Không nên coi tài sản thế chấp là chỗ dựa an toàn cho số tiền vay phát ra. Tài sản thế chấp là cơ sở giúp các ngân hàng có khả năng thu hồi nợ vay một khi khách vay không còn khả năng trả nợ, song không nên tuyệt đối hoá vai trò của tài sản thế chấp vì thực tế đã chứng minh thu nợ bằng tài sản xiết nợ đang là gánh nặng, khó xử lý đối với các ngân hàng TMCP, và thu nợ bằng tài sản thế chấp không phải là một giải pháp tốt mà chỉ là giải pháp tình thế, bắt buộc; khả năng thu nợ bằng tiền thực sụ từ TSTC cũng là một công việc nhiều khó khăn. Vì vậy, mặc dù có TSTC nhưng mọi nguyên tắc, thủ tục quy trình cho vay giám sát và thu nợ phải được thực hiện nghiêm túc như trường hợp không có TSTC, phải thực hiện cho vay theo mức quy định về TSTC, cần phải có quy định cụ thể về TSTC và đánh giá TSTC; đồng thời phải yêu cầu người vay mua bảo hiểm TSTC.
Mặt khác, không phải khách hàng nào cũng phải có TSTC mới cho vay việc cho vay còn phụ thuộc vào chân dung và sức khoẻ của doanh nghiệp : bề dày trong mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp, là khả năng quản lý, năng lực trả nợ, hiệu quả kinh tế của dự án hoặc thương vụ đang có nhu cầu vay vốn.
91 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại Cổ phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiến thức và nghiệp vụ. Tổ chức quy hoạch cán bộ đến năm 2000, trước hết là cán bộ chủ chốt để có đội ngũ cán bộ kế cận có năng lực, có phẩm chất.
“Đây phải được coi là sự sống còn của hoạt động ngân hàng được thể hiện bằng những chiến lược phát triển dài hạn “
Tuy nhiên , chúng ta phải thấy rằng, về mặt lý thuyết cũng như thực tế, nếu như thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngành Ngân hàng, trong những năm vừa qua, với “tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 20-25% rõ ràng là đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, kích thích đầu tư phát triển... “ song “gánh nặng đang đè lên vai ngân hàng “ .
Do vậy, chúng ta cũng rất đồng tình rằng bây giờ không phải là lúc lôi ngân hàng ra mà mổ xẻ, mà cần phải mổ xẻ cả nền kinh tế, từ thực trạng các doanh nghiệp, môi trường pháp lý, cơ chế và cơ quan quản lý, để từ đó có biện pháp tổng hợp và đồng bộ giúp đỡ ngành ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động và sức mạnh trong kinh doanh.
II.Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với các nhTMCP:
Rủi ro tín dụng là một vấn đề hết sức phức tạp vì nó chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Vì vậy, trong kinh doanh không thể có giải pháp loại trừ được rủi ro, mà chúng ta chỉ có thể đưa ra giải pháp hạn chế rủi ro.
1. Những giải pháp ở tầm vĩ mô :
1.1. Về phía nhà nước:
1.1.1. Tạo dựng được môi trường pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ cho kinh doanh tín dụng ngân hàng :
1.1.1.1.Một số văn bản pháp lý có liên quan tới việc cấp giấy phép, về thuế còn có những điểm bất hợp lý:
-Địa vị pháp lý của NHTMCP được quy định trong Luật công ty và Luật các TCTD. Tại điều 14 Luật công ty quy định việc cấp phép hoạt động cho NHTMCP là do UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ. Nhưng tại điều 21 Luật các TCTD “ NHNN là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho tổ chức tín dụng .. “; ở đây có sự chưa thống nhất giữa Luật Công ty và Luật các TCTD.
1.1.1.2.Một số văn bản pháp lý có liên quan tới vấn đề thế chấp vốn vay của ngân hàng chưa đồng bộ, đầy đủ:
- Cơ sở pháp lý của tài sản thế chấp :
Điều 174 Bộ luật dân sự quy định “ những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì phải được đăng ký “ tuy nhiên các quy định của pháp luật hiện hành về đăng ký nhà, xe, súng săn... mới chỉ để nhằm quản lý về mặt hành chính mà chưa phải để công bố quyền sở hữu tài sản như tinh thần của Bộ luật dân sự ( điều 175 khoản 2 Bộ luật dân sự ).
