Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI tại Việt nam

Để hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đối với các DN FDI nói chung và đặc biệt đối với lĩnh vực xuất khẩu, Nhà nước ta không nên cứng nhắc trong công tác quản lý cả trong nhận thức cũng như trong hoạt động, đồng thời sự uyển chuyển linh hoạt phải tuân theo hướng có lợi cho hoạt động xuất khẩu của các DN FDI và bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của tất cả các doanh nghiệp tham gia. Dù tập trung hay phân cấp quản lý hoạt động xuất nhập khẩu nói chung cũng như trong lĩnh vức xuất khẩu nói riêng thì các cơ quan quản lý Nhà nước cũng không nên và không thể can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của các DN FDI. Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã được ký kết ngày 13/07/2000 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 là một bước ngoặt mới trong quá trình đầu tư ở Việt nam, thực hiện cam kết của Việt nam tiến hành nhiều biện pháp cải cách hơn nữa nhằm tăng cường hội nhập kinh tế toàn cầu. Với xu thế này FDI vào Việt nam có thể sẽ có cơ hội tăng trở lại, các DN FDI sản xuất hàng xuất khẩu đảm bảo là xuất khẩu sang thị trường Mỹ sẽ có nhiều triển vọng gia tăng trong vài năm tới đó là các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may, giầy dép xuất khẩu sang Mỹ sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi 3% thay cho mức thuế xuất là 40% như trước đây. Do vậy mà công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu của các DN FDI cũng cần phải có những thay đổi cho phù hợp như xây dựng chính sách các mặt hàng hợp lý theo hướng nâng cao tỷ trọng những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tích cực thúc đẩy việc thông qua Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ; đầy nhanh tiến trình đàm phán đa phương ra nhập WTO, tránh thế cô lập; Chính phủ cần tăng cường tính công khai minh bạch trong các quy định và thủ tục đầu tư để nâng cao tính hấp dẫn, tiềm năng thu hút FDI vào Việt nam, nắm giữ các cơ hội lớn trong các ngành công nghiệp hướng xuất khẩu, đặc biệt là khả năng tiếp cận thị trường Mỹ.

doc102 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI tại Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển các khu chế xuất và các khu công nghiệp tập trung có ý nghĩa quan trọng trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay. Đất chật, người đông, thủ tục xin cấp đất khó khăn đã làm cho nhiều doanh nghiệp không thể đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng sản xuất như mong muốn. Các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung được xây dựng với hạ tầng đầy đủ, sẽ là tác nhân kích thích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất như thực tế các khu Tân Thuận, Linh Trung và các khu công nghiệp khác đã chứng minh. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa sự hấp dẫn của các khu này, cần nghiêm túc triển khai cơ chế “thủ tục và dịch vụ một cửa” cho một số khu chế xuất và khu công nghiệp như Chính phủ đã quy định. 1.1.2. Chính sách về xuất khẩu hàng hoá: Hoàn thiện hơn nữa các chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN FDI. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng, nó đòi hỏi phải thực hiện một cách nhất quán trong thực tiễn quản lý và điều hành các chủ trương xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu trong suốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đây là tiền đề rất quan trọng để định hướng các chính sách về đầu tư, tổ chức, thương mại... Chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu tự bảo đảm các yêu cầu về hội nhập quốc tế và khu vực, từng bước mở cửa thị trường đi liền với việc cắt giảm dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Muốn phát triển mạnh xuất khẩu thì chúng ta phải mở rộng thị trường trong nước cho hàng hoá nước khác xâm nhập vào. Chính sách kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu phải thực hiện những yếu tố thông thoáng hơn về môi trường đầu tư, do đó cần có chính sách khuyến khích hơn nữa nhằm thu hút mạnh vốn FDI vào phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển hàng hoá xuất khẩu tại Việt nam. Để hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đối với các DN FDI nói chung và đặc biệt đối với lĩnh vực xuất khẩu, Nhà nước ta không nên cứng nhắc trong công tác quản lý cả trong nhận thức cũng như trong hoạt động, đồng thời sự uyển chuyển linh hoạt phải tuân theo hướng có lợi cho hoạt động xuất khẩu của các DN FDI và bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của tất cả các doanh nghiệp tham gia. Dù tập trung hay phân cấp quản lý hoạt động xuất nhập khẩu nói chung cũng như trong lĩnh vức xuất khẩu nói riêng thì các cơ quan quản lý Nhà nước cũng không nên và không thể can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của các DN FDI. Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã được ký kết ngày 13/07/2000 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 là một bước ngoặt mới trong quá trình đầu tư ở Việt nam, thực hiện cam kết của Việt nam tiến hành nhiều biện pháp cải cách hơn nữa nhằm tăng cường hội nhập kinh tế toàn cầu. Với xu thế này FDI vào Việt nam có thể sẽ có cơ hội tăng trở lại, các DN FDI sản xuất hàng xuất khẩu đảm bảo là xuất khẩu sang thị trường Mỹ sẽ có nhiều triển vọng gia tăng trong vài năm tới đó là các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may, giầy dép xuất khẩu sang Mỹ sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi 3% thay cho mức thuế xuất là 40% như trước đây. Do vậy mà công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu của các DN FDI cũng cần phải có những thay đổi cho phù hợp như xây dựng chính sách các mặt hàng hợp lý theo hướng nâng cao tỷ trọng những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tích cực thúc đẩy việc thông qua Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ; đầy nhanh tiến trình đàm phán đa phương ra nhập WTO, tránh thế cô lập; Chính phủ cần tăng cường tính công khai minh bạch trong các quy định và thủ tục đầu tư để nâng cao tính hấp dẫn, tiềm năng thu hút FDI vào Việt nam, nắm giữ các cơ hội lớn trong các ngành công nghiệp hướng xuất khẩu, đặc biệt là khả năng tiếp cận thị trường Mỹ. Cần sớm có hướng dẫn để thực hiện triệt để Luật Thương mại nhằm tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư trong tương cho dù Luật thương mại có nhiều thiếu sót, chưa hoàn chỉnh. Đồng thời trong quá trình thực hiện sẽ bộc lộ những thiếu sót những quy định chưa hoàn chỉnh hoặc chưa phù hợp, Bộ Thương Mại sẽ tổng kết có đánh giá một cách khoa học và báo cáo Chính phủ, kiến nghị Quốc Hội sửa đổi bổ xung trong các kỳ tới. Trong thời