MỤC LỤC
Mở đầu 
Chương 1. Tổng quan về cổ phần hóa
1.1. Lý luận về công ty cổ phần. 3
1.1.1. Công ty cổ phần. . 3
1.1.1.1. Khái niệm . 3
1.1.1.2. Các nguồn tài trợ cho công ty cổ phần trên TTCK. 3
1.1.2. Cổ phần. . 7
1.1.3. Cổ đông. . 7
1.1.4. Cổ phiếu. . 7
1.1.5. Cổ tức. . 7
1.2. Lý luận về cổ phần hóa. 7
1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa 7
1.2.2. Phân loại. . 8
1.2.3. Đặc trưng cổ phần hóa ở Việt Nam. . 9
1.2.4. Lợi ích của cổ phần hóa đối với sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. . 10
1.2.4.1. Lợi ích của cổ phần hóa đem lại cho xã hội. . 10
1.2.4.2. Lợi ích của cổ phần hóa đem lại cho doanh nghiệp. 12
1.2.4.3. Lợi ích của cổ phần hóa đối với người lao động. 13
1.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số quốc gia trên thế giới. 14
1.3.1. Hungary . 16
1.3.2. Nga 17
1.3.3. Trung Quốc 17
Kết luận chương 1.
Chương 2. Thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Nha Trang. . 
2.1. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. . 23
2.1.1. Bối cảnh làm xuất hiện nhu cầu cổ phần hóa ở Việt Nam. . 23
2.1.2. Tình hình cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua. .24
2.2. Thực trạng về công ty cổ phần và cổ phần hóa ở thành phố Nha Trang. 27
2.2.1. Sơ lược tình hình cổ phần hóa ở tp. Nha Trang. 27
2.2.2. Thực trạng cổ phần hóa ở tp. Nha Trang. 29
2.2.2.1. Đối với các doanh nghiệp đã cổ phần hóa. 29
2.2.2.1.1. Trước cổ phần hóa. . 29
a. Những kết quả đạt được. . 29
b. Những khó khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp đã gặp phải 33
2.2.2.1.2. Sau cổ phần hóa. . 34
a. Những kết quả đạt được . 34
b. Những mặt còn hạn chế . 40
c. Những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại ở các doanh nghiệp. 41
2.2.2.2. Những vướng mắc đối với các doanh nghiệp đang trong tiến trình thực hiện cổ phần hóa. . 44
Kết luận chương 2.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Nha Trang. . 
3.1. Chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Nha Trang. 49
3.2. Các căn cứ đề xuất giải pháp. 49
3.3. Đề xuất một số giải pháp. 49
3.3.1. Nhóm giải pháp vi mô. 49
3.3.1.1. Về việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. . 50
3.3.1.2. Công khai hóa thông tin tài chính doanh nghiệp. . 53
3.3.1.3. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện chiến lược kinh doanh của các công ty sau cổ phần hóa. 54
3.3.1.4. Phát triển trình độ đội ngũ lao động, tạo động lực cho tập thể và cá nhân người lao động. 57
3.3.1.5. Đổi mới công tác quản trị và tổ chức sản xuất. 59
3.3.1.6. Đối mới kỹ thuật- công nghệ. . 60
3.3.1.7. Tăng cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội. . 61
3.3.2. Nhóm giải pháp vĩ mô. . 62
3.3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về CPH 62
3.3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về CPH DNNN. 64
3.3.2.3. Cần đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến trình cổ phần hóa . 67
3.3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa 67
3.3.2.5. Tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp 69
3.3.2.6. Đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển TTCK. 70
Kết luận chương 3. . 71
Kết luận . 73
Tài liệu tham khảo . 75
Phụ lục 77
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
73 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1790 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tại Thành phố Nha Trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 công ty cổ phần nhưng đến nay vấn đề này 
vẫn chưa được giải quyết triệt để. 
Trong hội nghị tư vấn giữa kỳ các nhà tài trợ cho Việt Nam ở Nha Trang, các 
chuyên viên cổ phần hóa đã nhận định là cần “phải tổ chức thị trường đấu giá cổ 
phần công khai hơn, cả trong quy định lẫn thực hiện, để đông đảo quần chúng có 
thể tham gia. Nếu không sẽ tạo ra sự tiêu cực và lạm dụng trong cơ chế mới”. Càng 
nhiều nhà đầu tư tham gia càng giảm bớt sự thông đồng làm dìm giá doanh nghiệp. 
Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp khi chuyển đổi thành công ty 
cổ phần phải được các tổ chức chuyên nghiệp (công ty định giá doanh nghiệp, công 
ty tư vấn tài chính, công ty kiểm toán...) tính toán đặt ra một mức giá làm căn cứ 
đưa ra chào thầu, sau đó trên cơ sở bỏ thầu mà xác định được mức giá cổ phiếu. 
Như vậy giá cổ phiếu sẽ do cung cầu trên thị trường quyết định. 
Ở nước ta hiện nay, các tổ chức dịch vụ thị trường tài chính còn yếu kém do 
thị trường chứng khoán chưa phát triển mạnh. Do đó, trong thời gian đầu, chúng ta 
có thể mời thầu các cổ đông chiến lược, vì đây mới là yếu tố hiệu quả và đổi mới 
của công ty cổ phần sau này. Sau đó, căn cứ vào giá thầu có tham chiếu là giá tính 
toán để quyết định giá trị DNNN. Theo cách làm này có thể xảy ra một số doanh 
nghiệp sau CPH giá tăng cao. Nhưng nếu giá tăng cao do năng lực quản trị và chiến 
lược của công ty cổ phần tốt thì đó không phải là thất thoát của Nhà nước. Cũng có 
thể xuất hiện nhiều DNNN không bán được vì doanh nghiệp quá kém, không thu 
hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư, khi đó cần giảm giá hay bán với giá ưu 
đãi. Thậm chí với những DNNN dù có chuyển sang hình thức công ty cổ phần cũng 
 85
không thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh thì nên chuyển qua xử lý 
bằng các hình thức khác như giao, bán, khoán, cho thuê thậm chí giải thể, phá sản. 
Ở Việt Nam hiện nay các doanh nghiệp CPH là nguồn cung cấp hàng hoá 
chủ yếu cho TTCK. Khi doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán thì giá 
cổ phiếu chịu tác động rất lớn bởi giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp nên 
được tính theo nguyên tắc khả năng sinh lợi của doanh nghiệp mà được sự chấp 
nhận của người bán lẫn người mua. Giá trị doanh nghiệp phải bao gồm cả lợi ích vô 
hình như vị trí kinh doanh, uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp, tính chất độc 
quyền về sản phẩm,… Nếu chúng ta chỉ xác định giá trị doanh nghiệp một cách 
cứng nhắc thì những thông tin xác thực về doanh nghiệp sẽ không đến được nhà đầu 
tư và công ty sẽ bị thiệt trong việc thu hút nguồn vốn. Chúng ta có thể thực hiện bán 
đấu giá cổ phiếu thông qua các tổ chức tài chính trung gian để đảm bảo tính minh 
bạch và phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp hoặc thuê chuyên gia và các doanh 
nghiệp định giá nước ngoài về hỗ trợ định giá. Đa số các doanh nghiệp được CPH ở 
tp.Nha Trang là những doanh nghiệp nhỏ nên phương pháp tốt nhất là để thị trường 
quyết định giá bán thông qua đấu thầu, cạnh tranh. 
Một vấn đề nữa là các phương pháp định giá theo quy định của Chính phủ 
chỉ đề cập đến lợi thế doanh nghiệp thông qua việc so sánh giữa lợi nhuận bình 
quân 3 năm gần nhất và lãi suất trái phiếu Chính phủ. Cách xác định lợi thế doanh 
nghiệp như vậy chưa phản ánh đúng thực tế những thuận lợi cũng như những khó 
khăn của các doanh nghiệp khác nhau, hoạt động trên những địa điểm khác nhau. 
