Rủi ro là một điều rất phổ biến và gần như mang tính tất yếu đối với mọi hiện tượng cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống kinh tế, xã hội của con người. Đó là khả năng xảy ra những biến cố không lường trước và thường gây ra hậu quả xấu. Hoạt động kinh doanh Ngân hàng là một trong những lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận, và do vậy nó cũng là lĩnh vực hàm chứa nhiều rủi ro. Thực tiễn hoạt động kinh doanh của các NHTM đã cho thấy, rủi ro đối với NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản., trong đó đặc biệt và thường xuyên là rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng có quan hệ mật thiết với các rủi ro còn lại, và được coi là một trong những loại rủi ro lâu đời nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây ra hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy rủi ro tín dụng không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM trong công tác quản trị ngân hàng, mà còn thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả. Rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết về rủi ro tín dụng đã ra đời và cùng với nó là nhiều khái niệm về rủi ro tín dụng đã được đưa ra, sau đây là một
83 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1083 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hồng Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của chi nhánh, 1 chi nhánh cấp 2 và 6 phòng giao dịch trực thuộc. Nội dung đi sâu vào kiểm tra việc thực hiện quy trình chế độ của ngành, chấp hành pháp luật của Nhà nước. Hiệu quả vốn đầu tư và an toàn vốn nói chung, kiểm tra việc quản lý, theo dõi và biện pháp chỉ đạo thu hồi nợ đã xử lý rủi ro.
Về công tác xử lý nợ quá hạn, nợ xấu:
Trong thời gian qua, Chi nhánh đã rất chú trọng đến công tác xử lý nợ quá hạn, nợ xấu. Bằng các hoạt động kiểm tra, giám sát tín dụng, Chi nhánh đã kịp thời có những biện pháp tích cực để thu hồi nợ nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Đối với những khoản vay có dấu hiệu đe dọa đến khả năng trả nợ, hoặc những khoản vay đã quá hạn do những nguyên nhân phát sinh từ điều kiện khách quan làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khác hàng, Chi nhánh đã có những biện pháp hỗ trợ cho khách hàng như: điều chỉnh lại kỳ hạn trả nợ, cơ cấu lại khoản nợ hoặc hỗ trợ cho khách hàng vay thêm vốn nếu đánh giá khách hàng có thể phục hồi được hoạt động sản xuất kinh doanh và có chiều hướng phát triển khả quan...
Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng đã trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. Trong năm 2007, Chi nhánh đã trích lập dự phòng rủi ro tổng cộng là 168,3 tỷ đồng. Thu nợ đã xử lý rủi ro đạt trên 46 tỷ đồng, tuy nhiên con số này vẫn còn quá thấp so với tổng số nợ đã được xử lý rủi ro phải thu.
Với tất cả những nỗ lực nhằm ngăn ngừa và khắc phục rủi ro tín dụng xảy ra, Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong công tác hạn chế rủi ro tín dụng. Sau đây là một vài kết quả đạt được:
Nợ quá hạn:
Bảng 2.6: Tình hình nợ quá hạn từ năm 2005-2007
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
So sánh 06/05
So sánh 07/06
+/-
%
+/-
%
Dư nợ
401.331
670.000
1.243.088
268.669
66,9
573.088
85,6
Nợ quá hạn
6.738
14.600
24.240
7.862
116,7
9.640
66,0
NQH/TDN
1,68%
2,18%
1,95%
( Nguồn Báo cáo phân loại nợ Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà)
Nhìn vào bảng số liệu trên chúng ta thấy:
Về mặt tổng quát, nợ quá hạn nói chung của các năm 2005, 2006, 2007 có xu hướng tăng dần qua mỗi năm. Năm 2006 tăng so với năm 2005 là 7.862 triệu đồng (tương đương với 116,7%), năm 2007 tăng so với 2006 là 9.640 triệu đồng (tương đương với 66%). Dư nợ tăng đồng nghĩa với nợ quá hạn tăng. Tuy nhiên, tốc độ tăng của dư nợ có xu hướng tăng qua các năm (từ 66,9% lên 85,6%), trong khi tốc độ tăng của nợ quá hạn lại có xu hướng giảm mạnh (từ 116,7% xuống còn 66%) cho thấy công tác hạn chế rủi ro tín dụng của chi nhánh đã đạt được nhiều kết quả thuận lợi.
Ngoài ra, tỷ trọng nợ quá hạn/Tổng dư nợ mặc dù vẫn còn cao nhưng vẫn nằm trong phạm vi an toàn (dưới 3% theo tiêu chuẩn đề ra của NHNo & PTNT).
Nợ xấu:
Bảng 2.7: Tình hình nợ xấu tại chi nhánh từ năm 2005- 2007
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
So sánh 06/05
So sánh 07/06
+/-
%
+/-
%
Tổng dư nợ
401.331
670.000
1.243.088
268.669
66,9
573.088
85,6
Tổng nợ xấu
6.740
15.200
24.862
8.460
125
9.662
63,6
- Nhóm 3
3.137
12.845
14.000
9.708
309
1.155
9,0
- Nhóm 4
787
690
3.305
-97
-12,3
2.615
379,0
- Nhóm 5
2.816
1.665
7.557
-1.151
-40,8
5.892
353,9
Nợ xấu/TDN
1,7%
2,2%
2%
( Nguồn Báo cáo phân loại nợ Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà)
Phân tích nợ theo chuẩn mực của QĐ 493/2005/QĐ-NHNN đã sàng lọc các khoản tín dụng có biểu hiện rủi ro để kịp thời xử lý. Kết quả thực hiện hạn chế rủi ro tín dụng của chi nhánh đã tác động làm giảm tỷ lệ nợ xấu từ 2,2% (năm 2006) xuống còn 2% (năm 2007). Tuy nhiên, nợ có khả năng mất vốn lại có xu hướng tăng mạnh cho thấy các quan hệ tín dụng có hàm lượng rủi ro rất cao, công tác xử lý nợ xấu của chi nhánh còn nhiều hạn chế, công tác thu nợ chưa tốt.
Tỷ lệ nợ xấu/ Tổng dư nợ mặc dù còn trong mức cho phép nhưng vẫn đang ở mức cao.
2.2.4. Đánh giá công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà
2.2.4.1. Kết quả đạt được trong công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh
Là một tổ chức tín dụng mà hoạt động cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có, là tài sản tạo ra đến 90% lợi nhuận cho ngân hàng nên Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà rất chú trọng đến công tác hạn chế rủi ro tín dụng. Với tất cả những cố gắng như vậy, thời gian qua Chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc hạn chế rủi ro tín dụng. Một số thành công có thể kể đến như sau:
Cơ cấu tín dụng của Chi nhánh đã có sự chuyển biến tích cực:
Trong những năm qua, hoạt động quản lý tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà đã đạt được những thành công đáng kể. Vốn tín dụng đã được đầu tư đúng hướng, có sự tập trung vốn cho các dự án, phương án kinh doanh có hiệu quả kinh tế từ đó giúp đảm bảo khả năng trả nợ. Đặc biệt là về cơ cấu tín dụng đã có sự chuyển hướng tích cực, theo đó Chi nhánh đã giảm dần tỷ trọng cho vay đối với các doanh nghiệp Nhà nước và tăng dần tỷ trọng cho vay đối với các thành phần kinh tế phi quốc doanh. Đây là sự điều chỉnh hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển kinh tế của nước ta hiện nay, vì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang vươn lên là khu vực kinh tế năng động, phát triển nhanh và ngày càng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu nhập quốc dân. Sự chuyển hướng này đã mang lại những tác động tích cực tới công tác hạn chế rủi ro tín dụng của Chi nhánh.
