Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá qua biên giới tỉnh điện biên của sở thương mại du lịch Điện Biên

Sở thương mại - du lịch Điện Biên là cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh quản lý hoạt động thương mại, tham mưu cho tỉnh những vấn đề có liên quan đến hoạt động thương mại, du lịch. Đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện tốt chủ trương chính sách của nhà nước về thương mại, tham gia góp ý vào việc đưa ra, sửa đổi, bổ sung cách chính sách, pháp luật của nhà nước. Một trong những chức năng đó là hoạt động quản lý xuất nhập khẩu, với đặc thù là một tỉnh miền núi lại ở xa các trung tâm kinh tế lớn của khu vực và cả nước, điều kiện giao thông lại khó khăn nên hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh Điện Biên gặp không ít khó khăn. Bất chấp những khó khăn đó với những đường lối chính sách đúng đắn của nhà nước sự chỉ đạo sát của tỉnh mà trực tiếp là sở thương mại du lịch Điện Biên đã thu được những thành tựu đáng kể trong xuất khẩu. Dựa trên chức năng, nhiệm vụ của sở thương mại và du lịch đề tài: " Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hoá qua biên giới Điện Biên của sở thương mại và du lịch Điện Biên" đã thể hiện tầm quan trọng của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Điện Biên. Phân tích thực trạng xuất nhập khẩu hàng hoá của tỉnh trong thời gian qua, đưa ra một số thông tin quan trọng về thị trường EU và Nhật Bản. Đồng thời đưa ra một số giải pháp như giải pháp cho doanh nghiệp, giải pháp tạo nguồn hàng, nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu. Do thời gian có hạn và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên trong đề tài của em không tránh khỏi những khiếm khuyết, em mong nhận được sự chỉ bảo tận tình của cô giáo để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Dương Thị Ngân , sự giúp đỡ tận tình của các cô chú cán bộ sở thương mại - du lịch Điện Biên đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.

doc49 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá qua biên giới tỉnh điện biên của sở thương mại du lịch Điện Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tây Trang của Điện Biên. Mặt khác các mặt hàng chủ lực xuất khẩu của Điện Biên chưa được tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Điện Biên vẫn là tỉnh nghèo điểm xuất phát thấp kinh tế chậm phát triển , sản xuất hàng hoá chưa phát triển, sản xuất với quy mô nhỏ hàng hoá sức cạnh tranh thấp trên thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu ngèo nàn , giá trị nhỏ , sức mua thị trường các tỉnh Bắc Lào còn nhiều hạn chế. Sau khi chia tách tỉnh tiềm năng về khai thác khoáng sản quặng các loại như đồng , chì , đá đen ... các mặt hàng chủ lực trong chương trình XNK như chè, thảo quả , tập trung chủ yếu ở tỉnh Lai Châu II.2. Mặt hàng xuất khẩu: Mặt hàng XK của ĐP ĐVT TH năm 2002 TH năm 2003 TH năm 2004 - Sản phẩm gỗ chế biến m3 91,8 100 154,5 - Quặng các loại Tấn 14,2 5 - Đá đen 1000v 52,3 77,78 50,74 - Cỏ tóc tiên Tấn 276 - Ngô hạt + giống Tấn 89 1.196 32 - Bông chít Tấn 266 86 230 - Giềng khô tấn 399 18 - Song mây Tấn 20 - bột giặt Tấn 47 54,3 12 - Thuốc lá Kiện 21.187 3.255 3.054 - Bánh kẹo Tấn 14 17,3 - Sa nhân Tấn 26 Cao su thun khoanh Tấn 58,2 Cá mực muối Tấn 1047 Hoa hoè Tấn 48 - Các hàng hoá khác 1000USD 432,242 367,625 Bảng 2.3: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh Điện Biên Năm 2002 mặt hàng xuất khẩu của địa phương đạt 29185 USD chiếm tỷ trọng 1,42% trong tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu của tỉnh, các mặt hàng như ngô giống, giềng khô, bông chít, cỏ tóc tiên, quặng chì, đá đen, song mây. Mặt hàng khai thác từ nguồn hàng trong nước và nhập khẩu để xuất khẩu; trị giá hàng hoá xuất khẩu đạt 1.387.806 USD chiếm tỷ trọng 67,98% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh chủ yếu là các mặt hàng như: bột giặt, thuốc lá, bánh kẹo, gỗ ván sàn, san nhân, hàng bách hoá. Mặt hàng do thương nhân địa phương liên kết với các thương nhân tỉnh khác để xuất khẩu đạt624.398 USD chiếm tỷ trọng 30,6% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của tỉnh chủ yếu là những mặt hàng như cao su thun khoanh, cá mực muối, hoa hoè. Năm 2003 mặt hàng xuất khẩu do địa phương sản xuất đạt 186.295 USD chiếm 22,6% trong tổng hàng hoá xuất khẩu của tỉnh vẫn là những mặt hàng cũ như 2002. Mặt hàng do khai thác từ trong nước và nhập khẩu để xuất khẩu đạt 67,705 ngần USD chiếm tỷ trọng 77,4% tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu của tỉnh cũng là những mặt hàng truyền thống như trước. Năm 2004 các mặt hàng xuất khẩu của tỉnh không có gì mới vẫn là những mặt hàng truyền thống được khai thác từ các nguồn hàng như những năm trước. Qua bảng số liệu mặt hàng xuất khẩu thời kỳ 2002 – 2004 ta có thể thấy những mặt hàng mà tỉnh xếp vào hàng chủ lực xuất khẩu mới chỉ có một số song còn nhỏ bé về mặt lượng. II.3. Thị trường xuất khẩu: Thị trường Lào: Thành phố Điện Biên Phủ cách cửa khẩu quốc gia Tây Trang hơn 30km, đây là thị trường chính cho xuất khẩu hàng hoá của tỉnh hiện nay, trước đây khi chưa tách tỉnh thì có cửa khẩu Ma Lù Thàng thông với Trung Quốc hàng hoá của tỉnh xuất qua cửa khẩu này là chủ yếu. Danh mục đvt Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Kim ngạch xuất khẩu USD 820.776 200.000 220.586 Mặt hàng xuất khẩu Thuốc lá Kiện 21.187 1.610 Xà phòng Tấn 47 38 5 Bánh kẹo Tấn 14 60,9 8,16 Tơ tằm Tấn 5 Hàng tiêu dùng USD 12.372 62.538 24.892 Bảng 2.4. Kết quả thực hiện xuất nhập khẩu qua cửa khẩu Tây Trang giai đoạn 2002 - 2004. - Thị trường Trung Quốc, trước đây khi chưa tách tỉnh đây là thị trường chủ yếu cho hàng hoá xuất khẩu của tỉnh với các hàng như quặng, lâm sản. Hiện nay tỉnh Điện Biên chỉ có cửa khẩu nhỏ giáp với Trung Quốc là cửa khẩu A pa chải, khối lượng hàng hoá đi qua cửa khẩu này còn chưa đáng kể. - Thị trường khác như Đài Loan, Nhật Bản kim ngạch xuất khẩu của Điện Biên sang các thị trường này còn nhỏ bé tuy nhiên đây là những thị trường tiềm năng cho xuất khẩu các sản phẩm gỗ và bột giấy của Điện Biên. Năm 2003 những thị trường này chỉ chiếm 1% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của tỉnh. Như vậy thị trường chủ yếu cho xuất khẩu hàng hoá của tỉnh Điện Biên là Lào, các thị trường khác như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Thực trạng này là do sau khi tách tỉnh cửa khẩu biên giới chủ yếu giáp với Lào, hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh lại diễn ra chủ yếu là qua biên giới, các thị trường khác tỉnh chưa xuất khẩu hàng hoá một cách trực tiếp mà mới chỉ thực hiện qua trung gian do đặc thù địa lý của tỉnh nằm quá xa cảng biển nên việc xuất khẩu hàng hoá theo con đường này quả thực là rất kho cho các