Chẳng hạn, trên cùng địa bàn thành phố Nha Trang, nhưng nếu các doanh nghiệp, 
nhất là các công ty hoạt động trong lĩnh vực du lịch (các khách sạn, nhà hàng…), 
các công ty thương mại nằm trên những tuyến đường khác nhau sẽ có những lợi thế 
khác nhau, thậm chí với những vị trí đất rất thuận lợi thì địa tô của nó có thể nuôi 
sống sung túc những cổ đông của các công ty cổ phần sau chuyển đổi. Vì vậy Nhà 
nước nên đưa yếu tố lợi thế địa điểm vào trong giá trị doanh nghiệp, có như vậy, 
mới phản ánh đầy đủ lợi thế của từng doanh nghiệp, từ đó xác định đúng giá trị thực 
của từng doanh nghiệp. 
 86
3.3.1.2. Công khai hóa thông tin tài chính doanh nghiệp: 
Một trong những mục tiêu của cổ phần hóa là huy động vốn của toàn xã hội, 
bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư 
đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. Khi công ty muốn thu hút vốn đầu tư 
từ các nhà đầu tư bên ngoài thì trước hết công ty phải công khai hóa thông tin tài 
chính của mình để các nhà đầu tư xem xét, đánh giá và đưa ra các quyết định đầu 
tư. Nhưng trên thực tế hiện nay của các doanh nghiệp thuộc tỉnh Khánh Hoà nói 
chung hay tp. Nha Trang nói riêng là các thông tin tài chính luôn được giữ bí mật 
hoặc chỉ cung cấp rất hạn chế, do vậy mà các nhà đầu tư không nắm bắt đầy đủ 
thông tin nên chưa dám mạnh dạn đầu tư vào công ty. Dẫn đến kết quả là cổ phần 
của doanh nghiệp chủ yếu do Nhà nước và người lao động trong doanh nghiệp nắm 
giữ, còn nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp chỉ nắm tỷ lệ rất nhỏ, chưa thu hút được sự 
quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Khi không công khai thông tin tài chính 
của doanh nghiệp thì không đảm bảo tính công bằng trong mua bán, không bảo vệ 
các nhà đầu tư cũng như không hình thành nên giá trị thực của cổ phiếu. 
Các thông tin về tài chính cần công khai bao gồm: thông tin về cấu trúc vốn, 
cơ cấu tài sản, hiệu quả sản xuất kinh doanh, kết quả thu nhập và phân phối thu 
nhập, dự toán xu hướng vận động của các chỉ tiêu tài chính quan trọng trong tương 
lai. Để thực hiện được điều này, tỉnh Khánh Hoà cần ra quyết định bắt buộc các 
công ty cổ phần theo định kỳ hàng năm phải báo cáo tình hình tài chính của mình, 
trong đó bao gồm những thông tin về: hình thức công khai, thời gian công khai, số 
liệu công khai đã được cơ quan kiểm toán xác nhận. Có như vậy, mới giảm thiểu 
tình trạng CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, tạo nhiều cơ hội để thu hút vốn 
đầu tư từ bên ngoài để phát triển doanh nghiệp. 
Để các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa hoạt động kinh doanh thật sự có 
hiệu quả, có thay đổi căn bản về tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh theo mô 
hình công ty cổ phần thực thụ, các doanh nghiệp cần phải tiếp tục bổ sung và hoàn 
thiện chiến lược kinh doanh của mình; phát triển trình độ đội ngũ lao động, tạo 
động lực cho tập thể và cá nhân người lao động; bên cạnh đổi mới công tác quản trị 
 87
và tổ chức sản xuất, cũng cần phải đổi mới hơn nữa kỹ thuật- công nghệ và tăng 
cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội. 
3.3.1.3. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện chiến lược kinh doanh của các công ty 
sau cổ phần hóa 
 Sau CPH, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có những thay đổi căn bản về tổ 
chức và quản lý hoạt động kinh doanh theo mô hình công ty cổ phần thực thụ. Các 
doanh nghiệp này chưa có hay rất thiếu những cổ đông chiến lược mới. Để CPH 
thực sự là giải pháp đúng đắn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh 
tranh cho DNNN, các doanh nghiệp cần tạo điều kiện cho người lao động và các 
nhà đầu tư làm chủ thật sự của công ty, thay đổi phương pháp quản lý, tạo động lực 
thúc đẩy công ty kinh doanh có hiệu quả, có khả năng thích ứng với cơ chế thị 
trường. 
Bên cạnh đó, chính phủ cần có kế hoạch tư vấn, hỗ trợ kịp thời khi các doanh 
nghiệp gặp khó khăn, quản lý và phân phối vốn vay ưu đãi từ nguồn vốn nhà nước 
thu về trong quá trình thực hiện cổ phần hóa, giúp công ty cổ phần đầu tư đổi mới 
công nghệ. 
Trước xu thế hội nhập, chiến lược kinh doanh sẽ là nền tảng cho sự tồn tại và 
phát triển của một doanh nghiệp. Trong thời gian tới, để nâng cao hơn nữa khả năng 
cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sau CPH phải tiếp tục 
điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chiến lược kinh doanh của mình; đồng thời đổi 
mới kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại; chủ động đổi mới tổ chức quản lý, 
tổ chức lại sản xuất, kinh doanh; tổ chức lao động, tiền lương, thu nhập; tăng cường 
đào tạo nhằm nâng cao tay nghề của người lao động, từ đó nâng cao năng suất lao 
động, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng, nâng cao khả năng 
cạnh tranh; tổ chức tốt mạng lưới phân phối và xây dựng thương hiệu doanh nghiệp, 
giữ vững thị trường truyền thống và khai thác thêm những thị trường tiềm năng… 
Có như vậy thì các công ty cổ phần trên địa bàn tp. Nha Trang mới thu hút 
được sự quan tâm hơn nữa của các nhà đầu tư. Với việc xác định chiến lược kinh 
doanh đúng đắn, các công ty có thể khai thác nhiều cơ hội và tạo dựng, phát huy thế 
 88
mạnh để thành công trong kinh doanh, đồng thời định hướng rõ mục tiêu trước mắt và 
lâu dài, từ đó khuyến khích các thành viên trong công ty nâng cao tinh thần trách nhiệm. 
Chẳng hạn như, ngành du lịch Khánh Hòa cần phát triển theo hướng bền 
vững, đảm bảo các mục tiêu cơ bản sau: 
 Đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế: đảm bảo sự tăng trưởng, phát 
triển ổn định lâu dài về mặt kinh tế của du lịch, góp phần tích cực vào sự phát triển 
kinh tế của tỉnh Khánh Hoà. 
 Đảm bảo sự bền vững về tài nguyên và môi trường, thể hiện ở việc sử 
dụng hợp lí các tiềm năng tài nguyên và điều kiện môi trường. Việc khai thác, sử 
dụng tài nguyên du lịch cho phát triển cần được quản lí sao cho không chỉ thỏa mãn 
nhu cầu hiện tại mà còn đảm bảo cho nhu cầu phát triển du lịch qua nhiều thế hệ. 
Bên cạnh đó trong quá trình phát triển các tác động của hoạt động du lịch đến môi 
trường sẽ được hạn chế đi đôi với những đóng góp cho các nỗ lực tôn tạo tài nguyên 
bảo vệ môi trường. 
Xác định đúng đắn chiến lược kinh doanh còn giúp các nhà quản lý chủ động 
trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh, nắm bắt nhanh, chính xác thông tin để 
khai thác những cơ hội, giảm bớt những rủi ro và sử dụng tốt hơn các nguồn lực tài 
chính của doanh nghiệp, từ đó đạt được hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận cao, duy 
trì sự thành công liên tục của doanh nghiệp một cách toàn diện. Tuy nhiên, để xây 
dựng phương án kinh doanh có tính thuyết phục thì: 
a.Các nhà quản lý phải nâng cao khả năng thu thập, phân tích và xử lý thông 
tin sao cho hiệu quả nhất; nâng cao trình độ xây dựng chiến lược, dự báo, nắm chắc 
thông tin thị trường, có giải pháp xử lý. Các nhà quản trị cần phân tích kỹ lưỡng các 
yếu tố môi trường bên ngoài mà doanh nghiệp phải đối mặt (các cơ hội và nguy cơ) 
cũng như các yếu tố thuộc môi trường nội bộ doanh nghiệp (các mặt mạnh và mặt 
yếu). Từ đó các nhà quản lý có cơ sở để đưa ra những phương án kinh doanh hiệu 
quả nhất cho doanh nghiệp mình. Đây là một việc làm khó đòi hỏi nhiều thời gian, 
công sức và chi phí. 