Hoạt động tín dụng luôn được quản lý phát triển theo mục tiêu an toàn:
Đi đôi với việc mở rộng và phát triển quy mô tín dụng, chi nhánh luôn quan tâm đến việc bảo đảm các điều kiện an toàn cho hoạt động tín dụng như:
Duy trì và thực hiện nghiêm các giới hạn về an toàn tín dụng, thể hiện ở: Quyền hạn và mức phán quyết cho vay, quyết định về hạn mức tín dụng, về miễn giảm lãi vay...của ban giám đốc hay của cán bộ tín dụng đối với từng đối tượng khách hàng...Tỷ lệ về an toàn hoạt động, mức vốn cho vay tối đa đối với khách hàng, tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn...đều được chi nhánh thực hiện đảm bảo, tránh những tác động rủi ro bất ngờ trong hoạt động tín dụng
Ngoài ra, chi nhánh cũng thường xuyên cân bằng sự phát triển hoạt động tín dụng với nguồn lực thực có của ngân hàng
Công tác kiểm tra giám sát hoạt động tín dụng luôn được chú trọng:
Nhờ có những quan tâm đúng mức trong công tác kiểm tra giám sát, mà trong thời gian qua Chi nhánh đã kịp thời phát hiện ra những sai sót trong việc chấp hành các quy định và quy trình tín dụng. Với vai trò độc lập của Bộ phận Kiểm tra giám sát tín dụng, chi nhánh đã nhanh chóng phát hiện ra những sai phạm nghiêm trọng trong công tác cho vay như hồ sơ pháp lý không đầy đủ, tài sản đảm bảo không có giấy tờ sở hữu..., từ đó giúp chi nhánh có những giải pháp kịp thời để xử lý và khắc phục những sai sót nhằm đảm bảo cho hoạt động tín dụng được diễn ra an toàn và hiệu quả.
2.2.4.2. Hạn chế
Quy trình tín dụng chưa hợp lý:
Quy trình thẩm định và cho vay của Chi nhánh còn có một số điểm không hợp lý, liên quan đến việc phân cấp trách nhiệm của cán bộ thẩm định. Một điểm yếu của quy trình thẩm định và cho vay hiện nay là cán bộ tín dụng vẫn thực hiện cả ba khâu cơ bản trong quá trình cho vay là: Tiếp xúc khách hàng, thẩm định phương án vay vốn, giải ngân và thu nợ. Đây là trách nhiệm nặng nề đối với cán bộ tín dụng nhưng là cơ hội để một số ít cán bộ tín dụng thoái hóa, biến chất lợi dụng để móc ngoặc với khách hàng cho vay vốn, cố tình làm sai lệch thông tin để thu lợi cá nhân, tăng nguy cơ phát sinh rủi ro tín dụng
Mặt khác, số liệu sử dụng để căn cứ làm thẩm định chưa đầy đủ, thiếu chính xác hoặc không khách quan làm tăng nguy cơ đánh giá sai lệch về khách hàng vay vốn và hiệu quả dự án, phương án. Nguyên nhân là do Chi nhánh còn hạn chế trong việc thu thập và lưu trữ thông tin về khách hàng cũng như các thông tin kinh tế xã hội cần thiết khách cho quá trinh thẩm định
Ngoài ra, trong quá trình thẩm định, các báo cáo tài chính, luận chứng kinh tế kỹ thuật là do khách hàng lập và cung cấp nên tính chính xác và khách quan của các tài liệu này rất khó kiểm chứng. Việc thẩm định thường dựa trên những thông tin chủ quan do khách hàng cung cấp. Trừ trường hợp cần thiết, không phải lúc nào chi nhánh cũng có điều kiện để mời các tổ chức chuyên môn tái thẩm định để xác định tính chính xác của những tài liệu này.
Về xử lý nợ quá hạn, nợ xấu:
Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu của Chi nhánh luôn được khống chế ở mức dưới 3% nhưng vẫn còn ở mức cao, phản ánh nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cao. Đặc biệt là nợ có khả năng mất vốn lại có xu hướng tăng nhanh, đây là một hạn chế lớn trong công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh.
Về chấm điểm và xếp hạng tín dụng:
Mặc dù, Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà đã tiến hành đánh giá và phân loại khách hàng theo tiêu chí chấm điểm và xếp hạng tín dụng do NHNo & PTNT Việt Nam xây dựng dựa trên hai tiêu chí là: chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một số cán bộ tín dụng vẫn chưa thực hiện đúng quy trình chấm điểm, mặt khác việc chấm điểm vẫn mang tính võ đoán thiếu chính xác nên khi xếp loại chưa phản ánh đúng thực tế về tình hình khách hàng.
Về bảo đảm tiền vay:
Cơ chế bảo đảm tiền vay và việc định giá Tài sản đảm bảo trong quá trình thẩm định hồ sơ đóng một vai trò hết sức quan trọng nhưng việc xem xét và đánh giá tài sản, quản lý tài sản bảo đảm, các chuẩn mực về tài sản còn sơ khai. Nhận thức về quyền lựa chọn tài sản bảo đảm của cán bộ ngân hàng còn chưa đầy đủ. Việc định giá đôi khi được thực hiện một cách chiếu lệ và mang tính thủ tục, đặc biệt là đối với các tài sản bảo đảm là công trình xây dựng hoặc dây chuyền máy móc thiết bị. Chi nhánh không phải lúc nào cũng có thể tham vấn ý kiến của các tổ chức định giá chuyên nghiệp. Từ đó có thể tạo kẽ hở cho một số cán bộ tín dụng cố ý cấu kết với khách hàng để nâng khống giá trị tài sản đảm bảo, thu lợi cá nhân.
2.2.4.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
- Về cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng và quy trình tín dụng chưa phù hợp:
Mặc dù, theo quy định chung trong việc tổ chức bộ máy hoạt động tín dụng đối với hệ thống các chi nhánh ngân hàng trực thuộc hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam hiện nay thì việc bố trí bộ máy tín dụng phải có đầy đủ hai bộ phận độc lập là phòng tín dụng và phòng thẩm định. Tuy nhiên, hiện tại chi nhánh chỉ tổ chức một phòng ban là phòng kế hoạch kinh doanh thực hiện đồng thời chức năng của cả hai phòng trên.
Với mô hình như vậy, một mặt làm giảm tính độc lập trong công tác thẩm định từ đó có thể dẫn đến những sai sót do cán bộ tín dụng vừa thực hiện tiếp nhận hồ sơ khách hàng, vừa đảm nhận việc việc thẩm định và quyết định cho vay. Mặt khác, còn dẫn đến những quá tải trong công việc khi mà một cán bộ tín dụng phải đảm nhận tất cả các khâu của quá trình cho vay. Đặc biệt là đối với các dự án lớn, một cán bộ tín dụng phải làm tất cả các việc từ gặp gỡ khách hàng, thu thập thông tin, phân tích thẩm định dự án đến giám sát và quản lý tiền vay. Với một khối lượng lớn công việc như vậy thì việc sai sót trong quá trình cho vay là không thể tránh khỏi. Hơn nữa, nó cũng không phát huy được những mặt mạnh của mỗi cán bộ tín dụng, bởi có những cán bộ tín dụng có khả năng giao tiếp với khách hàng tốt, nhanh nhạy nắm bắt thông tin, có những cán bộ lại giỏi trong việc thẩm định, phân tích các chỉ tiêu của dự án...
