do sự gia tăng của thời gian thu hồi các khoản phải thu. điều này là một gợi ý cho công ty trong việc tìm giải pháp rút ngắn chu kỳ vận động của tiền mặt phải bắt đầu từ việc tìm giải pháp giảm thời gian thu hồi các khoản tín dụng thương mại. III.Đánh giá tình hình khả năng thanh toán và quản lý tài sản lưu động 1.Các kết quả đạt được và nguyên nhân Qua chỉ tiêu về vốn lưu động thường xuyên ta thấy khả năng thanh toán cơ bản là lành mạnh vững vàng. Có được kết quả như vậy chính là nhờ công ty đã sử dụng hợp lý nguồn vốn dài hạn của mình nên ngoài việc tài trợ cho tài sản cố định nó còn dư thừa để tài trợ cho tài sản lưu động chính vì vậy mà tài sản lưu động mới lớn hơn nợ ngắn hạn và do đó vốn lưu động thường xuyên là dương, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Xem xét đến chỉ tiêu về khả năng thanh toán hiện hành cho ta một cái nhìn khá lạc quan về tình hình thanh toán của Coalimex vì hai chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên và khả năng thanh toán hiện hành có cùng số liệu gốc nên ta cũng có thể áp dụng cách giải thích ở trên cho kết quả này. Để có một cái nhìn tổng thể nhằm đánh giá khái quát hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Coalimex ta hãy cùng xem lại các chỉ tiêu đánh giá chung về hiệu quả quản lý tài sản lưu động đã được trình bày tại phần ngay trên này. Các chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển cho ta nhận xét rằng tốc độ luân chuyển vốn lưu động của công ty là chấp nhận được song vẫn còn hơi yếu có thể nói xét về khía cạnh này sự quản lý của công ty đối với tài sản là đạt yêu cầu song cần nâng cao hơn nữa trong thời gian tới. Đáng mừng là các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi của vốn lưu động cho ta một kết luận vô cùng khả quan đó là vốn lưu động của công ty có khả năng sinh lợi cao kể cả xét chung hay chỉ riêng nội bộ công ty đây là điều đáng phát huy trong thời gian tới và cả sau này. 2.Hạn chế và nguyên nhân Qua các chỉ tiêu đã xét ở trên ta thấy khả năng thanh toán của công ty nhìn chung còn yếu kém và thiếu ổn định. Nguyên nhân của tình hình này bắt nguồn từ sự thiếu hợp lý trong cơ cấu tài chính của công ty. Khi xem xét chỉ tiêu thanh toán nhanh thì ta phát hiện ra sự thiếu lành mạnh trong khả năng thanh toán đồng thời chỉ tiêu thanh toán tức thời chỉ rõ sự yếu kém của công ty trong việc ứng phó với các khoản nợ ngắn hạn nếu chúng đòi hỏi thanh toán ngay lập tức, khi đó do lượng tiền mặt không đủ công ty phải giải phóng một lượng lớn các tài sản lưu động khác để bù vào (điều này sẽ rất bất lợi cho công ty trong việc duy trì sản xuất như cũ trong thời gian sau đồng thời việc giải phóng các tài sản lưu động một cách gấp rút sẽ bị thiệt thòi lớn do không thu được lượng giá trị tương ứng). Nhận định trên chỉ rõ rằng trong cơ cấu tài sản lưu động, công ty đã duy trì tỷ trọng tiền quá thấp. Điều này khiến cho khả năng của công ty trong việc đáp ứng tức thời các khoản nợ ngắn hạn rất kém gây bất lợi cho công ty trong giao dịch, nhất là trong quan hệ với nhà cung cấp. Trong khi đó các khoản phải thu vẫn còn cao tức là tỷ lệ vốn bị chiếm dụng rất lớn. Các khoản phải thu tăng lên một phần do công ty chưa có kế hoạch giám sát các khoản phải thu một cách chặt chẽ, chưa có kế hoạch thu nợ đều trong năm và giữa các năm. Tuy nhiên do ngày càng mở rộng quan hệ giao dịch nên công ty không thể tránh khỏi một vài khách hàng mất khả năng thanh toán. Tình hình các khoản phải thu tăng quá nhanh và ngày càng nhanh là một dấu hiệu đáng báo động về việc bị chiếm dụng vốn và ứ đọng vốn trong khâu tiêu thụ. Đặc biệt qua các chỉ tiêu vòng quay các khoản phải thu và thời gian thu hồi các khoản phải thu ta càng thấy rõ điều này. Song việc tăng các khoản phải thu cũng có thể chấp nhận được trong trường hợp nhằm tăng doanh số bán hàng và đặc biệt để tăng lợi nhuận của công ty mặc dù vậy lợi thế này của tín dụng thương mại không được công ty khai thác triệt để cho nên việc công ty duy trì giá trị khoản phải thu cao lại không gắn liền với việc tăng mức bán hàng và lợi nhuận mà là ngược lại. Tỷ trọng hàng tồn kho khá không ổn định trong tổng tài sản lưu động. Như phần trên đã phân tích giá trị hàng tồn kho khi cao nhất là 16,6% nhưng khi thấp nhất chỉ có 0,5% điều này cho thấy rõ sự không đều đặn. thiếu chủ động trong việc tiêu thụ hàng hoá của công ty.Tuy nhiên vấn đề ở đây là vòng quay hàng tồn kho giảm quá nhanh một cách không ngờ đẩy chỉ tiêu này từ mức rất tốt đến mức không thể chấp nhận được, chỉ qua ba nămvòng quay hàng tồn kho giảm 98% điều này chứng tỏ hàng tồn kho không được quản lý tốt. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn cũng là điều đáng nói dù tỷ trọng của nó trong tổng tài sản lưu động luôn bằng không đây chính là điều không hợp lý nhất trong việc quản lý tài sản lưu động cũng như trong việc cải thiện khả năng thanh toán của công ty song nó cũng lại là điều khó khắc phục nhất. Duy trì điều này sẽ là một chướng ngại vật trong việc quản lý tài sản lưu động và cải thiện khả năng thanh toán vì không có “bước đệm” này giữa tiền và các tài sản lưu động khác sẽ có một sự lệch pha nên dù có cơ cấu chúng kiểu nào cũng không thể tạo ra được một tổng thể như ý vừa đáp ứng nhu cầu thanh toán vừa đáp ứng được mục tiêu sinh lợi. ngược lại muốn khắc phục nó đòi hỏi phải có những điều kiện mà thường được xem là không thể. Tuy nhiên chúng ta cũng sẽ thử tìm cách giải quyết vấn đề hóc búa này trong phần sau. Chỉ tiêu chu kỳ vận động của tiền mặt cho ta một đánh giá chung về hiệu quả quản lý tài sản lưu động như ta đã thấy ở trên sự gia tăng của hàng tồn kho và các khoản phải thu vào hai năm 2000 và 2001 đã kéo dài chu kỳ vận động của tiền mặt mặc dù công ty đã có những cố gắng trong việc trì hoãn trả các khoản phải trả. Vấn đề đặt ra ở đây là phải giảm thời gian thu hồi các khoản phải thu bằng cách hạn chế cấp tín dụng thương mại và tăng cường thu hồi các khoản phải thu đồng thời ta phải đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá giảm lượng hàng tồn kho để gia tăng thời gian vận động cuả hàng hoá song song với việc đó ta phải phát huy việc kéo dài thời gian chậm trả những khoảng phải trả như hiện nay, làm được như vậy thì chu kỳ vận động của tiền của công ty sẽ được rút ngắn lại chứng tỏ hiệu quả quản lý tài sản lưu động là đạt yêu cầu. CHƯƠNG 3 một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình và khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế -Coalimex i.cải thiện tình hình và khả năng thanh toán, tăng cường quản lý tài sản lưu động là vấn đề cấp bách tại công ty Coalimex Hiện nay trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, công tác xuất nhập khẩu ngày càng trở nên vô cùng quan trọng được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước chính vì vậy nó ngày càng trở nên sôi động, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào hoạt động trong lĩnh vực này tạo nên sự cạnh tranh vô cùng mạnh mẽ và gay gắt, đặc biệt là trong thời gian này khi Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN, tham gia vào APEC và là quan sát viên cuả WTO. Đây chính là những thuận lợi mà các công ty xuất nhập khẩu nói chung cũng như công ty Coalimex nói riêng cần phải tận dụng, đồng thời cũng là những khó khăn mà họ phải vượt qua. Trong những năm vừa qua công ty đã không ngừng nỗ lực để có thể thích ứng một cách tốt nhất với môi trường hoạt động ngày càng khó khăn. Công ty đã luôn giữ vị trí đứng đầu trong công tác xuất khẩu than và góp phần quan trọng trong việc đưa than Việt Nam đến với thị trường thế giới. Tuy nhiên, doanh thu của công ty mấy năm gần đây có chiều hướng giảm sút không ổn định điều này xuất phát một phần từ những thiếu sót trong công tác quản lý tài sản lưu động và những yếu kém về khả năng thanh toán của công ty như đã được trình bày ở chương hai các thiếu sót đó gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của mình. Dễ thấy rằng cơ cấu tài sản lưu động, cơ cấu tài chính của công ty còn thiếu hợp lý làm ảnh hưởng manh mẽ đến khả năng thanh toán của công ty. Định hướng của công ty trong thời gian tới là tăng cường mở rộng thị trường trong nước và quốc tế, muốn đạt được điều này thì công ty trước hết phải cải thiện công tác quản lý tài chính, trong đó có công tác quản lý khả năng thanh toán, đồng thời cơ cấu lại bộ máy quản lý công ty, quản lý tốt khả năng thanh toán là điều kiện tiền đề cho việc theo đuổi bất cứ một mục tiêu nào của công ty. II.một số giải pháp cải thiện tình hình và khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động của công ty 1.Một số giải pháp nhằm cải thiện khả năng thanh toán của công ty trong thời gian tới. Như ta đã thấy trong phần thực trạng khả năng thanh toán của công ty hiện thời không được lành mạnh và ngày càng có xu hướng yếu đi nhất là khả năng thanh toán nhanh và tức thời thực sự là rất kém do đó vấn đề cần đặt ra trước mắt là làm sao tăng khả năng thanh toán của công ty lên nhanh chóng để tránh rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán vì trước mắt công ty phải đối mặt với nhu cầu thanh toán rất lớn phát sinh từ các khoản nợ ngắn hạn trị giá 104914 triệu VND sắp đến hạn thanh toán. Để giải quyết vấn đề này có các biện pháp tức thời như sau: 1.1.Nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu đồng thời tăng lượng tiền mặt Công ty phải tiến hành ngay các biện pháp thu hồi nợ để thu hồi các khoản phải thu trị giá 61036 triệuVND tránh tình trạng các khoản phải thu chiếm tỷ trọng quá lớn gây ứ đọng vốn như hiện nay. Việc thu hồi nợ cần bắt đầu từ các khoản có giá trị lớn trước sau đó đến các khoản nhỏ sau nhưng cũng cần đặc biệt lưu ý đến các khoản quá hạn hay có thời hạn lâu ngày cần có biện pháp đôn đúc thu hồi nợ thường xuyên tránh trường hợp chây ỳ dây dưa khiến tình hình càng trở nên phức tạp. Thêm vào đó để nâng cao hiệu quả của việc thu hồi nợ công ty nên áp dụng mức lãi phạt nặng hơn nữa tuỳ theo từng thời gian quá hạn của khoản nợ, điều này sẽ khiến khách hàng tích cực hơn trong việc trả nợ cho công ty. Việc thu hồi nợ tiến hành hiệu quả sẽ tăng lượng tiền của công ty lên, lượng tiền tăng thêm này công ty phải dùng một phần hay toàn bộ để gửi ngân hàng hay giữ tại quỹ của công ty nhằm nâng cao khả năng thanh toán tức thời cho công ty làm được điều này công ty sẽ có thể ứng phó tốt hơn với các khoản nợ đến hạn của mình. 1.2.Giảm tỷ trọng nợ ngắn hạn và thay thế bằng nợ dài hạn Qua các Báo cáo tài chính của công ty ta thấy ngân hàng của Coalimex ngày càng tăng và các khoản nợ này hoàn toàn là nợ ngắn hạn, nợ ngân hàng cao chứng tỏ uy tín của công ty trên thị trường lớn tuy nhiên nợ ngân hàng chiếm tới 51,6% trong năm 2001 là tỷ lệ quá cao. Điều này không những làm tăng chi phí nợ vay mà còn tạo một áp lực lớn lên khả năng thanh toán của công ty. Vì vậy, công ty nên chủ động giảm các khoản nợ ngắn hạn tại ngân hàng và thay vào đó bằng các khoản nợ dài hạn. Do là một doanh nghiệp thương mại nên nguồn vốn mà công ty cần sử dụng trong hoạt động kinh doanh chủ yếu là vốn lưu động nên việc vay dài hạn ngân hàng là không thể được vì các ngân hàng không cho phép vay dài hạn đối với vốn lưu động. Tuy nhiên công ty có thể vay vốn dài hạn từ một số nguồn sau: _ Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên Là một công ty khá lớn Coalimex có số lượng cán bộ là 170 người chưa kể một số lượng không nhỏ lao động làm hợp đồng, hơn nữa qua 20 năm hoạt động có hiệu quả nên đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty điều là những người đã gắn bó với công ty trong thời gian dài và thu nhập hiện nay của họ là khá cao so với mức chung, đồng thời họ cũng đã có một lượng tài sản tích luỹ tương đối lớn, do đó huy động vốn từ cán bộ công nhân viên là rất thuận lợi đồng thời đó cũng là biện pháp phát huy nguồn vốn nội lực, giảm thiểu rủi ro tăng sức mạnh tài chính cho công ty và góp phần tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên chức của công ty. Tuy nhiên, đây là biện pháp khá mới mẻ và còn chưa được số đông các lãnh đạo của các công ty nghĩ tới cũng như nó còn quá xa lạ. Ngoài ra với phương thức huy động vốn này thường thì số vốn huy động được không nhiều và dễ gặp các khó khăn khác như vấn đề cơ sở pháp lý và các vấn đề về thời hạn cho vay cách hoàn trả… Song nhìn chung đây là nguồn vốn dài hạn rất có triển vọng công ty nên xem xét cách thức huy động để có thể huy động môt lượng vốn khoảng 300 triệu trong thời gian tới. _ Sử dụng nguồn vốn hiện có một cách có hiệu quả Bên cạnh huy động nguồn vốn dài hạn công ty cần sử dụng nguồn vốn hiện có một cách tiết kiệm hiệu quả trong đó quan trọng nhất là sử dụng vốn lưu động một cách tiết kiệm triệt để bởi vì điều này sẽ giúp công ty làm giảm các khoản nợ ngắn hạn. Tuy rằng trong ba năm qua tốc độ luân chuyển vốn lưu động ngày càng tăng song hệ số luân chuyển vốn lưu động lại bé và còn rất thấp so với yêu cầu chung cho nên để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động công ty cần thực hiện các biện pháp đồng bộ nhằm tăng nhanh hơn nữa tốc độ lưu chuyển vốn lưu động có thể tiết kiệm được số vốn lưu động ngày càng lớn. Thực hiện được điều này công ty sẽ giảm được áp lực vay vốn qua đó giảm được các khoản nợ đặc biệt là nợ ngắn hạn. Ngoài ra, công ty cần quan tâm đến vấn đề tiết kiệm các loại chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động như chi phí tiếp khách, chi phí mua hàng, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp… 1.3. Sử dụng các nghiệp vụ thị trường hối