doanh nghiệp trong tỉnh, ngoài ra trình độ kinh doanh xuất nhập khẩu của cán bộ doanh nghiệp trong tỉnh còn hạn chế. III. Thực trạng các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá qua biên giới của sở thương mại du lịch tỉnh Điện Biên. III.1.Chính sách: Để tăng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu qua biên giới tỉnh Điện Biên đã đưa ra những chính sách: - Chính sách hợp tác quốc tế: UBND tỉnh Điện Biên đã ký với với các ban ngành các tỉnh bắc Lào biên bản hội đàm và biên bản ghi nhớ theo chủ trương của bộ thương mại, sở thương mại và du lịch Điện Biên đã bàn về việc mở cặp cửa khẩu biên giới giữa xã mường lói huyện Điện Biên và bản Na son huyện Viêng khăm tỉnh Luông Pha Bang của Lào. - Chính sách thu hút vốn đầu tư: Mặc dù luật đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được ban hành và có những thông tư hướng dẫn việc thi hành luật một cách cụ thể song với đặc thù của một tỉnh miền núi khả năng cạnh tranh để có những dự án đầu tư là rất kém tỉnh Điện Biên đã ban hành những chính sách ưu đãi thu hút đầu tư riêng. Nhìn chung những chính sách ưu đãi thu hút đầu tư mà tỉnh đưa đều thuộc những chính sách ưu tiên cao nhất mà luật đầu tư tại Việt Nam đưa ra ngoài những ưu tiên đó tỉnh còn đưa ra những ưu đãi riêng như chính sách thuế, chính sách đất đai,...So với chính sách ưu đãi thu hút đầu tư của các tỉnh như Sơn La, Lạng Sơn thì chính sác ưu đãi thu hút đầu tư của tỉnh Điện Biên có những điều khoản ưu tiên cao hơn đặc biệt là chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp. - Chính sách tạo nguồn hàng xuất khẩu tỉnh đã đưa ra chương trình quy hoạch sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như sản phẩm gỗ, đá, chè và cà phê. - Đại hội đảng bộ tỉnh lần X đã đưa ra nghị quyết xuất khẩu hàn hoá đến năm 2010. III.2. Các phương pháp xúc tiến khác: - Chương trình quy hoạch khu kinh tế cửa khẩu Tây Trang và trung tâm thương mại quốc tế Pom Lót đang trong quá trình triển khai thực hiện. - Công tác thị trường: Bên cạnh việc tiếp tục củng cố và tăng cường chỗ đứng tại các thị trường đã có, tỉnh xúc tiến đẩy nhanh việc mở rộng thị trường nhằm tạo khâu đột phá về tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc, Lào, Thái Lan và các nước khác trong khu vực Đông Nam á. - Chính sách khuyến khích xuất khẩu đối với các doanh nghiệp như thưởng vượt kim ngạch năm trước, thưởng xuất khẩu sang thị trường mới,… chưa được ban hành nên không thu hút các doanh nghiệp tham gia một cách sôi động vào hoạt động xuất khẩu. - Sở thương mại đã tổ chức một số hội chợ quốc tế và tham dự một số hội chợ như hội chợ Đà Nẵng, hội chợ Lai Châu. - Sở thương mại- du lịch Điện Biên đă xây dựng được website riêng để quảng bá hình ảnh địa phương, giới thiệu tiềm năng của địa phương song còn chưa cập nhật được nhiều thông tin. Chương III: Những giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hangf hoá qua biên giới tỉnh Điện Biên. I.Quan điểm của tỉnh Điện Biên về xuất nhập khẩu hàng hoá: Khai thác tiềm năng thế mạnh của vùng, từng lĩnh vực để phát triển xuất nhập khẩu, nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá trong tỉnh, tăng cường hợp tác trong và ngoài nước để mở rộng ngành hàng, mặt hàng, nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Xác định các mặt hàng chủ lực có lợi thế cạnh tranh để ưu tiên đầu tư phát triển, chú trọng đầu tư gia tăng các mặt hàng chất lượng cao, giảm dần tỷ lệ hàng thô trong cơ cấu xuất khẩu. Tạo mặt hàng chủ lực, tăng cường xuất khẩu trực tiếp và mở rộng thị trường, tăng cường hội nhập quốc tế và mở rộng liên doanh liên kết để mở rộng xuất khẩu. Phát triển xuất khẩu, nhập khẩu đi đôi với phát triển sản xuất theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế và bảo đảm các yêu cầu xã hội. Xuất khẩu gắn với nhập khẩu phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của từng ngành hàng, mặt hàng. Tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân các dân tộc, bảo vệ môi trường và giữ gìn trật tự xã hội. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, nhập khẩu theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển thị trường xuất khẩu, nhập khẩu theo hướng mở cửa hội nhập, thông thoáng, kỷ cương, găn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, chú trọng thị trường Vân Nam (Trung Quốc) và các tỉnh Bắc Lào, khai thác các lợi thế cảu khu kinh tế cửa khẩu để đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu. Mục tiêu phấn đấu giai đoạn 2006- 2010 tốc độ tăng trưởng bình quân cảu xuất khẩu là 30,1%/năm. Đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu bằng 3,66 lần năm 2005, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đạt 6,7% trong tổng GDP của tỉnh vào năm 2010. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nông sản, lâm sản, chế biến công nghiệp, dịch vụ có thế mạnh. Mặt hàng sản xuất, khai thác trong tỉnh như chè chế biến, thảo quả, cà phê, măng, giấy đế, ván sợi ép, các loại khoáng sản. Các thị trường truyền thống là Lào và Trung Quốc, các thị trường như Đài Loan, Nhật Bản, EU và ASEAN là những thị trường tiềm năng mà các doanh nghiệp trong tỉnh đang tìm hiểu thông tin để hướng tới xuất khẩu trực tiếp. II. Giải pháp: 1. Về phía nhà nước và tỉnh: 1.1. Chính sách xuất khẩu: Tiếp tục công cuộc cải cách thuế, xây dựng hệ thống thuế hiện đại, có hiệu lực và hiệu quả, kết cấu hợp lý theo các nội dung sau: Tập trung xây dựng luật sử đổi bổ sung luật thuế xuất khẩu và luật hải quan, tạo điều kiện mở rộng cải cách hành chính để áp dụng các quy trình, thủ tục đơn giản, thông thoáng, áp dụng công nghệ quản lý hiện đại phù hợp với tập quán và các cam kết theo tiến trình hội nhập. Về luật thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu sửa đổi tập trung vào các nội dung sau: Về phạm vi đối tượng chịu thuế, quy định cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ đối với đối tượng chịu thuế, các khu vực chịu thuế và đối tượng nộp thuế. Về giá tính thuế: quy định rõ ràng trong gluật việc xác định giá tính thuế theo các nguyên tắc của hiệp định giá trị hải quan GATT/WTO để nâng cao tính pháp lý và đảm bảo với chuẩn mực quốc tế. Về thuế suất: quy định rõ ràng, cụ thể đối tượng phạm vi áp dụng, giảm khung thuế suất theo nguyên tắc bảo hộ có chọn lọc, bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng và kết hợp theo lộ trình đã cam kết với thông lệ quốc tế và quy định của WTO. Về thời điểm tính thuế, thời hạn nộp thuế: quy định thống nhất thời điểm tính thuế và thời hạn nộp thuế cho phù hợp với thông lệ quốc tế Về luật hải quan sửa đổi theo những nội dung sau: Sửa lại thời hạn kê khai và nộp tờ klhai hải quan: để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp chủ động trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Hồ sơ hải quan: quy định rõ hơn thời điểm hết thời hạn được gia hạn, bổ sung, sửa chữa hoặc thay thế tờ khai hải quan nhằm đảm bảo đầy đủ, công bằng, thống nhất đối với người khai hải quan. Thông quan hàng hoá, phương tiện vận tải: Dự kiến cho phép thông quan hàng hoá cần mua giám định hoặc phân tích loịa hàng hoá để xác định mã số hàng hoá, trên cơ sở hồ sơ hải quan và kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá nhằm giải quyết ách tắc cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Xác định rõ trách nhiệm của người kê khai hải quan trong việc kê khai, tính thuế, nộp thuế: để đảm bảo sự nhất quán với quy định của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Dự kiên mở rộng phạm vi địa bàn phối hợp của cơ quan hải quan với các cơ quan có thẩm quyền khác trong việc phòng chống buôn lậu. Luật thuế giá trị gia tăng: Hoàn thiện theo hướng giảm bớt số lượng nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. áp dụng thống nhất một mức thuế suất để đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế đơn giản hoá trong việc tính thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ. Hoàn thiện phương pháp tính thuế, tiến tới xác định ngưỡng doanh thu chịu thuế để thực hiện một phương pháp khấu trừ phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt: Sẽ hoàn thiện theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế, điều chỉnh thuế suất cho phù hợp với mục tiêu điều tiết thu nhập và hướng tiêu dùng. Tiến tới xoá bỏ, miễm giảm thuế tiêu thụ đặc biệt để đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế và nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa hàng hoá sản xuất trong nước và nhập khẩu. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp: Hoàn thiện theo hướng giảm mức thuế suất, giảm diện miễn giảm thuế, thống nhất mức thuế ưu đãi giữa các thành phần kinh tế khuyến khích đầu tư để đảm bảo bình đẳng trong cạnh tranh Luật thuế tài nguyên, luật thuế sử dụng đất; Hoàn thiện theo hướng mở rộng đối tượng nộp thuế và tăng cường quản lý sử dụng đất đai và góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tiếp tục cải cách quy trình, thủ tục quản lý thuế, hải quan: Ban hành các quy chế áp dụng thống nhất trong các ngành như: Quy chế đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính, tự nộp thuế, quy trình khấu trừ thuế, miễn giảm thuế, cưỡng chế thuế, quy trình kiểm tra thủ tục thông quan, kiểm tra sau thông quan. 1.2. Chính sách xuất nhập cảnh: Khi khu kinh tế cửa khẩu chính thức đi và hoạt động nhu cầu đi lại qua biên giới của nhân dân các nước với nhau sẽ ngày một gia tăng vì vậy để tạo điều kiện cho công dân cần có những biện pháp sửa đổi theo hướng đơn giản hoá thủ tục xuất nhập cảnh, giảm thời gian làm thủ tục xuất nhập cảnh xuống mức thấp nhất có thể để khuyến khích hoạt động buôn bán qua biên giới diễn ra sôi động. Để có được kinh nghiệm quản lý xuất nhập cảnh cần có sự học hỏi kinh nghiệm của những cửa khẩu kinh tế trong nước vì vậy cần có chiến lược bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý xuất nhập cảnh qua tham quan học hỏi kinh nghiệm thực tế tại các khu kinh tế cửa khẩu trong nước. 1.3. Chính sách tài chính: Nhà nước cần có chính sách tăng cường năng lực tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay tình trạng thiếu vốn kinh doanh thường diễn ra phổ biến ở các doanh nghiệp nhà nước, tình trạng này dẫn đến hạn chế lớn khả năng đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất đồng thời làm giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước ở thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. Nghị quyết hội nghị trung ương 3 khoá IX đã chỉ rõ: "Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu kinh tế để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước phải có quy mô vừa và lớn, công nghệ tiên tiến; một bộ phận cần có quy mô nhỏ để kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu, nhất là ở vùng nông thôn vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa". Để nâng cao năng lực tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần nghị quyết trên cần thực hiện một số biện pháp sau: Thứ nhất, thực hiện việc đầu tư, bổ sung đủ vốn điều lệ cho các doanh nghiệp nhà nước cần nắm 100% vốn. Việc thực hiện bổ sung đủ vốn điều lệ cho các DNNN phải dựa trên cơ sở cơ cấu sắp xếp lại các DNNN của thủ tướng chính phủ theo quyết định 58/2002/QĐ/TTg và theo phương án cơ cấu lại nợ của các doanh nghiệp; nhà nước chỉ hỗ trợ một phần từ ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp phải chủ động tạo nguồn tài chính để bổ sung vốn điều lệ còn thiếu theo cách thích hợp như từ lợi nhuận sau thuế, gọi vốn liên doanh liên kết. Nhà nước chỉ thực hiện việc đầu tư, bổ sung vốn cho các tổng công ty, công ty đầu tư tài chính nhà nước, công ty mẹ, các doanh nghiệp này sẽ giám sát các công ty con trong việc sử dụng vốn nhà nước. Mức vốn đầu tư, bổ sung cho các doanh nghiệp được xác định bằng phần chênh lệch giữa số vốn điều lệ được phê duyệt với số vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp sau khi đã xử lý lỗ luỹ kế, nợ công có khả năng thu hồi và tài sản tồn đọng được cơ quan thẩm quyền phê duyệt. Nguồn tài chính bổ sung cho các doanh nghiệp năm 100% vốn nhà nước có thể được hình thành từ lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp, từ phần chênh lệch thuế thu nhập phát sinh phải nộp năm sau cao hơn năm trước, từ các khoản phải nộp ngân sách nhà nước khác được phép để lại đâudf tuqư cho doanh nghiệp. Ngoài ra các nguồn tài chính được dự tính từ chi phí cải cách các DNNN, từ quỹ hỗ trợ sắp xếp DNNN, từ khoản NSNN dành đầu tư cho các doanh nghiệp hàng năm. Thứ hai, đẩy mạnh việc xử lý nợ và các tài sản tồn đọng của các DNNN. Các doanh nghiệp có trách nhiệm đối chiếu, xác nhận, phân loại, đôn đốc, thu hồi và chủ động xử lý các khoản nợ tồn đọng. Nguồn tài chính để xử lý các khoản nợ tồn đọng là các khoản như: Trích dự phòng các khoản nợ khó đòi, lãi kinh doanh hàng năm của doanh nghiệp hoặc hạch toán vào chi phí kinh doanh và thu nhập của doanh nghiệp tuỳ theo từng khoản nợ, giảm trừ vào chủ sở hữu hoặc vốn của các chủ nợ tại doanh nghiệp. Đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi hoặc trả nợ, sau khi đã tìm mọi biện pháp và khả năng của doanh nghiệp thì doanh nghiệp báo cáo lên cơ quan có thẩm quyền để có biện pháp hỗ trợ giải quyết. Nếu các doanh nghiệp đang trong quá trình chuyển đổi sở hữu thì xử lý các khoản nợ tồn đọng theo cơ chế chuyển đổi DNNN. Thứ ba, khuyến khích và tạo điều kiện cho các DNNN chuyển dịch cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn kinh doanh theo hướng tích cực và có hiệu quả. Đối với tài sản doanh nghiệp đang sử dụng kinh doanh các doanh nghiệp cần chú trọng việc bố trí, quản lý sử dụng sao cho an toàn và hiệu quả. Trong các trường hợp cần thiết doanh nghiệp có thể chủ động điều chỉnh cơ cấu tài sản nhằm đảm bảo tính đồng bộ, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động các loại tài sản của doanh nghiệp. Đồng thời phải cần tăng cường các hoạt động kiển tra, giám sát tài chính nhằm phát hiện các bất hợp lý để có biện phấp điều chỉnh, khắc phục kịp thời. Đối với các laọi tài sản tồn đọng, mất hoặc kém phẩm chất, không cần dùng doanh nghiệp cần có biện pháp thanh lý chuyển nợ thành vốn góp kinh doanh hoặc vốn góp cổ phần. Nhà nước cần nghiên cứu các chính sách, cơ chế tài chính hỗ trợ các DNNN xử lý các khoản lỗ, các khoản nợ, các tài sản tồn đọng thông qua hỗ trợ tài chính ban đầu cho việc hình thành công ty mua bán nợ và tài sản doanh nghiệp. Thứ tư, có chính sách cơ chế tài chính khuyến khích, hỗ trợ daonh nghiệp sử dụng lợi nhuận để tái đàu tư mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để khuyến khích các doanh nghiệp dành nhiều lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, cần nghiên cứu cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp dành tỷ lệ cao hơn lợi nhuận sau thuế để trích lập quỹ phát triển trên mức quy định tối thiểu. Trong trường hợp doanh nghiệp có các dự án hợp tác đầu tư thuộc diện hưởng các ưu đãi theo luật khuyến khcíh đầu tư trong nước có thể xét tăng thêm mức ưu đãi đầu tư so với quy định hiện hành. Về lâu dài, cần xem xét sửa đổi lại cơ chế phân phối lợi nhuận của các doanh nghiệp theo hướng khuyến khích doanh nghiệp dành nhiêù lợi nhuận sau thuế để đầu tư và không phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thứ năm, tạo các điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhà nước huy động các nguồn vốn khác trên thị trường. Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, nhà nước chỉ đầu tư vốn điều lệ ban đàu cho các doanh nghiệp nhà nước, còn trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải tự bù đắp mọi khoản chi phí từ kết quả kinh doanh của mình. Các nhu cầu tài chính vượt qua khả năng của doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải tự huy động trên thị trường theo các hình thức thích hợp như vay vốn từ các ngân hàng thương mại, từ quỹ hỗ trợ phát triển của nhà nước, từ việc phát hành cổ phiếu hoặc hoặc trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường, từ liên doanh liên kết, từ việc thuê vốn của các công ty cho thuê tài chính,..Nhà nước có trách nhiệm tạo lập môi trường pháp lý bình đẳng, ổn định, minh bạch để các doanh nghiệp tự do lựa chọn các nguồn tài chính huy động theo giá cả thị trường và phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. 1.4. Chính sách hợp tác đầu tư: 1.4.1. Cần tăng cường hợp tác với các tỉnh Bắc Lào và Trung Quốc để tăng kim ngạch xuất khẩu qua biên giới theo một số biện pháp sau: Đối với các tỉnh Bắc Lào cần tiếp tục đẩy mạnh hựop tác kinh tế - thương mại trao đổi buôn bán hàng hoá qua biên giới giữa tỉnh Điện Biên với 3 tỉnh Bắc Lào theo chủ trương của bộ thương mại và UBND tỉnh. Định kỳ tổ chức đoàn đại biểu các tỉnh gặp nhau trao đổi, đánh giá, nắm bắt kịp thời tình hình xuất nhập khẩu qua biên giới, thông báo những thay đổi về cơ chế chính sách của mỗi bên, cùng nhau tìm những biện pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt kịp thời các thông tin để đề ra các giải pháp tích cực thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hoá giưã tỉnh Điện Biên với các tỉnh Bắc Lào. Sớm có quyết định cho mở văn phòng đại diện thương mại du lịch Điện Biên tại Luông Pha Bang theo văn bản đề nghị của sở thương mại du lịch Điện Biên để tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại du lịch giữa tỉnh Điện Biên với các tỉnh Bắc Lào. Tổ chức cho đoàn các doanh nghiệp của tỉnh có hoạt động xuất nhập khẩu đi khảo sát và tìm kiếm thị trường tại ba tỉnh Bắc Lào để tìm kiêms thị trường xuất khẩu các mặt hàng của tỉnh. Thường xuyên thôn tin kịp thời về chính sách biên mậu, những thay đổi về chính sách thuế, hải quan, của cộng hoà dân chủ nhân dân Lào về xuất nhập khẩu hàng hoá để các doanh nghiệp nắm bắt kịp thời và điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi của các chính sách. Cần tập trung vốn đầu tư cho dự án xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Tây Trang và trung tâm thương mại quốc tế Pom Lót để dự án đi vào hoạt động đúng tiến độ đã đề ra. Đối với trung quốc cần tăng cường hợp tác trên nhiều mặt để có thể tranh thủ được nhiều thế mạnh và kinh nghiệm của họ trong xây dựng và phát triền kinh tế, tăng cường thu hút các nguồn vốn liên doanh từ phía Trung Quốc, khai thác có hiệu quả những thông tin từ văn phòng đại diện của TRung Quốc tại thành phố Điện Biên Phủ. Đồng thời cần tìm hiểu thông tin về thị trường của tỉnh Vân Nam bằng cách tổ chức cho các doanh nghiệp đi khảo sát thực tế tại thị trường này. 1.4.2. Hoàn thiện hơn nữa chính sách khuyến khích đầu tư: Hiện nay trong quá trình thực hiện luật khuyến khích đầu tư còn gặp những khó khăn phức tạp như: Chế độ ưu đãi thuế hiện hành gồm cả việc ưu đãi thuế bằng thuế suất thu nhập doanh nghiệp, việc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiẹp tính theo số năm nhất định vì thế việc thực hiện gặp không ít khó khăn, nhất là vơía cơ quan quản lý trực tiếp thuế đơn vị được ưu đãi. Mặt khác do ưu đãi bằng nhiều chỉ tiêu nên tính thống nhất không cao. Để theo dõi sát quá trình ưu đãi đầu tư đòi hỏi các cơ quan chức năng phải dành nhiều thời gian cập nhật, nắm bắt, quyết toán kịp thời tình hình của doanh nghiệp, nếu không có thể dẫn đến việc áp dụng mức thuế ưu đãi không chính xác, gây thất thu. Trong các quy định về ưu đãi thuế đều lấy mốc thời gian là từ khi doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế, như vậy rõ ràng việc ưu đãi thuế nhiều hay ít, dài hay ngắn phụ thuộc vào việc xác định thời gian doanh nghiệp bắt đầu có thu nhập chịu thuế, điều này tạo ra khe hở dẫn đến tiêu cực trong thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư của nhà nước Các trường hợp thực hiện ưu đãi bổ sung theo quy định là rất phức tạp. Về phía doanh nghiệp để được cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư bổ sung phải có phương án sản xuất kinh doanh, báo cáo kết quả thực hiện dự án, phải hạch toán để bóc tách chính xác phần thu nhập tăng thêm do dự án đầu tư mới mang lại, phải có ưu đãi đăng ký đầu tư bổ sung, đó là chưa kể các thủ tục ban đầu của doanh nghiệp. Về phía cơ quan quản lý nhà nước, cần phải kiểm tra sát, chi tiết, xác định đúng kết quả riêng phần dự án đầu tư mới mang lại, vì vậy mất quá nhiều thời gian. Để tháo gỡ những khó khăn trong việc thực hiện luật khuyến khích đầu tư nên thực hiện theo hướng sau: Chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ nên thực hiện bằng thuế suất ưu đãi và năm áp dụng đúng thuế suất thu nhập ưu đãi kể từ khi dự án bắt đầu đi vào hoạt động. Nghiên cứu giao việc thông báo các chế độ ưu đãi thuế doanh nghiệp thuộc diện được hưởng ưu đãi đầu tư cho cơ quan thuế cấp tương đương chủ động thực hiện. Như vậy sẽ góp phần làm cho quá trình thực hiện ưu đãi đầu tư kịp thời, nhanh chóng đi vào cuộc sống hơn, đảm bảo tốt lợi ích của doanh nghiệp. Về phía tỉnh cần nhanh chóng ban hành chính sách thưởng xuất khẩu và phổ biến đến các doanh nghiệp, ngaòi ra cần ban hành chính sách thưởng môi giới đầu tư để thu hút ngày càng nhiều các dự án đầu tư trong nước cũng như dự án đầu đầu tư của nước ngoài tại Điện Biên. 1.5. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động xuất nhập khẩu: Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong hoạt động xuất khẩu thời gian tới cần tổ chức thực hiện các giải pháp sau: - Tăng cường công tác cung cấp thông tin thị trường cho các doanh nghiệp, phổ biến tập quán tiêu dùng, chính sách xuất ,nhập khẩu hàng hoá ở một số thị trường lớn, cũng như đặc điểm, tình hình kinh tế của các thị trường để các doanh nghiệp có thể chủ động trong việc tiếp cận và thâm nhập thị trường. - Phát triển các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu, phải nhận thức rõ vai trò của các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu và có cơ chế quản lý, chính sác cụ thể nhằm tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi để phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho các hoạt động xuất khẩu. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu, phân cấp quản lý các dịch vụ và thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả các ngành dịch vụ. Trước mắt cần đầu tư phát triểnmột số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thiết yếu như dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, giao nhận, kiểm nghiệm quốc tế. Khuyến khích phát triển một số ngành dịch vụ mới và liên doanh liên kết với doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt trong các lĩnh vực tư vấn xuất khẩu, nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin, quảng cáo, hội chợ triển lãm quốc tế, gom hàng, khai thuế hải quan, kho ngoại quan, từng bước hoàn thiện về cơ cấu và chất lượng của dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Cần có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ như ưu đãi đối với các sản phẩm hàng hoá và doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá bởi cung cấp dịch vụ cho hoạt động xuất khẩu chính xuất khẩu các dịch vụ, còn cung cấp các dịch vụ nhập khẩu chính là cung cấp các dịch vụ thay thế các dịch vụ nhập khẩu nhằm khuyến khích và phát triển các dịch vụ hỗ trợ. Xoá bỏ dần việc bao cấp và độc quyền của một số dịch vụ, mở cửa thị trường dịch vụ theo một lộ trình thích hợp vừa bảo hộ vừa kích thích các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nâng cao khả năng của mình. Thúc đẩy việc thành lập các hiệp hội ngành nghề dịch vụ, nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu về hiệu quả sử dụng các dịch vụ. - Phân công, phân cấp quản lý xuất nhập khẩu giữa các ngành, huyện, thị, rành mạch, thông suốt, Sở thương mại & du lịch quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu một cách tổng thể, tập trung nghiên cứu xây dựng môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng trong kinh doanh, tổ chức xúc tiến thương mại, xâm nhập các thị trường bên ngoài. Các ngành quản lý sản xuất và huyện, thị phải chăm lo sản xuất, chế biến, tiêu thụ hàng xuất khẩu . - Kịp thời giải quyết những vướng mắc ở các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu . - Có chính sách hỗ trợ đào tạo, nhằm nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn cho cán bộ làm công tác ngoại thương, đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. - Khuyến khích vận động, thành lập các hiệp hội ngành nghề. Tạo điều kiện thuận lợi cho các hiệp hội hoạt động. 2. Giải pháp nguồn hàng: 2.1.Phát trtiển các mặt hàng chủ lực: Tiến hành quy hoạch, hoặc chỉnh lý các dự án thúc đẩy nhanh việc hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vùng chuyên canh, gắn sản xuất nông sản nguyên liệu với công nghiệp chế biến và thu mua xuất khẩu để tăng năng suất, chất lượng, tạo nguồn hàng ổn định và tăng sức cạnh tranh trên thị trường, ưu tiên bố trí vốn cho từng ngành để xây dựng dự án. Chú trọng đầu tư nghiên cứu khoa học và áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất để tăng năng suất và chất lượng ưu tiên vào những lĩnh vực chọn, nhân giống cây, con như cà phê, sắn, ngô, các laọi đậu, bò, gà, rừng kinh tế,…Đẩy mạnh thu hút vốn FDI, để tranh thủ đổi mới và tiếp thu được công nghệ hiện đại trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Khai thác, tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu địa phương để tăng hàm lượng nội địa hoá trong các mặt hàng xuất khẩu nhằm tăng thêm giá trị gia tăng trong tổn giá trị sản phẩm xuất khẩu. 2.2.Cần hỗ trợ sản xuất hàng hoá xuất khẩu: Bằng cách huy động các nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng, tiếp tục cải tiến các hình thức tín dụng, mở rộng chính sách đa dạng hoá các hình thức đầu tư. Xây dựng hệ thống thuỷ lợi đảm bảo đủ nước tưới cho những vùng chuyên canh xuất khẩu. Tiếp tục hoàn thiện về tổ chức các hoạt động khuyến nông, chuyển giao công nghệ tiến bộ xuống tận hộ sản xuất. Phát triển hệ thống giáo dục, từng bước nâng cao dân trí, phát triển hoạt động khuyến nông, chú ý đến các xã vùng sâu, vùng xa, các dân tộc ít người. Mở rộng các lớp tập huấn, giới thiệu và nhân rộng mô hình kinh tế có hiệu quả, tạo phong trào quần chúng mở rộng thi đua là kinh tế giỏi trong nông nghiệp nông thôn. Vận dụng tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng xuất khẩu. Cần phát huy hơn nữa vai trò của hợp tác xã trong sản xuất hàng xuất khẩu theo các hướng sau: Thứ nhất, cần tiếp tục tuyên truyền sâu rộng nghị quyết 13 về vphát triển kinh tế tập thể trong nhân dan, phổ biến rộng rãi các chính sách mới được ban hành liên quan đến kinh tế tập thể cho nhân dân biết, hiểu và nhận thức đúng được quan điểm, đường lối cảu Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể. Tuyên truyền, nhân rộng các điển hình mới, các mô hình làm ăn hiệu quả trong thực tiễn. Thứ hai, Tập trung rá soát những vướng mắc về phía cơ chế, chính sách, đặc biệt là các chính sách ưu đãi về thuế, phí, vốn, công nghệ để tạo điều kiện cho kinh tế tập thể phát triển một cách thực sự có hiệu quả thu hút ngày càng đông nhân dân tham gia hoạt động trong hợp tác xã kiểu mới. Thứ ba, tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể trong việc quản lý, chỉ đạo hướng dẫn các mô hình kinh tế tập thể, tập huấn kiến thức quản lý cho cán bộ hợp tác xã và phổ biến các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới trong sản xuất tới xã viên. Nhà nước tổ chức phối hợp với các tổ chức xúc tiến thương mại mở rộng thi trường tiêu thụ sản phẩm cho các hợp tác xã, cần phải thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm từ những mô hình hiệu quả để nhân rộng vào thực tiễn sản xuất. 3. Giải pháp thị trường: Đối với các thị trường Trung Quốc và Lào cần tăng cường tìm hiểu thông tin về các hội chợ được tổ chức trên hai thị trường này để tổ chức cho các doanh nghiệp trong tỉnh tham gia giới thiệu các mặt hàng xuất khẩu. Cập nhật các thông tin cho các doanh nghiệ xuất khẩu về các vấn đề liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu như các thông tin về chính sách xuất nhập khẩu, chính sách hải quan, nhu cầu hàng hoá,… để các doanh nghiệp nắm được từ đó có kế hoạch điều chỉnh để hoạt động xuất khẩu diễn ra liên tục và đúng luật. Đối với thị trường EU và Nhật Bản đây là những thị trường mà các doanh nghiệp trong tỉnh cần hướng tới để xuất khẩu trực tiếp vì vậy cần tìm hiểu nhiều thông tin hai thị trường này về các vấn đề như thông tin chính sách thương mại, những chế định và đòi hỏi cảu thị trường, xu hướng và tập quán tiêu dùng, hệ thống thương mại và phân phối,… 3.1. Thị trường EU: Khi xuất khẩu vào EU các nước đang phát triển sẽ được hưởng chính sách ưu đãi phổ cập GSP, theo chính sách này các nước đang phát triển sẽ được miễn tuân thủ nguyên tắc có đi có lại và nguyên tắkhông phân biệt đối xử của WTO, mức độ ưu đãi cho các nước đang phát triển tuỳ thuộc vào độ nhạy cảm của hàng hoá, đồng thời EU có cơ chế hỗ trợ nhằm khuyến khích các nước đang phát triển xây dựng và thực hiện các chính sách môi trường, xã hội có liên quan đến thương mại. Các hình thức ưu đãi thương mại cảu EU: Chế độ ưu đãi GSP miễn thuế nhập khẩu cho hầu hết các sản phẩm công nghiệp có xuất xứ từ các nước phát triển song đối với hàng nông sản lại thuộc vào nhóm các mặt hàng có tính nhạy cảm cao và thường chịu mức thuế cao so với nhóm hàng khác. Các quy chế nhập khẩu của EU: Thuế nhập khẩu: Do tác động của khối thị trường chung EU khi nhập khẩu vào thị trường này các thủ tục thông quan có tính thống nhất, các khoản thuế nhập khẩu chỉ phải trả tại cửa khẩu vào EU. Nhìn một cách tổng thể mức thuế đối với các mặt hàng nông sản của EU thuộc vào loại cao. Tuy nhiên trong một số trường hợp cụ thể các nước đang phát triển có thể được miễn thuế nhập khẩu vì nhiều lý do khác nhau chẳng hạn như hàng mẫu nhập khẩu không phaỉ để bán, hàng nhập để sửa chữa, hàng tạm nhập. Khi xuất khẩu vào thị trường EU một số mặt hàng nhạy cảm và ác mặt hàng chiến lược cấn có giấy phép nhập khẩu. Đối với các mặt hàng nông sản khi nhập vào EU cần có giấy chứng nhận vệ sinh dịch tễ của cơ quan có thẩm quyền xác nhận rằng hàng hoá không bị nhiễm khuẩn hoặc nhiêmx bệnh. Những chế định đòi hỏi của thị trường EU: Vấn đề sức khoẻ và an toàn đang ngày càng trở nên quan trọng với EU, các vấn đề này ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất kinh doanh hàng hoá. Khi nhập khẩu vào EU các sản phẩm phải có tính an toàn, sản phẩm an toàn được định nghĩa là sản phẩm không chứa đựng các rủi ro liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến sự an toàn hay sức khoẻ con người thông qua kiểu dáng, thành phần, chức năng, bao gói, hướng dẫn sử dụng hay bất kỳ yếu tố nào của nó. Đối với hàng nông sản: Các tổ chức bán lẻ Châu Âu đã xây dựng hệ thống các chỉ dẫn canh tác trong sản xuất nông nghiệp bao gồm các tiêu chuẩn chăm sóc đất trồng, sử dụng phân bón, theo dõi sâu bệnh, bảo vệ mùa màng, thu hoạch, sau thu hoạch, sức khoẻ và sự an toàn của người lao động. Để đáp ứng các tiêu chuẩn này khi xuất khẩu sang EU các doanh nghiệp cần phải có quá trình chuẩn bị trước từ khâu nguồn hàng vì vậy các nhà quản lý cần có kế hoạch hỗ trợ những nhà sản xuất nông nghiệp biết được những thông tin cần thiết, những thông tin này có thể truy cập trên mạng internet. Chính sách môi trường: Ngày nay người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến sản phẩm và dịch vụ ở góc độ môi trường. Do đó những sản phẩm được sản xuất trong điều kiện không đảm bảo sẽ mất dần cơ hội trên thị trường. Tại Châu Âu môi trường được coi là điều kiện mặc định cho đàm phán kinh doanh. Sự gia tăng mối quan tâm đến môi truờng đã thúc đẩy EU thiết lập những tiêu chuẩn mới trong lĩnh vực này trong đó bao gồm chính sách quản lý bao bì và phế thải. Để đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường EU bao bì phải thoả mãn một số điều kiện sau: Bao bì phải được sản xuất theo cách sao cho số lượng và trọng lượng được giới hạn nhỏ nhất nhằm duy trì mức độ cần thiết về an toàn vẹe sinh và phù hợp với sản phẩm được đóng gói và người tiêu dùng. Bao bì phải được thiết kế, sản xuất và sử dụng theo cách có thể tái sử dụng hoặc phục hồi, tái chế và các mức độ ảnh hưởng thấp nhất đến môi trường hoặc công tác xử lý phế thải khi bao bì trở thành phế thải. Bao bì phải được sản xuất theo cách sao cho giảm thiểu các chất độc hại gây nguy hiểm và nguyên liệu khó tiêu huỷ cả khi sử dụng lẫn khi trở thành phế thải. Xu hướng tiêu dùng: Người Châu Âu thường không chấp nhận những sản phẩm có chất lượng tồi hoặc trung bình mà họ chú ý đến những sản phẩm có chất lượng cao, đồng thời sản phẩm phải tiếp cận người tiêu dùng với sản phẩm có dịch vụ hấp dẫn. Trong thời đại mà sự chênh lệch chất lượng sản phẩm ngày càng không đáng kể các nhà sản xuất phải sản xuất phải chú trọng hơn đến việc tạo ra sự nổi trội về mức độ và loại hình dịch vụ liên quan đến sản phẩm trào bán và vấn đề môi trường cần được quan tâm khi sản xuất. Sản phẩm khi vào thị trường EU cấn có tính tiện dụng vì ngày càng nhiều phụ nữ ở EU tham gia vào lao động. Mặc dù người tiêu dùng quan tâm nhiều đến chất lượng, dịch vụ và sự tiện dụng không quan tâm nhiều lắm đến giá bán nhưng cần hết sức quan tâm đến giá bán vì trên thị trường không chỉ có một người bán mà mức độ cạnh tranh rất khốc liệt. Muốn xâm nhập thị trường EU một cách hiệu quả cần chú ý những điểm sau: Sẵn sàng đầu tư vào nghiên cứu thị trường và thiết lập các mối quan hệ kinh doanh vì cơ hội kinh doanh xuất khẩu vào một thị trường ổn định không tự dưng mà có. Coi thư tín là một hình thức liên lạc quan trọng vì trên thương trường có rất nhiều đối tác. Điện thoại và fax là những phương tiện liên lạc hiệu quả ngoài ra cần sử dụng thư điện tử để tiết kiệm chi phí. Khi xâm nhập thị trường này cần đưa ra mức giá cạnh tranh và sử dụng L/C trong thanh toán. Sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng và tham dự các hội chợ thương mại. Cần có tính trungg thực và thẳng thắn về chất lượng hàng hoá, thời gian giao hàng, tuân thủ những yêu cầu về an toàn, sức khoẻ, an ninh và môi trường. 