 89
b.Doanh nghiệp cần xác định các mục tiêu tổng quát về hoạt động kinh 
doanh của công ty trong dài hạn, trên cơ sở đó, đưa ra những mục tiêu cụ thể phù 
hợp trong ngắn hạn. 
c.Khi xây dựng chiến lược kinh doanh, các nhà quản lý cần đưa ra nhiều 
phương án để lựa chọn khi cần thiết vì trong quá trình phân tích và dự đoán có thể 
xảy ra sai lệch do trong thực tế môi trường kinh doanh luôn luôn thay đổi, biến 
động không ngừng. 
Trong xây dựng chiến lược kinh doanh cần phải chú ý các điểm sau: 
 -Chiến lược kinh doanh phải gắn với thị trường: 
 + Các doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh trên cơ sở điều tra, 
nghiên cứu nhu cầu trị trường và khai thác tối đa các thời cơ, các thuận lợi, các 
nguồn lực để sản xuất ra các sản phẩm với số lượng, chất lượng, chủng loại và thời 
hạn thích hợp. 
Chẳng hạn như, đối với các doanh nghiệp chế biến thủy sản trên địa bàn tp. 
Nha Trang cần chú trọng đầu tư sản xuất, kinh doanh các sản phẩm có giá trị gia 
tăng như: cá ngừ xông khói, ghẹ bọc thịt, tôm duỗi, sumi và sasumi, mực trái 
thông…, để phục vụ cho các thị trường xuất khẩu khó tính như EU, Mỹ, Nhật... 
Có thể coi “chiến lược phải thể hiện tính làm chủ thị trường của doanh 
nghiệp” là phương châm, là nguyên tắc quản trị chiến lược của doanh nghiệp. 
 + Việc xây dựng chiến lược kinh doanh phải làm tăng được thế mạnh của 
doanh nghiệp, dành ưu thế cạnh tranh trên thị trường. 
 + Chiến lược phải thể hiện tính linh hoạt cao và vì thế xây dựng chiến lược 
chỉ đề cập những vấn đề khái quát, không cụ thể. 
 -Khi xây dựng chiến lược kinh doanh phải tính đến vùng an toàn trong kinh 
doanh, hạn chế rủi ro tới mức tối thiểu 
 -Trong chiến lược kinh doanh cần xác định mục tiêu then chốt, vùng kinh 
doanh chiến lược và những điều kiện cơ bản để đạt được mục tiêu đó. 
-Chiến lược kinh doanh phải thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa hai loại chiến 
lược: chiến lược kinh doanh chung (những vấn đề tổng quát bao trùm, có tính chất 
 90
quyết định nhất) và chiến lược kinh doanh bộ phận (những vấn đề mang tính chất 
bộ phận như chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược tiếp thị, chiến lược 
giao tiếp khuyếch trương,...). 
-Chiến lược kinh doanh không phải là bản thuyết trình chung chung mà phải 
thể hiện bằng những mục tiêu cụ thể, có tính khả thi với mục đích đạt hiệu quả tối 
đa trong sản xuất kinh doanh. 
Một vấn đề hết sức quan trọng là nếu doanh nghiệp chỉ xây dựng chiến lược 
kinh doanh thì chưa đủ, vì dù cho chiến lược xây dựng có hoàn hảo đến đâu nếu 
không triển khai tốt, không biến nó thành các chương trình, chính sách kinh doanh 
phù hợp với từng giai đoạn phát triển cũng sẽ trở thành vô ích, hoàn toàn không có 
giá trị làm tăng hiệu quả kinh doanh mà vẫn phải chịu chi phí kinh doanh cho công 
tác này. Cần lưu ý rằng, trước khi xây dựng phương án kinh doanh các doanh 
nghiệp cần lựa chọn các nhà đầu tư chiến lược cũng như dự kiến số lượng cổ phần 
bán cho các nhà đầu tư này. 
3.3.1.4. Phát triển trình độ đội ngũ lao động, tạo động lực cho tập thể và cá 
nhân người lao động. 
Ngay sau cổ phần hóa, các doanh nghiệp phải thích nghi với môi trường kinh 
doanh đầy cạnh tranh, rủi ro và không ngừng biến động. Các doanh nghiệp lúc này 
không còn được bao cấp như trước nữa nên để tồn tại và phát triển mạnh trong nền 
kinh tế thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nỗ lực vươn lên, 
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn như vậy, doanh nghiệp phải thực sự 
thay đổi về chất so với trước, không chỉ bổ sung và hoàn thiện một chiến lược kinh 
doanh đúng đắn mà bên cạnh đó đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động giỏi, nhiệt 
tình, với đội ngũ ban lãnh đạo thực sự đổi mới trong tư duy, đổi mới phương thức 
quản trị và điều hành doanh nghiệp. Đội ngũ nhân sự của doanh nghiệp sẽ quyết 
định năng suất lao động, đồng thời nó cũng quyết định đến quá trình đổi mới công 
nghệ và hoàn thiện sản phẩm cũng như khả năng thích ứng của doanh nghiệp đối 
với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Vấn đề con người trong lao động sản 
 91
xuất và hoạt động quản lý cực kỳ quan trọng, quyết định lợi thế nhiều mặt của 
doanh nghiệp. 
Tuy nhiên để có được một đội ngũ lao động giỏi, nhiệt tình trong công việc, 
đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chính sách nhân sự phù hợp, phải xây dựng được 
văn hóa tổ chức đặc trưng cần thiết cho công ty mình. Để làm được điều này, trước 
hết các doanh nghiệp nên vận dụng linh hoạt các văn bản hướng dẫn về thang bảng 
lương và thực hiện việc trả thù lao cho người lao động phù hợp với điều kiện của thị 
trường sức lao động nhằm giữ chân những lao động giỏi, tay nghề cao. Nói cách 
khác, doanh nghiệp chi trả mức lương cho người lao động dựa trên năng lực và hiệu 
quả công việc của họ, thay vì dựa vào chức vụ và thâm niên như trong các DNNN 
hiện nay. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần có sự đầu tư thỏa đáng để phát 
triển quy mô, bồi dưỡng lại và đào tạo mới lực lượng lao động, đội ngũ trí thức có 
chất lượng cao trong các doanh nghiệp, cần nâng cao nghiệp vụ kinh doanh, trình 
độ tay nghề của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ sư, công nhân kỹ thuật để khai thác tối 
ưu nguyên vật liệu, năng suất máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến,... 
Đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ quản trị, ban giám đốc cần được tuyển chọn 
kỹ càng, có trình độ hiểu biết cao. Doanh nghiệp nên triển khai việc hội đồng quản 
trị ký hợp đồng thuê giám đốc giỏi điều hành doanh nghiệp. Để hoạt động kinh 
doanh có hiệu quả, giám đốc phải là người năng động, có kiến thức về công nghệ, 
khoa học, cũng như về giao tiếp xã hội, tâm lý, kinh tế,... và biết vận dụng linh hoạt 
những kiến thức đó vào tổ chức, đồng thời có khả năng đưa ra các quyết định đúng 
đắn, kịp thời trong thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp. 
