Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục THCS trên địa bàn huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG Chương I. Vị trí vai trò to lớn của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tầm quan trọng của công tác giáo dục phổ cập THCS giai đoạn hiện nay 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin 2. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về công tác giáo dục 3. Nội dung, hình thức của công tác phổ cập giáo dục THCS Chương II. Thực trạng giáo dục – đào tạo và tiến độ phổ cập giáo dục THCS ở huyện miền núi Văn Quan tỉnh Lạng Sơn từ năm 2001 – 2005 I. Giới thiệu về huyện Văn Quan II. Thực trạng và tiến độ phổ cập giáo dục THCS ở huyện Văn Quan từ năm 2001 đến năm 2005. Chương III. Một số giải pháp quản lí nhằm đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục THCS ở huyện miền núi Văn Quan 1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng 2. Giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức 3. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ 4. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục 5. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, phối hợp với giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy PHẦN THỨ BA: KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN I. Những kiến nghị II. Kết luận

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2146 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục THCS trên địa bàn huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập giáo dục THCS ở huyện Văn Quan từ năm 2001 đến năm 2005......................................................................................................... Chương III. Một số giải pháp quản lí nhằm đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục THCS ở huyện miền núi Văn Quan........................................................ 1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng............................................................ 2. Giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức.................................................... 3. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ............................... 4. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục......................................................................... 5. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, phối hợp với giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy ...................................................................................................... PHẦN THỨ BA: KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN............................................................ I. Những kiến nghị........................................................................................................... II. Kết luận....................................................................................................................... PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Cơ sở lí luận Bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng CSVN đã khẳng định: “Giáo dục – Đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Đất nước ta muốn thoát khỏi tình trạng kém phát triển, muốn nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân, muốn trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa không có con đường nào khác ngoài con đường phát triển giáo dục và công nghệ. Chỉ thị 61/CT-TW, ngày 28 tháng 12 năm 2000 của Bộ Chính trị đã nêu: “Bước vào thế kỉ XXI, chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định trong việc phát huy nội lực phát triển đất nước, hợp tác và cạnh tranh trong hội nhập khu vực và quốc tế, điều đó đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao học vấn của những người lao động...”. Ngày 22 tháng 01 năm 2001, Chính phủ đã có Nghị định số 88/2001/NĐ-CP về việc thực hiện phổ cập giáo dục Trung học cơ sở (PCGDTHCS) giai đoạn 2001 – 2010. Như vậy Đảng và nhà nước ta đã đề cao vai trò và vị thế của Giáo dục và Đào tạo trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Chủ trương của Đảng được thể chế hóa trong Nghị quyết số 41/2000/QH10 họp từ ngày 14 tháng 11 đến ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội. Nghị quyết 41/2000/QH10 đã đề ra mục tiêu phổ cập GDTHCS giai đoạn 2001 – 2010 là phải đảm bảo cho hầu hết thanh thiếu niên sau khi tốt nghiệp Tiểu học tiếp tục học tập để đạt trình độ THCS, trước khi hết 18 tuổi, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, giáo dục phải chuẩn bị hành trang cho thế hệ trẻ Việt Nam bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã và đang là một đòi hỏi cấp thiết. Bước vào ngưỡng cửa của thế kỉ XXI, thế kỉ của sự phát triển trí tuệ và tâm hồn con người. Thế kỉ XXI sẽ là một thách thức lớn đối với trình độ bản lĩnh dân tộc, hoặc là tụt hậu, hoặc là vươn lên để hội nhập với cộng đồng các nước trong khu vực và trên thế giới. 1.2. Cơ sở thực tiễn Đất nước ta nói chung, tỉnh Lạng Sơn nói riêng, trong đó có huyện Văn Quan sau 15 năm đổi mới đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận. Song vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập, đó là: “Về chất lượng, hiệu quả chưa đáp ứng được kịp thời những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...” (Nghị quyết 04 – BCHTW khóa VII). Đất nước ta đã hoàn thành phổ cập giáo dục Tiểu học giai đoạn 1990 – 2000 nhưng mới đạt đến trình độ dân trí ở cấp Tiểu học. Trình độ dân trí đó không phù hợp với điều kiện hiện nay và tiến kịp nền khoa học phát triển như vũ bão. Chính vì vậy phải phổ cập trình độ dân trí ở mức cao hơn, đó là PCGDTHCS. Vì vậy, Bộ Giáo Dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định 1366/QĐ – BGD&ĐT về tiêu chuẩn đánh giá công nhận đơn vị đạt chuẩn quốc gia về PCGDTHCS. Văn Quan là một huyện miền núi, nền kinh tế phát triển ở mức trung bình, chủ yếu là nông nghiệp, trình độ dân trí thấp. Do vậy muốn cho nền kinh tế, trình độ dân trí, văn hóa, kinh tế xã hội phát triển thì phải chú ý đến giáo dục và làm tốt công tác PCGDTHCS, nhằm đưa mặt bằng dân trí lên trình độ THCS, có như vậy mới tránh khỏi tụt hậu. Trong bài tiểu luận này tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ PCGDTHCS trên địa bàn huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. 