gian gần nhất, sớm soạn thảo để Quốc Hội ban hành Luật cạnh tranh và chống độc quyền. Bởi vì trong bối cảnh hội nhập đang diễn ra hết sức nhanh chóng, cạnh tranh là tất yếu đối với tất cả các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tự khẳng định mình để tồn tại và phát triển, nếu không có Luật cạnh tranh sẽ dẫn tới tình trạng lộn xộn, cạnh tranh không lành mạnh, không bình đẳng và sử dụng các thủ đoạn phi pháp để loại trừ nhau và cuối cùng gây thiệt hại cho chính bản thân nền kinh tế. Chính phủ và Bộ Thương Mại đã có sự tiến hành rà soát các văn bản pháp luật có liên quan đến xuất nhập khẩu, đầu tư, nhưng cần có sự rà soát chi tiết hơn, đặc biệt là các văn bản liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu nói chung, cũng như trong lĩnh vực xuất khẩu nói riêng, nếu thấy trái với luật Thương mại, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam thì kiến nghị kiên quyết bãi bỏ. Rà soát những văn bản quy định không còn phù hợp, kịp thời bổ xung những quy định mới nảy sinh trong quá trình thực hiện đã được kiểm nghiệm thực tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DN FDI trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá. +Thực tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi nhà nước cần tạo ra, một môi trường bình đẳng trong sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Trong lĩnh vực đầu tư vẫn còn những ưu tiên khác nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, do vậy cần rút ngắn sự khác biệt này. Hiện nay đang tồn tại hai hệ thống pháp luật khác nhau điều chỉnh đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Về cơ bản giữa hai luật đã có nhiều điểm tương đồng, nhất là các quy định về ưu đãi, đảm bảo và khuyến khích đầu tư. Tuy nhiên, cũng có những khác biệt về thủ tục hành chính, mức thuế ưu đãi, nên các nhà đầu tư nước ngoài lại muốn được áp dụng theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước và ngược lại. Từ khi thực hiện đường lối mở cửa và hội nhập, Nhà nước ta đã xoá bỏ nhiều trở ngại, tạo sự phát triển hài hoà cho nhiều thành phần kinh tế, tuy nhiên vẫn còn sự bảo hộ nhất định đối với một số ngành có tính chất then chốt trong nền kinh tế quốc dân, từ đó ảnh hưởng đến giá cả các hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Giá cả của một số hàng hoá và dịch vụ các doanh nghiệp FDI phải mua cao hơn so với các doanh nghiệp trong nước, đã làm cho giá thành sản phẩm hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI cao hơn, điều này đã làm giảm tính cạnh tranh của loại hàng hoá này trên thương trường. Cụ thể như tại Thông tư số 35/1999/TT- BTM ngày 30/12/1999 của Bộ Thương mại hướng dẫn thực hiện quyết định số 237/1999/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh xuất khẩu gạo năm 2000, thì trong số 12 triệu tấn gạo giao cho các đầu mối xuất khẩu thì các DN FDI tại Việt Nam chỉ được giao 100.000 tấn, số còn lại giao cho các doanh nghiệp trong nước, tỉ lệ này có phần nào đó thể hiện sự thiếu bình đẳng giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp trong nước, đồng thời thể hiện sự thiếu linh hoạt trong cơ chế chính sách điều hành xuất khẩu. Mặc dù trong một vài năm trở lại đây, Nhà nước ta đã cho phép các DN FDI tại Việt Nam tham gia vào xuất khẩu gạo, nhưng lại chưa đưa ra được một giải pháp đồng bộ nhằm tận dụng khả năng vốn có của các doanh nghiệp này vào lĩnh vực xuất khẩu gạo. + Cần có chính sách khuyến khích gia công hàng hoá cho nước ngoài, không hạn chế số lượng, chủng loại và mặt hàng gia công, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng gia công trong đó có các DN FDI tại Việt Nam. Lĩnh vực gia công hàng hoá xuất khẩu là một lĩnh vực phổ biến của các nước trong khu vực nói chung cũng như của Việt Nam nói riêng. Trong khu vực Đông Bắc và Đông Nam á, lĩnh vực gia công hàng cho nước ngoài được triển khai từ rất sớm, bởi khu vực này có ưu thế về giá nhân công thấp, lực lượng lao động có tay nghề cao phù hợp với dây truyền sản xuất công nghiệp...Những nước này đã giàu nên một phần cũng nhờ lĩnh vực gia công hàng xuất khẩu. Nước ta cũng có nhiều điều kiện để phát triển gia công hàng xuất khẩu, Nhà nước cần có những giải pháp thúc đẩy hoạt động này để góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Muốn thực hiện được bãi bỏ việc xét duyệt hợp đồng gia công và đơn giản hoá hơn nữa thủ tục thuế xuất nhập khẩu. Gia công theo phương thức “mua đứt bán đoạn” được coi như đầu tư chế biến và được hưởng các ưu đãi như đầu tư và chế biến. Chính sách về vốn tài chính- tiền tệ- tín dụng. * Mọi chính sách huy động vốn, hoàn thiện thị trường vốn và thị trường tiền tệ chỉ có tác dụng thật sự và tích cực đến lĩnh vực xuất khẩu khi chủ trương hướng về xuất khẩu được quán triệt đầy đủ và thi hành nhất quán. Hiện nay, chính sách khuyến khích đầu tư một cách chung chung cộng thêm với hàng rào bảo hộ trong nhiều năm đã làm cho đồng vốn đổ dồn vào lĩnh vực sản xuất thay thế hàng nhập khẩu. “Hiệu quả” trong lĩnh vực sản xuất hàng thay thế nhập khẩu chẳng qua chỉ là sự hy sinh quyền lợi của người tiêu dùng, thậm chí là thu nhập của ngân sách Nhà Nước. Để đồng vốn đến được với hoạt động xuất khẩu, cần triệt để tuân thủ các nguyên tắc đã được trình bày tại phần khuyến khích đầu tư. Chỉ khi nào chủ trương hướng về xuất khẩu được khẳng định, sản xuất hàng xuất khẩu được đặt lên vị trí ưu tiên số một thì đồng vốn mới dồn về xuất khẩu mà thôi. * Cơ cấu nguồn thu ngân sách cần được thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ đó góp phần nâng cao lợi nhuận tái đầu tư cho lĩnh vực xuất khẩu: Hiện nay số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đang chiếm trên dưới 30% tổng thu từ thuế các loại. Thuế xuất nhập khẩu do dễ thu và dễ cưỡng chế, đã được huy động một cách tối đa. Thực tiễn này góp phần làm giảm động lực phát triển ngoại thương, vừa không phù hợp với xu thế tự do hoá thương mại trên toàn thế giới, vừa đưa ngân sách vào thế cực kỳ khó khăn khi những cam kết giảm thuế có hiệu lực và làm nguồn thu từ thuế nhập khẩu giảm mạnh. Để giải quyết tình trạng này, cần gấp rút thay đổi cơ cấu nguồn thu, tăng tỷ trọng của các sắc thuế như các loại thuế trực thu, thuế hàng hoá, tháo bỏ những cản trở đối với việc thu một số loại thuế như thuế chuyển quyền sử dụng đất để giảm dần tỷ trọng của số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu. * Tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đi đôi với việc tạo tiền đề cho đa dạng hoá nguồn vốn, khuyến khích mạnh vốn đầu tư cho khu vực sản xuất hàng xuất khẩu: Thực tiễn phân bổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguyên nhân của tình trạng dồn vốn cho các khu vực phi xuất khẩu đã được trình bày ở các phần