Điều 326 Bộ luật dân sự quy định “ vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của người đảm bảo và được phép giao dịch “ nhưng ở nước ta hiện chưa có luật sở hữu và những văn bản dưới luật hướng dẫn về vấn đề này. Thực tế, các cơ quan chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý nhà nước đối với bất động sản chưa thực hiện rộng khắp việc cấp giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản cho các chủ đang sở hữu hoặc sử dụng tài sản và thực tế “ hơn 80% tài sản của các thể nhân và pháp nhân và 100% tài sản của các doanh nghiệp nhà nước không có lấy một mẩu giấy chứng nhận sở hữu “
-Thủ tục xác lập việc bảo đảm bằng tài sản: hiện nay thủ tục xác lập việc đảm bảo bằng tài sản rất phức tạp trong đó có quy định phải đăng ký cầm cố thế chấp nếu tài sản phải đăng ký quyền sở hữu và văn bản thoả thuận việc cầm cố thế chấp phải được công chứng, song thực tế pháp luật chưa quy định những tài sản nào phải đăng ký quyền sở hữu . Hơn nữa, pháp luật hiện nay chưa có quy định về nơi đăng ký thế chấp nhà và các bất động sản khác. Ngoài ra, chưa có hướng dẫn cụ thể về công chứng tài sản, lệ phí công chứng có phân biệt theo quốc tịch của chủ thể xin công chứng, nhưng lại không quy định mức phí đối với liên doanh ; cần phải được nghiên cứu lại cơ sở của quy định mức lệ phí này tránh tạo gánh nặng về chi phí cho người vay vốn.
-Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các chủ nợ : các điều 342,359,360 Bộ luật dân sự quy định ưu tiên thanh toán cho chủ nợ đăng ký trước và chủ nợ được cầm cố thế chấp. Nhưng thứ tự ưu tiên giữa chủ các khoản nợ được ưu tiên với các chủ nợ được cầm cố thế chấp tài sản lại chưa được quy định rõ ràng. Trong pháp lệnh thi hành án dân sự mới chỉ quy định : trong trường hợp phải bán tài sản của người thi hành án để thi hành nghĩa vụ về tài sản của người đó, tiền bán thu được sẽ thanh toán lần lượt: tiền cấp dưỡng; tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; tiền công lao động; các khoản phải trả cho nhà nước; các khoản phải trả khác. Nếu tài sản đó chính là tài sản được đem cầm cố thế chấp thì người được cầm cố thế chấp được ưu tiên ở hàng nào trong số thứ tự kể trên ?
-Về phát mại tài sản thế chấp: cả Bộ luật dân sư và luật DNNN đều mới quy định chung về cơ quan có thẩm quyền tổ chức đấu giá tài sản, chưa có những quy định cụ thể về xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp bên vay thiếu khả năng chi trả.
1.1.1.3. Chưa có các văn bản dưới luật lưu thông thương phiếu trong khi tín dụng thương mại (mua bán chịu hàng hoá) ngày càng trở nên phổ biến trong giao dịch kinh doanh trên thị trường làm cản trở việc theo dõi kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, xảy ra tình trạng chiếm dụng vốn, công nợ dây dưa, lừa đảo, chốn lậu thuế sử dụng vốn sai mục đích mà pháp luật không kiểm soát được.
1.1.1.4.Hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp, tố tụng hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, phát mại tài sản thế chấp, bảo lãnh... Nhiều trường hợp tranh chấp hợp đồng kinh tế đã được toà án xét xử nhưng các bên không thực hiện mà cơ quan pháp luật không cưỡng chế được.
1.1.1.5.Pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán thống kê chính xác, kịp thời. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không hạch toán quyết toán theo quy định. Các số liệu quyết toán báo các tài chính của doanh nghiệp (quốc doanh và ngoài quốc doanh) chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc, số liệu không phản ánh chính xác thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp.