- Đội ngũ cán bộ còn thiếu, trình độ của cán bộ tín dụng còn hạn chế:
Số lượng cán bộ tín dụng của Chi nhánh còn thiếu, đặc biệt là cán bộ tín dụng có trình độ cao. Số lượng cán bộ tín dụng trẻ chiếm tỷ lệ lớn, mặc dù năng động, nhiệt huyết với công việc nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tiễn, phần lớn còn đang trong quá trình tiếp cận, đào tạo và học hỏi thêm, do vậy trình độ chuyên môn còn yếu, không am hiểu về thị trường và khách hàng. Việc đánh giá dự án cho vay còn nhiều chủ quan, khả năng phân tích thông tin còn hạn chế nên dẫn đến nhiều quyết định sai lầm hoặc bỏ lỡ một số cơ hội trong kinh doanh.
Hệ thống thông tin tín dụng còn thiếu chính xác, chất lượng thông tin chưa cao, chưa kịp thời:
Thông tin có vai trò rất quan trọng đối với quy trình tín dụng. Tuy nhiên hiện tại, chi nhánh còn gặp nhiều trở ngại trong việc thu thập thông tin một cách chính xác và đầy đủ để phục vụ cho quá trình đánh giá và thẩm định khách hàng vì vậy rủi ro tín dụng rất cao. Thông tin từ hồ sơ khách hàng thì thiếu khách quan. Thông tin lưu trữ tại chi nhánh còn quá hạn chế. Một kênh hữu ích có thể tham khảo thông tin là Trung tâm thông tin tín dụng CIC của Ngân hàng Nhà nước nhưng thông tin không được thường xuyên cập nhập hoặc không đầy đủ, đặc biệt là với khách hàng có quan hệ tín dụng lần đầu. Ngoài ra, sự chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng thương mại trên địa bàn với nhau cũng còn nhiều hạn chế, chủ yếu là do các mối quạn hệ.
Chi nhánh là đơn vị thành viên trực thuộc nên công tác hạn chế rủi ro phải tuân thủ theo các hướng dẫn tổ chức thực hiện chung của NHNo & PTNT Việt Nam. Hiện nay, mặc dù đã có quyết định 636/HĐQT – NHNo quy định cụ thể về quy trình làm việc của hội đồng xử lý rủi ro trong hoạt động tín dụng, tuy nhiên việc cụ thể hóa các công tác hạn chế rủi ro tín dụng đối với các bước thẩm định cho vay, xếp loại khách hàng...lại còn tùy thuộc vào quy trình tín dụng, chưa chi tiết đối với tất cả các khâu trong công việc. Mặt khác,hoạt động của các thành viên trong hội đồng rủi ro còn kiêm nhiệm thêm nhiều công việc chuyên môn khác, do vậy tính chuyên môn hóa chưa cao.
Nguyên nhân khác:
Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Nhiều doanh nghiệp trong đó đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay vẫn làm ăn theo lối tư duy bao cấp, bộ máy tổ chức cồng kềnh, nhân viên có trình độ thấp và không được quan tâm đào tạo lại, do vậy khi môi trường cạnh trạnh ngày càng khốc liệt sẽ dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm sút, doanh nghiệp thua lỗ kéo dài và không trả được nợ cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn rất ít so với nhu cầu. Năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường và các đối tác, trong đó cũng phải kể đến việc doanh nghiệp thiếu thiện chí trả nợ từ khi vay vốn.
Ngoài ra, khi các doanh nghiệp tiến hành vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát, kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Đó là chưa kể đến để đạt được mục đích vay vốn ngân hàng, rất nhiều doanh nghiệp đều không cung cấp trung thực và đầy đủ các thông tin tài chính gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát và quản lý của ngân hàng. Hơn nữa, còn có tình trạng doanh nghiệp thông đồng với đối tác tạo nên những “ hợp đồng ma” nhằm lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng
- Bên cạnh những nguyên nhân mang tính chủ quan của khách hàng, thì còn một số nguyên nhân khách quan từ bên ngoài cũng tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng như thiên tai, hỏa hoạn, do sự bất ổn định của nền kinh tế, chính sách quản lý thay đổi đột ngột, hành lang pháp lý chưa phù hợp, do biến động của thị trường trong và ngoài nước, do quan hệ cung cầu hàng hóa thay đổi... làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng...
Chương 3:
Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
Nông thôn Hồng Hà
3.1. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà trong thời gian tới
Trên cơ sở tình hình hoạt động tín dụng của Chi nhánh trong thời gian qua, để tiếp tục kiểm soát tăng trưởng tín dụng, đồng thời gắn tăng trưởng tín dụng với việc nâng cao chất lượng tín dụng và đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. Trong thời gian tới, chi nhánh đã có những định hướng phát triển đối với hoạt động tín dụng như sau:
Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng tín dụng, trên nguyên tắc phù hợp với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, đảm bảo hoàn thành mục tiêu và vượt mức kế hoạch tín dụng đã được NHNo & PTNT Việt Nam phê duyệt. Đồng thời, nâng cao chất lượng công tác quản lý tín dụng, đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm kiểm soát chất lượng tín dụng và an toàn tín dụng.
Chi nhánh chủ động trong việc phân tích, đánh giá quy mô, cơ cấu hiệu quả tín dụng đối với các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế và các loại hình tín dụng, từ đó xây dựng một cơ cấu danh mục tín dụng hợp lý, tập trung vốn đầu tư vào những khu vực đầu tư có hiệu quả, theo hướng tiếp tục giảm dần tỷ trọng cho vay đối với khu vực kinh tế Nhà nước, nâng cao tỷ trọng cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- Mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn, trên cơ sở đảm bảo tỷ trọng theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam (tối đa không vượt quá 40- 47% so với tổng dư nợ, tỷ lệ của nguồn vốn ngắn hạn dùng cho vay dài hạn tối đa là 40% và phải phù hợp với thời gian huy động vốn). Đồng thời đẩy mạnh tiến độ giải ngân các dự án lớn, dài hạn như xây dựng nhà máy Xi măng Hạ Long, dự án BOT...
Thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo đúng Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của thống đốc Ngân hàng Nhà nước và quyết định 636/QĐ- HĐQT-XLRR của NHNo & PTNT Việt Nam. Đảm bảo tuân thủ các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN và hướng dẫn của NHNo & PTNT Việt Nam.