3.2. Thị trường Nhật Bản: Đối với các doanh nghiệp Việt Nam thị trường Nhật Bản luôn là thị trường đầy tiềm năng, các đối tác Nhật Bản luôn là người bạn đáng tin cậy, doanh nghiệp Việt Nam có thể hợp tác đầu tư, nhập khẩu công nghệ, học hỏi kỹ năng quản lý từ các doanh nghiệp Nhật Bản, đồng thời có thể xuất khẩu nhiều hàng hoá và dịch vụ sang thị trường Nhật Bản. Để tiếp cận được thị trường Nhật Bản một thị trường khó tính mang những nét đặc thù các doanh nghiệp Việt Nam phải nghiên cứu và nắm vững từ thị hiếu, nhu cầu, các yêu cầu chất lượng, mẫu mã đến phong cách kinh doanh cũng như những quy định pháp lý đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản. Đây là một thị trường có những hệ thống phân phối phức tạp, quan hệ buôn bán đã hình thành qua nhiều thế hệ vì thế thị trường này rất khó xâm nhập, hàng hoá khi đến tay người tiêu dùng đắt hơn rất nhiều lần giá nhập khẩu điều này các nhà sản xuất phải chấp nhận vì vậy khi đưa ra giá bán không nên dựa vào giá bán lẻ trên thị trường của họ. Vấn đề mà người Nhật Bản quan tâm là chất lượng hàng hoá và thời trang họ luôn tìm kiếm hàng hoá mới trên thị trường. Đê bán được hàng hoá trên thị trường Nhật bản hàng hoá cần được đóng gói cẩn thận, họ rất coi trọng vấn đề đóng gói nếu hàng không được đóng gói đẹp sẽ không bán được. Cần hiểu biết về tập quán tiêu dùng, hệ thống phân phối, quy chế nhập khẩu của Nhật Bản.Việc các doanh nghiệp chủ động đi khảo sát thị trường, thăm các siêu thị Nhật Bản để nắm bắt thị hiếu và nhu cầu tiêu dùng của người Nhật Bản là hết sức cần thiết. Thông thường những giao dịch, gặp gỡ ban đầu ít mang lại kết quả cụ thể hoặc nếu có thì cũng chỉ mang tính thử nghiệm là chính, nhưng khi họ đã tin tưởng thì quan hệ làm ăn sẽ bền vững. Các doanh nghiệp cần hiểu rõ các quy định về nhập khẩu, trước hết cần biết mặt hàng đó có được phép nhập không, sau đó cần xem xét luật ngăn ngừa cạnh tranh không bình dẳng, đạo luật thương hiệu, đạo luật thiết kế ,… hàng nhập vào thị trường Nhật Bản cần thoả mãn tiêu chuẩn ISO, SA8000 và cần phải có giấy chứng nhận JSA ( đói vứi hàng nông sản, thực phẩm), và Ecomark ( dấu chứng nhận không làm hại môi trường sinh thái). Doanh nghiệp muốn xuất khẩu sang Nhật Bản có thể xin giấy này tại bộ công thương hoặc bộ nông-lâm-ngư nghiệp Nhật Bản. Các doanh nghiệp cần nắm chắc thông tin thị trường một cách thường xuyên, cần tìm đọc, nghiên cứu và xử lý thông tin, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn tin từ các tổ chức xúc tiến thương mại, đặc biệt là từ phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam, tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản. Các doanh nghiệp cần có chiến lược đa dạng hoá sản phẩm khi xâm nhập vào thị trường này vì người Nhật luôn đi tìm những sản phẩm mới lạ. Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế hoặc mở các văn phòng đại diện tại thị trường Nhật để giới thiệu hàng hoá sản phẩm, trong hoàn cảnh thị trường khu vực và thế giới luôn có sự cạnh tranh cao việc chủ động tìm kiếm thị trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ mang lại cơ hội thành công cho doanh nghiệp nhất là trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp nhiều địa phương còn thiếu nhiều thông tin về thị trường Nhật Bản vì vậy cần phải thành lập các trung tâm giới thiệu sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam tại Nhật Bản. Tích cực tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà tư vấn Nhật Bản trong việc cải cách mẫu mã sản phẩm để đáp ứng thị hiếu của người Nhật. 3.3. Sử dụng mạng internet trong xúc tiến xuất khẩu: Internet là một phương tiện trao đổi thông tin nhanh chóng, đáng tin cậy và tiết kiệm thông qua thư điện tử. Sử dụng thư điện tử một cách có hiệu quả sẽ mang lại cho doanh nghiệp một công cụ thông tin liên lạc thú vị trong việc tăng cường khai thác các mối quan hệ. Bên cạnh đó nó là phương tiện trợ giúp đắc lực cho hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp, cho dù doanh nghiệp rất xa thị trường đó. Nó cũng là phương tiện cũng là phương tiện mới phục vụ cho hoạt động xúc tiến thương mại và làm tăng thêm giá trị cho tiếp thị tổng hợp thông qua các trang web, thư điện tử trực tiếp và triển lãm ảo. Trong nghiên cứu thị trường, các nhà sản xuất, các doanh nghiệp và các tổ chức xúc tiến thương mại ở các nước bị thiếu thông tin nhận thấy rằng có thể bù đắp sự thiếu hụt thông nhanh chóng với chi phí thấp. Thông qua internet có thể truy cập các thu viện về cơ sở dữ liệu toàn cầu và nắm được các thông tin trên toàn thế giới. Các thông tin về xu hướng thị trường, giá cả, luật lệ, hội chợ thương mại, danh mục các đối tác có thể được truy cập 24/24 giờ trong một ngày và 7 ngày trong một tuần các thông tin này thường là miễn phí. Vấn đề đặt ra là làm thế nào không bị ngập trước một khối thông tin đồ sộ đó mà cần có cách sử dụng internet một cách có hệ thống và có sự lựa chọn các thông tin, nên nhớ rằng đầu vào đầu vào quyết định đầu ra ,nếu ta không chọn đúng câu hỏi thì sẽ không nhận được câu trả lời đúng vì vậy khi tiến hành tìm kiếm thông tin ta phải sử dụng các công cụ tìm kiếm trên internet như google, lysco, yahô, excite,… Internet tạo một phương tiện cho các kế hoạch xúc tiến bán hàng, cảc cho công ty và các tổ chức hỗ trợ thương mại. Việc có một trang web ngaòi ý nghĩa tạo nên hình ảnh của một tổ chức hiện đại còn cung cấp khả năng thể hiện sinh động và không gian quảng cáo, lý lịch công ty, catalo, các tài liệu có thể được số hoá và đưa vào trang web. Bằng việc đưa vào trang ưeb một số tài liệu hỗ trợ một công ty có thể tiết kiệm được chi phí in , khả năng cập nhật thông tin ở mọi lúc, mọi nơi không cần kinh phí lớn. Để quảng cáo cho website của minh doanh gnhiệp có thể sử dụng các nút bấm và các biểu ngữ khác nhau đưa vào các trang web khác từ đó sẽ thu hút được sự chú ý của khách hàng đối với trang web của công ty mình. Doanh nghiệp có thể sử dụng trang web để tổ chức cuộc triển lãm ảo, trong đó hình ảnh sản phẩm được đi kèm với một bản thống kê đầy đủ các thông tin về chất lượng sản phẩm, điều kiện giao hàng, mặc dù cuộc triển lãm ảo không được hiệu quả như một hội chợ thương mại cụ thể nhưng nó cũng có tác dụng nhất định trong xúc tiến bán hàng của doanh nghiệp. Thư điện tử là một phương tiện liên lạc tuyệt vời đối với việc duy trì quan hệ với đối tác thương mại, nó đã trở thành một phương thức liên lạc chủ yếu của giới kinh doanh trên toàn cầu. Trong quá trình hoạt động trang web cần được kết nối với các tổ chức xúc tiến thương mại trong nước để quảng bá về công ty. 4. Giải pháp cho