1.1.1.6 Chưa tạo lập môi trường pháp lý bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh : tại khoản 3 điều 13 Quy chế Quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước ban hành theo Nghị định 59CP ngày 3/10/96 quy định các tổ chức kinh tế quốc doanh được hạch toán vào chi phí kinh doanh các khoản dự phòng tổn thất là không hợp lý vì thực tế cho thấy các NHTMQD và NHTMCP đều phải chịu rủi ro như nhau trong hoạt động kinh doanh, hơn nữa rủi ro trong kinh doanh tiền tệ thường mang tính lan truyền gây nguy cơ phá sản hàng loạt các TCTD khác.
1.1.2. Tạo dựng môi trường kinh tế ổn định, môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các NH, giữa các loại hình doanh nghiệp.
1.1.3. Nền kinh tế những năm gần đây có tăng trưởng kinh tế bình quân cao 8,5% đến trên 9%, song chưa vững chắc thậm chí có chứa những nhân tố không ổn định. Thông thường, chu kỳ của một nền kinh tế là 15-20 năm, nhưng ở nước ta cứ khoảng 5 năm lại có sự mất bình thường: lúc thiếu hàng hoá với những đột biến về giá cả, lúc lại ứ đọng hàng hoá, sản xuất kinh doanh đình đốn; vừa ngăn chặn được lạm phát “phi mã “ lại đương đầu với tình trạng thiểu phát...Cần có các chính sách phát triển kinh tế ổn định, đảm bảo các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
1.1.4.Chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô đang trong quá trình điều chỉnh đổi mới và hoàn thiện làm cho các doanh nghiệp chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp với sự thay đổi của cơ chế và chính sách kinh tế vĩ mô. Sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập ngoại do chính sách và quản lý xuất nhập khẩu còn chưa đúng hướng nhiều khi gây mất cân đối cung cầu và làm rối loạn giá cả...ví dụ: biểu thuế suất đối với hàng nhập khẩu thay đổi nhiều lần trong một năm, cấm khai thác và xuất khẩu gỗ pơ mu đột ngột... Cần có những biện pháp hữu hiệu chống nạn buôn lậu và làm hàng giả, tránh gây sức ép tới sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước.
1.1.5. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp : nhiều doanh nghiệp được cấp giấy phép thành lập và cho đăng ký kinh doanh với chức năng nhiệm vụ vượt quá năng lực tài chính, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh. Thậm chí “ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh dùng nhiều thủ đoạn như xin giấy phép thành lập các công ty” con”, công ty “ma.”.. để vay vốn ngân hàng. Sau đó dùng vốn vay để kinh doanh bất động sản, vay để đảo nợ, buôn bán lòng vòng... dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán. “ .
1.1.6. Ngăn chặn hiện tượng kinh doanh tiền tệ trái phép : hiện tượng kinh doanh tiền tệ trái phép hiện nay không có cơ quan nào kiểm soát, quản lý đang phát triển nhanh chóng và hoạt động tự do dưới nhiều hình thức như cho vay nặng lãi, cho vay nóng, chủ đề... mà thủ đoạn chính là lừa đảo, móc nối với khách hàng để vay tiền ngân hàng về cho vay đã gây thêm khó khăn cho hoạt động tín dụng.
1.1.7. Tăng cường công tác quy hoạch định hướng phát triển kinh tế xã hội tổng thể trong các vùng kinh tế: hiện nay còn thiêú sự chỉ đạo chung của nhà nước, thiếu sự gắn kết, tính toán dựa trên thế mạnh của từng vùng, ... đưa đến tình trạng phát triển nghành nghề hoặc các dự án phát triển trùng lặp, hoặc nghành nào cũng được coi là mũi nhọn, phát triển toàn diện trong quá trình phát triển của từng địa phương; sản xuất theo kiểu phong trào không tính đến khả năng của thị trường để có bước đi thích hợp, và một khi những bài học từ xi măng lò đứng, sản xuất giấy, nuôi hươu, nuôi gà công nghiệp... chưa được rút kinh nghiệm thì đầu tư xã hội chắc chắn sẽ bị lãng phí và vốn đầu tư của ngân hàng đạt hiệu quả không cao.