Cụ thể từng chỉ tiêu trong năm 2008 của Chi nhánh như sau:
- Về nguồn vốn: Phấn đấu hoàn thành và vượt mức kế hoạch trung ương giao
Tổng nguồn vốn đạt: 4.100 tỷ. Tập trung khai thác nguồn vốn rẻ và ổn định, đặc biệt tăng cường huy động nguồn vốn rẻ và huy động nguồn tiền gửi dân cư. Mở rộng mạng lưới huy động vốn trên cơ sở tìm trụ sở và chuẩn bị nhân sự mở bàn tiết kiệm, Phòng giao dịch ( từ 1-2)
Duy trì và đổi mới nâng cao phong cách phục vụ khách hàng, đặc biệt là đối với Doanh nghiệp có nguồn thu tiền mặt lớn
Về dư nợ: Phấn đấu dư nợ đạt 1.616 tỷ đồng ( trong đó dư nợ trung và dài hạn đạt 40%)
Về tỷ lệ nợ xấu: Dưới 5%
Phấn đấu năm 2008 và về sau không có cán bộ tín dụng nào vi phạm chế độ tín dụng
3.2. Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà
3.2.1. Xây dựng một quy trình thẩm định và cho vay hợp lý
Như đã phân tích ở trên, quy trình thẩm định và cho vay “một cửa” hiện tại của Chi nhánh đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trong đó, hạn chế lớn nhất là cán bộ tín dụng vẫn phải thực hiện cả ba khâu trong quá trình cho vay. Điều này xuất phát từ việc Chi nhánh vẫn chưa có phòng Thẩm định độc lập. Tuy nhiên, việc thành lập thêm một phòng Thẩm định đối với Chi nhánh trong điều kiện hiện tại khi cơ sở vật chất còn hạn chế, đội ngũ cán bộ còn thiếu sẽ là một khó khăn cho việc tổ chức hoạt động của Chi nhánh. Vì vậy, để hạn chế nhược điểm này, trước mắt Chi nhánh có thể khắc phục bằng cách tách quy trình cho vay thành hai bộ phận, hai bộ phận này tạm thời vẫn thuộc phòng kế hoạch kinh doanh:
Bộ phận quan hệ khách hàng (Front office): Nhiệm vụ của bộ phận này là chịu trách nhiệm tiếp thị, chăm sóc, tìm hiểu nhu cầu khách hàng, hướng dẫn và trực tiếp nhận hồ sơ khách hàng nhưng không có trách nhiệm thẩm định và đề xuất đối với khoản vay. Ngoài ra, bộ phận này còn có nhiệm vụ trong việc quản lý khoản vay sau khi cho vay.
Bộ phận Thẩm định và phê duyệt khoản vay (Back office): Nhiệm vụ của bộ phận này là thực hiện phân tích, đánh giá, định lượng rủi ro trước khi đề xuất lãnh đạo phê duyệt đối với một khoản vay
Sơ đồ 3.1: Quy trình cho vay đề xuất đối với Chi nhánh
Bộ phận kiểm tra, giám sát tín dụng độc lập
Bộ phận quan hệ khách hàng
Tiếp nhận và thu thập thông tin về khách hàng
Giám sát vốn vay
Bộ phận thẩm định
Quyết định cho vay theo thẩm quyền
Nhu cầu vay vốn của khách hàng
Bên cạnh việc xây dựng một quy trình tín dụng hợp lý, Chi nhánh cũng cần phải chú trọng hơn đến việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định. Theo đó việc thẩm định khách hàng phải dựa trên các chuẩn mực được xây dựng chi tiết như: các tiêu chí kinh tế kỹ thuật cần thiết cho một dự án, một khoản vay,...chi tiết về việc phân công thẩm quyền trách nhiệm của cán bộ các cấp trong việc xét duyệt và quản lý khoản nợ. Nội dung của thẩm định phải bao gồm năng lực tư cách của người vay, cơ cấu tài chính và các chiến lược đầu tư của khách hàng đối với khoản vay (tình hình vốn tự có, các chỉ tiêu tài chính, mặt hàng kinh doanh, giá thành, thị trường, ...), giá trị và tính thanh khoản của tài sản thế chấp, khả năng ứng phó của khách hàng trước các thách thức...Bên cạnh đó, cần chuẩn hóa phương pháp phân tích theo hướng cho điểm để xếp loại khách hàng hoặc phương pháp các hệ thống chuyên gia (phương pháp 5C). Việc phân tích để đánh giá khách hàng cần được thực hiện một cách thường xuyên để kịp thời pháp hiện và khắc phục sai sót. Đồng thời là cơ sở để ban hành các chính sách tín dụng phù hợp với từng thời kỳ cụ thể, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng.
3.2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản trị và tác nghiệp trong lĩnh vực tín dụng
Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tín dụng là nhân tố cơ bản quyết định đến chất lượng tín dụng. Như đã đề cập, cán bộ tín dụng hiện nay còn thiếu khả năng, kỹ năng dự báo kinh tế, thị trường, phân tích tình hình tài chính, phi tài chính của doanh nghiệp, do vậy trong quá trình phân tích tín dụng còn có nhiều sai sót, đánh giá chưa chính xác về khách hàng hoặc có những kết luận mang tính chất chủ quan. Những sai lầm này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự an toàn của các khoản tín dụng. Vì vậy, kết quả của công tác hạn chế rủi ro tín dụng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như đạo đức của đội ngũ cán bộ ngân hàng.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng phải bảo đảm cả về mặt định lượng và định tính. Đánh giá đúng chất lượng cán bộ tín dụng phải đánh giá đồng thời cả hai mặt này vì đều có tầm quan trọng như nhau, nếu thiếu một trong hai mặt thì không thể đánh giá chính xác chất lượng cán bộ tín dụng và theo đó việc sử dụng cán bộ cũng sẽ bất cập, hạn chế và nhiều khi phản tác dụng.
Về mặt định tính:
Cán bộ tín dụng phải có bản lĩnh kinh doanh vững vàng:
Trong cơ chế thị trường luôn luôn có những mặt trái, là người trực tiếp tiếp giao dịch với khách hàng, tiếp xúc trực tiếp với cơ chế, nếu cán bộ tín dụng không rèn luyện bản lĩnh vững vàng, đạo đức nghề nghiệp rất có thể sẽ bị cuốn theo những cám dỗ tầm thường, không tự làm chủ bản thân, hạ thấp các tiêu chuẩn tín dụng dẫn đến thất thoát vốn, gây rủi ro cho ngân hàng.
Bản lĩnh kinh doanh của cán bộ tín dụng còn thể hiện ở chỗ đánh giá, thẩm định, nhìn nhận khách hàng một cách chính xác; không co cụm trong cho vay, biết tiếp cận, thu hút, sàng lọc khách hàng tốt để phục vụ. Trong xử lý nghiệp vụ không manh động, làm việc đúng chức năng, vai trò và nhiệm vụ được giao. Có tinh thần tập thể, kỷ luật và sáng tạo.
Cán bộ tín dụng phải có phẩm chất đạo đức tốt:
Đạo đức nghề nghiệp cán bộ tín dụng phải luôn lấy mục đích sự nghiệp phát triển ngân hàng làm mục đích phấn đấu. Nâng cao tính kỷ luật, tính liêm khiết, chấp hành tốt chủ trương của ngành, quy chế, cơ chế của cơ quan.
Về mặt định lượng:
Cán bộ tín dụng phải có trình độ học vấn, năng lực chuyên môn nghiệp vụ:
Năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng thể hiện ở những mặt như: Đánh giá, phân tích tài chính khách hàng một cách chính xác. Thẩm định phương án và dự án kinh doanh một cách khoa học trên cả hai phương diện là tính chính xác và thời gian thực hiện. Thẩm định tài sản đảm bảo tiền vay đúng quy trình, chế độ. Xử lý tốt các nghiệp vụ phát sinh trong quá trình cho vay; quản lý các khoản vay trong và sau khi cho vay. Vấn đề tham mưu cho khách hàng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cán bộ tín dụng phải có khả năng nắm bắt và cập nhật được rất nhiều thông tin về các lĩnh vực, nhất là những vấn đề về khách hàng, vấn đề về đầu tư để có thể tham mưu cho lãnh đạo ra quyết sách đầu tư đúng đắn mang lại hiệu quả cho ngân hàng.