Về công tác quản trị nhân sự, tiến trình cổ phần hóa đòi hỏi doanh nghiệp 
phải cơ cấu và bố trí lại lực lượng lao động, điều này tạo điều kiện cho người lao 
động có thể được làm việc theo đúng chuyên môn của mình. Doanh nghiệp phải 
hình thành nên cơ cấu lao động tối ưu, bảo đảm đủ việc làm trên cơ sở phân công và 
bố trí lao động hợp lý, sao cho phù hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của 
mỗi người. Trước khi phân công bố trí hoặc đề bạt cán bộ đều phải qua kiểm tra tay 
nghề. Khi giao việc cần xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm. 
 92
Đặc biệt công tác trả lương, thưởng, khuyến khích lợi ích vật chất đối với người lao 
động luôn là vấn đề hết sức quan trọng. 
Động lực tập thể và cá nhân người lao động là yếu tố quyết định tới hiệu quả 
kinh tế. Động lực cũng là yếu tố để tập hợp, cố kết người lao động lại. Trong doanh 
nghiệp, động lực cho tập thể và cá nhân người lao động chính là lợi ích, là lợi nhuận 
thu được từ sản xuất có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp cần phân phối lợi nhuận 
thỏa đáng, đảm bảo công bằng, hợp lý, thưởng phạt nghiêm minh. Đặc biệt cần có 
chế độ đãi ngộ thỏa đáng với những nhân viên giỏi, trình độ tay nghề cao hoặc có 
thành tích, có sáng kiến,... Đồng thời cũng cần nghiêm khắc xử lý những trường 
hợp vi phạm. Đối với các DNNN sau CPH, việc bán cổ phần cho người lao động 
cũng là một trong những giải pháp gắn người lao động với doanh nghiệp bởi lẽ cùng 
với việc mua cổ phần người lao động không chỉ có thêm nguồn thu nhập từ doanh 
nghiệp mà còn có quyền nhiều hơn trong việc tham gia vào các công việc của DN. 
3.3.1.5. Đổi mới công tác quản trị và tổ chức sản xuất 
Khi còn là DNNN thì bộ máy nhân sự khá cồng kềnh, các bộ phận hoạt động 
chồng chéo lên nhau; sau khi chuyển sang công ty cổ phần, các doanh nghiệp cần 
đổi mới tổ chức quản lý, đổi mới quản trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tổ chức 
lại bộ máy sao cho gọn nhẹ, năng động, linh hoạt trước thay đổi của thị trường. Cơ 
cấu tổ chức phải thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, phải được 
xây dựng phù hợp với các đặc điểm của doanh nghiệp (qui mô, ngành nghề kinh 
doanh, đặc điểm quá trình tạo ra kết quả,...) thì mới đảm bảo cho việc quản trị 
doanh nghiệp có hiệu quả được. 
Sau khi xây dựng lại cơ cấu tổ chức linh hoạt, gọn nhẹ hơn, công ty cần nâng 
cao trình độ và tính minh bạch trong quản trị doanh nghiệp; đồng thời cần xác định 
rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ trách nhiệm, quan hệ giữa các bộ phận 
với nhau, đưa hoạt động của doanh nghiệp đi vào nề nếp, tránh sự chồng chéo giữa 
chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận. Doanh nghiệp phải thường xuyên duy trì 
và đảm bảo sự cân đối tăng cường quan hệ giữa các khâu, các bộ phận trong quá 
 93
trình sản xuất,... mới có thể nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi người, nâng cao 
tính chủ động sáng tạo trong sản xuất. 
3.3.1.6. Đổi mới kỹ thuật- công nghệ 
Có thể nói một trong những nguyên nhân làm hiệu quả kinh tế ở các DNNN 
đã CPH trên địa bàn tp. Nha Trang chưa cao là do đa phần trang thiết bị, kỹ thuật - 
công nghệ chưa hiện đại. Do vậy, vấn đề nâng cao kỹ thuật, đổi mới công nghệ là 
vấn đề cần được quan tâm sâu sắc ở các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp tùy 
thuộc vào đặc điểm ngành kinh doanh và mục tiêu kinh doanh mà đưa ra chính sách 
đầu tư công nghệ phù hợp. Việc đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh 
của sản phẩm và doanh nghiệp cần được tiến hành một cách chủ động, không để 
trường hợp khi khách hàng đến đặt mặt hàng mới, đòi hỏi công nghệ mới, thì mới đi 
tìm công nghệ mới. 
Với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp 
chế biến xuất khẩu thủy sản ở tp. Nha Trang cần đầu tư các thiết bị hiện đại như: 
dây chuyền rửa - phân cỡ, băng chuyền tự động, tủ cấp đông thế hệ mới, máy đóng 
gói qua hút chân không, thiết bị kiểm tra dư lượng kháng sinh và các máy chế biến 
thực phẩm chuyên dụng khác... 
Tuy nhiên, để đổi mới và phát triển kỹ thuật công nghệ đòi hỏi phải có đầu tư 
lớn, phải có thời gian dài và doanh nghiệp cần phải giải quyết tốt các vấn đề sau: 
- Dự đoán đúng nhu cầu của thị trường và của doanh nghiệp về những loại 
sản phẩm doanh nghiệp có ý định đầu tư phát triển. Dựa trên những dự đoán này 
doanh nghiệp đưa ra những mục tiêu cụ thể trong đổi mới công nghệ. 
- Trên cơ sở mục tiêu đã đề ra, mỗi doanh nghiệp đưa ra biện pháp đổi mới 
công nghệ phù hợp, lựa chọn cho mình công nghệ thích hợp, tránh nhập công nghệ 
lạc hậu, lỗi thời, tân trang lại, gây ô nhiễm môi trường... 
- Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động thì doanh nghiệp cần sử dụng vốn có 
hiệu quả, đúng mục tiêu nguồn vốn đầu tư công nghệ. Muốn như vậy, công ty cần 
có giải pháp đúng đắn về huy động và sử dụng vốn, đặc biệt là vốn cho đổi mới 
công nghệ. 
 94
- Các doanh nghiệp cần xem công nghệ như một loại hàng hóa đặc biệt đem 
lại nhiều tiềm năng to lớn có thể khai thác trong quá trình sử dụng thay vì chỉ tiếp 
nhận công nghệ được chuyển giao như hàng hoá tiêu dùng thông thường. Bên cạnh 
đó, doanh nghiệp cần nghiên cứu sâu để làm chủ, cải tiến và phát triển công nghệ 
nhập từ bên ngoài, dẫn tới có khả năng tạo ra công nghệ và tham gia chuyển giao 
công nghệ cho nơi khác. 
 Thêm vào đó, trong đổi mới công nghệ nên quan tâm đến nghiên cứu sử 
dụng vật liệu mới và vật liệu thay thế vì giá trị nguyên vật liệu thường chiếm tỷ 
trọng cao trong giá thành của nhiều loại sản phẩm, dịch vụ. Hơn nữa, việc sử dụng 
nguyên vật liệu mới thay thế còn có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao chất lượng 
sản phẩm. 
 Máy móc, trang thiết bị cũng là nhân tố quyết định năng suất, chất lượng và 
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, doanh nghiệp cần bảo quản máy móc thiết bị, 
đảm bảo cho máy móc luôn hoạt động đúng kế hoạch và tận dụng công suất của 
thiết bị máy móc. 
 Đổi mới công nghệ phải đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, thực 
hiện tốt công tác kiểm tra kỹ thuật và nghiệm thu sản phẩm, tránh để cho những sản 
phẩm chất lượng kém ra tiêu thụ trên thị trường. 
3.3.1.7. Tăng cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội 
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, sản xuất của các doanh 
nghiệp mở rộng theo hướng sản xuất lớn, xã hội hóa và mở cửa làm cho mối quan 
hệ lẫn nhau trong xã hội ngày càng chặt chẽ. Doanh nghiệp nào biết sử dụng mối 
quan hệ sẽ khai thác được nhiều đơn hàng, tiêu thụ tốt. Hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp muốn đạt hiệu quả cao cần tranh thủ tận dụng các lợi thế, hạn chế khó 
khăn của môi trường kinh doanh bên ngoài. Đó là: 
 -Giải quyết tốt mối quan hệ với khách hàng: là mục đích ý đồ chủ yếu trong 
kinh doanh, vì khách hàng là người tiếp nhận sản phẩm, người tiêu dùng sản phẩm 
của doanh nghiệp. Khách hàng có được thỏa mãn thì sản phẩm mới được tiêu thụ 
một cách nhanh chóng và rộng rãi trên thị trường. 