đoái nhằm giảm thiểu rủi ro tỷ giá trong hoạt động thanh toán của công ty Hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu công ty Coalimex thực hiện giao dịch với các ngân hàng đều có chuyên môn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, hông kông bank, chinfon bank…do vâỵ để đề phòng rủi ro tỷ giá công ty có thể yêu cầu các ngân hàng này thực hiện một số nghiệp vụ chủ yếu của thị trường hối đoái như nghiệp vụ thị trường giao ngay, nghiệp vụ acbít, nghiệp vụ mua bán kỳ hạn và tương lai các loại ngoại tệ cũng như nghiệp vụ swap. Thực hiện điều này sẽ giúp công ty rất nhiều trong việc đề phòng rủi ro do trạng thái ngoại tệ mở gây ra giúp công ty luôn chủ động được trong thanh toán hàng nhập khẩu. 2.Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động của Công ty đồng thời cải thiện khả năng thanh toán về lâu dài 2.1.Cải thiện bộ máy quản lý Bộ máy quản lý hiện tại của Công ty là sự kết hợp giữa ban Giám đốc và phòng kế hoạch kinh tế - tài chính các kế hoạch đặt ra đã được sự thông qua của hệ thống này sau đó mới được phân bổ đến các bộ phận thực hiện. Tuy nhiên, quy trình lập kế hoạch lại có những khuyết điểm. Cụ thể là sau một năm việc hoạch toán hoạt động kinh doanh được thực hiện từ các phòng kinh doanh các chi nhánh sau đó tổng hợp tại phòng kế hoạch kinh tế - tài chính của Công ty từ đó xây dựng nên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của toàn Công ty. Việc lập kế hoạch hoạt động cho năm tiếp theo cũng dựa trên các chỉ tiêu tài chính và các kế hoạch do chính khối phòng kinh doanh đề ra. Do vậy các yếu tố khách quan dễ bị bỏ qua, sự phân bổ vốn giữa các đơn vị kinh doanh dễ mất đi tính hợp lý. Công ty cần thiết phải lập ra một bộ phận chuyên tổng hợp các phân tích về thị trường, theo dõi các hạng mục công trình hay các dự án đầu tư tương lai liên quan đến doanh nghiệp. Mặt khác, Công ty còn chưa chú trọng đến công tác quản lý tài sản lưu động và quản lý các khoản nợ ngắn hạn của Công ty. Công ty cũng cần nhanh chóng thành lập một bộ phận chuyên trách về tài chính, không gắn thêm nhiệm vụ kế toán để có thể quản lý tốt hơn. Đặc biệt tuy thị trường tài chính Việt Nam chưa hoàn chỉnh Công ty khó có thể thực hiện quản lý tiền bằng cách mua bán các chứng khoán thanh khoản song Công ty cần thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường chứng khoán, bộ phận này sẽ có nhiệm vụ theo dõi sát sao tình hình thị trường giúp Công ty không bị bỡ ngỡ trong việc mua bán các chứng khoán thanh khoản trên thị trường sau này. 2.2.Đổi mới phương pháp quản lý 2.2.1đối với tiền và các chứng khoán thanh khoản cao. Trong hoạt động của mình Công ty cần thiết phải lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ để có thể biết các nguồn tiền cũng như sử dụng nguồn tiền của Công ty như thế nào. Từ đó Công ty có thể dự báo nhu cầu tiền trong thời gian tới và xác định được lượng tiền tối thiểu cần phải duy trì đáp ứng được các tình huống diễn ra hàng ngày. Đặc biệt công ty phải nhanh chóng làm quen với các chứng khoán trong cơ cấu tài sản lưu động của mình thể hiện bằng việc bắt đầu đầu tư vào các chứng khoán có giá trị ổn định trên thị trường hiện nay. Tuy có thể nói rằng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay chưa đủ phát triển để các chứng khoán có thể tham gia vào bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp như là một khoản đầu tư ổn định và có lợi tương đối song cũng cần lưu ý ngoại trừ các trái phiếu thì các cổ phiếu của các Công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán hiện nay đều có tỷ lệ sinh lời khá lớn tính từ khi chúng được chính thức niêm yết cho tới nay và tỷ lệ này cao hơn rất nhiều so với lãi suất gửi ngân hàng. Dẫu sao đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng là một bước tiến rất khôn ngoan mang tính chất “đi trước đón đầu” giúp doanh nghiệp quen dần và có đủ hiểu biết về thị trường chứng khoán để sau này khi chứng khoán đã thực sự là “bước đệm” cho tiền mặt thì doanh nghiệp thực sự vận dụng và quản lý tài sản này một cách có hiệu quả nhằm nâng cao khả năng thanh toán, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp. 2.2.2.