Cán bộ tín dụng phải có khả năng giao tiếp với khách hàng:
Khả năng giao tiếp thể hiện ở việc phải làm sao để khách hàng bày tỏ được tâm tư nguyện vọng của mình. Nắm được thông tin từ khách hàng cũng như đối tác của khách hàng. Phải có trình độ tư vấn cho khách hàng để giúp khách hàng có thêm điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của mình, hạn chế được những rủi ro trong hoạt động
Cán bộ tín dụng phải có khả năng tiếp thị thu hút khách hàng:
Cán bộ tín dụng phải khả năng tiếp thị thu hút khách hàng tốt có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, làm ăn hiệu quả, có năng lực tài chính vững vàng, vay trả sòng phẳng...)
Cán bộ tín dụng phải có năng lực điều tra thu thập, liên kết, xử lý và tổng hợp thông tin:
Vấn đề thông tin rất cần thiết, vì trong môi trường tương quan kinh tế, khách hàng có thể gặp rủi ro vì nhiều nguyên nhân. Nếu cán bộ tín dụng thiếu sự cập nhật thông tin về khách hàng để có biện pháp xử lý nợ, thì khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn.
Tóm lại, yêu cầu về định tính và định lượng đối với cán bộ tín dụng là yêu cầu cấp thiết nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Đây là kiện cần và đủ để nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Tuy nhiên, trong thực tế để hội đủ tất cả những điều kiện trên là một vấn đề bất cập hiện nay đối với các ngân hàng nói chung và đối với Chi nhánh Hồng Hà nói riêng. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng được coi là một nhiệm vụ trọng tâm và chi nhánh cần phải có những giải pháp thiết thực và hiệu quả. Một số giải pháp có thể đề xuất là:
Trước hết, nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng phải bắt đầu từ khâu tuyển dụng và đạo tạo. Việc tuyển dụng cán bộ tín dụng phải được thực hiện tốt, đảm bảo đúng quy trình, đúng quy định của ngành và cần tuyệt đối có sự công bằng trong khâu tuyển dụng. Tiêu chuẩn tuyển dụng cán bộ tín dụng mới cần có là: tiêu chuẩn đạo đức, tư cách (liêm khiết, trung thực, tự tin, tháo vát), tiêu chuẩn chuyên môn (học vấn, trình độ nghiệp vụ, kỹ năng chuyên môn), tiêu chuẩn về thể chất (sức khỏe, hình thức...)
Về công tác đào tạo, cần tập trung tăng cường hình thức đào tạo tập trung, kết hợp với hình thức tập huấn tại chỗ, hình thức đào tạo này nhằm làm cho cán bộ tín dụng nắm bắt được một số nghiệp vụ trong thời gian ngắn như: Tổ chức các buổi sinh hoạt nghiệp vụ theo định kỳ, thảo luận các vướng mắc trong công tác tín dụng, văn bản và quy trình nghiệp vụ. Phát động phong trào tự học, tự nghiên cứu, tự nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tránh sự tụt hậu trước sự thay đổi của nền kinh tế, của công nghệ trong quá trình phát triển và hội nhập của ngân hàng. Tổ chức thi tay nghề hàng năm và có khen thưởng hợp lý để khuyến khích những cán bộ tín dụng giỏi, có nhiều cống hiến. Đồng thời, thường xuyên tổ chức và phối hợp với ngân hàng cấp trên và các trường đại học trong và ngoài nước mở các lớp học, tập huấn, đào tạo và đào tạo lại để cập nhật kiến thức ngân hàng thời kỳ kinh tế thị trường.
Việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ tín dụng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Cần tránh đào tạo nghiệp vụ chung chung mà phải chú trọng vào đào tạo tập trung chuyên sâu từng lĩnh vực cụ thể. Mục tiêu của việc đào tạo là làm cho cán bộ tín dụng không chỉ am tường khai thác, phục vụ khách hàng mà còn có khả năng phát hiện, ngăn ngừa và hạn chế các rủi ro trong lĩnh vực mình phụ trách.
Song song với việc tuyển dụng và đào tạo, Chi nhánh cũng cần có các chính sách sàng lọc và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ tín dụng. Hàng năm, chi nhánh cần phải thực hiện rà soát, đánh giá, phân loại cán bộ tín dụng để có hướng đào tạo, bổ sung kịp thời, tránh sự hẫng hụt về đội ngũ cán bộ tín dụng. Đồng thời qua phân loại cán bộ tín dụng để thực hiện việc tiêu chuẩn hóa cán bộ tín dụng trên cả hai mặt định tính và định lượng, tạo ra đội ngũ cán bộ mạnh toàn diện, có sức cống hiến cao.
Mặt khác, để tạo động lực làm việc cho các cán bộ tín dụng cũng như đảm bảo tính nghiêm ngặt trong việc tuân thủ các quy chế và quy trình làm việc, Chi nhánh cũng cần phải đổi mới về chính sách đãi ngộ, thực hiện định chế đi đôi với chế tài. Trong điều kiện kinh tế thị trường, chính sách đãi ngộ với chế độ tiền lương, tiền thưởng...hợp lý càng có ý nghĩa quan trọng bởi vì có thể đội ngũ này có sự cống hiến nhiều nhất, chịu nhiều áp lực nhất do công việc mang tính rủi ro cao. Có như vậy, đội ngũ cán bộ tín dụng mới phát huy được khả năng và nhiệt tình lâu dài của mình. Đồng thời thực hiện cơ chế thưởng phạt nghiêm minh, tạo ra bầu không khí thi đua, khuyến khích sáng tạo, phát huy trách nhiệm và quyền hạn cá nhân trong việc đầu tư vốn sao cho an toàn và hiệu quả nhất. Những cán bộ tín dụng vi phạm quy chế, quy trình nghiệp vụ tín dụng, làm thất thoát vốn của ngân hàng phải xử lý nghiêm khắc, đặc biệt là cán bộ thoái hóa biến chất. Những cán bộ tín dụng có đạo đức tốt, yêu ngành, yêu nghề, có khả năng làm việc tốt, mang lại hiệu quả cho ngân hàng thì có chế độ khen thưởng xứng đáng như nâng lương trước hạn...
Cuối cùng, trong công tác quản lý, chi nhánh cần phải thường xuyên quan tâm đến việc xác định đúng nhiệm vụ chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ tín dụng. Kiên quyết không sử dụng những cán bộ thiếu bản lĩnh chính trị, bản lĩnh kinh doanh, thiếu trung thực, không công tâm, kém năng lực...làm công tác tín dụng. Quản lý cán bộ tín dụng trong công việc, trong sinh hoạt một cách chặt chẽ, khoa học. Có biện pháp chủ động, tích cực giáo dục cán bộ tín dụng để cán bộ tín dụng không bị lôi cuốn vào các vấn đề tiêu cực của xã hội, bị lôi cuốn vào đồng tiền mà hạ thấp nhân phẩm, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, làm phương hại đến bản thân cũng như phương hại về kinh tế và uy tín của ngành...
3.2.3. Nâng cao chất lượng hệ thống quản lý thông tin tín dụng đáp ứng nhu cầu đối với công tác hạn chế rủi ro tín dụng
Thông tin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động tín dụng của các NHTM, giúp các Ngân hàng xác định khá chính xác về đối tượng vay vốn, uy tín, thiện chí trả nợ, tính khả thi của dự án đầu tư kinh doanh của khách hàng. Thông tin chính là cơ sở để các NHTM tin tưởng vào khách hàng của mình. Bởi vì, quan hệ tín dụng luôn được hình thành dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng. Điều đó có nghĩa là ngân hàng chỉ cho khách hàng vay vốn khi và chỉ khi ngân hàng hoàn toàn tin tưởng vào khả năng hoàn trả ( vốn và lãi) của khách hàng khi đáo hạn.