2. Mục đích nghiên cứu Với mục đích để rút kinh nghiệm và tìm ra những giải pháp quản lí chỉ đạo nhằm đẩy nhanh tiến độ PCGDTHCS trên địa bàn huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Đó là cơ sở thực tiễn để các huyện miền núi còn lại trong tỉnh vận dụng sáng tạo để đưa sự nghiệp giáo dục, trong đó có công tác PCGDTHCS trong toàn tỉnh tiến nhanh, mạnh và vững chắc, từng bước nâng cao dân trí, rút ngắn khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng để Lạng Sơn ngày càng giàu đẹp, vững bước ra hội nhập với đồng bào cả nước trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục đích, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp quản lí, chỉ đạo nhằm đẩy nhanh tiến độ PCGDTHCS trên địa bàn huyện Văn Quan. Tôi tự xác định cho mình những nhiệm vụ sau: 3.1. Nghiên cứu một số vấn đề lí luận có liên quan đến đẩy nhanh tiến độ PCGDTHCS trên địa bàn huyện Văn Quan. 3.2. Tìm hiểu thực trạng giáo dục – đào tạo và tiến độ PCGDTHCS ở huyện miền núi Văn Quan từ năm 2001 – 2005. 3.3. Đề ra một số giải pháp quản lí, chỉ đạo nhằm đẩy nhanh tiến độ PCGDTHCS ở huyện miền núi Văn Quan. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: 4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết, nghiên cứu các Nghị quyết, Chỉ thị, Nghị định của Đảng, Quốc hội, Chính phủ qua các Đại hội Đảng lần thứ VII, lần thứ VIII, lần thứ IX. Nghiên cứu các văn bản chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, của Sở GD&ĐT, các văn bản chỉ đạo của Đảng, chính quyền từ tỉnh đến huyện và các kết luận của hội nghị có liên quan đến giáo dục, qua Công báo hàng năm.... 4.2. Nhóm các phương pháp thực tiễn Qua các số liệu điểu tra hàng năm, báo cáo tổng kết năm học, báo cáo đơn vị đạt chuẩn phổ cập giáo dục Tiểu học, PCGDTHCS của các xã trong huyện Văn Quan. 4.3. Nhóm các phương pháp tổng kết đúc rút kinh nghiệm các đơn vị đã đạt chuẩn PCGDTHCS đến năm 2005. Đây là phương pháp chủ đạo. 5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài chỉ nghiên cứu một số giải pháp quản lí, chỉ đạo nhằm đẩy nhanh tiến độ PCGDTHCS trên địa bàn huyện Văn Quan – Tỉnh Lạng Sơn từ năm 2001 đến năm 2005. Vì vậy, các biện pháp nêu ra không mang tính phổ quát cho các Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện (quận). PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG CHƯƠNG I VỊ TRÍ VAI TRÒ TO LỚN CỦA GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC PHỔ CẬP GIÁO DỤC THCS GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lê nin Chủ nghĩa Mác – Lê nin đã chỉ rõ: “Ý thức là một phạm trù triết học, một hiện tượng tâm lí phức tạp, bao hàm tri thức, tình cảm, cảm giác, tri giác, nghị lực, lòng tin.... Trong đó quan trọng nhất là tri thức, tức là không xây dựng trên cơ sở hiểu biết thì cái tri thức ấy chỉ đồng nghĩa với lòng tin tôn giáo mà thôi”. Nhưng làm sao để có tri thức, Lê nin nói: “Không có sách thì không có tri thức, không có tri thức thì không có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Điều đó có nghĩa là muốn có tri thức thì phải được học, được giáo dục, tri thức của nhân loại là vô tận. Vì vậy, Lê nin dạy: “Học, học nữa, học mãi”. 2. Quan điểm của Đảng, nhà nước ta về công tác giáo dục * Giáo dục có vai trò quyết định đến việc nâng cao dân trí Truyền thống hiếu học “Tôn sư trọng đạo” là nét đẹp của dân tộc ta, cha ông coi việc cho con được học là nghĩa vụ thiêng liêng của cha mẹ, họ cho rằng “Không thầy đố mày làm nên”. Quốc Tử Giám thời Lí đã chứng minh cho truyền thống trọng học, trọng tài của ông cha ta. Nói về giáo dục, nhà bác học Lê Quý Đôn có tổng kết: “Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoại, phi trí bất hưng” khẳng định trình độ dân trí là điều kiện cho một quốc gia phát triển cường thịnh. Chúng ta có thể hiểu một cách tổng quát nhất: “Dân trí là trình độ trí tuệ, trình độ văn hóa chung, trình độ xử lí khôn ngoan, khôn khéo các vấn đề của cuộc sống của một tập hợp dân cư, của một cộng đồng, một dân tộc” (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục – tháng 1/1997). Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định vị thế của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới thì việc nâng cao trình độ dân trí là cực kì quan trọng và cấp bách. Dân trí là trình độ trí tuệ, trình độ văn hóa nói chung. Vì vậy muốn có được phải học, phải được rèn luyện trong môi trường giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, đặc biệt là giáo dục trong nhà trường phổ thông có vai trò quyết định nâng cao trình độ dân trí. Chính vì vậy, Nghị quyết TW2 (khóa VIII) của Đảng đã coi giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu” và đặt ra nhiệm vụ, nục tiêu cho ngành giáo dục và đào tạo là phải: “Nâng cao dân trí, đảm bảo tri thức cần thiết cho mọi người gia nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển của đất nước” (Văn kiện Đại hội Đảng VIII). 3. Nội dung, hình thức của công tác phổ cập giáo dục THCS PCGDTHCS là trang bị cho thế hệ thanh thiếu niên trước khi đến tuổi trưởng thành, lực lượng lao động kế cận hiện tại và tương lai một vốn tri thức cơ bản để tiếp thu, nắm bắt vốn kiến thức khoa học để áp dụng vào thực tế lao động sản xuất, tạo ra năng suất cao, sản phẩm có chất lượng, thẩm mĩ đủ sức cạnh tranh và hội nhập trên thị trường trong nước, ngoài nước. Độ tuổi PCGDTHCS bắt buộc từ 11 đến 18 tuổi đang học và tốt nghiệp THCS, trước khi trong 18 tuổi phải có bằng tốt nghiệp THCS phổ thông hoặc bổ túc văn hóa. Nhưng thập kỉ 90 của thế kỉ XX, cả nước mới hoàn thành phổ cập giáo dục Tiểu học – chống mù chữ. Chương trình dạy phổ cập Tiểu học gồm nhiều loại chương trình và lượng kiến thức giữa các loại chương trình còn bất cập, chưa đồng bộ (Chương trình 100 tuần, Chương trình 120 tuần, Chương trình 165 tuần, Chương trình xóa mù chữ - sau xóa mù chữ) với thời gian ngắn, lượng kiến thức đơn giản. Để tiếp tục học lên cấp THCS, người học gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức. Nhằm đáp ứng “Mục tiêu của PCGDTHCS là nâng cao mặt bằng dân trí một cách toàn diện làm cho hầu hết công dân đến 18 tuổi đều tốt nghiệp THCS, kết hợp phân luồng sau cấp học này tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thập kỉ đầu của thế kỉ XXI” (Chỉ thị 61/CT-TW của Bộ Chính trị “Về việc thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục THCS”). Để hoàn thành công tác phổ cập giáo dục THCS, mỗi vùng, miền, địa phương phải có sự vận dụng sáng tạo, mềm dẻo trên cơ sở nội dung, nguyên tắc chung nhất của cả nước. Đối với miền núi nói chung và huyện Văn Quan nói riêng, căn cứ vào tình hình địa lí, kinh tế, đặc điểm dân tộc và trình độ văn hóa của huyện đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp tương đối phù hợp. Do đó công tác PCGDTHCS trong những năm qua đã thu được kết quả khả quan phù hợp với địa phương miền núi. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VÀ TIẾN ĐỘ PHỔ CẬP GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN MIỀN NÚI VĂN QUAN TỈNH LẠNG SƠN TỪ NĂM 2001 – 2005 I. Giới thiệu về huyện Văn Quan Văn Quan là một huyện miền núi vùng cao nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Lạng Sơn. Phía Bắc giáp với huyện Văn Lãng, phía Tây giáp với huyện Bình Gia và huyện Bắc Sơn, phía Nam giáp huyện Chi Lăng và huyện Hữu Lũng, phía Đông giáp huyện Cao Lộc, huyện Văn Quan nằm trên trục quốc lộ 1B, nằm sát sông Kì Cùng và trên sông Tu Đồn. Cả huyện có diện tích tự nhiên là 549km2, với tổng dân số trên 57 nghìn người, gồm các dân tộc Tày, Nùng và Kinh chung sống. Trong đó chiếm phần lớn số dân là các dân tộc Nùng, Tày với tỉ lệ 97,7%.. Toàn huyện có 23 xã và 1 thị trấn, trong đó có 9 xã vùng 3 được hưởng chế độ, chính sách 135, có 12 xã vùng 2, 2 xã và 1 thị trấn thuộc vùng 1. Giữa các vùng vẫn có sự chênh lệch khá lớn về mật độ dân số và trình độ dân trí cũng như các điều kiện kinh tế, xã hội. Về những thành tựu nổi bật là lĩnh vực nông nghiệp và trồng rừng. Trong những năm qua phát triển với tốc độ khá cao, đã chuyển mạnh từ sản xuất quảng canh sang thâm canh, đã hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Huyện tập trung vào trồng (sản xuất) cây lúa, khoai tây, dưa hấu, đậu xanh, đậu tương, trồng cây ăn quả như là cam, quýt, vải, nhãn. Toàn huyện có diện tích trồng lúa và hoa màu là 20.700 ha, diện tích trồng cây hồi và cây ăn quả 18.200 ha. Tổng sản lượng cây có hạt 250 nghìn tấn/năm. Chăn nuôi từng bước trở thành ngành sản xuất hàng hóa, hiện nay tổng đàn trâu, bò: 29.580 con, đàn lợn: 68.860 con. Ngoài ra còn chăn nuôi dê, gia cầm, nuôi trồng thủy sản như cá lồng, tôm càng xanh.... Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sau 15 năm đổi mới nền kinh tế của huyện chuyển dịch đúng hướng và tăng trưởng khá. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 11,5%/năm. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên, tình hình chính trị được giữ vững và ổn định, trật tự an toàn xã hội luôn được đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chương trình, mục tiêu phổ cập GDTHCS. Tỷ lệ trẻ từ 6 – 11 tuổi đến trường hàng năm đạt từ 98% trở lên, ngành học mầm non có số lượng trẻ đến trường đạt 68% trở lên, riêng trẻ 5 tuổi ra học lớp mẫu giáo 99% trở lên. Toàn huyện có 48 đơn vị trường học. Cụ thể như sau: + Mầm non: 5 trường + Tiểu học: 18 trường + PTCS: 10 trường + THCS: 12 trường + THPT: 02 trường + TTGDTX: 1 trung tâm Cán bộ, giáo viên, nhân viên: 1219 đồng chí, trong đó: + Giáo viên mầm non : 112 đồng chí + Giáo viên tiểu học : 447 đồng chí + Giáo viên THCS : 414 đồng chí + Giáo viên THPT : 126 đồng chí + Nhân viên : 120 đồng chí Công tác tuyên truyền và xã hội hóa nhiệm vụ phổ cập giáo dục THCS: được đánh giá là một trong những nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm, công tác PCGDTHCS không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục. Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đã xác định rõ công tác PCGDTHCS là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân huyện Văn Quan. Từ đó đã được sự quan tâm, phối hợp vào cuộc của tất cả các ban ngành đoàn thể và nhất là sự ủng hộ của toàn dân. Nhận thức được điều đó, Ban chỉ đạo PCGDTHCS huyện Văn Quan đã triển khai thực hiện công tác tuyên truyền rộng khắp trong nhân dân các dân tộc trong toàn huyện thông qua các hình thức vận động, viết bài, động viên kịp thời những đơn vị, những cá nhân tích cực trong công tác PCGDTHCS. Từ đó đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành, đoàn thể của huyện, của các xã, cũng như sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân. Đồng thời hàng năm chỉ đạo tốt “Ngày toàn dân đưa trẻ em đến trường” nhằm huy động trẻ em đi học đúng độ tuổi, tổ chức mở các lớp bổ tú THCS nhằm huy động các đối tượng bỏ học ở cấp THCS ra học. Từ năm 2001 đến năm 2005, toàn huyện đã tổ chức được 23 lớp bổ túc THCS với 634 học viên. Các lớp bổ túc THCS được học đầy đủ các môn học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Mỗi học viên tham gia học lớp bổ túc THCS đều được ủng hộ sách giáo khoa, vở ghi... và các chế độ ưu tiên khác. Với sự cố gắng đó, từ năm 2001 đến năm 2005, tổng số học viên đã tốt nghiệp bổ túc THCS là 620 học viên (đạt tỉ lệ 97,6%). Đây chính là lực lượng góp phần không nhỏ vào việc nâng cao tỉ lệ đối tượng độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi ở các xã để đạt được tỉ lệ chuẩn theo quy định. Trong quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác PCGDTHCS ở huyện Văn Quan đã thu được kết quả: Đến tháng 9 năm 2005 đã có 22/24 xã, thị trấn đạt chuẩn PCGDTHCS, huy động tối đa số thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi có bằng tốt nghiệp THCS là 4409/5690 đạt tỉ lệ 77,49%. Huyện Văn Quan đã được UBND tỉnh Lạng Sơn công nhận đạt chuẩn phổ cập GDTHCS tháng 12/2005. II. Thực trạng và tiến độ phổ cập giáo dục THCS ở huyện Văn Quan từ năm 2001 đến năm 2005 1. Thành tựu đạt được trong công tác PCGDTHCS của huyện Văn Quan từ năm 2001 đến năm 2005 Văn Quan trong những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX có số người mù chữ trong độ tuổi từ 9 – 25 tuổi là 2292/21548 người, chiếm tỉ lệ 10,64% dân số trong độ tuổi (số liệu đã điều tra tháng 12/1991). Trong đó, số trẻ độ tuổi từ 9 – 14 tuổi chưa ra lớp là 1426 còn mù chữ là 866 người, số người trong độ tuổi từ 15 – 25 tuổi còn mù chữ là 866 người. Với một trình độ dân trí thấp như vậy nên kéo theo các tệ nạn xã hội, nạn phá rừng vận chuyển gỗ trái phép, đốt rừng trồng ngô, trồng sắn làm cho rừng cây cũng cạn kiệt, nạn lũ lụt hàng năm tàn phá, đất đai bạc màu, đời sống nhân dân lam lũ cơ cực, một mặt trẻ em không chịu đi học, mặt khác nhiều gia đình không cho trẻ em đến trường, đến lớp. Tình trạng giáo viên ở Văn Quan lúc đó là: “có thầy không có trò”, học sinh chỉ học đến lớp 4, lớp 5, lớp 6 là bỏ học theo cha mẹ đi làm nương, đi đào đãi vàng. Nhưng chỉ sau 6 năm thực hiện Chỉ thị 01 của Hội đồng bộ trưởng và Luật phổ cập Giáo dục tiểu học, chống mù chữ và chính sách cải thiện kinh tế của Đảng và Chính phủ, Văn Quan đã thu được những kết quả khả quan trong lĩnh vực giáo dục. Năm 1996, huyện Văn Quan có 23/24 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập tiểu học – chống mù chữ. Trẻ trong độ tuổi phổ cập tiểu học (6 – 14 tuổi) có 11.475 cháu. Trong đó: đang học tiểu học và tốt nghiệp tiểu học là: 10.879/11.475 tỷ lệ 94,96%. Chưa đi học, còn mù chữ là 578 cháu/11.475 cháu, chiếm tỉ lệ 5,04%. Bỏ học tiểu học: 106 cháu/11.475 cháu, chiếm tỉ lệ 0,92%. Người trong độ tuổi (15 – 25 tuổi) toàn huyện có 10.273 người. Trong đó: Số người mù chữ và biết chữ chưa chắc chắn (lớp 1, lóp 2) là 714 người/10.273 người, chiếm tỉ lệ 6,95%. Những thành quả đã đạt được về phổ cập giáo dục tiểu học chống mù chữ trong giai đoạn 1990 – 1996 đã tạo đà cho phát triển sự nghiệp giáo dục và công tác PCGDTHCS sau này. Đến năm 1999, toàn huyện có 100% số xã đạt chuẩn phổ cập tiểu học và chống mù chữ. Năm 2000, Huyện ủy Văn Quan đã triển khai kế hoạch 19/KH-HU, ngày 31/08/2000 về PCGDTHCS (từ năm 2000 đến năm 2005) với quyết tâm năm 2005 toàn huyện đạt PCGDTHCS theo tiêu chuẩn của một huyện miền núi khó khăn, đảm bảo 22/24 xã, thị trấn đạt chuẩn PCGDTHCS. Trong 5 năm phấn đấu thực hiện công tác PCGDTHCS 2001 – 2005, Văn Quan đã đạt được những thành tựu chủ yếu sau đây: 1.1. Hệ thống trường lớp Toàn huyện có 48 đơn vị trường học (tính đến năm học 2004 – 2005) trong đó có 5 trường mầm non và 24 xã thị trấn có lớp mầm non gắn với tiểu học và phổ thông cơ sở, 18 trường tiểu học, 12 trường THCS, 10 trường PTCS (trong đó có 1 trường dân tộc nội trú), có 02 trường THPT (Phả Lại và Sao Đỏ) và 1 trung tâm GDTX. Với cấp học phổ thông là 578 lớp – 15.825 người, học bổ túc văn hóa tại các xã là 74 lớp – 2220 người. Ngoài ra còn bồi dưỡng hoàn chỉnh cho giáo viên hệ 9 + 1 lên hệ 9 + 3 là 4 lớp – 208 người. Các trường tiểu học, THCS, PTCS được rải đều taij các xã trong huyện, 9 xã vùng III có 7 xã có trường phổ thông cơ sở. Các trường được xây dựng khang trang, mỗi xã ít nhất được 01 nhà lớp học 2 tầng kiên cố với 6 phòng học trở lên, bước đầu thực sự “trường ra trường, lớp ra lớp”, thực sự nhà trường là trung tâm văn hóa giáo dục của địa phương. Biểu thống kê cơ sở vật chất của trường mầm non, tiểu học, THCS Từ năm học 2000 – 2001 đến năm học 2004 – 2005 Năm học Phòng học Bàn ghế học sinh Ghi chú Tổng số Kiên cố cao tầng Nhà xây cấp 4 Nhà tạm 2000 – 2001 406 25 381 2.436 2001 – 2002 428 31 397 2.568 2002 – 2003 478 24 62 392 3.346 2003 – 2004 496 170 188 138 3.968 2004 - 2005 627 317 188 122 5.016 Qua biểu thống kê đã cho thấy rõ sự phát triển kinh tế - xã hội ngày một đi lên cho nên sự đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường cũng tăng lên. Có sự gia tăng nhà học cao tầng và giảm dần lớp học nhà tạm, bàn ghế học sinh chuyển từ học 2 ca sang học 1 ca. Đó là sự tạo điều kiện và đầu tư của Nhà nước với chương trình 135, các dự án cho các xã vùng III và chương trình kiên cố hóa trường lớp học theo QĐ 159/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ. Cơ sở vật chất ngày càng khang trang, đầy đủ là điều kiện tiên đề thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển, trong đó có công tác PCGDTHCS. 1.2. Đội ngũ cán bộ giáo viên a) Cán bộ giáo viên. Đội ngũ quản lí các trường mầm non, tiểu học, THCS, PTCS trong toàn huyện có trình độ nghiệp vụ cao đẳng sư phạm và trung học hoàn chỉnh, đại học sư phạm tại chức. Đại đa số hàng ngũ cán bộ quản lí được tham gia học các khóa sơ, trung cấp về nghiệp vụ quản lí trường học, lí luận chính trị. Với lòng nhiệt tình, yêu nghề và bằng kinh nghiệm vốn có cũng như tự học, tự nâng cao nghiệp vụ, các đồng chí đã gương mẫu trong mọi công việc và có vai trò quyết định thành công của công tác giáo dục, công tác PCGDTHCS trong những năm vừa qua. Cụ thể: Tổng số cán bộ quản lí nhà trường: 105 đồng chí Trong đó: Trình độ đại học chính quy và tại chức: 19 đồng chí Trình độ cao đẳng : 54 đồng chí Trình độ 12+2 : 28 đồng chí Trình độ THHC : 4 đồng chí Lao động quản lí là lao động trí tuệ và có tính tổng hợp vì nó vừa vạch kế hoạch, vừa tổ chức thực hiện và giám sát việc thực hiện kế hoạch đó, lại vừa tổng kết đánh giá thực tiễn công việc, để trên cơ sở đó vạch ra kế hoạch mới. Vì vậy, đòi hỏi người quản lí phải có nghiệp vụ quản lí, phải được đào tạo qua trường lớp. Về điểm này, đội ngũ cán bộ quản lí trường mầm non, tiểu học, THCS ở Văn Quan còn hạn chế, do đó gặp không ít khó khăn trong công việc vì thiếu lí luận soi sáng. b) Đội ngũ giáo viên Tổng số cán bộ giáo viên trong năm học 2004 – 2005 của các cấp học mầm non, tiểu học, THCS trong toàn huyện là 973 người, với trình độ đào tạo như sau: Trình độ bậc học Tổng số Chia ra trình độ nghiệp vụ Ghi chú Đại học Cao đẳng 10+3 10+1 Trung cấp 12+2 (TH) 9+3 (THHC) Sơ cấp Mầm non 112 02 03 79 28 Tiểu học 447 17 315 90 THCS 411 35 312 64 Về năng lực chuyên môn (xếp loại cuối năm học 2004 – 2005): 793 người Loại giỏi: 27% Loại khá: 32% Loại trung bình: 39,9% Loại yếu: 1,1% chủ yếu là đội ngũ giáo viên tiểu học dạy mầm non. Phong trào tự học, tự bồi dưỡng được giáo viên quan tâm, 100% giáo viên tham gia tích cực bồi dưỡng thường xuyên chu kì 1996 – 2000 và 2003 – 2007. Trong cơ chế thị trường, nhiều địa phương trong nước đã có hiện tượng “Thương mại hóa giáo dục” thì việc duy trì kỉ cương chuyên môn nghiêm túc là điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng giáo dục và PCGDTHCS. Mặt khác, đội ngũ giáo viên là người địa phương nên công tác yên tâm, ổn định. Có nghĩa là tự bản thân họ tự xác định “làm ăn” nghiêm túc hơn. Giáo dục ở Văn Quan cũng như công tác PCGDTHCS luôn được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm cả về vật chất lẫn tinh thần. Ban giám hiệu các trường là cơ quan tham mưu cho cấp ủy và chính quyền về công tác PCGDTHCS, nên sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền luôn kịp thời bám sát tình hình thực tế, đem lại hiệu quả thiết thực. Phong trào xã hội hóa giáo dục được phát động rộng rãi động viên toàn dân tham gia PCGDTHCS, đã thúc đẩy thầy, cô giáo vươn lên dạy tốt hơn. Phong trào thi giáo viên dạy giỏi được các trường duy trì và hưởng ứng tích cực, có tác dụng thúc đẩy hoạt động chuyên môn ở mỗi trường. Từ năm 1996 đến nay đã có 100% giáo viên đăng kí tham gia dạy giỏi cấp trường. Số giáo viên đạt danh hiệu dạy giỏi cấp trường hàng năm đạt bình quân 30%. Phong trào thi đua tìm tòi sáng tạo, đúc rút kinh nghiệm giáo dục được ban giám hiệu các trường quan tâm, đó cũng là nhân tố thúc đẩy chất lượng dạy học trong huyện. Năm học 2000 – 2001, toàn ngành giáo dục Văn Quan có 64 đồng chí đạt giáo viên giỏi cấp huyện và 06 đồng chí đạt giáo viên giỏi cấp tỉnh. Đến năm học 2004 – 2005 có 151 đồng chí đạt giáo viên giỏi cấp huyện, 13 đồng chí đạt giáo viên giỏi cấp tỉnh. Những nhân tố tích cực đó như ngọn lửa hồng nhân rộng và thôi thúc đội ngũ giáo viên ngày càng chuyên sâu vào chuyên môn và nâng cao chất lượng dạy và học của ngành giáo dục Văn Quan. 