1.2. Về phía ngân hàng nhà nước:
1.2.1. Cần được chỉnh sửa các quy chế hiện hành có liên quan đến quy định bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh của các TCTD, về chế độ cổ phần cổ phiếu...:
-Về Quy chế cổ đông, cổ phần, cổ phiếu... ban hành theo quyết định 275/QĐ-NH5 quy định phải có cổ đông là doanh nghiệp nhà nước sở hữu ít nhất10% vốn điều lệ của NHTMCP là chưa hợp lý và không có tính thực tế vì sự hiện diện ( thông qua việc góp vốn cổ phần) của DNNN tại một NHCP không phải là điều kiện cần và đủ để đảm bảo cho sự vận hành lành mạnh, an toàn của ngân hàng đó. Và chất lượng, kết quả hoạt động kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường phụ thuộc vào trình độ quản lý, điều hành chứ không phụ thuộc vào tính chất vốn sở hữu. Hơn nữa, thực tế cho thấy hoạt động của các doanh nghiệp phần lớn dựa vào vốn vay ngân hàng, nên việc tham gia góp vốn vào NHTMCP là không có khả năng thực thi. Ngoài ra, DNNN không thể tự ý dùng vốn ngân sách để tham gia cổ phần vào một ngân hàng mà phải được phép của Bộ Tài chính.
Đây là vấn đề cần có chủ trương thống nhất của các nghành có liên quan, chứ bản thân NHTMCP và DNNN không đơn phương thực hiện được...
Cơ sở quy định số lượng cổ đông tối thiểu là 35 cổ đông cũng cần phải được xem xét lại . Thực tế những cổ đông này là ai, khả năng tài chính thật sự ra sao... thì chưa có một tiêu chí nào khả dĩ để đánh giá.
1.2.2. Việc khống chế trần lãi suất cho vay và chênh lệch bình quân giữa lãi suất đầu ra và đầu vào là chưa hợp lý. Hơn nữa, lãi suất cho vay giảm liên tục gây áp lực lớn đối với việc huy động vốn và sử dụng vốn của các TCTD, đặc biệt là đối với các NHTMCP hầu hết có quy mô nhỏ, nguồn vốn thấp và chủ yếu dựa vào vốn huy động .
Chế độ kiểm tra kiểm soát giám sát của NHNN đối với các NHTM, đặc biệt đối với các NHTMCP còn mang tính phiến diện, chủ yếu dựa vào các báo cáo của đơn vị gửi lên. Các báo cáo tuy đã theo những mẫu biểu nhất định song thực tế, do hạn chế về các quy chế bảo đảm an toàn nêu trên, NHNN không đủ cơ sở để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng TMCP cũng như đánh giá mức độ bảo đảm an toàn của khối các ngân hàng này trước những rủi ro đó vì vậy việc báo cáo chỉ mang tính hình thức. Hơn nữa, việc báo cáo còn bị chồng chéo do thiếu sự kết hợp giữa NHNNTƯ và chi nhánh NHNN nên thường xảy ra tình trạng, cùng là một nội dung báo cáo tuy cách bố trí có khác nhau song đơn vị phải chuẩn bị để gửi đi cả hai nơi.
Mặt khác, chi nhánh NHNN tại địa phương thường thiếu thông tin về hoạt động của Hội sở chính NHTM của các chi nhánh NHTM trên địa bàn hoặc ngược lại, nên không có đủ cơ sở đánh giá hoạt động của toàn hệ thống, đặc biệt là đối với các NHTMCP việc quản lý, giám sát đang là vấn đề cấp bách, quan trọng.
Ngoài chế độ báo cáo định kỳ, NHNN còn thực hiện chế độ thanh tra kiểm soát khi có vụ việc, song việc xử lý, giải quyết những kết luận thanh tra còn chưa dứt điểm, chưa triệt để.
1.2.3. Môi trường tài chính và những kiến thức phổ cập cần thiết về các lợi ích của dịch vụ ngân hàng chưa trở nên thuận lợi và chưa phổ biến đã tạo ra một khoảng cách vô hình giữa ngân hàng và khách hàng, hạn chế khả năng tạo vốn trung và dài hạn để đáp ứng các nhu cầu đầu tư có thời hạn dài.