Đối với dự trữ, hàng tồn kho Lượng hàng tồn kho của Công ty trong các năm qua được duy trì một cách ngẫu nhiên trên thực tế Công ty hoàn toàn có thể tính toán một cách chính xác lượng dự trữ hợp lý. Các khách hàng của Công ty hầu hết là khách hàng truyền thống do đó mà Công ty hoàn toàn có thể dự đoán được trước số lượng hàng nhập khẩu mà từng doanh nghiệp có nhu cầu theo quý theo tháng cũng như là số lượng hàng xuất khẩu mà các mỏ than cung cấp. Dựa trên các con số dự đoán Công ty có thể chủ động hơn trong việc tìm nguồn cung cấp và tìm nguồn tiêu thụ, mặt khác có thể tổ chức tốt hơn công tác vận chuyển và tiêu thụ hàng hoá nhằm tăng vòng quay dự trữ và số lượng hàng tồn kho. Chẳng hạn khi mua hàng Công ty có thời gian để tham khảo toàn diện giá cả cũng như điều kiện mua hàng từ nhiều nhà cung cấp khác nhau để lựa chọn được nhà cung cấp nhiều ưu đãi nhất. Nói rõ hơn thì việc quản lý dự trữ, hàng tồn kho phải luôn hướng tới mục tiêu giảm lượng dự trữ tồn kho nhằm tiết kiệm chi phí. Hiện nay, như ta đã biết hàng dự trữ, hàng tồn kho của công ty chủ yếu là bộ phận liên quan đến nhập khẩu. Do đó đòi hỏi ta phải có những giải pháp thực sự có hiệu quả để giải phóng chúng. Xem xét hàng tồn kho của công ty ta nhận thấy chúng chủ yếu tồn tại ở hai dạng là hàng tồn kho và hàng gửi bán. Hiện tại công ty đang phải đối mặt với lượng hàng hoá tồn kho khá lớn một phần trong số đó thuộc loại khó tiêu thụ. Đây là một khó khăn rất lớn cho công ty trong việc đẩy nhanh vòng quay hàng tồn kho. Sau khi đã nhập hàng về kho công ty trực tiếp quản lý chúng, cho nên lúc này biện pháp duy nhất là tìm cách đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng tồn kho. Đó là các biện pháp sau: Thiết lập các kênh tiêu thụ nhằm mở rộng quy mô tiêu thụ như: bán buôn, bán đại lý.. Tiếp tục quá trình Marketing trong khâu tiêu thụ. Đối với hàng gửi bán công ty phải có kế hoạch bố trí công tác, kiểm tra thường xuyên để nắm bắt được tình hình và có biện pháp xử lý kịp thời. Tăng cường công tác tham gia hội chợ triển lãm, hội chợ người tiêu dùng để mở rộng quan hệ với khách hàng, duy trì tốt các mối quan hệ cũ. Đối với hàng tồn kho đã rơi vào tình trạng lỗi thời khả năng tiêu thụ kém công ty nên mạnh dạn chịu tổn thất phần nào để nhanh chóng giải phóng nguồn vốn tồn đọng bằng cách hạ giá. Hơn nữa điều này còn giúp Công ty tránh được những tổn thất khác có thể xảy ra như chi phí lưu kho, bảo quản, tổn thất do chất lượng hàng hoá giảm hoặc do mất mát hao hụt. Tóm lại, đối với hàng hoá tồn kho thì vấn đề được coi trọng không chỉ là công tác quản lý chúng sau khi đã nhập mà quan trọng là lúc đưa ra quyết định nhập: nhập hay không nhập, loại nào, bao nhiêu, từ đâu và khi nào..? 2.2.3.Đối với các khoản phải thu (chính sách tín dụng thương mại) Việc theo dõi các khoản phải thu của Công ty còn quá đơn giản và lỏng lẻo Công ty cần phải lập bảng theo dõi tình hình phải thu đối với từng khách hàng theo từng tháng từng quý, năm. Qua bảng này Công ty lập kế hoạch thu tiền cụ thể nhằm tránh nợ đọng kéo dài từ các khách hàng. Đồng thời Công ty phải thật sự chú trọng đến việc rút ngắn thời gian các khoản phải thu bằng cách tiến hành những phương pháp quản lý mới sau: ] Đối với khoản phải thu khách hàng do bán hàng xuất khẩu. Công ty phải không ngừng nâng cao nghiệp vụ của các kế toán thanh toán tránh để xảy ra sai sót trong thanh toán quốc tế gây thiệt hại lớn ảnh hưởng không chỉ tới hiệu quả sản xuất kinh doanh mà còn tới uy tín của Công ty trên trường quốc tế. Mặc dù trong thời gian qua tình trạng này rất hiếm khi xảy ra ở Công ty song không vì thế mà chủ quan xem nhẹ nó bởi tính nghiêm trọng của nó thật khó mà tưởng tượng được. Công ty có thể sử dụng các hình thức ưu đãi về giá cả, điều kiện vật chất để khuyến khích khách hàng đẩy nhanh quá trình thanh toán. Tổ chức tốt công tác làm thủ tục xuất khẩu vận chuyển, bốc dỡ và giao hàng theo đúng hợp đồng đã ký kết để thuận lợi hơn trong việc yêu cầu thanh toán. Đối với những mặt hàng mang tính độc quyền cao Công ty nên giành lợi thế trong thanh toán. Thường xuyên theo dõi tình hình tài chính của khách hàng thông các Ngân hàng trung gian trong quan hệ thanh toán quốc tế để có được những thông tin đầy đủ hơn giúp cho Công ty có thể điều chỉnh và đưa ra những giải pháp xử lý một cách kịp thời. Tham gia các tổ chức tài phán quốc tế hay trọng tài kinh tế để giải quyết các tranh chấp thương mại khi cần thiết. Thiết lập và duy trì tốt quan hệ với các ngân hàng có uy tín, kinh nghiệm trong thương mại quốc tế để quá trình thanh toán được thuận tiện an toàn và nhanh nhất. Thường xuyên theo dõi sự biến động của tỷ giá hối đoái tuỳ theo đặc điểm của từng giai đoạn mà trích lập quỹ dự phòng thiệt hại phải thu do tỷ giá giảm. ] Đối với khoản phải thu do bán hàng trên thị trường nội địa Đây là bộ phận lớn