trên. Để khắc phục từ nay trở đi, đối với đầu tư nước ngoài cần dành ưu đãi đặc biệt cho các ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu hoặc có khả năng xuất khẩu sản phẩm trong tương lai gần cũng như các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu. Trong những năm đầu tiên của thời kỳ 2001-2010 Chính Phủ cần có ngay các biện pháp để xác lập tiền đề thu hút các hình thức đầu tư quốc tế khác. Giải pháp quan trọng nhất là lạnh mạnh hoá hoạt động của hệ thống trung gian tài chính và nâng cao năng lực cho hệ thống này trong việc phân tích và thẩm định rủi ro. Kế hoạch của Chính phủ trong lĩnh vực này phải hết sức minh bạch, rõ ràng, với những mốc thời gian cụ thể để vừa thúc đẩy quá trình tái cơ cấu, vừa tạo niềm tin cho giới đầu tư quốc tế. * Thành lập nhanh Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu và khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro: Theo Bộ Thương mại, mục tiêu chính của Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu phải là trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển xuất khẩu nhưng không có điều kiện tiết kiệm nguồn vốn của ngân hàng do không có tài sản thế chấp. Quỹ Hỗ trợ xuất Xhẩu sẽ đứng ra bảo lãnh các khoản vay, cung cấp các khoản tín dụng để doanh nghiệp có thể bán hàng trả chậm cho nước ngoài…Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu phải hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, cùng chia sẻ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với ngân hàng. Trong điều kiện tài chính còn nhiều eo hẹp, không nên thành lập các quỹ thiên về cấp phát như quỹ tại Bộ Tài chính vừa qua. Ngoài Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu, Nhà Nước nên khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự thành lập các Quỹ Phòng ngừa rủi ro riêng cho ngành mình, nhất là trong các ngành quan trọng, có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, cao su. Quỹ có nhiệm vụ giúp đỡ các thành viên hiệp hội khi giá cả thị trường biến động thất thường. Cơ chế hoạt động sẽ do từng hiệp hội tự xác định. * Các vấn đề tín dụng và tiền tệ: Trong thời gian tới đây cần tăng cường sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Các công cụ như tỷ giá hối đoái, bảo lãnh bán hàng trả chậm, cho vay theo thành tích xuất khẩu tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn…đều có thể có tác động nhanh và mạnh đến xuất khẩu. Trong lĩnh vực này, ngân hàng Nhà Nước và Bộ Thương mại cần có sự phối hợp chặt chẽ. Cần khẩn trương tiến hành cải cách hệ thống trung gian tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại để tránh hiện tượng co cụm, giảm dư nợ như đã xảy ra tại Thái Lan khi số lượng các khoản nợ khó đòi tăng nhanh. Kinh nghiệm của Thái Lan chỉ ra cho chúng ta thấy việc cải tổ hệ thống ngân hàng thương mại, từ đó giải quyết vấn đề vốn cho kinh doanh, là việc có tầm quan trọng hàng đầu trong tiến trình chấn hưng kinh tế và đẩy mạnh tăng cường xuất khẩu. Ngoài ra cơ cấu lại hệ thống trung gian tài chính, trong đó có các ngân hàng, còn góp phần quan trọng trong việc lạnh mạnh hoá môi trường kinh doanh và thúc đẩy cạnh tranh phát triển. Xuất phát từ những định hướng kinh doanh và thúc đẩy xuất khẩu trong thời kỳ 2001-2005 (nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh tạo tiền đề cho thu hút vốn đầu tư gián tiếp…) không thể không cải cách hệ thống ngân hàng. Tỷ giá hối đoái là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. Gần đây, việc điều hành tỷ giá hối đoái đã có những tiến bộ. Cơ chế hai tỷ giá đã chính thức được xoá bỏ để thay thế bằng một tỷ giá chủ đạo là tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các quy định về kết hối ngoại tệ cũng được nới lỏng, các quy định về quản lý dự trữ ngoại hối đã có sự thay đổi, các nghiệp vụ thị trường mở đang được xem xét áp dụng…Trước những tiến bộ về kỹ thuật điều hành, hy vọng thời gian tới đây chính sách tỷ giá hối đoái của ta sẽ linh hoạt hơn, góp phần đưa đồng Việt Nam về với giá trị thực của nó. * Tiếp tục hỗ trợ đặc biệt là hỗ trợ tài chính để đẩy mạnh tiêu thụ nông sản và nâng cao thu nhập cho nông dân. Nghị quyết số 05/2001/NQ- CP ngày 24/05/2001 của Chính phủ và Quyết định số 908/QĐ- TTg ngày 26/07/2001 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp để đẩy mạnh tiêu thụ nông sản và nâng cao thu nhập cho nông dân, trong đó nổi bật là miễn giảm thuế nông nghiệp, đầu tư cho công tác giống, dãn nợ và khoanh nợ cho các hộ nghèo, thực hiện tạm giữ gạo, cà phê và thưởng theo kim ngạch cho một số nông sản chủ lực. Những biện pháp này đã và đang phát huy tác dụng tích cực.Tuy nhiên, để đẩy mạnh việc tiêu thụ nông sản và nâng cao thu nhập cho nông dân, có thể xem xét thêm một số giải pháp sau: - Bảo đảm bố trí đủ nguồn để thực hiện một số giải pháp theo kim ngạch xuất khẩu: Chế độ thưởng theo kim ngạch xuất khẩu đã được áp dụng trong năm 2001 đối với nhóm hàng là gạo, cà phê, rau quả hộp và thịt lợn. Biện pháp này đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy tiêu thụ nông sản hàng hoá cho nông dân. Tại Chỉ thị số 3/2001/CT- TTg, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép tiếp tục áp dụng chế độ nhóm hàng. Theo ước tính của Bộ Thương mại, nếu mức thưởng bình quân được giữ như năm 2001 (khoảng 1,5-1,5% kim ngạch xuất khẩu) thì tổng số tiền sẽ tăng gần gấp đôi. Do việc tiêu thụ nông sản sẽ còn gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới, đề nghị Bộ Tài chính sớm bố trí đủ nguồn và sớm có hướng dẫn để khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu ngay từ đầu năm. Mức thưởng bình quân nên giữ như năm 2001, không nên thấp hơn. Bên cạnh việc duy trì mức thưởng và tăng thêm số tiền thưởng cho xuất khẩu nông sản, đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép đa dạng hoá phương pháp thưởng theo hướng ưu tiên những mặt hàng có giá trị gia tăng cao và những mặt hàng có ký hợp động tiêu thụ sản phẩm với nông dân. - Khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với nông dân. Biện pháp này đã được đề cập từ nhiều năm nay nhưng chưa được các doanh nghiệp thực sự quan tâm vì một số lý do. Thứ nhất là sản xuất nông nghiệp của ta còn khá manh mún. Để có đủ hàng hoá, doanh nghiệp phải ký hợp đồng và theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng của rất nhiều hộ nông dân. Việc này thường tốn nhiều thời gian và chi phí. Thứ hai, doanh nghiệp chỉ có thể ký hợp đồng tiêu thu sản phẩm dài hạn với nông dân khi bản thân họ đã có đầu ra ổn định. - Tiếp tục hỗ trợ đầu tư cho nông dân để giảm giá thành sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh và nâng cao thu nhập: Biên pháp hỗ trợ đầu tư vào chủ yếu hiện nay là miễn giảm thuế nông nghiệp và hỗ trợ qua tín dụng (khoanh nợ, giãn nợ, cho vay với lãi suất ưu đãi…). Các biện pháp này đã và đang được phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên, để hỗ trợ hơn nữa cho nông dân, có thể xem xét thêm một số giải pháp sau đây: + Đầu tư mạnh cho công tác giống để cải thiện một cách cơ bản năng suất và chất lượng, đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường nước ngoài. + Đẩy mạnh công tác thuỷ lợi và chuyển nhận thức từ làm thuỷ lợi cho cây lúa sang làm thuỷ lợi cho cây công nghiệp, cây màu, cây ăn quả và phục vụ nuôi trồng thuỷ sản. + Ưu tiên bố trí kinh phí cho công tác khuyến khích nông, khuyến lâm, khuyến ngư và nhanh chóng hình thành mạn lưới khuyến nông- lâm- ngư từ tỉnh đến cơ sở, giúp con nông dân tiếp cận công nghệ sản xuất mới và chủ động phòng ngừa dịch bệnh. + Đối với những ngành sản xuất đầu vào cho nông nghiệp như sản xuất phân bón, sản xuất thuốc trừ sâu. Nhà Nước chỉ nên bảo hộ với mức thuế nhập khẩu tối đa là 5% (kể cả các khoản phụ thu), với điều kiện là ngành sản xuất phải đáp ứng được trên 50% nhu cầu thị trường. Nếu chỉ đáp ứng được dưới 50% nhu cầu thị trường thì cương quyết không bảo hộ bằng thuế nhập khẩu. Chính sách này nên được công bố công khai để hạn chế dần những trường hợp đầu tư không hiệu quả. Chính sách về công nghệ. Thực trạng công nghệ yếu kém và lạc hậu đã được nêu tại nhiều diễn đàn. Tình hình chậm cải thiện nên đã ảnh hưởng mạnh đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Do vậy chính sách này cần chú trọng. * Cho phép các thành phần kinh tế được tham gia trực tiếp và bình đẳng vào hoạt động xuất khẩu sẽ là một trong những biện pháp quan trọng nhằm cải tiến công nghệ và nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ. Một thực trạng đáng buồn hiện nay là vấn đề lãng phí trong nhập khẩu công nghệ chỉ tồn tại ở khu vực kinh tế quốc doanh. Chế độ trách nhiệm chưa rõ ràng là nguyên nhân cơ bản của tình hình này. Nếu không kịp điều chỉnh thì dù cho Nhà Nước có áp dụng các biện pháp kiểm tra ngặt ngèo đến mấy cũng không khắc phục được. Trong khi đó do phải quan tâm đến hiệu quả nên các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh lại ít khi mắc phải sai lầm trong nhập khẩu thiết bị. Có thể xảy ra việc họ mua công nghệ (hoặc thiết bị) với giá chưa thật hợp lý vì thiếu thông tin nhưng các quyết định đầu tư của họ đều được tính toán trên cơ sở lợi ích của nhà đầu tư. Nếu ta đảm bảo được cả hai yếu tố trực tiếp và bình đẳng trong tất cả các khâu có liên quan đến hoạt động xuất khẩu (tiếp cận tín dụng, tiếp cận ngoại tệ, tiếp cận các ưu đãi và hỗ trợ…) thì các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh sẽ có thêm động lực để đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ. Trong trường hợp đó, các doanh nghiệp quốc doanh, vì mục tiêu sống còn, cũng phải vươn lên để cạnh tranh với họ, lưu ý hơn đến hiệu quả đầu tư. * Chú trọng nhập khẩu công nghệ đòi hỏi suất đầu tư thấp, thu hút vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp. Việc hiện đại hoá công nghệ là cần thiết nhưng phải lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn. Đòi hỏi phải nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại cho mọi ngành sản xuất, bất kể hiệu quả, bất kể khả năng quản lý và vận hành của cơ sở sử dụng thiết thực thực chất là một sự lãng phí không kém gì nhập khẩu thiết bị lạc hậu. Các loại thiết bị công nghệ cao thường sử dụng ít hoặc rất ít lao động. Trong một số trường hợp, việc nhập khẩu các loại thiết bị này sẽ không giúp ích nhiều cho việc tạo công ăn việc làm và tận dụng thế mạnh lao động rẻ để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Giá thiết bị cao còn làm tăng giá thành sản phẩm và làm suy khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Vì lý do đó, việc nhập khẩu thiết bị tiên tiến cần được tính toán kỹ về mặt hiệu quả, tập trung cho một số ngành then chốt như năng lượng, tin học, điện tử, viễn thông, công nghệ sinh học và vật liệu mới nhằm kiến tạo một cơ sở hạ tầng vững chắc và góp phần đẩy nhanh qúa trình tạo ra các mặt hàng mới cho xuất khẩu. Trong những ngành còn lại, cần biết tận dụng các công nghệ có trình độ vừa phải, sử dụng nhiều lao động, vừa phù hợp với trình độ phát triển của ta, vừa đáp ứng nhu cầu chế biến nguyên liệu thô. Nếu có khó khăn về vốn đầu tư trong khi việc nâng cấp thiết bị là cần thiết thì nên tập trung vào những khâu quyết định chất lượng sản phẩm. * Nhà Nước đầu tư thành lập Ngân hàng Dữ liệu công nghệ để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp. Một phần vốn đầu tư cho khoa học công nghệ nên được dành để thành lập Ngân hàng Dữ liệu nhằm cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cập nhật nhất về lĩnh vực công nghệ mà họ quan tâm. Việc này đã được làm nhưng quy mô nhỏ, lại thiếu quảng cáo nên rất ít doanh nghiệp biết về sự tồn tại của một trung tâm như vậy. Tới đây nên tiến hành đầu tư một cách bải bản hơn cho lĩnh vực này, đồng thời tăng cường phổ biến đến các doanh nhân để họ biết và có điều kiện tham khảo dữ liệu trước khi ra quyết định đầu tư. * Tạo lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một dạng hàng hoá đặc biệt. Đây là biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy các nghiên cứu khoa học gắn bó hơn với tiến trình phát triển, đồng thời rút ngắn được khoảng thời gian giữa nghiên cứu và ứng dụng. Để tạo lập thị trường công nghệ, nên khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học bằng cách thiết lập Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển công nghệ Quốc Gia. Quỹ này sẽ cho các doanh nghiệp vay trong trường hợp họ có nhu cầu đặt hàng với các Viện nghiên cứu. Làm như vậy vừa gắn được việc nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các nhà khoa học giỏi phát huy tài năng, vừa không phí phạm nguồn vốn ít ỏi của ngân sách Nhà Nước. * Thi hành nghiêm túc các quy định của luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu công nghệ cũng là biện pháp quan trọng khuyến khích đầu tư nghiên cứu khoa học phục vụ cho công cuộc đổi mới và cải tiến công nghệ. Tình trạng ăn cắp chất xám, bản quyền, kiểu dáng công nghệ… phổ biến hiện này đã làm nhiều doanh nghiệp và nhiều nhà khoa học nản chí trong đầu tư cho khâu nghiên cứu và ứng dụng (R&D). Nhà Nước cần tỏ ra nghiêm khắc hơn nữa với các vi phạm pháp luật kiểu này để các doanh nghiệp và các nhà khoa học yên tâm nghiên cứu, đầu tư. áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng xuất khẩu để vừa thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ (đặc biệt là công nghệ sạch), vừa nâng cao uy tín cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Chất lượng hàng hoá xuất khẩu có thể được nâng cao, từ đó tạo ra sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam bằng cánh áp dụng chế độ kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như dệt may, đồ điện tử, thực phẩm chế biến, tạp hoá tiêu dùng. Chính sách về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực (như Nhật Bản và Singapo...) cho thấy công tác đào tạo là một trong những nhân tố quyết định thành công đối với sự phát triển của đất nước. Ngày nay nhân tố này lại càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới tư duy quản lý, tư duy kinh tế và phương thức sản xuất kinh doanh. Vì vậy để thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược đã đề ra, vấn đề tạo dựng một đội ngũ cán bộ, doanh nhân có năng lực và một đội ngũ công nhân lành nghề tham gia công tác xuất nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng. Có thể nói tư duy kinh doanh, nghiệp vụ và phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung ở trình độ thấp, có khoảng cách khá xa so với trình độ thế giới. Hơn thế nữa, với mục tiêu chiến lược là tăng trưởng xấp xỉ 14%/năm thì nhu cầu về công nhân lành nghề (may mặc, lắp ráp điện tử, cơ khí...) sẽ rất lớn. Cứ xuất khẩu 1 tỷ USD hàng may mặc hoặc giày dép thì cần tới 300.000-400.000 công nhân, cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ thì cần thêm 3000-4000 công nhân... Vì vậy, song song với việc đào tạo một đội ngũ cán bộ, đội ngũ doanh nhân có năng lực phải trú trọng tạo dựng một đội ngũ công nhân đủ về số lượng thạo về tay nghề để thực hiện chiến lược nhập khẩu. Nhà nước cần nghiên cứu tổ chức những lớp đào tạo và bồi dưỡng giám đốc để hình thành dần đội ngũ doanh nhân có năng lực, khả năng sử lý linh hoạt, đồng thời cần có chính sách khuyến khích doanh nhân giỏi đặc biệt là trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Nếu cần, có thể xem xét lại chế độ tiền lương cho người đứng đầu các doanh nghiệp Nhà nước. 1.2.6. Các chính sách về kiểm tra * Việc kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn giải quyết những vấn đề phát sinh thực hiện theo đúng quy định của giấy phép đầu tư và quy định của pháp luật. Việc kiểm tra phải theo đúng các quy định sau: UBND cấp tỉnh hoặc Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh (đối với doanh nghiệp trong khu công nghiệp) xây dựng kế hoạch và chủ trì tổ chức kiểm tra định kỳ để đánh giá tình hình thực hiện các quy định của giấy phép đầu tư, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; Các Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ xây dựng kế hoạch và chủ trì tổ chức kiểm tra chuyên ngành để đánh giá tình hình thực hiện các quy định của pháp luật liên quan đến việc quản lý theo thẩm quyền; Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức kiểm tra bất thường khi doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc khi có sự cố. * Cơ quan kiểm tra có trách nhiệm thông báo trước với UBND cấp tỉnh hoặc ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh nơi có doanh nghiệp về kế hoạch và nội dung kiểm tra. Việc kiểm tra định kỳ, kiểm tra chuyên ngành được thực hiện không quá một lần trong năm đối với một doanh nghiệp. * Cơ quan kiểm tra định kỳ và kiểm tra chuyên ngành có trách nhiệm thông báo kế hoạch, nội dung kiểm tra cho doanh nghiệp ít nhất là 7 ngày làm việc trước khi tiến hành kiểm tra. Thời gian kiểm tra tại một doanh nghiệp tối đa không quá 5 ngày làm việc; trường hợp thời gian kiểm tra đòi hỏi dài hơn thì cơ quan kiểm tra phải thông báo cho UBND cấp tỉnh hoặc ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh. Mọi hoạt động kiểm tra tuỳ tiện không đúng pháp luật lợi dụng kiểm tra gây phiền hà cho doanh nghiệp đều bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật. 1.3. Quản lý một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: Cần dành ưu tiên cao cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Quản lý xuất khẩu của một số mặt hàng như: Hàng dệt may xuất khẩu theo hạn ngạch mà Việt nam thoả thuận với nước ngoài, Bộ Thương Mại sẽ công bố cho từng thời kỳ. Hàng cần khuyến khích xuất khẩu theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt nam ký kết hoặc tham gia, Bộ Thương Mại sẽ công bố cho từng thời kỳ. Trường hợp các DN FDI được cấp giấy phép đầu tư hoặc giấy phép kinh doanh để sản xuất những mặt hàng gạo; động vật rừng; thực vật rừng dùng làm giống; đá quí, kim loại quí, ngọc trai tự nhiên thì việc xuất khẩu được thực hiện theo giấy phép đầu tư và các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan. Cần khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút FDI vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến; công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1.4. Quản lý các doanh nghiệp chiếm kim ngạch xuất khẩu hàng hoá lớn: Nhà nước cần có các biện pháp nhằm hỗ trợ đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp, cải tiến việc thực thi các chính sách hỗ trợ qua các quỹ khuyến khích xuất khẩu theo hướng tập chung vào các chương trình xuất khẩu trọng điểm. Khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng mới và thâm nhập được thị trường mới. đồng thời phải tập chung tháo gỡ vướng mắc cho các doanh nghiệp nhằm tạo ra bước phát triển mới, vững chắc và ổn định về xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. 1.5. Chú trọng đến các địa bàn thuận lợi: Nhà nước ta cần có những biện pháp thu hút FDI vào những địa bàn có nhiều thuận lợi như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương... để phát huy vai trò cuẩ các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Bên cạnh đó cũng cần khuyến khích và dành các ưu đãi tối đa cho FDI vào những vùng và địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn này bằng các nhiệm vụ khác để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động FDI. Bên cạnh đó Nhà nước cần coi trọng công tác qui hoạch trên các địa bàn; công tác cấp và điều chỉnh giấy phép đầu tư và các hoạt động khác trong các khu công nghiệp như: +quản lý môi trường: ban quản lý phối hợp với Sở Khoa Học Công Nghệ và Môi trường kiểm tra tình hình lưu giữ lượng hoá chất tồn đọng tại các doanh nghiệp. +quản lý lao động: quản lý và cấp các thủ tục xác nhận Hội đồng quản trị và Ban giám đốc cho các doanh nghiệp, cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài và giải quyết các hồ sơ gia hạn giấy phép lao động nước ngoài; giải quyết các vấn đề tranh chấp trong sử dụng lao động; vấn đề tiền lương... 