1.2.4. Chế độ thông tin tín dụng: tuy đã có hệ thống thông tin tín dụng nhằm cung cấp thông tin khách hàng để phòng ngừa rủi ro song số liệu không cập nhật kịp thời, độ tin cậy thấp, không đầy đủ nên không đủ cơ sở để đánh giá đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Hơn nữa, cần phải có một quy chế đối với các NHTM quy định về việc buộc phải cung cấp thông tin, xác nhận dư nợ của doanh nghiệp cũng như việc buộc phải sử dụng thông tin do Trung tâm thông tin tín dụng cung cấp.
2. Những giải pháp ở tầm vi mô :
2.1.Về phía các tổ chức kinh tế có quan hệ tín dụng với NH:
2.1.1. Tốc độ tăng vốn điều lệ, vốn tự có của đa số các doanh nghiệp đã không theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế nói chung và tốc độ phát triển của doanh nghiệp nói riêng. Do vậy “ theo số liệu ước tính của các chuyên gia, tính đến hết 31/12/1996, tổng dư nợ vốn huy động, vốn vay của hơn 6000 DNNN đã gấp 1,7 lần vốn ngành tài chính giao. Trong đó, các DNNN ngành khách sạn đã vay gấp 10,8 lần vốn điều lệ; ngành vận tải bưu điện gấp 10,7 lần; kinh doanh bất động sản gấp 8,8 lần; xây dựng gấp 3,6 lần; nông nghiệp gấp 2,5 lần và ngành thuỷ sản đã vay gấp 2 lần vốn điều lệ. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng không nằm ngoài tình trạng này.
Tỷ lệ vay vốn cao kích thích tăng trưởng nhưng cũng làm cho doanh nghiệp trở nên không ổn định về mặt tài chính và các doanh nghiệp trở nên rất dễ bị thương tổn khi tình hình kinh doanh có biến động. Tình trạng này làm cho các ngân hàng gặp khó khăn trong việc thẩm định, chọn lọc các dự án để tiến hành cho vay, trong việc giám sát khách hàng về việc họ có sử dụng khoản vay đúng mục đích hay không và trên thực tế, các doanh nghiệp cũng có khuynh hướng sử dụng sai mục đích các khoản vay để đắp chỗ này bù chỗ kia.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải đương đầu với tình trạng trình độ công nghệ kỹ thuật sản xuất lạc hậu, thiếu thị trường tiêu thụ, thiếu máy móc
thiết bị tiên tiến...
2.1.2. Nâng cao trình độ năng lực quản lý của người điều hành:
Hầu hết các quản trị viên của các doanh nghiệp đều không qua đào tạo cơ bản, năng lực, trình độ và kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh thấp và bất cập. Các nhà quản lý doanh nghiệp quốc doanh thì thường trưởng thành trong thực tiễn què quặt của thời bao cấp, làm ăn không tính đến hiệu quả kinh tế, nặng về tâm lý trông vào sự trợ giúp của nhà nước. Các ông chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thường không phải do kiến thức nghề nghiệp, mà do nhờ vào may mắn trong dịp cơ chế biến chuyển từ bao cấp sang kinh tế thị trường lúc giao thời, có vốn bỏ vào kinh doanh mà chưa lường được những gì sẽ xảy ra trong tương lai, bằng cách nào để thích ứng với các khó khăn...và thực tế cho thấy là đời sống của các doanh nghiệp rất ngắn, nhiều doanh nghiệp vừa được ca tụng thì đã lâm ngay vào tình trạng khó khăn thua lỗ không cứu vãn nổi. Cũng nhiều ông chủ doanh nghiệp, do hám lợi một cách thiếu hiểu biết, đã dùng vốn vay ngân hàng vào việc kinh doanh bất động sản đất đai. Giá đất giảm gây thua lỗ, làm mất vốn của ngân hàng.