nhất trong tổng các khoản phải thu, hơn nữa nó rất đa dạng phức tạp và đặc biệt là không ít rủi ro. Do vậy, để có một giải pháp hoàn chỉnh cho nó thật không dễ dàng gì. Trong phạm vi luận văn này em xin đưa ra một số giải pháp và phương hướng trong việc quản lý các khoản phải thu này như sau: Tăng cường công tác thẩm định năng lực tài chính của khách hàng trước khi ra quyết định bán chịu như: năng lực tài chính (thông qua một số kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua, thu nhập kỳ vọng trong thời gian tới chiến lược kinh doanh và tính khả thi của nó...), năng lực pháp lý (tư cách pháp nhân, tính hợp pháp của hành vi kinh doanh...), hành vi đạo đức... Công ty cũng nên định mức giá bán trả chậm phải đảm bảo đủ để bù đắp những rủi ro tiềm ẩn của khoản phải thu đó như: rủi ro vỡ nợ, rủi ro giảm giá trị do ảnh hưởng của lạm phát... và các khoản phí tổn khác phát sinh trong việc quá trình thu nợ. Hay nói cách khác chính các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp phải lập dự toán cho tất cả thiệt hại cũng như lợi thế liên quan đến khoản tín dụng thương mại để xác định được chính xác giá trị chỉ tiêu NPV cho khoản tín dụng thương mại đó và chỉ chấp nhận bán trong trường hợp NPV thực sự dương. Mặt khác, cũng cần phải quan tâm đến đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ trước khi quyết định có bán chịu hay không và với mức giá là bao nhiêu. Chính nhân tố này sẽ tác động rất lớn đến rủi ro và tổn thất của khoản phải thu (sự thay đổi tỷ giá liên quan đến giá gốc nhập khẩu, đến tình trạng lạm phát, trì trệ của nền kinh tế...) Nghiên cứu, quan sát tình hình ngân quỹ của khách hàng để xác định thời hạn hợp lý nhất đảm bảo cho khách hàng trong tình trạng sẵn sàng trả nợ nhất. Hơn nữa, Công ty phải thường xuyên giám sát hoạt động của họ, có thể phân công quản lý theo từng khách hàng, nhóm khách hàng, đặc biệt đối với các khách hàng lớn. Từ đó giúp Công ty dễ dàng hơn trong công tác quản lý và thu nợ. Trong điều kiện khó khăn về vốn Công ty có thể giảm thời gian thu nợ bằng cách đưa ra mức chiết khấu thanh toán nhanh hấp dẫn. Các chứng từ của khoản phải thu phải đảm bảo phản ánh được đầy đủ quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên. Người đứng ra chịu trách nhiệm phải đúng trong phạm vi thẩm quyền được phép phòng khi có rủi ro xảy ra Công ty có thể mời “bên thứ ba”. Không nên để các món nợ chồng chất, nếu khách hàng nào có hiện tượng trì trệ thanh toán và kinh doanh có dấu hiệu không tốt thì Công ty nên cương quyết ngừng ngay việc cấp tín dụng thương mại cho họ. Hơn nữa, phải nhanh chóng xử lý các món nợ dây dưa bằng mọi biện pháp có thể được dù phải chấp nhận tổn thất như tham gia phát mại tài sản, cầm cố tài sản... Thường xuyên theo dõi số dư các khoản phải thu của từng khách hàng cũng như trong tổng thể để có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Đồng thời phải lập ngân quỹ cho từng thời điểm để có biện pháp cân đối nguồn cho phù hợp vừa đảm bảo thanh toán vừa tránh lãng phí vốn. Để thực hiện tốt vấn đề này thì việc xắp xếp tuổi cho các khoản phải thu là một vấn đề rất cần thiết. Tuỳ từng thời kỳ mà Công ty lên kế hoạch lập dự phòng phải thu khó đòi cho phù hợp không nên lớn quá mà gây ứ đọng vốn nhưng cũng không nên nhỏ quá mà gây khó khăn trong việc đảm bảo tái sản xuất của Công ty. ] Đối với khoản phải thu Nhà nước thông qua hoàn thuế VAT đầu vào. Đây cũng đang là yếu tố gây ứ đọng vốn không nhỏ cho Công ty. Mặc dù nguyên nhân của vấn đề này không phải do chính sách thuế cũng không hoàn toàn là lỗi của Công ty mà chủ yếu do sự thiếu đồng bộ trong hệ thống chứng từ sử dụng trong luật VAT của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ngoài ra còn nhiều bất cập khác xảy ra trong quá trình áp dụng luật thuế này. Mặc dù tại Công ty đã có một kế toán trong lĩnh vực này song lại không thể chống đỡ nổi với muôn vàn yếu tố khách quan. Do vậy vấn đề hoàn thuế vẫn còn là điều đang được sự quan tâm của toàn Công ty. Biện pháp duy nhất Công ty có thể làm được là hoàn thiện bộ hoá đơn VAT trong khâu thu mua, hồ sơ xin hoàn thuế phải tuân thủ nghiêm ngặt mọi điều khoản theo luật thuế hiện hành. Công ty cũng cần dự đoán các nhu cầu tiền để có thể chủ động trong việc tìm các nguồn tài trợ ngắn hạn tăng cường các hoạt động thanh toán của Công ty. 2.3. Rút ngắn thời gian làm thủ tục xuất nhập khẩu, vận chuyển. Thực tế rất có khả năng xảy ra trường hợp hàng đã về hoặc đã chuẩn bị xuất song vì thủ tục xuất nhập