1.3. Tình hình học sinh THCS huyện Văn Quan a) Số lượng * Mở lớp phổ thông + bổ túc THCS (điều tra tháng 9/1998 và tháng 9/2003). Năm học Ngành học PT BTTHCS Ghi chú Lớp Học sinh Lớp Học sinh 2000 – 2001 166 5540 0 0 2001 – 2002 176 5668 3 69 2002 – 2003 180 5710 14 382 2003 – 2004 183 5790 4 154 2004 - 2005 181 5802 20 9 Qua số liệu ta thấy số lượng học sinh THCS (cả phổ thông + bổ túc) trong 5 năm trở lại đây tăng nhanh. Các nhà trường đã làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền xã. Vì vậy, đã huy động được hầu hết thanh thiếu niên trong độ tuổi đến trường. * Tỷ lệ huy động độ tuổi (11 – 18 tuổi) đến trường như sau: (Điều tra tháng 9/2000 – 2005). Năm học TS độ tuổi (11- 18 tuổi 11 – 18 tuổi còn học cấp I 11 – 18 tuổi bỏ học cấp I + II Ghi chú Học sinh Tỷ lệ Học sinh Tỷ lệ 2000 – 2001 9.968 232 2,3% 198 1,98 2004 - 2005 10.284 216 2,1% 108 1,05 Đó là sự cố gắng rất lớn và quyết tâm của toàn Đảng, chính quyền và nhân dân các dân tộc với một quyết tâm hoàn thành công tác PCGDTHCS, nâng cao mặt bằng dân trí có trình độ THCS vào năm 2003 và đã trở thành hiện thực đối với huyện Văn Quan. b) Chất lượng * Về chất lượng chuyển lớp và tốt nghiệp hàng năm của cấp học THCS khá cao và được giữ vững. Như vậy chứng tỏ ý thức học tập của học sinh, sự đầu tư thời gian và tự rèn luyện nâng cao tay nghề của đội ngũ giáo viên. Tỷ lệ chuyển lớp, đỗ tốt nghiệp hàng năm của cấp THCS. Năm học Tỷ lệ chuyển lớp Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp 2000 – 2001 98,45 99,4 2001 – 2002 98,5 99,7 2002 – 2003 97,5 99,5 2003 – 2004 96,9 97,4 2004 - 2005 95,6 98,5 Tỷ lệ chuyển lớp, chuyển cấp (đỗ tốt nghiệp) của cấp học THCS hiện nay đạt được yêu cầu chung. Tuy nhiên chất lượng giữa các vùng trong cùng một huyện cũng chưa được đồng đều, học sinh vùng I có ưu điểm nhận thức nhanh và có nhiều thời gian học tập chính khóa cũng như tự học ở nhà hơn. Đối với học sinh vùng II một số các em có điều kiện và thời gian tự học ở nhà, còn phần lớn các em vùng II và vùng III không có điều kiện và thời gian tự học ở nhà. Vì vậy, chất lượng của vùng núi so với đồng bằng có khoảng cách và sự chênh lệch nhất định. Bảng thống kê chất lượng học tập văn hóa của học sinh THCS ở Văn Quan từ năm 2000 – 2001 đến năm học 2004 – 2005 Năm học Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Số lượng tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % 2000-2001 5540 78 1,41 1698 30,6 3678 66,39 86 1,55 2002-2003 5710 154 2,7 1700 29,7 3713 65,1 143 2,5 2003-2004 5790 208 3,6 1770 30,6 3633 62,7 179 3,1 2004-2005 5802 224 3,92 1578 27,2 3747 64,9 253 4,4 Qua số liệu thống kê cho thấy chất lượng văn hóa trong 5 năm thực hiện công tác PCGDTJCS có nhiều tiến bộ, tỷ lệ học sinh có học lực từ trung bình trở lên đạt từ 95% trở lên. Số học sinh khá, giỏi tăng, học sinh yếu, kém chiếm tỉ lệ ít. Đây là kết quả đáng mừng khẳng định bước chuyển biến về chất lượng giáo dục THCS ở huyện miền núi còn nhiều khó khăn cũng nói lên sự cố gắng của bản thân ngành giáo dục và công tác xã hội hóa giáo dục khi được đông đảo lực lượng xã hội tham gia công tác giáo dục và PCGDTHCS từ nhiều phía sẽ tạo ra động lực cho dạy và học, hạn chế bớt những yếu kém, tiêu cực, khơi thông những mối quan hệ cần thiết như nhà trường – gia đình, nhà trường – xã hội thì chất lượng dạy và học có cơ hội tốt vươn lên. Tuy nhiên, so với yêu cầu chung trên phạm vi cả nước thì chất lượng THCS trên đây vẫn chưa thể ngang tầm mà mới chỉ là chất lượng của huyện Văn Quan – tỉnh Lạng Sơn. Bởi vì tỷ lệ học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh vòng 1, cấp tỉnh vong 2 còn rất ít so với tổng số học sinh THCS của huyện trong những năm qua. Số học sinh giỏi cấp tỉnh Năm học Cấp tỉnh vòng 1 Cấp tỉnh vòng 2 2000 – 2001 8 1 2001 – 2002 11 6 2002 – 2003 15 9 2003 – 2004 16 8 2004 – 2005 18 12 Qua bảng thống kê cho thấy số lượng học sinh giỏi cấp THCS của ngành giáo dục Văn Quan còn quá thấp. Năm học 2000 – 2001 mới đạt tỷ lệ 0,04%. Năm học 2004 – 2005 có nhiều hơn nhưng cũng chỉ đạt 0,2%. Hơn nữa, Văn Quan là huyện phía Tây của tỉnh và là huyện động lực để thúc đẩy nền kinh tế văn hóa và dân trí của tỉnh phát triển thì con số trên đây càng minh chứng một điều chất lượng chưa thực sự như mong muốn, mặc dù phong trào giáo dục nói chung và phong trào PCGDTHCS nói riêng của huyện Văn Quan có thể nói là vừa phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu. Thực tiễn trên cho thấy cần có cái nhìn toàn cục về miền núi và có chính sách giải pháp đúng đắn với mục tiêu dần xóa đi khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng. Có như vậy, nước ta mới có những bước tiến vững chắc trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong tương lai. Sau 5 năm phấn đấu của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Văn Quan đã có trên 90% số xã đạt chuẩn về PCGDTHCS kết quả cụ thể như sau: Năm 2001: 1 đơn vị đạt chuẩn: Thị Trấn Văn Quan Năm 2001: 4 đơn vị đạt chuẩn gồm các xã: Xuân Mai, Vĩnh Lại, Vân Mộng, Yên Phúc. Năm 2002: 4 đơn vị đạt chuẩn gồm các xã: Đại An, Văn An, Tràng Sơn, Việt Yên. Năm 2003: 7 đơn vị đạt chuẩn gồm các xã: Tràng Các, Tú Xuyên, Tân Đoàn, Khánh Khê, Chu Túc, Tràng Phái, Bình Phúc. Năm 2004: 3 đơn vị đạt chuẩn gồm các xã: Trị Lê, Trấn Ninh, Lương Năng. Năm 2005: 3 đơn vị đạt chuẩn gồm các xã: Song Giang, Hòa Bình, Đồng Giáp. * Kết quả chung của toàn huyện về công tác PCGDTHCS năm 2005 là: Tiêu chuẩn 1 - Duy trì củng cố thành quả phổ cập giáo dục tiểu học chống mù chữ: + Về phổ cập tiểu học (trẻ 6 tuổi) vào học lớp 1: 747/752 = 99,3%. +Trẻ từ 11 đến 14 tuổi: Tốt nghiệp tiểu học: 4910/5142 = 95,5%. + Trẻ 11 – 14 tuổi đang học tiểu học: 232/5142 = 4,5%. + Trẻ 14 tuổi có bằng tốt nghiệp tiểu học: 1304/1324 = 98,5%. + Trẻ độ tuổi 11 14 tuổi TNTH (2004 -2005) vào học lớp 6. Tiêu chuẩn 2 - Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS từ năm học 2000 – 2001 đến năm học 2004 – 2005 đều đạt từ 96% trở lên. Riêng năm học 2004 – 2005 tỷ lệ tốt nghiệp THCS (2 hệ phổ thông + bổ túc) đạt 98,5%, cụ thể như sau: + Tỉ lệ tốt nghiệp THCS năm học 2000 – 2001: 1375/1384 = 99,4%. + Tỉ lệ tốt nghiệp THCS năm học 2001 -2002: 1441/1446 = 99,6%. + Tỉ lệ tốt nghiệp THCS năm học 2002 – 2003: 1448/1453 = 99,5%. + Tỉ lệ tốt nghiệp THCS năm học 2003 – 2004: 1515/1556 = 97,4%. + Tỉ lệ tốt nghiệp THCS năm học 2004 – 2005: 1362/1383 = 98,5%. + Tỉ lệ thanh thiếu niên trong độ tuổi 15 – 18 có bằng tốt nghiệp THCS (2 hệ phổ thông + bổ túc) năm 2005: 4409/5690 – đạt tỉ lệ 77,5%. + Số xã, thị trấn đạt chuẩn PCGDTHCS: 22/24 đạt tỉ lệ: 91,7%. - Thành quả PCGDTHCS của huyện Văn Quan mới đạt ở mức thấp và đạt chuẩn theo tiêu chí của một huyện miền núi khó khăn và đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ. Để củng cố và duy trì được thành quả trên, huyện Văn Quan phải nỗ lực phấn đấu nhiều hơn nữa, trong đó đặc biệt là việc huy động và duy trì được số lượng học sinh ra lớp đang học các lớp phổ thông bổ túc văn hóa hàng năm phải đạt từ 98% trở lên. Vấn đề cốt lõi là phải nâng cao chất lượng giảng dạy để có chất lượng và hiệu quả thực sự, có như vậy thì thành quả PCGDTHCS mới đảm bảo vững chắc. 2. Bài học kinh nghiệm trong công tác PCGDTHCS Trong 5 năm qua, từ việc tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết TW2 (khóa VIII), Nghị quyết 40/2000/QH10, Nghị định 88/NĐ – CP của Chính phủ, huyện Văn Quan rút ra một số kinh nghiệm sau đây: Một là: Căn cứ Quyết định, Chỉ thị, Nghị định của Trung ương Đảng, Quốc hội, và Chính phủ, Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh và HĐND tỉnh về lĩnh vực giáo dục – đào tạo; trên sơ sở thành quả đạt được về mục tiêu, nhiệm vụ phổ cập giáo dục tiểu học – xóa mù chữ giai đoạn 1990 – 1998 và yêu cầu thực tiễn của địa phương về phát triển kinh tế - xã hội, BCH Đảng bộ huyện đề ra Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội nói chung và về công tác phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo nói riêng (trong đó có mục tiêu, nhiệm vụ PCGDTHCS) cho từng giai đoạn (1998 – 2000, 2001 – 2005, 2006 – 2010). Nghị quyết BCH Đảng bộ huyện được cụ thể hóa trong Nghị quyết HĐND huyện, xã về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hàng năm (trong đó có mục tiêu, nhiệm vụ PCGDTHCS). Hai là: Thành lập Ban chỉ đạo PCGDTHCS huyện, xã để lập kế hoạch và chương trình thực hiện Nghị quyết Ban thường vụ, Ban chấp hành và Nghị quyết HĐND huyện về công tác PCGDTHCS. Trước hết là công tác điều tra thống kê để lập kế hoạch mở lớp xóa mù chữ, sau xóa mù chữ, bổ túc THCS tại các xã, thị trấn, thôn bản; kế hoạch mở các lớp nhô THCS ở các xã chưa có trường THCS; kế hoạch huy động thanh thiếu niên đi học; kế hoạch điều động giáo viên vừa dạy phổ thông, vừa dạy bổ túc THCS. Xây dựng quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo; phân công trách nhiệm và phân công phụ trách xã, thị trấn, duy trì thường xuyên sinh hoạt kiểm điểm đánh giá định kì; trọng tâm là công tác sơ kết 6 tháng và tổng kết năm về công tác PCGDTHCS. Ba là: Có sự chủ động, sáng tạo và tích cực của cơ quan phòng giáo dục – đào tạo huyện trong việc tham mưu, tổ chức thực hiện, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và tổng hợp báo cáo cấp ủy và chính quyền huyện để huyện có giải pháp, biện pháp chỉ đạo kịp thời. Bốn là: Những giải pháp, biện pháp tổ chức thực hiện PCGDTHCS phải chủ động lịnh hoạt (không máy móc, cầu toàn, không trông chờ, ỷ lại). Đó là đa dạng hóa các loại hình lớp học (đặc biệt các lớp bổ túc THCS). Thực hiện chương trình giảng dạy và thời gian học tập phải phù hợp với địa bàn dân cư, với đặc điểm tình hình các xã, thị trấn, mở theo cụm thôn bản, tại trường chính hoặc phân trường tiểu học.... Thực hiện chương trình có thể thực hiện theo phương thức ”cuốn chiếu” (theo học phần, học trình...), ưu tiên bố trí giáo viên cho các xã, các trường thực hiện kế hoạch PCGDTHCS theo tiến độ từng năm và quy mô dưới dạng ”chiến dịch”. Mở đồng loạt các lớp bổ túc THCS, tập trung ưu tiên lực lượng, cơ sở vật chất, kinh phí... cho công tác PCGDTHCS. Năm là: Xã hội hóa giáo dục nói chung và công tác PCGDTHCS nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi tổ chức, cá nhân, từng gia đình, đặc biệt là lực lượng thanh thiếu niên trong độ tuổi phổ cập. Vì thế công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục về các chủ trương, đường lối của Đảng và các quy định pháp luật của nhà nước về công tác PCGDTHCS là một trong những nhân tố quyết định, tạo ra sự đồng tình, ủng hộ, đồng tâm hiệp lực của mọi lực lượng trong xã hội, làm nên thành quả PCGDTHCS trên địa bàn huyện đúng tiến độ thời gian và bền vững. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÍ NHẰM ĐẦY NHANH TIẾN ĐỘ PHỔ CẬP GIÁO DỤC THCS Ở HUYỆNMIỀN NÚI VĂN QUAN 1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thành công, mọi thắng lợi của cách mạng. Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, Đảng ta đã có quan điểm và chủ trương đúng đắn, khoa học làm nền tảng tư tưởng cho sự phát triển. Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục ở cơ sở, cấp ủy và chính quyền địa phương phải thường xuyên quan tâm chỉ đạo sâu sát theo chương trình, nội dung đã được hoạch định, đồng thời phải chăm lo xây dựng các tổ chức Đảng trong trường học, phát triển đội ngũ đảng viên giáo viên đông về số lượng, mạnh về chất lượng, đủ sức đảm nhận vai trò lãnh đạo trực tiếp nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) chỉ rõ: ”Các cấp ủy Đảng từ tỉnh, thành phố đến cơ sở tổ chức cho đảng viên, nhân dân quản triệt Nghị quyết này cùng với xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết.... Tăng cường xây dựng và củng cố tổ chức Đảng thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo trong các trường học”. 2. Giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức Tiếp tục tuyên truyền, thực hiện tốt nghị quyết TW 2 (khóa VIII) và các Nghị quyết của Đảng về chiến lược phát triển giáo dục để mọi người nhận thức sâu sắc rẳng: trong giai đoạn cách mạng hiện nay, muốn xây dựng thành công CNXH cần phải đi từ giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trước mắt phải tập trung ưu tiên nhất về các phương diện: chính sách, tổ chức, quản lí, đội ngũ cán bộ giáo viên và đầu tư cho giáo dục – đào tạo. Đối với đồng bằng, thành thị, khâu tuyên truyền vẫn được coi trọng thì đối với huyện miền núi như Văn Quan càng cực kì quan trọng. Đảng bộ chính quyền huyện đã chỉ đạo các xã, các cơ quan ban ngành của huyện phải đề ra biện pháp cụ thể của từng ngành, từng xã, phân công rõ trách nhiệm của các tổ chức xã hội đối với các thành viên của mình. Cụ thể đó là: Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Mặt trận Tổ quốc, Hội người cao tuổi.... Có biện pháp cụ thể để các thành viên của Hội có trách nhiệm như thế nào trong việc tuyên truyền vận động nhân dân đưa con em ra lớp đi học phổ thông, bổ túc văn hóa. Như trên đã đề cập, đổi tượng phổ cập giáo dục THCS là đối tượng thanh niên độ tuổi từ 11 – 18, độ tuổi này ở miền núi cao là lao động chính, nhất là đồng bào Nùng, Tày... tại vùng sâu, vùng xa đã lập gia đình thì việc đưa họ ra học các lớp học bổ túc buổi chiều ban đêm là rất khó khăn. Đối với Văn Quan, các tổ chức không chỉ tuyên truyền cho các thành viên của tổ chức mình am hiểu, quyết tâm thực hiện mà còn phải trực tiếp phụ trách 1 thôn cụ thể của xã mình, tổ chức họp dân hàng tháng tuyên truyền vận động để dân hiểu việc có lợi khi có con học và bất lợi không khi có học. Nhưng nếu chỉ tuyên truyền và vận động mãi mà không được thì phải có biện pháp hỗ trợ. Với một huyện miền núi Văn Quan, sau tuyên truyền là việc kí cam kết giữa chính quyền huyện với xã, với thôn, giữa các ngành với địa phương, thôn bản và giữa các ngành, các thôn bản với các hộ gia đình, giữa các tổ chức xã hội với các thành viên của mình tại các thôn bản về việc đi học và đối với người trong độ tuổi phổ cập. Tức là tuyên truyền để hiểu và tự giác thực hiện là chính, nhưng với trường hợp cố tình không đi học thì bản cam kết là bắt buộc. Chính vì vậy mà phong trào giáo dục nói chung, công tác PCGDTHCS nói riêng, trong đó có việc mở các lớp bổ túc THCS cho người trong độ tuổi được đi học nhiều, duy trì sĩ số được liên tục và phong trào tăng về số lượng, mạnh về chất lượng trong toàn huyện từ năm 2000 – 2005. Có phong trào và giữ được phong trào, Văn Quan đã tranh thủ các nguồn kinh phí của cấp trên nhưng cũng chủ động phát huy nội lực của mình, đó là việc lập quỹ giáo dục, trong đó có PCGDTHCS của các ngành, các cơ quan đơn vị, địa phương. Một huyện miền núi kinh tế khó khăn nhưng một năm có hơn 200 triệu đồng quỹ giáo dục quả là một sự cố gắng rất lớn. Nguồn kinh phí này vừa để hỗ trợ xây dựng, tu sửa cơ sở vật chất cho giáo dục, vừa hỗ trợ cho những học sinh khó khăn đi học, nhất là đi học bổ túc THCS, đó là nguồn động viên thiết thực, kịp thời và là việc phải có đối với công tác PCGD THCS của một huyện miền núi như Văn Quan. 3. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ Nghị quyết TW 2 (khóa VIII) chỉ rõ: ”Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo viên”. Đội ngũ giáo viên THCS hiện nay của Văn Quan còn thiếu về số lượng và không đồng bộ về cơ cấu các môn Thể dục, Tiếng Anh. Chất lượng đội ngũ còn bất cập chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng PCGDTHCS. Bởi vậy cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, xây dựng đội ngũ giáo viên chất lượng ngày càng cao. Để giải quyết vấn đề thiếu giáo viên THCS, phòng GD&ĐT Văn Quan bố trí giáo viên một số môn đặc thù như Tiếng Anh, Âm nhạc, Mỹ thuật dạy liên trường. Để nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên phòng giáo dục tăng cường chỉ đạo các trường về công tác thi đua. Các phong trào thi đua giáo viên giỏi cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh hàng năm. Thường xuyên động viên kịp thời, khuyến khích giáo viên đầu tư thời gian nghiên cứu, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm về chuyên môn. Bên cạnh đó, phòng giáo dục chủ động chỉ đạo các trường vùng 1 liên kết với các trường vùng 2, vùng 3. Hàng tháng, tổ chức dự giờ, thăm lớp giữa các trường, giáo viên giỏi vùng 1, vùng 2 dạy mẫu cho giáo viên vùng 3 và ngược lại để chất lượng giáo dục tiếp tục được nâng lên. Đội ngũ giáo viên THCS chưa hoàn chỉnh hàng năm được cử đi bồi dưỡng nâng cao văn bằng, chứng chỉ trong hè; tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ và khuyến khích giáo viên tham gia học các lớp tại chức trong hè góp phần hạn chế mặt yếu kém về chất lượng, năng lực của đội ngũ giáo viên cũng như giảm bớt sự căng thẳng về thiếu giáo viên các môn Âm nhạc, Mỹ thuật, Tiếng Anh, Thể dục... dạy các lớp thay sách giáo khoa chương trình phổ thông mới. 4. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục Nghị quyết TW2 (khóa VIII) khẳng định: ”Giáo dục – đào tạo cùng với khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển” và chỉ rõ: ”Kết hợp giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo môi trường lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, từng tập thể”. Vì vậy, Chính phủ đã ra Nghị quyết 90/NQ-CP về phương hướng và chủ truơng xã hội hóa giáo dục. Đó là một hệ thống các địh hướng hoạt động của cá nhân và tổ chức nhằm trả lại chức năng giáo dục của xã hội, cho xã hội và trả lại chức năng xã hội của giáo dục cho chính nó. Bởi vậy việc giáo dục không thể chỉ diễn ra ở nhà trường mà cả ở gia đình và ngoài xã hội, càng không thể phó thác công tác giáo dục, công tác PCGDTHCS cho nhà trường mà phải coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Đối với Văn Quan, cần phải đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục hơn nữa để phát huy nội lực của toàn dân, tranh thủ sự quan tâm của các cấp ngành để phát triển sự nghiệp giáo dục và làm tốt công tác PCGDTHCS. 5. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, phối hợp giáo dục chính quy với giáo dục không chính quy Phối hợp giáo dục chính quy với giáo dục không chính quy để mở rộng mạng lưới trường, lớp, đáp ứng nhu cầu tiểu họcv à THCS của những người trong độ tuổi. Tiếp tục vận động và tổ chức cho những người tốt nghiệp tiểu học nhưng không có điều kiện vào học THCS chương trình phổ thông và học sinh bỏ học vì hoàn cảnh khó khăn được theo học các lớp bổ túc THCS. Tiếp tục vận động các nhà giáo, cán bộ nhân dân tham gia tổ chức lớp học, tham gia giảng dạy cho các đối tượng có hoàn cacnhs khó khăn theo phương thức không chính quy, đóng góp hỗ trợ về tài chính, cơ sở vật chất cho công tác phổ cập. Xây dựng mối liên hệ giữa ngành giáo dục với các ngành, các tổ chức đoàn thể, các dự án, các chương trình để nâng cao chất lươngj và hiệu quả PCGDTHCS. - Tiếp tục duy trì thường xuyên công tác thanh tra, kiểm tra định kì, sơ kết tổng kết và đánh giá việc duy trì, củng cố và nâng cao chuẩn PCGDTHCS. Chuẩn bị tốt các điều kiện cơ bản, mở lớp trung học phổ thông và bổ túc trung học phổ thông thực hiện chủ trương phổ cập trung học phổ thông trong thời gian tới. Trên đây là một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ PCGDTHCS ở huyện miền núi Văn Quan tỉnh Lạng Sơn mà chúng tôi đã thực hiện trong những năm vừa qua, chắc chắn những giải pháp còn mang tính chủ quan và cá nhân. Nhưng lương tâm nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm của một người quản lí giáo dục, tôi mạnh dạn đưa ra trong tiểu luận này với mong muốn góp phẩn dù rất nhỏ vào việc thực hiện nâng cao chất lượng PCGDTHCS ở huyện miền núi Văn Quan trong thời kì cách mạng mới: xóa đói giảm nghèo, đổi mới quê hương và góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. PHẦN THỨ BA: KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN I. Những kiến nghị - Về