Không ít chủ doanh nghiệp hoặc cá nhân có tư cách kém, không có ý thức chấp hành pháp luật nên đã có tình trạng :
- Sử dụng vốn vay sai mục đích, dùng tiền vay ngân hàng quay vòng không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương án, mục đích khi xin vay tiền, thậm chí dùng vốn ngắn hạn đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản.
-Các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau, thậm chí còn lừa đảo rồi bỏ trốn làm cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng không trả được nợ.
-Khách hàng làm giấy tờ giả mạo chứng nhận quyền sở hữu nhà để lừa đảo vay vốn nhiều ngân hàng.
-Lập phương án sản xuất kinh doanh giả có đầu ra đầu vào rất hiệu quả, khả thi đồng thời thế chấp cho ngân hàng kho hàng hoá hoặc bất động sản để vay vốn ngân hàng, sau đó không đầu tư cho kinh doanh, lại bỏ trốn. Thực chất kho hàng là vật tư hàng hoá ứ đọng, chậm luân chuyển rất khó tiêu thụ, giá cả trên thị trường thấp hơn giá trị thế chấp, các bất động sản thuộc loại này rất khó chuyển thành tiền để thu hồi nợ.
-Một số doanh nghiệp nhà nước vay vốn ngân hàng về “ giao khoán trọn gói “ cho các tư nhân ở ngoài doanh nghiệp, thực chất là cho vay lại để lấy lãi dẫn đến nhiều trường hợp bị chiếm dụng vốn, lừa đảo, không trả được nợ vay ngân hàng.
-Lợi dụng thời gian bảo lãnh mua hàng trả chậm với nước ngoài dài hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh của đối tượng được bảo lãnh đã quay vòng nguồn vốn ngoài quỹ đạo kiểm soát của NH hoặc bán hàng với giá cả thấp hơn giá mua để quay vòng vốn sử dụng sai mục đích dẫn đến tình trạng không thu hồi được vốn và NH bảo lãnh phải trả thay cho nước ngoài khi đáo hạn.
2.1.3 : Các doanh nghiệp phải nghiêm túc thực hiện pháp lệnh thống kê, kế toán để các tổ chức tín dụng có cơ sở thẩm định tính khả thi của các phương án sản xuất kinh doanh của người vay để tính toán khả năng thu hồi nợ, trên cơ sở đó quyết định mức cấp phát tín dụng hợp lý. Nhiều trường hợp, các số liệu ghi trên phương án kinh doanh xa vời so với số liệu thực tế, nhiều doanh nghiệp không có khả năng tạo được nguồn thu từ sản xuất kinh doanh để trả nợ ngân hàng đúng hạn.
2.1.4. Các doanh nghiệp cần chuẩn bị tốt thị trường tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ : đa số các doanh nghiệp khi đi vào sản xuất kinh doanh đều chưa chuẩn bị cho doanh nghiệp mình một thị trường tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ chắc chắn nên thường gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ, đưa đến tình trạng ứ đọng hàng hoá mà vốn vay lại không trả được.
2.1.5. Một số doanh nghiệp, hộ sản xuất cá thể làm ăn nghiêm túc, phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi, nhưng không đủ tài sản thế chấp hợp pháp để ngân hàng xét cho vay vốn.
2.1.6.Các doanh nghiệp còn chưa có khả năng thích nghi với cạnh tranh gay gắt trong điều kiện nền kinh tế bước vào kinh tế thị trường và là nền kinh tế mở, gây nên tình trạng thua lỗ, phá sản hoặc bị giải thể.
2.1.Về phía các NHTMCP:
Trước mắt, để hạn chế rủi ro các ngân hàng TMCP phải đổi mới quản lý tín dụng theo hướng :
- Thực hiện cơ chế quản lý tín dụng linh hoạt và chặt chẽ trong khâu bố trí nhân sự, thanh tra, kiểm soát.
-Tăng cường trách nhiệm cá nhân và phát huy tri thức tập thể.
-Thực hiện chính sách cạnh tranh gắn liền với hợp tác trong kinh doanh tín dụng.
Để thực hiện chúng ta cần áp dụng các giải pháp cụ thể sau :
2.2.1 -Thiết lập Quy trình TD quy định những bước cần phải thực hiện trong quá trình từ cho vay đến thu hồi nợ.