khẩu chưa được hoàn thiện nên nó vẫn bị tồn đọng trên các bến cảng, điều này sẽ đặc biệt nghiêm trọng hơn nếu đó là những lô hàng có giá trị lớn (trả lãi vay ngân hàng, chi phí bến bãi..) và chính lúc này vốn lưu động đang bị tồn đọng tài sản lưu động không tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy thực hiện tốt các thủ tục hành chính trong kinh doanh thương mại quốc tế là một vấn đề rất quan trọng góp phần rút ngắn thời gian vận động của vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thời gian vận chuyển bốc dỡ tại cảng tưởng chừng như không đáng kể nhưng thực tế nó cũng là một vấn đề. Thêm một giờ hàng còn trên các con tàu là thêm một giờ trong quá trình chu chuyển vốn lưu động vậy nên tổ chức công tác bốc dỡ cũng cần được quan tâm cũng như đối với việc lựa chọn phương tiện vận chuyển về tốc độ cũng như về khả năng trọng tải nhằm đạt được mục tiêu rút ngắn thời gian. 3. một số kiến nghị 3.1 Đối với Nhà nước 3.1.1.Nhà nước cần tạo ra môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn Để thực hiện được điều này, trước tiên Nhà nước cần ban hành các chính sách về tạo vốn. Các chính sách này cần phải đảm bảo được quyền huy động vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước bằng mọi hình thức như liên doanh. liên kết vay của các cá nhân. các tổ chức trong và ngoài nước từng bước phát hành cổ phiếu để huy động vốn từ cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp và của các cá nhân ngoài xã hội. Chính sách của Nhà nước cần chú trọng đến việc vừa khuyến khích định hướng cho các hoạt động thu hút vốn và cung ứng vốn vừa tạo sức ép buộc doanh nghiệp phải tự lo lắng và tính toán các biện pháp huy động vốn sao cho vừa đáp ứng nhu cầu thanh toán vừa đảm bảo khả năng sinh lợi của vốn. Bên cạnh đó Nhà nước cần phải nhanh chóng tạo lập một thị trường tài chính hoàn chỉnh. Tạo dựng và phát triển thị trường tài chính ở nước ta vừa là quá trình có tính quy luật của nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường vừa nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách về vốn cho mọi cá nhân và tổ chức kinh doanh. ở nước ta hiện nay, vốn lưu chuyển chủ yếu qua hệ thống ngân hàng vì thị trường tài chính chưa hoàn thiện do đó năng lực huy động vốn và tốc độ chu chuyển vốn của nền kinh tế là rất hạn chế. Kinh nghiệm của các nước cho thấy chỉ khi nào hai hình thức lưu chuyển này cùng tồn tại và bổ xung cho nhau thì mới cung cấp đủ lượng vốn cần thiết cho mọi thành viên của xã hội. Vì vậy, Nhà nước cần phải nhanh chóng hoàn thiện thị trường tài chíng tạo điều kiện cung cấp vốn cho các doanh nghiệp hoạt động và phát triển. Hơn nữa, một thị trường tài chính hoàn chỉnh còn giúp doanh nghiệp có thể thực hiện quản lý tài chính tốt hơn như quản lý tiền và quản lý rủi ro (chủ yếu là rủi ro về tỷ giá). 3.1.2.Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn vốn dưới dạng ngoại tệ: ở Việt Nam, các doanh nghiệp xuất khẩu phải chuyển khoản ngoại tệ vào các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ. Hơn nữa, Nhà nước còn cấm gửi các ngoại tệ thu được do xuất khẩu vào các ngân hàng nước ngoài nếu không sẽ vi phạm quy chế quản lý ngoại hối. Nên chăng, Nhà nước có những ưu đãi về sử dụng nguồn vốn ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cho phép các doanh nghiệp này được giữ lại một phần nào đó khoản tiền này để tạo thành một nguồn vốn mới sử dụng trong các lần xuất khẩu tiếp theo. hoặc sử dụng để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết. Như vậy sẽ giảm được gánh nặng trong hoạt động thanh toán của doanh nghiệp, tăng tốc độ chu chuyển của vốn. 3.1.3.Thành lập các Công ty mua bán nợ đối với doanh nghiệp Đây chính là hình thức factoring mua nợ, một dịch vụ do Công ty con của ngân hàng thực hiện. đó là nghiệp vụ mua lại các yêu cầu chi trả (thường là ngắn hạn) của doanh nghiệp sau đó nhận các khoản chi trả của các yêu cầu đó. Công ty mua nợ sẽ chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi, thu hồi và chịu rủi ro về các khoản chi trả đó. ở nước ta hiện nay đã có rất nhiều Công ty tài chính đươc thành lập. tuy nhiên hoạt động của các Công ty này còn rất hạn chế. Điều này khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong thanh toán khi không tiêu thụ được hàng hoá và không thu hồi được các khoản phải thu. Nhà nước cần tạo cơ sở để các Công ty tài chính có thể hoạt động ở phạm vi rộng hơn. Cụ thể là Công ty tài chính chấp nhận cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong thanh toán vay một khoản tiền mà tài sản bảo đảm chính là các khoản phải thu của doanh nghiệp. 