1.7. Các vấn đề về thị trường- thông tin và xúc tiến thương mại. Đây là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến chức năng và hoạt động của Bộ Thương mại, đặc biệt là của hệ thống thương vụ tại nước ngoài. * Trước hết, cần quan phân định rõ trách nhiệm về công tác thị trường ở tầm vĩ mô và vi mô, khắc phục đồng thời hai biểu hiện tiêu cực là ỷ lại vào Nhà Nước và phó mặc cho doanh nghiệp. Xét về mặt xuất khẩu Bộ Thương mại có nhiệm vụ: - Hoạch định chiến lược xuất khẩu trong thời một tầm nhìn dài hạn đồng thời cả 3 yếu tố: tốc độ phát triển, cơ cấu thị trường và cơ cấu mặt hàng. - Thu thập và phổ biến thông tin về thị trường, đồng thời làm tốt công tác dự báo để định hướng cho sản xuất và xuất khẩu, phát triển các mặt hàng mới. - Tổ chức thị trường (bao gồm cả việc đàm phán tiếp cận thị trường) và xúc tiến thương mại. Việc hoạch định một chiến lược tổng thể về thị trường là việc có tầm quan trọng hàng đầu. Để xây dựng được chiến lược này, Bộ Thương mại và hệ thống thương mại phải nắm rõ được năng lực và hiện trạng của sản xuất trong nước cũng như đặc điểm, tính chất và thể chế của từng thị trường ngoài để từ đó trả lời trước hết là 5 câu hỏi: mặt hàng nào, đi vào đâu, với số lượng bao nhiêu, đi như thế nào và cần giải quyết vấn đề gì trong quan hệ song phương. Trên cơ sở đó sẽ phát triển cho từng thị trường và cơ cấu tổng thể về thị trường ngoài. Bên cạnh các biện pháp mang tính dài hạn đã đề cập trong chiến lược phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001-2010, trong thời gian tới cần thực hiện thêm các biện pháp sau để duy trì và mở rộng thị trường: + Sớm hoàn thành quy chế thương mại biên giới để tăng cường xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Trung Quốc. Các vấn đề còn vướng mắc như chủ thể kinh doanh, hàng hoá kinh doanh, cửa khẩu chính thức hay không chính thức…cần được xem xét giải quyết dứt điểm để tạo thuận lợi cho xuất khẩu, kể cả tái xuất. Tăng cường hợp tác với các tỉnh biên giới phía nam Trung Quốc để tận dụng chính sách ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc dành cho khu vực này. Quy chế tạm nhập tái xuất và quy chế chuyển khẩu cần có sự điều chỉnh phù hợp để tăng được kim ngạch tái xuất, vừa đảm bảo được quản lý của Nhà Nước. + Sớm hoàn thành một Hiệp định thương mại tự do với CHLB Nga. Nếu xét thấy không thể đàm phán một Hiệp định tổng thể thì có thể tách phần thuế nhập khẩu ra để đàm phán trước. - Quyết định số 46/2001 đã giải quyết một số đề nghị của EU về cấp giấp phép nhập khẩu gạch ốp lát, giấy phép nhập khẩu rượu… Ta cần chủ động thông báo với EU việc này và đề nghị với EU dành thêm các cơ hội về thị trường cho hàng dệt may, hàng hải sản của ta. - Do lo ngại suy thoái kinh tế toàn cầu, một số nước có thể sẽ lui về bảo hộ thị trường trong nước, đặt thêm các hàng rào cản để hạn hàng nhập khẩu từ nước khác. Các tham tán thương mại cần chú ý xu thế này và thông báo ngay khi có vấn đề phát sinh. Một khi đã xác định, các mục tiêu trên sẽ trở thành chỉ tiêu phấn đấu của cả Bộ, trong đó có các tham tán thương mại tại nước ngoài. Nếu thị trường nào đó không đạt được các mức chỉ tiêu phấn đấu thì tham tán sẽ là người đầu tiên phải trả lời. Tham tán cần phải giải thích được lý do không đạt chỉ tiêu và trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường có liên quan. Những mặt hàng và thị trường cần có sự đàm phán ở cấp Chính phủ phải lên kế hoạch đàm phán cụ thể để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp. Trong các mục tiêu đàm phán sẽ có: đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi thuế quan. Trong việc này, thông tin về kinh nghiệm của các nước khác trên thị trường có liên quan cũng như chính sách của nước sở tại với các đối tác khác nhau sẽ là thông tin tối quan trọng. Khi đã phối hợp được các lực lượng có liên quan trong một hệ thống thống nhất, có phân công trách nhiệm rõ ràng thì vấn đề thu thập thông tin sẽ mặc nhiên được giải quyết bởi từng khâu sẽ rõ mình cần phải thu thập những thông tin gì. Trong quá trình thu thập thông tin, cần hết sức lưu ý đến việc phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới vào thị trường có liên quan. Mới ở đây được hiểu theo hai nghĩa. Có thể là mặt hàng mà Việt Nam có tiềm năng nhưng chưa xuất khẩu được vào thị trường có liên quan hoặc đã xuất khẩu được nhưng kim ngạch còn nhỏ bé, không xứng với tiềm năng. Cũng có thể là xu hướng tiêu dùng trên thị trường sở tại có sự thay đổi nên một mặt hàng đó Việt Nam lại có thể sản xuất được. Việc phát triển các mặt hàng mới có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó vừa có khả năng tác động đến tốc độ mở rộng thị trường và giảm nhập siêu, vừa đóng vai trò tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu hàng xuất của nước ta. Trách nhiệm còn lại trong khâu thông tin là phổ biến thông tin. Để thông tin có thể đến với mọi doanh nghiệp quan tâm theo con đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất, Bộ Thương mại cần xây dựng ngay cơ sở dữ liệu và trang chủ (trang Web) của riêng mình đồng thời tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề. * Nhanh chóng thành lập Cục Xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực thông tin và tiếp thị. Chức năng chính của Cục Xúc tiến thương mại là phổ biến thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược thâm nhập thị trường đã được hoạch định. Cục Xúc tiến có nhiệm vụ xây dựng lộ trình hành động cụ thể để đưa được hàng hoá Việt Nam ra thị trường nước ngoài. Cục sẽ quản lý cơ sở dữ liệu của Bộ Thương mại và lo các vấn đề có liên quan đến khía cạnh kỹ thuật như tạo dựng cơ sở dữ liệu để truy cập, tạo dựng trang Web. Nên chăng Chính phủ cho phép thành lập nhanh cơ quan tại Bộ Thương mại? 1.8. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xoá bỏ các rào cản bất hợp lý đang cản trở hoạt động xuất khẩu. * Công khai hoá và luật pháp hóa là việc đầu tiên cần làm trong tiến trình đổi mới công tác quản lý. Hiện nay các doanh nghiệp rất thiếu thông tin về các quy định của Nhà Nước có liên quan đến công việc kinh doanh của họ. Đây là yếu điểm lớn cần được khắc phục nhanh, nhất là trong điều kiện quyền kinh doanh xuất khẩu đã được mở ra cho hàng chục nghìn doanh nghiệp. Mọi văn bản về quản lý Nhà Nước chỉ nên có hiệu lực thi hành sau khi đã được đăng trên công báo. Hiện nay tuy Luật đã quy định về vấn đề này nhưng chỉ quy định chung là “phải đăng”. Theo Bộ Thương mại, cần đặt vấn đề theo hướng “chỉ có hiệu lực khi đã đăng” mới đảm bảo cho các quy định đến được với doanh nghiệp một cách kịp thời. Ngoài ra, cần gấp rút ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những mảng trống trong kinh doanh xuất khẩu để các doanh nghiệp không bị trở ngại trong kinh doanh do các cơ quan hữu trách thiếu cơ sở pháp lý để nhận định hành vi của họ. * Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu. Gần đây, trong quá trình cải cách hành chính, một số thủ tục cấp giấy phép trong lĩnh vực quản lý xuất khẩu đã được đơn giản hoá hoặc được bải bỏ. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến vẫn đề nghị phải đi xa hơn, bãi bỏ gần như hoàn toàn mọi thủ tục giấy phép, mọi biện pháp quản lý hạn ngạch, đầu mối…để “tạo thông thoáng cho hoạt động xuất khẩu” và phù hợp với “xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu”. Không một nước nào cho phép tiến hành thương mại tự do theo nghĩa tuyệt đối. Kinh tế thị trường không có ý nghĩa là loại bỏ sự quản lý của Nhà Nước, chỉ có điều sự quản lý đó được thực hiện bằng các công cụ kinh tế vĩ mô chứ không phải bằng các biện pháp hành chính. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực, chỉ có thể sử dụng biện pháp hành chính để đạt tới sự hài hoà quyền lợi giữa cá nhân và cộng đồng. Việc bãi bỏ các hàng rào thuế và phi quan thuế là một trong những giải pháp lớn để khuyến khích phát triển xuất khẩu. Tuy nhiên, việc bãi bỏ phải tuân thủ một số nguyên tắc và trình tự thời gian nhất định, không thể là một hành động tuỳ tiện khi điều kiện còn chưa cho phép. Nếu việc duy trì chế độ giấp phép, thậm chí chế độ đầu mối, để đảm bảo các mục tiêu vĩ mô là việc cần thiết thì vẫn phải duy trì, không hy sinh các biện pháp quản lý đó vì lý do cải cách hành chính. * ổn định môi trường pháp lý. Đây là việc hết sức cần thiết để tạo tâm lý cần thiết cho doanh nghiệp, khiến họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Ngoài ra, với hàng chục nghìn doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất khẩu nếu không ổn định môi trường pháp lý thì sẽ không có cách nào phổ biến thông tin kịp thời tới các doanh nghiệp. Điển hình của sự bất ổn định trong chính sách là thuế xuất nhập khẩu. Khung thuế rộng, quyền hạn thay đổi lại lớn nên thuế suất thay đổi thường luôn nhiều khi 3 tháng một lần. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn gặp phải các lệnh cấm có hiệu lực ngay lập tức, các lệnh ngừng tạm thời và vô thời hạn, các thay đổi chính sách có hiệu lực hồi tố gây rất nhiều thắc mắc…để phát triển được ngoại thương, tạo dựng được các doanh nghiệp lớn, cần hết sức chú ý khắc phục tình trạng này. Một trong các biện pháp nâng cao tính ổn định là đưa các vấn đề có tấm quan trọng quốc gia như danh mục hàng cấm, danh mục hàng quản lý số lượng, thuế suất cụ thể của thuế nhập khẩu…về thuộc thẩm quyền giải quyết của Quốc Hội, không thể thuộc thẩm quyền của cơ quan như hiện nay. Nếu vẫn để thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính thì phải có Luật quy định các điều kiện cần và đủ để thực thi quyền này, tránh tình trạng tuỳ tiện. * Đơn giản hoá chế độ hoàn thuế, đặc biệt là hoàn thuế nhập khẩu vật tư phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu và hoàn thuế VAT. * Nhanh chóng ban hành các chú giải biểu thuế để tránh tình trạng tranh chấp trong việc áp mã tính thuế. Do biểu thuế nhập khẩu chưa có chú giải đầy đủ nên việc áp dụng mã thuế hay dẫn đến tranh chấp giữa doanh nghiệp và cơ quan hải quan. Tình hình có thể được cải thiện bằng cách ban hành các quy định về áp dụng đầy đủ công ước HS tại Việt Nam. Việc này đã được Thủ tướng Chính phủ giao Tổng cục Hải quan chuẩn bị nhưng hiện nay đang gặp vướng mắc do trùng lặp với một chương trình khác là tuân thủ cam kết trong các nước ASEAN về biểu mã AHTN. Đề nghị Văn phòng Chính phủ sớm chủ trì họp các cơ quan chức năng để giải quyết. Theo Bộ Thương mại, biểu AHTN đã được xây dựng theo HS2K nên có thể gộp Nghị định thực hiện HS và Quyết định thực hiện AHTN vào một văn bản pháp quy để tránh mâu thuẫn và chồng chéo. Ngoài ra, do AHTN đã hoàn toàn tuân thủ HS2K nên có thể áp dụng biểu này cho toàn bộ hàng hoá nhập khẩu từ tất cả các nước để tạo thuận lợi cho quản lý và kinh doanh. * Hội nhập quốc tế. + Xây dựng một lộ trình hợp lý, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và với cam kết quốc tế về giảm quan thuế, thuế hoá đi đôi với việc xoá bỏ hàng rào phi quan thuế, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia, lịch trình bảo hộ…công bố công khai để các ngành có hướng xắp xếp sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh. + Trước mắt xây dựng lộ trình tổng thể tham gia AFTA, đi đôi với việc tích cực, chủ động xây dựng lộ trình đàm phán với WTO. Thể theo các lộ trình đó, có chương trình điều chỉnh, sửa đổi, xây dựng các văn bản pháp quy tương ứng. 2. Kiến nghị đối với doanh nghiệp FDI: 2.1.Khai thác triệt để công nghệ để sản xuất hàng hóa có chất lượng cao và có khả năng cạnh tranh cao trên thương trường quốc. So với các doanh nghiệp trong nước, đây là ưu thế rõ nét của các doanh nghiệp FDI, những ưu thế về vốn đầu tư, về công nghệ tiên tiến là điều kiện hết sức quan trọng để tăng tính cạnh tranh của hàng hoá trên thương trường quốc tế, chính vì vậy đây là một thế mạnh của các DN FDI cần được phát huy. Cụ thể như các DN FDI trong lĩnh vực sản xuất như: sản xuất giày dép, sản xuất túi sách, ba lô, sản xuất đồ chơi, kim hoàn đá quý, may thêu... đều có trang thiết bị tổ chức sản xuất tốt, sản phẩm có chất lượng cao, có thị trường nước ngoài, nhất là vào thị trường Mỹ. Các DN FDI hầu hết là các công ty tầm cỡ, có năng lực, uy tín trên thị trường thế giới hoặc chính quốc gia và có thực tâm hợp tác làm ăn với Việt Nam. Đó là các doanh nghiệp có công nghệ có kỹ thuật, tổ chức quản lý tốt, sản xuất ổn định, có thị trường đảm bảo và có chiều hướng phát triển. Đơn cử như các doanh nghiệp FDI chế biến tinh thực phẩm đến sản phẩm cuối cùng như: chế biến nông sản, trồng và chế biến thuốc lá, nước hoa quả... đều là các doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu chế biến tinh, tạo ra giá trị tăng gấp 3-5 lần giá trị sản phẩm xuất khẩu thô, mặt khác các doanh nghiệp này sử dụng có hiệu quả nguồn nguyên liệu sẵn có ở Việt Nam. Đây chính là mặt mạnh của các DN FDI tại Việt Nam. Nên tính tới việc thành lập Ngân Hàng Dữ liệu Công nghệ Quốc Gia để cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp; tạo lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học- công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một loại hàng hoá đặc biệt; khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học; thi hành nghiêm túc các quy định của luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với một số mặt hàng xuất khẩu để thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ đặc biệt là công nghệ sạch. 2.2. Các DN FDI phải đưa ra được các mục tiêu: + Chất lượng hàng hoá; + Giao hàng đúng hẹn; + Giá thành sản phẩm thấp; + Luôn coi khách hàng là thượng đế... DN FDI cần có kế hoạch đầu tư thoả đáng không chỉ nhằm gia tăng sản lượng mà cần chú trọng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng và đặc biệt là hạ giá thành sản phẩm (cả dịch vụ) xuất khẩu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường và mở rộng thì trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác các thông tin, trực tiếp và thường xuyên tiếp tục với thị trường thế giới thông qua hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt thị trường, bám sát và tiếp cận được tiến bộ của thế giới trong sản xuất và kinh doanh, tự mình lo tìm bạn hàng, thị trường, ký hợp đồng, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà Nước hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá. Chủ động tạo lập nguồn vốn, cải tiến chất lượng và mẫu mã sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hoá trên thị trường. 