 95
-Tạo ra sự tín nhiệm, uy tín trên thị trường đối với doanh nghiệp về chất 
lượng sản phẩm, tác phong kinh doanh, tinh thần phục vụ,... bất cứ doanh nghiệp 
nào muốn có chỗ đứng trên thị trường đều phải gây dựng sự tín nhiệm. Đó là quy 
luật bất di bất dịch để tồn tại trong cạnh tranh trên thương trường. 
 -Giải quyết tốt mối quan hệ với các đơn vị cung ứng để họ trở thành khách 
hàng quen thuộc của công ty nhằm tiết kiệm được chi phí và ổn định nguồn đầu vào 
cho doanh nghiệp. 
 -Giải quyết tốt mối quan hệ với các tổ chức quảng cáo, các cơ quan lãnh đạo 
doanh nghiệp,... thông qua các tổ chức này để mở rộng ảnh hưởng của doanh 
nghiệp, tạo cho khách hàng, người tiêu dùng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp 
nhiều hơn, đồng thời bảo vệ uy tín và sự tín nhiệm đối với doanh nghiệp. 
-Có ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên sinh thái: bảo vệ rừng đầu nguồn, 
chống sự ô nhiễm của bầu không khí, nguồn nước, sự bạc mầu của đất đai trong 
phát triển sản xuất kinh doanh... 
3.3.2. Nhóm giải pháp vĩ mô: 
Để đẩy nhanh công tác cổ phần hóa, cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác 
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà 
nước về cổ phần hóa; bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và đơn 
giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến trình CPH; đồng thời nâng cao hơn 
nữa hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa, tạo “sân chơi” 
bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp... Hơn nữa, đẩy mạnh việc bán cổ phần, 
niêm yết và phát triển TTCK cũng là giải pháp hỗ trợ cho tiến trình CPH DNNN. 
3.3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức chủ 
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa: 
Tâm lý lẩn tránh, bảo thủ, trì trệ vẫn đang tồn tại ở một số cán bộ quản lý 
Nhà nước, cán bộ quản lý DNNN và cả người lao động trong các doanh nghiệp cần 
CPH trên địa bàn tp. Nha Trang. Nhận thức về cổ phần hoá DNNN chưa đầy đủ và 
thống nhất, vướng mắc trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ kịp thời. Hầu 
hết doanh nghiệp trên địa bàn tp. Nha Trang không muốn hoặc tìm cách né tránh 
 96
thực hiện CPH do chưa thấy được lợi ích của cổ phần hoá đem lại và muốn được an 
toàn hơn cũng như không muốn mất đi lợi ích hay lợi thế đang có. Một trong những 
lợi thế mang lại quá nhiều lợi ích đó là sự độc quyền hoặc những ưu đãi mà chỉ 
DNNN mới có được. Do đó, khi các doanh nghiệp được chỉ định cổ phần hóa thì 
thực hiện một cách miễn cưỡng, dẫn đến hiệu quả không cao trong phương thức 
quản trị, điều hành doanh nghiệp cũng như trong sản xuất kinh doanh. 
Để khắc phục thực trạng này, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, 
giải thích, vận động chủ trương, đường lối của Đảng, nhà nước về cổ phần hóa cho 
các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và toàn thể xã hội. Cụ thể: 
+ Bộ tài chính cần phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan như các 
bộ, ngành, địa phương, tổng công ty tiếp tục tổ chức tập huấn, phổ biến tuyên 
truyền sâu rộng chủ trương cổ phần hoá cho những đối tượng tham gia công tác cổ 
phần hóa, phải làm cho các doanh nghiệp ý thức được tầm quan trọng của cổ phần 
hoá trong lộ trình hội nhập. Đồng thời có chiến lược hỗ trợ một cách có hiệu quả về 
đào tạo nâng cao năng lực trước, trong và sau CPH. 
+ Nên đa dạng hóa các hình thức và nội dung tuyên truyền, lựa chọn các hình 
thức tuyên truyền phù hợp, kết hợp phát huy tốt vai trò của các phương tiện thông 
tin đại chúng trong công tác tuyên truyền về cổ phần hóa. Thời gian qua chúng ta 
chủ yếu mới tuyên truyền thiên về thuyết phục, vận động doanh nghiệp tự nguyện 
CPH. Giờ đây cần mở rộng cách thức và nội dung tuyên truyền thông qua giáo dục 
kiến thức về công ty cổ phần, về quyền và trách nhiệm của cổ đông, của Đại hội cổ 
đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban điều hành cho các doanh nghiệp, 
đây là những kiến thức cần thiết để người lao động và các nhà quản lý doanh nghiệp 
tự giác lựa chọn CPH cũng như đủ sức điều hành công ty sau cổ phần hóa hoạt động 
có hiệu quả. 
+ Thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi 
pháp luật nói chung và đặc biệt luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư, luật Thương mại, 
luật Cạnh tranh… làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước, cán bộ quản lý doanh 
 97
nghiệp và người lao động, các cổ đông, người góp vốn hiểu và thực hiện đầy đủ, 
đúng quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình mà pháp luật quy định. 
+ Tuyên truyền phổ biến các tấm gương doanh nghiệp sau CPH hoạt động 
hiệu quả để kích thích các doanh nghiệp thuộc diện CPH tích cực hơn nữa. Thường 
xuyên kiểm tra, sơ kết rút kinh nghiệm để chỉ đạo chặt chẽ và có hiệu quả chương 
trình, kế hoạch CPH DNNN. Tổng điều tra đánh giá hiệu quả thực tế các doanh 
nghiệp sau CPH để rút ra những kinh nghiệm về thành công và chưa thành công của 
các doanh nghiệp. Qua đó làm cho doanh nghiệp thấy được lợi ích rõ ràng, những 
bài học cụ thể từ cổ phần hóa. Làm tốt công tác này sẽ có tác động làm thay đổi 
nhận thức, tạo những hiểu biết tốt hơn, từ đó tạo niềm tin và động lực từ bên trong 
của doanh nghiệp. 
+ Các chủ trương chính sách về cổ phần hóa của Nhà nước cũng phải được 
truyền tải đến tận người lao động để mỗi người biết lựa chọn phương thức hành 
động tốt nhất cho mình. 
+ Cần đưa các kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, về thị trường chứng 
khoán, về công ty cổ phần, và cổ phần hóa DNNN... vào các chương trình đào tạo 
từ phổ thông đến đại học nhằm hình thành một cách có hệ thống nhận thức về nền 
kinh tế thị trường cho thế hệ tương lai của đất nước. 
3.3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về CPH DNNN 
Bộ tư pháp cần liên tục rà soát các thể chế phục vụ việc CPH, phát hiện 
những bất hợp lý, mâu thuẫn, những điều không khả thi để kiến nghị sửa đổi; đồng 
thời đề xuất giải pháp tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thông thoáng trong việc thực hiện 
cổ phần hóa. 
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, quy trình CPH DNNN theo hướng 
đơn giản, gọn nhẹ hơn, giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình 
CPH DNNN. Đặc biệt là quy trình về kiểm kê tài sản, xác nhận nợ, xử lý tài chính 
và định giá doanh nghiệp. Sử dụng các dịch vụ của thị trường tài chính và thị trường 
bất động sản để định giá doanh nghiệp. Hoàn thiện các quy định liên quan đến bán 
đấu giá cổ phần, đa dạng hóa hình thức đấu giá để doanh nghiệp lựa chọn phù hợp 
 98
với thực tế của doanh nghiệp khi thực hiện đấu giá cổ phần, thực hiện các biện pháp 
ngăn chặn tình trạng liên kết thông thầu trong quá trình bán đấu giá cổ phần... Các 
cơ chế, chính sách sửa đổi theo hướng nâng cao trách nhiệm của các cơ quan liên 
quan trong quá trình CPH DNNN; tăng cường kiểm tra, giám sát của cơ quan quản 
lý Nhà nước, cơ quan tài chính đối với công tác CPH DNNN; nâng cao tính công 
khai, minh bạch và thị trường trong quá trình sắp xếp, đổi mới. 
Nghị định của Chính phủ số 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 
về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần đã quy định, hướng dẫn 
một cách chi tiết hơn những vấn đề bất cập trong những văn bản trước đây. Tuy 
nhiên, vẫn còn một số điểm cần xem xét lại như: thẩm quyền phê duyệt phương án 
CPH và quyết định chuyển DNNN thành công ty cổ phần, chính sách ưu đãi đối với 
doanh nghiệp CPH, quyền lợi của người lao động trong công ty cổ phần... Trước 
mắt Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 187/2004/NĐ-CP 
cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn như bổ sung đối tượng CPH bao gồm các DN 
hoạt động công ích, các đơn vị sự nghiệp; phương thức bán cổ phần lần đầu; nhà 
đầu tư chiến lược và chính sách đối với nhà đầu tư chiến lược; gắn CPH với niêm 
yết trên TTCK ngay từ khi phê duyệt phương án CPH; ưu đãi cho các DN CPH... 
Có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua 
cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam. 
Trường hợp doanh nghiệp lựa chọn hình thức giao đất thì phải tính giá trị 
quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp theo giá đất đã được Ủy ban nhân dân 
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (nơi doanh nghiệp có diện tích đất được 
giao) quy định và công bố. Nếu giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử 
dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường tại thời điểm cổ phần 
hóa thì UBND tỉnh, thành phố trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp. 
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày gửi đủ hồ sơ, nếu chưa nhận được văn bản của 
UBND tỉnh, thành phố trung ương về giá đất thì cơ quan có thẩm quyền quyết định 
giá trị doanh nghiệp được quyền xác định giá trị doanh nghiệp theo giá đất doanh 
nghiệp đã đề nghị. 
 99
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh doanh chứng khoán và thị 
trường chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát hành chứng 
khoán, đặc biệt là phát hành cổ phiếu lần đầu. Bên cạnh đó, ra sức thu hút các công 
ty cổ phần niêm yết để đa dạng mặt hàng, mở rộng thị trường và trở thành kênh thu 
hút đầu tư quan trọng cho các doanh nghiệp. Bổ sung các quy định bắt buộc những 
DNNN có quy mô vốn lớn và hoạt động có hiệu quả phải niêm yết và đăng ký giao 
dịch tại các trung tâm giao dịch chứng khoán. 
Để đẩy mạnh tiến trình CPH các DNNN, cần phải có một môi trường vững 
chắc và sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Nhà nước đã ban hành nhiều bộ luật 
nhằm xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp trong kinh tế 
thị trường có định hướng của Nhà nước. Tuy vậy, để tiến trình CPH được thông 
suốt hơn, các ngành, bộ cần nghiên cứu ban hành các văn bản dưới luật ngày càng 
hoàn chỉnh hơn nhằm tạo điều kiện cho quá trình CPH các DNNN ở các tỉnh thành 
thực hiện có kết quả. 
Ngoài ra, Nhà nước cần quan tâm cải thiện môi trường pháp lý chung, tạo 
khuôn khổ cạnh tranh bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp. Các DNNN và 
DNNN sau CPH cần được Nhà nước quan tâm như nhau về tài chính, thông tin, thủ 
tục hành chính… Nhà nước xoá bỏ nhanh bao cấp dưới mọi hình thức để không còn 
chỗ dựa tạo đặc quyền, đặc lợi như trước đây mà hiện vẫn còn ở mức độ khác nhau 
của các DNNN. Trong thời gian tới, Nhà nước cần ban hành luật doanh nghiệp 
thống nhất chung cho mọi loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Xây dựng 
cơ chế giám sát và chính sách điều tiết đối với những doanh nghiệp chưa xóa bỏ 
được vị thế độc quyền kinh doanh. 
Cần tạo môi trường pháp lý, tổ chức, xã hội giúp các DNNN khi trở thành 
các công ty cổ phần thoát khỏi mặc cảm bị bỏ rơi khi gặp khó khăn không biết kêu 
cứu ai. Nhà nước cần thi hành chính sách tài chính cứng với tất cả các loại hình 
doanh nghiệp nhằm đưa yếu tố tự chủ, cạnh tranh vào nhận thức và hành vi của 
doanh nghiệp, không để các DNNN tồn tại tư tưởng trông chờ, ỷ lại quá nhiều vào 
Nhà nước như hiện nay. 
 100
3.3.2.3. Cần đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến trình cổ phần 
hóa: 
Mỗi khâu cổ phần hóa cần tiến hành chặt chẽ, thận trọng, đúng quy định của 
Nhà nước nhưng phải khẩn trương, nhanh chóng. Đặc biệt có khả năng rút ngắn 
được nhiều thời gian hiện nay ở các khâu: lập Ban đổi mới doanh nghiệp, định giá, 
quyết định giá, phê duyệt phương án cổ phần hóa và đăng ký kinh doanh. Các công 
ty được cổ phần hóa hoàn toàn khác với một doanh nghiệp mới thành lập đi vào 
kinh doanh. Các công ty đó đều đã có hồ sơ gốc, sẵn có địa điểm, có tên và thương 
hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, đã đăng ký từ trước, có thị trường truyền thống; nếu có 
khác, chỉ là số yếu tố mới phát sinh hoặc bổ sung trong và sau cổ phần hóa. Do vậy, 
thủ tục đăng ký kinh doanh cần được đơn giản hóa và rút ngắn hơn nhiều về nội 
dung, thể thức và thời gian. 
Thực hiện cải cách hành chính hướng tới mục tiêu phục vụ doanh nghiệp: 
đổi mới phương thức quản lý, hạn chế việc ban hành các giấy phép kinh doanh, cải 
cách nâng cao hiệu quả cơ chế “một cửa” trong thực hiện thủ tục hành chính, tạo 
mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp gia nhập thị trường và tự chủ, tự chịu 
trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh. 
3.3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách về cổ phần 
hóa: 
Để chủ trương cổ phần hóa đến được với từng doanh nghiệp, cần phải có một 
bộ phận chuyên trách tham mưu hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cho quá trình cổ 
phần hóa. Không chỉ vậy, bộ phận này sẽ chuyên nghiên cứu quá trình thực hiện cổ 
phần hóa, nắm bắt được những vướng mắc, trở ngại để từ đó đề xuất các phương án 
cổ phần hóa khoa học, khả thi lên chính phủ. 
Theo kinh nghiệm cổ phần hóa ở một số nước, cần phải thiết lập một cơ quan 
chuyên trách đủ mạnh để dồn tâm lực vào quá trình xây dựng chương trình, mục 
tiêu, phương án CPH khoa học, khả thi trên phạm vi tổng thể bỏ qua lợi ích cục bộ 
của các cơ quan chủ quản và kiên quyết thực hiện tới cùng chương trình đó. Cách 
làm theo kiểu phong trào những năm qua đã dẫn đến các hậu quả không mong 
 101
muốn như: CPH diễn ra chậm do phải chờ các cơ quan chủ quản và doanh nghiệp 
tự nguyện; các DNNN dễ CPH và có lợi cho các bên liên quan khi CPH thì làm 
nhanh, các doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc xin rút, hoặc tìm mọi cách lẩn tránh, 
kéo dài quá trình làm thủ tục; nhà nước không kiểm soát được quá trình CPH nên 
đôi khi bị thất thoát vốn nhà nước... 