Để các khoản vay an toàn và hiệu quả, thông tin phải được ngân hàng khai thác từ nhiều nguồn khác nhau: hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, hồ sơ khách hàng, các cơ quan chức năng có liên quan ( cơ quan thuế, trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước...), trực tiếp phỏng vấn khách hàng, cập nhật thông tin trên thị trường...nhằm phục vụ kịp thời cho các giai đoạn của quy trình tín dụng. Như vậy, sau khi nhận hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, ngân hàng phải tiến hành phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng về việc sử dụng vốn tín dụng cũng như khả năng hoàn trả vốn vay, ngân hàng từ những thông tin cơ bản này sẽ đưa ra các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Tất nhiên, để có được những thông tin chính xác và đầy đủ, ngân hàng cần phải biết tạo thông tin cho riêng mình. Thông tin tín dụng chính xác, quyết định tín dụng hợp lý chắc chắn khả năng quay về của vốn tín dụng cao, vốn tín dụng được hoàn trả đúng hạn, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tín dụng và hoạt động ngân hàng.
Đối với Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà như đã đề cập ở trên, hệ thống thông tin phục vụ cho công tác hạn chế rủi ro tín dụng còn chưa được đánh giá đúng tầm quan trọng, do vậy chưa có các biện pháp xử lý, khai thác thông tin một cách có hiệu quả nhất phục vụ cho toàn bộ quy trình tín dụng. Do vậy, trong thời gian tới để nâng cao chất lượng của công tác hạn chế rủi ro tín dụng, bảo đảm cho hoạt động tín dụng phát triển một cách an toàn và hiệu quả, tạo ra một sinh khí mới, một động lực mới thúc đẩy Chi nhánh phát triển lên một tầm cao mới, tất yếu cần thúc đẩy hoạt động thông tin tín dụng thực sự phát triển có chất lượng: đầy đủ, chính xác và cập nhật. Sau đây là một số giải pháp cụ thể đối với Chi nhánh:
- Trước mắt, chi nhánh cần thiết lập một bộ phận chuyên làm nhiệm vụ thu thập, phân tích, lưu trữ thông tin về khách hàng, năng động tìm kiếm các biện pháp xử lý, khai thác, sử dụng những thông tin đó một cách có hiệu quản nhất. Nguồn thông tin mà Chi nhánh có thể khai thác bao gồm: Thông tin từ khách hàng cung cấp , thông tin từ các khách hàng đang có quan hệ giao dịch với chi nhánh, thông tin từ các ngân hàng thương mại khác, thông tin từ thị trường và từ các cơ quan chức năng có liên quan (cơ quan Kiểm toán, thuế, trung tâm thông tin tín dụng
của Ngân hàng Nhà nước...)
Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tín dụng thông thạo kỹ năng phân tích doanh nghiệp, chuyên sâu về nghiệp vụ thông tin tín dụng, khuyến khích họ tiếp cận với công nghệ thông tin hiện đại.
Xây dựng mạng lưới ngân hàng vững mạnh, rộng khắp vừa có thể phục vụ nhu cầu vay vốn đa dạng của khách hàng, vừa thiết lập một hệ thống thông tin thông suốt, tiết kiệm đáng kể chi phí liên quan đến vấn đề thông tin.
Chi nhánh nên xúc tiến việc thành lập thêm các chi nhánh cấp dưới và các phòng giao dịch, mở rộng địa bàn. Nhờ đó, sẽ giúp chi nhánh tiếp cận được những thông tin có giá trị như nhu cầu cụ thể của từng khúc thị trường, khách hàng tiềm năng và những thông tin về hoạt động của họ...
Thiết lập hệ thống thông tin hai chiều thông suốt giữa các NHTM với nhau và với trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước làm phong phú thêm nguồn dữ liệu thông tin.
Đẩy nhanh tốc độ trang bị công nghệ hiện đại như các trang thiết bị, máy móc thiết bị tin học...tạo đòn bẩy cho sự phát triển, giúp chi nhánh gia tăng sự thỏa mãn cho khách hàng, tăng tính an toàn, đồng thời tạo điều kiện cho chi nhánh có thể xử lý nhanh và chính xác một khối lượng giao dịch ngày càng lớn.
Ngoài ra, chi nhánh cần chú trọng triển khai ứng dụng thành tựu của công nghệ thông tin như các phần mềm về lưu trữ và quản lý thông tin khác hàng, thông tin tài chính, tài sản, phần mềm về phân tích và phân loại khách hàng, hỗ trợ cho việc ra các quyết định tín dụng.
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát tín dụng
Kiểm tra và giám sát tín dụng là khâu rất quan trọng nhằm mục tiêu bảo đảm cho tiền vay được sử dụng đúng mục đích đã cam kết. Thông qua hoạt động này cũng giúp ngân hàng nhanh chóng phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hưởng tới khả năng thu hồi nợ sau này. Tuy nhiên, trên thực tế là các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm tra, giám sát đồng vốn sau khi cho vay. Điều này một phần là do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được đầy đủ, kịp thời các thông tin mà ngân hàng yêu cầu.
Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả của công tác hạn chế rủi ro tín dụng, Chi nhánh cần phải tăng cường hơn nữa việc kiểm tra và giám sát tín dụng, thường xuyên xem xét các khoản vay, kiểm tra lại các điều kiện cho vay, đánh giá tình trạng kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng. Đồng thời, cũng cần xác định lại các hạn mức tín dụng cho từng ngành nghề hoặc khu vực kinh tế cụ thể.
Đối với công tác kiểm tra nội bộ:
Trong quá trình kiểm tra, Cán bộ thanh tra cần chú trọng hơn nữa đến giám sát việc tuân thủ các chính sách và chế độ tín dụng, bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt quy trình tín dụng, phân cấp thẩm quyền tín dụng và hạn mức tín dụng. Bên cạnh đó, một yêu cầu đối với công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ là phải dự báo được những rủi ro trong hoạt động để ngăn chặn, phòng ngừa. Muốn vậy, đòi hỏi phải nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ kiểm tra, kiểm soát. Đồng thời nâng cao kỷ cương, kỷ luật trong công tác kiểm tra nhằm ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, bảo đảm công tác thanh tra có hiệu quả. Ngoài ra, phải gắn hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ với trách nhiệm cụ thể để đảm bảo đây là công cụ hữu hiệu trong công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng.
Đối với công tác giám sát việc sử dụng vốn vay:
Chi nhánh cần quan tâm tổ chức theo dõi chặt chẽ tiến độ hoàn thành từng hạng mục dự án đầu tư, quá trình nhập vật tư, hàng hóa, tình hình hiệu quả tài chính thông qua các báo cáo định kỳ do khách hàng cung cấp...Nếu phát hiện thấy có những vi phạm như sử dụng vốn sai mục đích hoặc phát sinh những vấn đề có nguy cơ ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ, thì cán bộ tín dụng cần phải báo cáo ngay với trưởng phòng tín dụng để trình lãnh đạo xem xét quyết định ngừng cho vay hoặc có biện pháp thu hồi nợ trước hạn...Ngoài ra, việc nhận diện rủi ro thông qua các dấu hiệu cảnh báo cũng là một nội dung quan trọng giúp cán bộ tín dụng nhanh chóng phát hiện và xử lý kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề.