3.2. Đối với Bộ thương mại Để việc sử dụng các nguồn lực của Công ty hiệu quả hơn không bị đứt quãng, Bộ Thương Mại nên xem xét lại cơ chế cấp hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu cho Công ty sao cho phù hợp với khả năng tốt nhất của Công ty. Đối với một số mặt hàng nhập khẩu đã rơi vào tình trạng khó tiêu thụ Bộ thương mại nên xem xét khấu trừ một phần lỗ cho Công ty khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Hơn nữa, Bộ nên tổ chức các cuộc triển lãm ở các nước khác trên thế giới để nhờ đó Công ty có điều kiện giới thiệu về mình cũng như gặp gỡ các bạn hàng mới. Mặt khác, Bộ nên mở rộng các quan hệ thương mại với các nước khác để tạo điều kiện cho Công ty mở rộng thị trường. 3.3.Đối với Tổng Công ty than Việt Nam và các cơ quan chức năng Xét tình hình huy động vốn lưu động hiện nay của Công ty em thấy việc Công ty dựa quá nhiều vào vốn vay ngân hàng và ký quỹ của khách hàng là điều khá mạo hiểm và lãng phí, không tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong tổng Công ty. Theo em để tránh tình trạng nguồn vốn của các doanh nghiệp khác trong tổng Công ty thì nhàn rỗi còn với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu như Coalimex thì lại thiếu vốn lưu động ta nên thành lập công ty tài chính trực thuộc Tổng Công ty than Việt Nam để góp phần điều tiết và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn trong toàn Tổng Công ty. Thực tế cho thấy 5 mô hình Công ty tài chính 5 Tổng Công ty Nhà nước (Công ty tài chính Dệt - May, Công ty tài chính Cao su, Công ty tài chính Bưu điện, Công ty tài chính công nghiệp Tàu thuỷ, Công ty tài chính Dầu khí) đã hoạt động khá hiệu quả từ khi mới thành lập cho đến nay thực sự là nhân tố điều tiết đáng tin cậy và là người trợ thủ đắc lực cho các Công ty thương mại trong các Tổng Công ty đó với lãi suất cho vay trong Tổng Công ty thấp hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng, đi đôi với điều này thì điều kiện cho vay và thủ tục cũng đơn giản hơn. Chính vì vậy việc các cơ quan có chức năng và Tổng Công ty than Việt Nam sớm thành lập một Công ty tài chính trực thuộc Tổng Công ty than là một giải pháp tuyệt vời góp phần tài trợ vốn lưu động với chi phí thấp cho Coalimex - một Công ty chủ yếu hoạt động bằng nguồn vốn lưu động đi vay. Tuy nhiên để Công ty tài chính này hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải có một dự án thật cụ thể đồng thời Nhà nước cũng nên nới lỏng phạm vi kinh doanh cho các Công ty tài chính để họ được tự do hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Kết luận Có thể khẳng định rằng cải thiện tình hình và khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động là một trong những nội dung quan trọng nhất trong đổi mới quản lý doanh nghiệp giúp doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn và thậm chí nó còn quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Qua thời gian thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex đã cho em thêm nhiều hiểu biết, kinh nghiệm và kiến thức về các hoạt động quản trị tài chính doanh nghiệp nói chung cũng như quản lý tình hình. khả năng thanh toán và tài sản lưu động nói riêng. Luận văn này chính là sự đúc rút những kinh nghiệm, kiến thức bổ ích đó đồng thời nó cũng là kết quả của sự chỉ dạy tận tình của các thầy cô, của các cô chú, anh chị trong Công ty. Chính vì vậy với tất cả sự chân thành em xin gửi đến Thạc sỹ Lê Hương Lan và các cán bộ trong Công ty Coalimex nói chung cũng như các nhân viên trong phòng Kế hoạch kinh tế - Tài chính nói riêng lòng biết ơn sâu sắc nhất. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình “Tài chính doanh nghiệp” chủ biên TS Lưu Thị Hương NXB Giáo dục - 1998 Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp Trường Đại học Kinh tế quốc dân -1998 Chủ biên:TS Vũ Duy Hào -TS Đàm Văn Huệ Đọc lập phân tích và dự đoán nhu cầu tài chính doanh nghiệp Đào Xuân Tiến.Vũ Công Ty. Nghuyễn Viết Lợi Nhà xuất bản tài chính - 1996 Hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường Sở kinh tế đối ngoại Hà Nội - 1995 Quản lý tài chính doanh nghiệp -Josette Peyrard Nhà xuất bản thống kê - 1994 Đọc và phân tích các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp Ngô Thế Chi - Nhà xuất bản tài chính - 1996 Thời báo tài chính 2001 Công báo 2000 và 2001 Các tài liệu của Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0093.doc