doanh nghiệp: 4.1.Tổ chức lại sản xuất và xây dựng thương hiệu: Hiện nay chúng ta đa ở trong thời đại mà sự hội nhập và hợp tác quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, quan hệ cung cầu hàng hoá do thị trường điều tiết. Quan điểm kinh doanh chúng ta bán những gì chúng ta có không còn thiết thực nữa mà thay vào đó là quan điểm thị trường tức là chúng ta sẽ bán những hàng hoá mà thị trường cần. Từ thực tế đó cần có sự tổ chức lại quá trinh sản xuất, trước hết doanh nghiệp cần nghiên cứu thu thập và xử lý những thông tin về thị trường mà doanh nghiệp hướng tới xuất khẩu. Qua các thông tin về thị trường doanh nghiệp sẽ biết được thị trường đòi hỏi hàng hoá chất lượng như thế nào, giá cả và dịch vụ nào sẽ làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Nắm bắt được những thông tin này sẽ là cơ sở để doanh nghiệp đưa ra hướng sản xuất sản phẩm đáp ứng đến mức tối đa các đòi hỏi của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần lựa chọn sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có nhiều lợi thế nhất để có thể cạnh tranh trên thị trường một cách cao nhất. Doanh nghiệp cần phải xây dựng thương hiệu hàng hoá của mình. Đặc điểm của nền kinh tế hiện nay như đã nói ở trên là quá trình hội nhập các nền kinh tế trên thế giới thành một thể thống nhất. Tổ chức thương mại thế giới hiện nay bao gồm phần lớn các nước trên thế gới, các nước đang chuyển đổi cũng đang ráo riết chuẩn bị đàm phán gia nhập tổ chức này. Trong khu vực Việt Nam là thành viên của ASEAN vì thế đang trong quá trình hội nhập AFTA với tiến trình này đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam và đầu tư của Việt Nam sang các nước này sẽ ngày càng tăng. Để kinh doanh có hiệu quả hàng hoá cần có một thương hiệu riêng để hàng hoá của doanh nghiệp có thể phân biệt với hàng hoá của các doanh nghiệp khác ở các nước khác nhau và thương hiệu cần được đăng ký quyền sở hữu. Trước mắt các doanh nghiệp cần rà soát lại kế hoạch xuất khẩu trong vài ba năm tới. Những mặt hàng nào chưa có nhãn hiệu hoặc nhãn hiệu chưa đăng ký bảo hộ nên tiến hành đăng ký, đối với các sản phẩm nông nghiệp các doanh nghiệp cần phối hợp với nhau để xây dựng thương hiệu và xuất xứ cho nhứngản phẩm đó. Về lâu dài các doanh nghiệp cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để quản lý thương hiệu của mình. Phải bố trí nhân lực có hiểu biết để phụ trách về sở hữu trí tuệ và xây dựng chiến lược kinh doanh chung của doanh nghiệp. Trong đó, cần đặc biệt lưu ý đến vấn đề thông tin sở hữu trí tuệ gắn hàng với mặt hàng xuất khẩu. 4.2. Đầu tư đổi mới công nghệ: Người tiêu dùng ngày càng coi trọng chất lượng hàng hoá, để có thể giữ được sự tín nhiệm của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp cần có kế hoạch đổi mới trang thiết bị, công nghệ sản xuất để sản xuất ra những mặt hàng chất lượng cao và có giá cả cạnh tranh. Để có nguồn vốn tài trợ cho đổi mới công nghệ sản xuất các doanh nghiệp có thể huy động từ những nguồn như từ quỹ hỗ trợ phát triển, từ nguồn vốn liên doanh với nước ngoài, trong tương lai cần có kế hoạch cổ phần hoá các doanh nghiệp xuất khẩu để tạo ra nguồn vốn đủ mạnh cho đổi mới trang thiết bị. Những thiết bị và công nghệ nhập vào cần có sự kiểm định chất lượng và thẩm định giá để tránh tình trạng nhập phải thiết bị và công nghệ lạc hậu sẽ làm ảnh hưởng đến tăng trưởng lâu dài của doanh nghiệp. 4.3.Đào tạo cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu: Đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu chuyên nghiệp cảu tỉnh hiện nay có thể nói là còn thiếu, các doanh nghiệp hầu như mới chú trọng vào thị trường trong nước. Để nâng cao nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho cán bộ các doanh nghiệp nên cử cán bộ tham gia những lớp đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn ở những trường và trung tâm đào tạo chuyên ngành, tổ chức thăm quan học hỏi kinh nghiệm xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Phần kết luận Sở thương mại - du lịch Điện Biên là cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh quản lý hoạt động thương mại, tham mưu cho tỉnh những vấn đề có liên quan đến hoạt động thương mại, du lịch. Đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện tốt chủ trương chính sách của nhà nước về thương mại, tham gia góp ý vào việc đưa ra, sửa đổi, bổ sung cách chính sách, pháp luật của nhà nước. Một trong những chức năng đó là hoạt động quản lý xuất nhập khẩu, với đặc thù là một tỉnh miền núi lại ở xa các trung tâm kinh tế lớn của khu vực và cả nước, điều kiện giao thông lại khó khăn nên hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh Điện Biên gặp không ít khó khăn. Bất chấp những khó khăn đó với những đường lối chính sách đúng đắn của nhà nước sự chỉ đạo sát của tỉnh mà trực tiếp là sở thương mại du lịch Điện Biên đã thu được những thành tựu đáng kể trong xuất khẩu. Dựa trên chức năng, nhiệm vụ của sở thương mại và du lịch đề tài: " Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hoá qua biên giới Điện Biên của sở thương mại và du lịch Điện Biên" đã thể hiện tầm quan trọng của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Điện Biên. Phân tích thực trạng xuất nhập khẩu hàng hoá của tỉnh trong thời gian qua, đưa ra một số thông tin quan trọng về thị trường EU và Nhật Bản. Đồng thời đưa ra một số giải pháp như giải pháp cho doanh nghiệp, giải pháp tạo nguồn hàng, nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu. Do thời gian có hạn và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên trong đề tài của em không tránh khỏi những khiếm khuyết, em mong nhận được sự chỉ bảo tận tình của cô giáo để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Dương Thị Ngân , sự giúp đỡ tận tình của các cô chú cán bộ sở thương mại - du lịch Điện Biên đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. danh mục tài liệu tham khảo 1. Nghị quyết hội nghị BCH đảng bộ tỉnh lần thứ X. 2. Bao cáo xuất nhập khẩu của sở thương mại- du lịch Điện Biên giai đoạn 2002 - 2004. 3. Báo cáo tình hình hợp tác với các tỉnh Bắc Lào của sở thương mại - du lịch Điện Biên. 4. Văn bản về chính sách ưu đãi thu hút đầu tư tại Điện Biên. 5. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 1+2/ 2005, số 3/2005. 6. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn kỳ 1 tháng 3 năm 2005. 7. Tạp chí Thuế nhà nước tháng 3/2005 8. Luật thương mại Việt Nam 9. Sách xuất khẩu sang thị trường EU của cục xúc tiến thương mại Việt Nam 10. Sách 30 năm quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản 11. Website www.dulichdienbienphu.gov.vn của sở du lịch thươngg mại Điện Biên. 12. Website www.thuongmaidientu.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0115.doc
Tài liệu liên quan