Bộ phận này phải hoạt động thực sự có hiệu quả, không chỉ tồn tại trên giấy 
tờ hay làm việc một cách quan liêu, cho có lệ, qua loa. Cơ quan này cần phối hợp 
chặt chẽ với các bộ, các ngành trong việc theo dõi, kiểm tra, giám sát thực hiện các 
chương trình kế hoạch được thủ tướng Chính phủ phê duyệt, kịp thời tháo gỡ các 
vướng mắc trong: xác định giá trị doanh nghiệp, xử lý nợ tồn đọng, giải quyết chế 
độ cho lao động dôi dư, những vấn đề liên quan đến tổ chức, quản lý công ty theo 
luật Doanh nghiệp và luật DNNN... kịp thời kiến nghị với thủ tướng Chính phủ có 
cơ chế, chính sách thúc đẩy tiến trình CPH DNNN. Cơ quan chuyên trách của tỉnh 
sẽ cùng các doanh nghiệp tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong quá trình cổ 
phần hóa. Đối với những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực, ngành nghề hơi đặc biệt, có 
ít doanh nghiệp cùng lĩnh vực cổ phần hóa để học hỏi kinh nghiệm, đồng thời các 
quy định của chính phủ khi đưa ra chưa xét đến những trường hợp đặc biệt này, ban 
đổi mới DNNN địa phương cần xem xét những kinh nghiệm CPH cho doanh nghiệp 
đó ở các địa phương khác hoặc nhanh chóng kiến nghị với tỉnh hoặc trung ương về 
những trường hợp chưa xử lý được, để có biện pháp xử lý nhanh giúp tiến trình 
CPH được thực hiện nhanh chóng và đạt hiệu quả cao, không làm các doanh nghiệp 
hoang mang, lo lắng, mất nhiều thời gian trong tiến trình cổ phần hóa. 
Đồng thời, cơ quan này phải đủ năng lực và tâm huyết để giải quyết nhanh 
gọn, không để tình trạng ùn tắc giấy tờ, bắt các doanh nghiệp phải đợi lâu trong tiến 
trình cổ phần hóa. 
Do vậy, cần thiết phải thiết lập cơ quan chuyên trách về cổ phần hóa để thực 
sự đặt quá trình CPH trên cơ sở khoa học và kiểm soát được từ phía nhà nước cũng 
như linh hoạt, kiên quyết khi giải quyết khó khăn, vướng mắc trong quá trình cổ 
phần hóa. 
 102
3.3.2.5. Tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp 
Nhà nước cần định hướng, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các loại 
hình doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, đảm bảo thực sự bình đẳng đối với mọi loại 
hình tổ chức sản xuất, kinh doanh và đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong 
và ngoài nước. Từ đó, các doanh nghiệp có thể hoạt động hiệu quả hơn theo cơ chế 
thị trường, phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta với thế giới. 
Điều 36 của Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ đã 
quy định “Doanh nghiệp sau khi CPH được tiếp tục vay vốn ngân hàng tại các ngân 
hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ 
chế như đối với các công ty nhà nước”. Nhưng trên thực tế đang có sự bất bình đẳng 
trong thế chấp vay vốn giữa doanh nghiệp Nhà nước với các công ty cổ phần ra đời 
từ chính các doanh nghiệp Nhà nước trước đây. Các công ty nhà nước có cơ chế cho 
vay ưu đãi hơn so với công ty cổ phần. Do vậy, các DNNN sau khi CPH gặp nhiều 
khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng. Nguyên nhân của tình trạng trên là do các 
ngân hàng thương mại yên tâm hơn khi cho các DNNN vay vì được sự bảo lãnh của 
Nhà nước, còn đối với công ty cổ phần thì họ ngần ngại cho vay do các công ty này 
không được Nhà nước bảo lãnh nên đòi hỏi nhiều thủ tục, giấy tờ hơn. Vì vậy, nhà 
nước cần từng bước điều chỉnh, dẫn đến xoá bỏ trên thực tế (không phải chỉ trên 
giấy tờ, văn bản) sự phân biệt đối xử trong các chính sách nhằm khuyến khích các 
DNNN thực hiện cổ phần hoá, tạo sân chơi bình đẳng giữa các loại hình doanh 
nghiệp, đặc biệt giữa loại hình doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần. 
Để đáp ứng yêu cầu trên, trong thời gian tới Nhà nước cần đưa DNNN trở 
thành đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp thống nhất, đồng thời xác định 
cơ chế, chính sách, quyền lợi của công ty cổ phần trong việc vay vốn, nhằm tăng 
khả năng tạo nguồn vốn như: 
-Các ngân hàng sẽ áp dụng chung mức lãi suất cho các đối tượng đi vay 
thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt doanh nghiệp nhà nước hay công ty 
cổ phần mà chỉ xem xét cho vay dựa trên tính khả thi của dự án. Từ đó xoá bỏ hoàn 
toàn việc Nhà nước gián tiếp bao cấp cho các DNNN thông qua lãi suất vay ưu đãi. 
 103
-Khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái phiếu công ty để vay vốn dài 
hạn. Trái phiếu của các doanh nghiệp sẽ được các nhà đầu tư mua nếu lãi suất cao, 
hấp dẫn, được bảo hiểm và có tính thanh khoản cao. Do đó, để thúc đẩy thị trường 
trái phiếu phát triển, đã đến lúc Nhà nước cần thành lập các tổ chức định mức tín 
nhiệm nhằm thông tin về rủi ro của các công cụ nợ và định hướng cho người đầu tư. 
3.3.2.6. Đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển TTCK. 
Các DNNN sau khi chuyển thành công ty cổ phần có khả năng huy động vốn 
đầu tư thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu trên TTCK. Tuy nhiên thị trường 
chứng khoán Việt Nam hiện nay chưa thực sự trở thành một kênh huy động vốn có 
hiệu quả cho đầu tư phát triển các doanh nghiệp. Một thị trường chứng khoán với 
quy mô lớn và chất lượng cao sẽ tạo điều kiện cho thị trường vốn hoạt động mạnh. 
Các nhà đầu tư dựa vào khả năng sinh lợi và tính thanh khoản của chứng khoán để 
quyết định có nên đầu tư vào chứng khoán hay không. Có thể nói trong giai đoạn 
hiện nay, tính thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán 
Việt Nam chưa cao do số lượng công ty cổ phần niêm yết trên thị trường còn khiêm 
tốn và chất lượng chứng khoán chưa cao. Vì vậy, đối tượng mua chứng khoán chủ 
yếu là người lao động trong doanh nghiệp, nhưng do thu nhập thấp nên số lượng cổ 
phần mà họ mua được không nhiều. Khi cần chuyển nhượng, người lao động chủ 
yếu chỉ bán theo hình thức “sang tay” trong nội bộ, mà không tham gia thị trường 
chứng khoán. 
Mặt khác, với quy mô nhỏ và chất lượng hàng hóa chưa cao, thị trường 
chứng khoán Việt Nam hiện nay chưa thật sự khuyến khích các công ty cổ phần 
niêm yết cũng như chưa thu hút được sự quan tâm mạnh mẽ của các nhà đầu tư. Do 
vậy, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa, Nhà nước cần mở rộng 
các hình thức bán cổ phần lần đầu thông qua hình thức đấu giá, bảo lãnh phát hành, 
đại lý phát hành...; đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp sau khi được CPH 
nhanh chóng niêm yết cổ phiếu của mình trên TTCK; gắn việc phát hành cổ phiếu 
với niêm yết công khai trên thị trường. Thậm chí, đối với những DNNN đã tiến 
hành CPH có đủ điều kiện, Nhà nước cần quy định cụ thể lộ trình thực hiện niêm 
 104
yết trên thị trường chứng khoán. Song song đó, cần đẩy nhanh việc thực hiện chủ 
trương cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo nguồn cung hàng 
hóa có chất lượng cao trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, cần phát triển hệ 
thống các tổ chức tài chính trung gian để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư 
trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK. 