chính sách: Đảng và Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung cụ thể hơn chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với đội ngũ các thầy, cô giáo người làm công tác quản lí, chỉ đạo giáo dục – đào tạo, để đội ngũ này yên tâm và đầu tư công sức chỉ đạo tốt công tác giáo dục – đào tạo, nhất là ở các vùng miền núi, hải đảo. HIện nay tại huyện Văn Quan, đội ngũ các thầy, cô giáo làm công tác quản lí và chỉ đạo chuyên môn tại Phòng giáo dục là những người có phẩm chất, năng lực chuyên môn vững vàng nhưng lại không được hưởng chế độ ưu đãi nào, đó là một điều bất hợp lí. Do vây, khi điều động lên phòng Giáo dục, anh chị em như nhận một kỉ luật án tiền lương. - Về quy mô trường lớp: Nhà nước và địa phương cần xây dựng kế hoạch để mở rộng hệ thống trường dạy nghề phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn nhằm giải quyết sức ép về nhu cầu học lên của một số bộ phận học sinh sau khi tốt nghiệp THCS. Hiện nay ở Văn Quan hàng năm có khoảng 40% học sinh tốt nghiệp THCS không được vào học THPT, đây là thiệt thòi lớn cho các em sau này. Khẩn trương đầu tư cơ sở vật chất để xúc tiến việc tách cấp học mầm non ra khỏi tiểu học, tiểu học ra khỏi THCS vì mỗi cấp học có một đặc thù riêng, điều lệ riêng, sinh hoạt không đồng bộ. Hiện nay còn một số xã vùng III của huyện như: Song Giang, Việt Yên, Hữu Lễ, Hòa Bình chưa có điện lưới quốc gia. Vì vậy, các chương trình đầu tư cho xã vùng III không hiệu quả: TV, đầu VCD, DVD không có điện để hoạt động phục vụ chương trình thay sách giáo khoa, việc thông tin 2 chiều của các xã vùng III với huyện gặp rất nhiều khó khăn, do không có điện thoại. Bên cạnh đó, đường giao thông liên thôn, liên xã của các xã vùng III chưa thuận lợi, về mùa mưa đường rất lầy lội, sạt lở gây ách tắc giao thông nên phát triển kinh tế - xã hội rất khó khăn. - Về đội ngũ cán bộ quản lí Đối với cán bộ quản lí các trường được thực hiện bổ nhiệm theo định kì, hết nhiệm kì tổ chức bỏ phiếu thăm dò tín nhiệm và rà soát kết quả công việc của đồng chí đó trong cả nhiệm kì. Kiên quyết miễn nhiệm những cán bộ quản lí không hoàn thành nhiệm vụ công tác và không còn được tín nhiệm. Hiện nay ngành giáo dục Văn Quan thực hiện đôi lúc còn nể nang, chưa thật kiên quyết. Tăng cường chế độ luân chuyển cán bộ đối với đội ngũ cán bộ quản lí trường học, không để cán bộ quản lí giữ vị trí công tác tại một đơn vị quá lâu dẫn đến trì trệ, nhàm chán, sáo mòn. II. Kết luận Giáo dục THCS ở huyện Văn Quan – tỉnh Lạng Sơn trong 5 năm qua đã có bước phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng. Tuy vậy vẫn còn không ít khó khăn, bất cập, hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới. Vấn đề cần tập trung giải quyết là làm thế nào để từng bước nâng cao chất lượng PCGDTHCS. Đây là công việc không đơn giản đối với một địa phương miền núi khó khăn về mọi mặt như Văn Quan. Vì vậy cùng với sự phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội địa phương, phải nhanh chóng tạo ra sự chuyển biến về nhiều mặt: xây dựng cơ sở vật chất trường học; xây dựng đội ngũ giáo viên; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục. Đây là lĩnh vực đòi hỏi sự tham gia giải quyết của các cấp, các ngành và không thể nóng vội mong muốn giải quyết xong trong một sớm. một chiều mà phải làm thường xuyên, liên tục, lâu dài và quyết liệt. Nhân loại đang bước vào nền văn minh trí tuệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu, là tương lai của mỗi dân tộc, mỗi đất nước. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều coi giáo dục là nhân tố quyết định phát triển nhanh và bền vững của một quốc gia. Trong thời kì đổi mới, khi đưa ra các Nghị quyết Đảng ta đã đề ra những tư tưởng chỉ đạo, những giải pháp tích cực để đẩy nhanh tiến độ PCGDTHCS, đặc biệt là ở các huyện miền núi, từng bước thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, nhất là vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn với vùng thuận lợi, vùng đồng bằng. Chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự nỗ lực của cấp ủy và chính quyền các cấp, cùng với sự nỗ lực vươn lên phát huy tối đa sức mạnh nội sinh của ngành giáo dục, của các trường, các cơ sở giáo dục, sự nghiệp giáo dục và đặc biệt là công tác PCGDTHCS ở huyện Văn Quan sẽ có bước chuyển mới về mọi mặt. Tôi mong muốn những giải pháp về công tác PCGDTHCS mà tôi nêu ra ở huyện miền núi Văn Quan trong thời gian tới sẽ góp phần củng cố và nâng cao hiệu quả công tác PCGDTHCS của huyện, góp phần nâng cao mặt bằng dân trí cho mọi người trong huyện nhà lên trình độ THCS, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân đưa Văn Quan nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tạo tiền đề cho các bước tiếp theo trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn miền núi. TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, lần thứ VIII, lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia (XB các năm). ĐCSVN, Nghị quyết Hội nghị lần 6, lần 7 BCH TW khóa VII, NXB Chính trị Quốc gia. ĐCSVN, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2, lần thứ 7 BCH TW khóa VIII – NXB Chính trị Quốc gia. ĐCSVN, Nghị quyết lần thứ 7, lần thứ 8 BCH TW khóa IX, NXB Chính trị Quốc gia. Cuốn lí luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng (Tập bài giảng Khoa văn hóa Phân viện Hà Nội – Học viện CTQG HCM). Chỉ thị 61/CT-TW của Bộ Chính trị ”Về việc thực hiện phổ cập giáo dục THCS”. Chỉ thị 01/HĐBT năm 1990 của Hội đồng bộ trưởng. Luật phổ cập giáo dục tiểu học. Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội khóa 10. Nghị quyết 88/NĐ-CP của Chính phủ về công tác phổ cập THCS. Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lí công chức nhà nước ngành GD – ĐT của trường cán bộ quản lí giáo dục – đào tạo Hà Nội. Các tạp chí giáo dục – đào tạo từ năm 1998 đến nay. Các công báo từ năm 2000 đến nay. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn khóa XII, khóa XIII. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Văn Quan khóa XVII, khóa XVIII. Các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận Hội nghị của Đảng bộ, Chính quyền huyện Văn Quan và tỉnh Lạng Sơn từ năm 1998 – 2000. Kế hoạch 19/KH-HU ngày 31/08/1998 của Ban thường vụ huyện ủy Văn Quan về phổ cập giáo dục THCS từ năm 1998 – 2000. Kế hoạch 18/KH-UB ngày 24/2/2000 của UBND huyện Văn Quan từ 2000 – 2010 về phổ cập THCS. Báo cáo tổng kết năm học từ 1998 đến năm 2003. Tổng hợp điều tra văn hóa năm 1989, 1995 đến năm 2003.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGD0007.doc
Tài liệu liên quan