2.3. Sử dụng hiệu quả mạng lưới và kênh tiêu thụ của các DN FDI để thâm nhập thị trường. DN FDI tại Việt Nam có ưu thế về thị trường và có nhiều kinh nghiệm về quản lý, tổ chức điều hành hoạt động xuất khẩu, thâm nhập thị trường hơn các doanh nghiệp trong nước. Do vậy, cần phát huy những ưu điểm này để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Các DN FDI thường có các chi nhánh ở nước ngoài, vì vậy đây là đầu cầu để tăng cường giao lưu trao đổi thông tin và ký kết hợp đồng một cách thuận tiện hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp trong nước. Khi phát huy được những lợi thế vốn có này sẽ góp phần đẩy mạnh xuất khẩu trong tương lai. Các giám đốc của phần lớn các DN FDI đều đã hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp tại nhiều thị trường kinh doanh lớn nên họ rất có khả năng, kinh nghiệm trong quá trình tổ chức và điều hành sản xuất. Mặt khác, Việt Nam vốn là một nước thiên nhiên ưu đãi, có vị trí địa lý thuận lợi, có tiềm lực về nguồn nhân lực và đang có chính sách khuyến khích sản xuất hướng về xuất khẩu, đó chính là các cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tranh thủ, vận dụng vào việc sản xuất hàng xuất khẩu. Những chính sách của Đảng và Nhà nước ta bao gồm nhiều biện pháp, nhiều chính sách ưu tiên cho lĩnh vực xuất khẩu, nhiều mặt hàng được thực hiện với mức thuế suất bằng 0 (không đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu), ngoài ra còn có chính sách thưởng xuất khẩu, Nhà nước một khoản kinh phí để thưởng cho những doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu cao, có mặt hàng mới xuất khẩu hoặc tìm ra thị trường mới cho hàng xuất khẩu. Để đẩy mạnh xuất khâu hàng hoá ra thị trường nước ngoài đòi hỏi các DN FDI tại Việt Nam cần quan tâm đúng mức tới yếu tố con người trong các khâu từ sản xuất đến khâu xuất khẩu hàng hoá, quan tâm đến lĩnh vực đào tạo tay nghề, quan tâm hơn nữa đến thu nhập, lương cũng như các chế độ chính sách liên quan tới sức khoẻ của người lao động. Có như vậy mới phát huy được yếu tố con người trong chiến lược phát triển xuất khẩu hàng hóa trong những năm tới. Để tăng cường hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các DN FDI thì không chỉ đón nhận những ý tưởng kinh doanh mới mà còn phải chú ý đến vấn đề xoá bỏ biệt cách về văn hoá cũng như coi trọng chính sách về môi trường và cộng đồng. Để tăng trưởng được trong tình thế khó khăn như hiện nay đòi hỏi các DN FDI phải đưa ra được những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế đồng thời thiết lập một hệ thống phân phối rộng khắp. Các sản phẩm xuất khẩu của các DN FDI ngày càng phải đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của các thị trường, đặc biệt là các yêu cầu về chất lượng và mẫu mã của hàng hoá. Mỗi loại hàng hoá phải hình thành được các thị trường chính, chủ lực và tập trung khả năng mở rộng các thị trường này đồng thời chủ động mở rộng sang các thị trường khác theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ buôn bán và nếu cần có thể thông qua các thị trường trung gian. Cần tận dụng mọi khả năng để duy trì tỷ trọng xuất khẩu hợp lý vào các thị trường đã có ở Châu á, đặc biệt là thị trường Nhật Bản; đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn như Mỹ, Tây Âu... đồng thời thâm nhập vào một số thị trường mới như khu vực Châu Mỹ, Châu Phi... Hiện nay, vai trò và khả năng của các ngành dịch vụ xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ chưa được đánh giá đầy đủ. Đây chính là tiềm năng xuất khẩu mà các DN FDI cần phải đẩy mạnh trong những năm tới, trong đó chú trọng các lĩnh vực xuất khẩu lao động, bưu chính viễn thông, dịch vụ tài chính- ngân hàng- bảo hiểm, dịch vụ vận chuyển hàng hoá đường không, đường biển, đường sắt... quan tâm hơn nữa đến khoa học công nghệ trong thương mại như hệ thống E-COMMERCE, cần quan tâm đầu tư để phát triển du lịch nhanh chóng và đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Kết luận Hoạt động xuất khẩu hàng hoá đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với một nền kinh tế thực hiện chiến lược kinh tế mở. Thông qua hoạt động xuất khẩu hàng hoá giúp cho nền kinh tế đất nước phát triển mạnh, góp phần đưa nền kinh tế quốc gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới phù hợp với xu thế toàn cầu hoá ngày nay. Xuất khẩu hàng hoá đang là đầu ra quan trọng cho nhiều ngành kinh tế, góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, là hướng đi đúng đắn và là mục tiêu hàng đầu của một nền kinh tế mở. Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt được chủ trương này và đưa ra rất nhiều chính sách, biện pháp để dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu, từ đó, kích thích tạo ra nhiều nguồn hàng xuất khẩu có chất lượng cao, có sức cạnh tranh cao cho các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp FDI, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế giữa nước ta và các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Qua hơn 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, thu hút được một nguồn vốn đáng kể từ bên ngoài để góp phần xây dựng và phát triển kinh tế. Các DN FDI đã có những ưu thế vượt trội hơn so với các doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực xuất khẩu. Trong những năm qua các ưu thế đó đã tạo lập nên vị trí và vai trò quan trọng của các DN FDI trong lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam. Với những lợi thế sẵn có của mình cộng với sự giúp đỡ khuyến khích của Đảng và Nhà nước, chắc chắn hoạt động xuất khẩu của các DN FDI tại Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mạnh và đạt hiệu quả cao. Với những tiềm năng sẵn có của đất nước, với các thế mạnh của DN FDI và những chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, chúng ta hy vọng hoạt động xuất khẩu của các DN FDI tại Việt Nam sẽ đạt được những kết quả lớn hơn trong những năm tới, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước ta trong thế kỷ 21. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0450.doc
Tài liệu liên quan