3.2.5. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay
Mặc dù đã có rất nhiều biện pháp được đề xuất nhằm hạn chế rủi ro, tuy nhiên không thể hoàn toàn loại bỏ được sai lầm, nghĩa là vẫn tiềm ẩn rủi ro tín dụng. Vì vậy, biện pháp bảo đảm tiền vay được xem như chiếc phao cứu sinh cuối cùng giúp ngân hàng khắc phục những tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra. Với ý nghĩa như vậy, hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay sẽ là giải pháp quan trọng tiếp theo mà chi nhánh cần quan tâm tới.
Trong thời gian tới, để thực hiện đúng quy định về biện pháp bảo đảm tiền vay, đảm bảo an toàn và hiệu quả, Chi nhánh cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là, Chi nhánh cần phải tuân thủ các điều kiện của Nhà nước, và của NHNo & PTNT Việt Nam về biện pháp bảo đảm tiền vay tương ứng. Tuy nhiên, để thực hiện tốt yêu cầu trên, chi nhánh cần phải có biện pháp tích cực nhằm hạn chế tính chủ quan trong các quyết định lựa chọn, đặc biệt kiên quyết xử lý đối với những hành vi thông đồng với khách hàng gây thiệt hại cho ngân hàng.
Hai là, để có được một biện pháp bảo đảm tiền vay không những phù hợp với từng loại hình khách hàng cụ thể, mà còn đảm bảo an toàn, hiệu quả, trước hết chi nhánh cần phải có sự tính toàn đầy đủ, đồng bộ và cân nhắc chính xác các yếu tố như tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, hiệu quả dự án, tài sản bảo đảm, mối quan hệ tín dụng trên cơ sở phối hợp kiểm tra, đối chiếu thực tế, sau đó phân ra từng loại khách hàng để có những chính sách ưu tiên hợp lý.
Ba là, mặc dù cho vay có tài sản bảo đảm, các khoản vay vẫn hàm chứa rủi ro không thu đủ nợ do nhiều nguyên nhân khác nhau như tài sản hư hỏng, khó bán, giảm giá trị...vì vậy, việc quyết định lựa chọn đúng đắn biện pháp bảo đảm tiền vay cho từng khảo vay cụ thể đảm bảo an toàn và hiệu quả thì cần phải đánh giá khách hàng một cách toàn diện và chính xác, sau đó chọn lấy yếu tố mạnh nhất để quyết định biện pháp bảo đảm tiền vay. Đặc biệt, Chi nhánh không được chủ quan cho vay chỉ căn cứ vào mỗi tài sản đảm bảo, xem nhẹ các yếu tố tài chính, dự án sản xuất kinh doanh của khách hàng, nhất là đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
3.2.6. Trích lập dự phòng rủi ro
Như đã đề cập, đôi khi tài sản đảm bảo tiền vay vẫn chưa thể đủ để giúp ngân hàng thu hồi được khoản vay. Mặt khác, không phải lúc nào khách hàng cũng có đủ tài sản đảm bảo nợ vay trong khi áp lực cạnh tranh đòi hỏi ngân hàng đôi khi phải chấp nhận cho vay không có tài sản bảo đảm. Trong những trường hợp như vậy, để khắc phục rủi ro thì các ngân hàng đều phải lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Đối với Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà cũng vậy, để giảm thiểu những tác động bất lợi khi rủi ro xảy ra trong hoạt động tín dụng, Chi nhánh phải có các giải pháp chủ động chống đỡ bằng cách thực hiện trích lập quỹ dự phòng tạo nguồn để xử lý rủi ro.
Dự phòng là việc trích lập ra từ thu nhập theo một tỷ lệ quy định để trang trải một phần hoặc toàn bộ phần vốn bị mất, trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro đối với từng khoản đã cho vay và toàn bộ danh mục cho vay. Như vậy, vấn đề cần quan tâm ở đây là cách phân loại và đánh giá khoản vay như thế nào để có thể đánh giá được mức độ rủi ro.
Để bảo đảm phân loại khoản vay đúng với mức độ rủi ro của nó, Chi nhánh cần dựa vào các chỉ tiêu như: lịch sử quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng; tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh; các luồng tiền và dư nợ của khách hàng tại ngân hàng; năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ...Với việc phân loại này, sẽ giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong việc theo dõi chặt chẽ khoản vay để đánh giá rủi ro tín dụng tại từng thời điểm, từ đó giúp chi nhánh có thể đánh giá được mức độ rủi ro hợp lý của mỗi danh mục đầu tư, giám sát nguồn vốn phân bổ hiệu quả hơn. Việc trích lập dự phòng rủi ro của Chi nhánh hiện nay đang tuân thủ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước tuy nhiên không nên quá máy móc. Theo đó, hiện nay chi nhánh chỉ trích lập dự phòng đối với các khoản nợ quá hạn còn các khoản vay trong hạn thì tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro là 0%. Trong thời gian tới, để giảm thiểu được rủi ro, chi nhánh cần trích lập dự phòng đối với cả những khoản vay đã xuất hiện dấu hiệu rủi ro, tỷ lệ trích lập sẽ được căn cứ vào mức độ rủi ro.
Muốn đảm bảo ngồn để trích lập dự phòng rủi ro, đòi hỏi hoạt động tín dụng của Chi nhánh phải có hiệu quả tài chính cao, tức là chênh lệch lãi suất giữa đầu ra và đầu vào phải đảm bảo về mặt tài chính. Đồng thời, hoạt động tín dụng cũng phải đạt chất lượng đúng như yêu cầu đủ để trích lập dự phòng theo phân loại nợ.
3.3. Một số kiến nghị đề xuất đối với các cơ quan
Trong thời gian qua, Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà, bằng chính động lực và sự phấn đấu của mình đã có những cố gắng trong công tác hạn chế rủi ro tín dụng và đạt được những thành công nhất định. Trong thời gian tới, để đảm bảo cho các giải pháp đưa ra thực sự có hiệu quả và mang tính khả thi thì cần phải có sự tác động của môi trường vĩ mô tới hoạt động của ngân hàng. Là một đơn vị trực thuộc hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, đồng thời chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ vì vậy các giải pháp đưa ra với chi nhánh sẽ không phát huy tác dụng nếu như NHNo & PTNT Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ không hỗ trợ và tạo được môi trường thuận lợi, ổn định. Một số đề xuất gồm:
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Tạo điều kiện để đổi mới và hiện đại hóa hệ thống thông tin tín dụng:
Như đã đề cập, thông tin có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động tín dụng. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, thông tin vẫn chưa được các NHTM Việt Nam khai thác triệt để phục vụ cho các giai đoạn của quy trình tín dụng. Bên cạnh nguyên nhân chủ quan từ phía các Ngân hàng thì nguyên nhân khách quan là do Việt Nam hiện nay về cơ bản vẫn là một nước lạc hậu về thông tin, nguồn cung cấp thông tin còn nghèo nàn, việc truyền tải thông tin kém hiệu quả và không bình đẳng. Do thiếu thẩm định thông tin nên nhiều NHTM còn ngần ngại trong việc tài trợ cho doanh nghiệp để xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài vì không thể thẩm định thẩm định hợp đồng của đối tác. Trong thời gian tới, Chính phủ cần tạo điều kiện để phát triển thông tin, cụ thể là:
Chính phủ cần tạo điều kiện để các tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam mở nhiều chi nhánh ở những thị trường được đánh giá là có tiềm năng lớn. Đồng thời tăng cường hỗ trợ về tài chính, trang bị thêm các phương tiện cho các cán bộ ngoại giao để mở rộng giao tiếp, tạo mối quan hệ tốt đẹp với chính phủ và doanh nghiệp các nước sở tại, có như vậy các tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam mới có thể lấy được những thông tin đắt giá và đồng hành cùng doanh nghiệp, giúp ngân hàng thẩm định thông tin về đối tác, tính khả thi của các dự án xuất khẩu của doanh nghiệp.