Để tăng quy mô của TTCK, mặt khác Chính phủ cần đưa ra những chính 
sách ưu đãi cụ thể đối với các doanh nghiệp CPH khi thực hiện niêm yết, giảm thiểu 
quy định không phù hợp về thủ tục và điều kiện niêm yết để những doanh nghiệp đủ 
điều kiện, khi tiến hành CPH sẽ thích thú, tự giác niêm yết trên TTCK như: 
9 Cần có chính sách hỗ trợ thiết thực như hỗ trợ phí kiểm toán, tư vấn niêm yết, 
hỗ trợ nâng cấp hệ thống quản trị doanh nghiệp. 
9 Thực hiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp 
cổ phần hóa niêm yết căn cứ theo thời gian doanh nghiệp tham gia niêm yết sau khi 
cổ phần hóa. 
9 Khuyến khích và ưu tiên niêm yết đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa có 
vốn lớn, có quy mô hoạt động rộng, có uy tín thương hiệu nhằm tăng chất lượng 
hàng hóa niêm yết và quy mô cho thị trường. 
Kết luận chương 3. 
Trên cơ sở thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và những vướng mắc 
còn tồn tại ở các doanh nghiệp đã và đang tiến hành cổ phần hóa, chương 3 đã đưa 
ra chủ trương cổ phần hóa các DNNN ở tp. Nha Trang, đồng thời đề xuất một số 
giải pháp vi mô cũng như vĩ mô nhằm góp phần nâng cao hiệu quả và đẩy nhanh 
tiến trình cổ phần hóa các DNNN trên địa bàn tp. Nha Trang. Các giải pháp vi mô 
được luận văn đề cập đến bao gồm: giải pháp cho việc xác định giá trị doanh nghiệp 
CPH, công khai hóa thông tin tài chính doanh nghiệp, tiếp tục bổ sung và hoàn 
thiện chiến lược kinh doanh của các công ty sau cổ phần hóa, phát triển trình độ đội 
ngũ lao động, tạo động lực cho tập thể và cá nhân người lao động, đổi mới công tác 
quản trị và tổ chức sản xuất, đổi mới kỹ thuật- công nghệ và tăng cường mở rộng 
quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp với xã hội. Bên cạnh đó, luận văn cũng đề xuất 
 105
các giải pháp vĩ mô đó là: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận 
thức chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa; tiếp tục hoàn 
thiện cơ chế, chính sách và đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính trong tiến 
trình CPH; đồng thời nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên 
trách về cổ phần hóa; tạo “sân chơi” bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp và 
đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển TTCK. Trên đây là một số giải 
pháp với hy vọng góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả và đẩy mạnh tiến trình cổ 
phần hóa các DNNN ở tp. Nha Trang. 
 106
KẾT LUẬN 
Trước những thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển, cạnh tranh 
và hội nhập kinh tế quốc tế, chủ trương cổ phần hóa DNNN của chính phủ đã được 
xem là một quyết định đúng đắn và tất yếu nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu, đổi 
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Vì vậy, ngay trong chương đầu 
của đề tài này đã nêu ra những vấn đề có tính chất tổng quan về cổ phần hóa như: 
các vấn đề liên quan đến công ty cổ phần; khái niệm, phân loại và đặc trưng của 
CPH cũng như vai trò quan trọng của nó đối với xã hội, doanh nghiệp và cả người 
lao động. Bên cạnh đó, việc phân tích những kinh nghiệm CPH của một số quốc gia 
đã rút ra những bài học quý giá để có thể vận dụng linh hoạt vào các doanh nghiệp 
Việt Nam nói chung và tp.Nha Trang nói riêng dựa trên hoàn cảnh và điều kiện kinh 
tế hiện nay. 
Từ việc nghiên cứu những lý luận tổng quan này đã xây dựng cơ sở cho đề 
tài đi sâu vào phân tích tình hình sản xuất kinh doanh và quá trình CPH của DNNN 
tại tp.Nha Trang. Với những kết quả so sánh và phân tích các chỉ số về doanh thu 
thuần bình quân, vốn chủ sở hữu bình quân, lợi nhuận sau thuế/doanh thu thuần 
bình quân… đã cho thấy những kết quả rất khả quan, hiệu quả sản xuất kinh doanh 
của các DN sau CPH được nâng lên rõ rệt, những kết quả này đã góp phần vào sự 
thành công của chủ trương CPH. Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được thì đề 
tài cũng đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại ở cả các DN sau khi 
CPH cũng như ở các DN đang trong tiến trình CPH phải đối mặt. Đó là những hạn 
chế, rào cản làm giảm hiệu quả của quá trình CPH. 
Như vậy, thiết nghĩ để nâng cao hiệu quả CPH các DNNN ở tp. Nha Trang 
thì cần có sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền nhằm tạo một môi trường vĩ mô thuận 
lợi cho các DNNN đã CPH, nhanh chóng có những định hướng để giúp các DN 
trước và sau CPH có thể tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh đó, về phía 
DN cũng cần có sự hợp tác thật sự để thực hiện đồng bộ những giải pháp nhằm tự 
mình giải quyết những bất cập, vướng mắc đó. Đặc biệt khi tiến trình gia nhập 
 107
WTO đang tiến gần kề thì việc mau chóng CPH các DNNN càng trở nên cần thiết 
và đặt ra nhiều thách thức cho DNNN chủ động đổi mới nhằm đáp ứng cao trong 
thời kỳ hội nhập. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp (10/2006), Báo cáo kết quả sắp 
xếp, đổi mới, phát triển DNNN và phương hướng, nhiệm vụ 2006-2010. 
2. Bộ tài chính (2000), Các văn bản thực hiện luật doanh nghiệp, NXB Xây dựng. 
3. Bộ Tài chính, Thông tư số 126/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện nghị định số 
187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành 
công ty cổ phần. 
4. Lưu Quang Định (2005), “Năm 2005: Đẩy mạnh thị trường hoá cổ phần hoá”, 
Báo Lao Động. 
5. Nguyễn Đỗ (2006), Chứng khoán đầu tư và quản lý, NXB Lao động xã hội. 
6. Lâm Du Hải (2006), “Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp cổ phần hóa: Cần có thêm 
những nghiên cứu bổ sung”, VNECONOMY. 
7. Lâm Du Hải (2006), “Đẩy nhanh cổ phần hoá: Đề xuất ba phương pháp tính giá 
trị doanh nghiệp”, VNECONOMY . 
8. Đoàn Văn Hạnh (1998), Công ty cổ phần và chuyển DNNN thành công ty cổ 
phần, NXB Thống kê. 
9. Hồ Sỹ Hùng (2002), “Cổ phần hoá DNNN - bước đi tất yếu”, Đầu tư. 
10. Thu Huyền - Ngọc Quyết, “Cổ phần hóa phải hướng tới thị trường”, Tiền 
Phong. 
11. Nhật Linh (2005), “Chấm dứt cổ phần hóa khép kín”, Báo Tuổi Trẻ . 
12. Hà My (2005), “Cổ phần hóa DNNN ở Trung Quốc”, TCCN. 
13. Nguyễn Văn Nghĩa, CPH giải pháp quan trọng trong cải cách DNNN, NXB 
CTQG. 
14. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp. 
 108
15. Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Khánh Hoà (2005), Báo cáo tình hình thực hiện sắp 
xếp DNNN năm 2005 và kế hoạch năm 2006. 
16. Lê Sơn, “Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: DNNN cần cơ cấu theo hướng đa 
sở hữu”, Pháp luật TP.HCM. 
17. Đoàn Văn Trường (1996), Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt động công ty 
cổ phần, NXB Khoa học và Kỹ thuật. 
18. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình luật kinh tế, NXB Tư pháp, Hà 
Nội. 
19. Lê Tuấn ( 2005), “Đẩy nhanh vững chắc cổ phần hóa công ty nhà nước”, Cục 
Tin học và Thống kê tài chính. 
20. Văn phòng Chính phủ (2004), Nghị định của Chính phủ số 187/2004/NĐ-CP 
ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần. 
21. Ngô Việt - Hải Yến, “Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự là một 
kênh huy động vốn”, Nhà quản lý 
22. TS.Bùi Kim Yến (2006), Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Lao động xã 
hội. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
45581.pdf