Song song với việc ban hành các văn bản quy định rõ ràng những thông tin nào được phổ biến, những thông tin nào không được phổ biến, Chính phủ nên sớm thành lập tổ chức chuyên cung cấp thông tin, chuyển tải luật lệ, quy định đến các ngân hàng nói riêng và dân cư nói chung. Bên cạnh đó, tăng cường kiểm tra, xử lý thích đáng tổ chức tín dụng không báo cáo thông tin theo đúng quy định, báo cáo không đầy đủ, không kịp thời và thiếu chính xác cho Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước
Hoàn thiện các chính sách, chế tài về bảo đảm tiền vay:
Đối với các NHTM, tài sản bảo đảm có vai trò quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng. Tuy nhiên hiện nay, các chính sách về đảm bảo tiền vay vẫn còn nhiều bất cập như việc cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất, các đăng ký giao dịch đảm bảo, công chứng tài sản còn chậm và thủ tục còn rắc rối làm mất cơ hội kinh doanh của nhà đầu tư cũng như cơ hội đầu tư tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần có những cải cách, các chế tài cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi, bảo vệ quyền lợi của ngân hàng và khách hàng.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần sớm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật và các cơ chế chính sách nhằm tạo lập hành lang pháp lý ổn định đối với hoạt động tín dụng nói riêng và các hoạt động kinh tế nói chung. Ổn định kinh tế- chính trị, tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Trao thêm quyền tự chủ cho các Ngân hàng thương mại...
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Tăng cường quản lý các ngân hàng thông qua các quy định về kiểm toán bắt buộc, kiểm tra trình độ định kỳ cũng như tằng cường thanh tra và hỗ trợ các Ngân hàng nhận biết các rủi ro tiềm ẩn thông qua công tác đã thanh tra của các Ngân hàng, từ đó đưa ra các biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu rủi ro.
Tăng cường quan tâm chỉ đạo và hỗ trợ cho công tác quản trị rủi ro của các NHTM thông qua việc cập phổ biến kinh nghiệm về quản lý rủi ro của các ngân hàng trong và ngoài nước, ban hành các văn bản thống nhất về quản lý rủi ro và có biện pháp chế tài nghiêm túc các NHTM không tuân thủ các quy định này. Hỗ trợ các NHTM trong việc đào tạo, tập huấn cho cán bộ nghiệp vụ
- Nâng cao vai trò cung cấp thông tin của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước. Thực hiện minh bạch và công khai hóa thông tin, coi đây là tiền đề để nâng cao chất lượng quản lý rủi ro. Việc minh bạch và công khai thông tin phải được đảm bảo thực hiện không chỉ giữa các NHTM với Ngân hàng Nhà nước, giữa các NHTM với nhau hay trong nội bộ NHTM mà còn giữa NHTM với các nhà đầu từ, với công luận.
3.3.3. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam
Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế với các bộ phận cấu thành:
- Một mô hình tổ chức quản trị rủi ro thống nhất với sự tham gia của Hội đồng quản trị, các Ủy ban, Ban lãnh đạo ngân hàng
Cơ chế báo cáo độc lập với cơ cấu tổ chức kinh doanh
- Các chính sách, quy trình thủ tục và hệ thống hạn mức thống nhất giúp ngân hàng xác định, đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả nhất.
- Cải tiến phương pháp đo lường, kiểm soát và hệ thống thông tin quản trị rủi ro để hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh và công tác quản trị rủi ro của toàn hệ thống
- Xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận và cá nhân trong công tác quản trị rủi ro tín dụng
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tín dụng đối với toàn hệ thống
Xây dựng chiến lược phát triển tín dụng tùy thuộc vào mục tiêu, khả năng và thế mạnh. Từ đó, xây dụng chính sách tín dụng khoa học, phù hợp với các quy luật kinh tế thị trường, quy trình cụ thể, chi tiết để hướng hoạt động tín dụng của toàn hệ thống theo hướng tăng trưởng bền vững, phát huy lợi thế so sánh, hiệu quả, ít rủi ro.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ hoạt động tín dụng như phát triển công nghệ thông tin; phát triển và nâng cao nguồn nhân lực; tăng cường công tác marketing và chăm sóc khách hàng, xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 trong toàn hệ thống cho tất cả các mặt nghiệp vụ của ngân hàng.
Kết luận
Trong kinh doanh ngân hàng việc ngân hàng đương đầu với rủi ro tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Thừa nhận một tỷ lệ rủi ro tự nhiên trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là yêu cầu khách quan hợp lý. Vấn đề là làm thế nào để hạn chế rủi ro này ở một tỷ lệ thấp nhất có thể chấp nhận được. Với ý nghĩa như vậy, rủi ro tín dụng và các biện pháp hạn chế rủi ro là một đề tài mà các nhà quản trị ngân hàng đã và đang nghiên cứu không ngừng nhằm hoàn thiện trong các điều kiện mới để đạt được tỷ lệ lý tưởng nói trên.
Với mong muốn đóng góp một phần kiến thức nhỏ bé của mình vào công tác nghiên cứu đấy, trên cơ sở phân tích từ thực trạng rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà, tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà”.
Sau quá trình nghiên cứu cả về lý luận và khảo nghiệm thực tiễn, chuyên đề đã hoàn thành các nhiệm vụ sau:
Hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng
Phân tích thực trạng về công tác hạn chế rủi ro tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà. Trên cơ sở đó, đánh giá những thành công, thách thức và tìm ra nguyên nhân của vấn đề.
Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh Hồng Hà.
Mặc dù còn nhiều hạn chế, song hy vọng rằng với việc ứng dụng một cách có hiệu quả các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng trên sẽ giúp cho Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung phát triển vững mạnh hơn trên con đường hội nhập vào thị trường tài chính khu vực và thế giới.
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG
Sơ đồ 1.1: Các tác động chính của rủi ro tín dụng đến hoạt động 11
Sơ đồ 1.2: Trạng thái của chính sách tín dụng 16
Sơ đồ 1.3: Các dấu hiệu tài chính nhận biết rủi ro tín dụng 19
Sơ đồ 1.4: 5 yếu tố trong xem xét phân tích tín dụng 24
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tín dụng 37
Sơ đồ 3.1: Quy trình cho vay đề xuất đối với Chi nhánh 64
Bảng 2.1: Kết quả huy động vốn của Chi nhánh NHNo & PTNT 31
Hồng Hà 31
Bảng 2.2: Quy mô cho vay từ năm 2005 đến năm 2007 32
Bảng 2.3: Tình hình hoạt động tín dụng từ năm 2005-2007 48
Bảng 2.4: Tình hình sử dụng vốn phân theo thời gian 48
Bảng 2.5: Tình hình sử dụng vốn theo thành phần kinh tế 50
Bảng 2.6: Tình hình nợ quá hạn từ năm 2005-2007 53
Bảng 2.7: Tình hình nợ xấu tại chi nhánh từ năm 2005- 2007 54
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7577.doc