Việc quy định chi tiết và các yêu cầu nghiêm ngặt trong quy trình tín dụng là rất cần thiết nhằm bảo đảm chất lượng tín dụng:
+ công tác thẩm định: xem xét lập hồ sơ vay vốn, phân tích khả năng tài chính cũng như khả năng hoàn trả của khách, đánh giá tài sản thế chấp - mức độ hoàn hảo cũng như mức độ rủi ro của tài sản này-, những quy định về điều kiện và thủ tục cho vay;
+ công tác kiểm tra, giám sát khách hàng: sử dụng các biện pháp phân tích, kiểm tra định kỳ báo cáo quyết toán tài chính, tình hình chu chuyển vốn, tình hình sản xuất và kinh doanh, tình hình tài sản thế chấp, cơ sở sản xuất và kinh doanh, các thông tin thu nhận được về khách vay...nhằm giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng tiền vay. Công tác này phải được tiến hành có hệ thống theo nội dung, tiêu chí quy định cụ thể và kết quả kiểm tra phải được báo cáo cho lãnh đạo các cấp có liên quan để có biện pháp xử lý kịp thời ngay từ khi món vay có biểu hiện không thuận lợi.
Ngoài ra cần có một bộ phận giám sát tín dụng độc lập với phòng tín dụng để kết quả kiểm tra phản ánh đúng thực trạng món vay .
+công tác thu hồi và thanh lý nợ: đây là khâu quan trọng có tính quyết định tới hiệu quả của món vay song lại là kết quả rất logic của các bước trên. Tuy nhiên, ở khâu này một lơ là hoặc một kém kiên quyết của ngân hàng cũng có thể làm tiêu tan những cố gắng trên. Do vậy, ngân hàng phải dựa trên các kết quả kiểm tra giám sát để xác định mức độ, khả năng thu nợ nhằm đưa ra những biện pháp thu hồi vốn phù hợp cho từng trường hợp cụ thể.
2.2.2. Chuyên môn hoá một số khâu cơ bản trong quy trình cho vay :
Khi ra một quyết định cho vay, bộ hồ sơ phải được hoàn chỉnh do các nhân viên thuộc bộ phận tín dụng thực hiện: thu thập thông tin, thẩm định tài sản đảm bảo, phân tích tài chính khách hàng... Nếu chỉ do một người đảm nhiệm công việc này tất yếu chất lượng sẽ kém vì thiếu chuyên môn hoá và khó có tính khách quan. Do đó đòi hỏi phải phân chia bộ phận tín dụng theo các nhóm chuyên môn khác nhau. Việc phân chia này phụ thuộc vào quy mô ngân hàng, khối lượng sản phẩm tín dụng, phương pháp quản trị và năng lực đội ngũ cán bộ. Đối với ngân hàng TMCP có thể phân chia phòng tín dụng như sau :
-Bộ phận giao dịch với khách hàng.
-Bộ phận phân tích tín dụng.
-Bộ phận thẩm định tài sản đảm bảo.
-Bộ phận quản lý tín dụng, giám sát các khoản cho vay.
Việc quản lý quy trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng là việc quản lý quá trình trước, trong và sau khi cho vay, là biểu hiện của sự hợp tác nhịp nhàng, trên cơ sở nâng cao trách nhiệm và tính độc lập của các bộ phận, các cấp lãnh đạo trong quá trình ra quyết định tín dụng, kiểm tra kiểm soát...Tuy là hai góc độ quản lý khác nhau, song trên thực tế các thao tác quản lý này luôn đan xen và hỗ trợ cho nhau trong toàn bộ quy trình quản lý hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên, để việc phân chia này có hiệu quả cần phải xây dựng quy trình và hệ thống các tiêu chí cho từng bộ phận, nhằm phân rõ và nâng cao trách nhiệm của từng bộ phận.
2.2.3. Tổ chức phân loại các khoản cho vay và thực hiện đầy đủ quy trình giải quyết các khoản tín dụng đó. Hiện nay, việc phân loại các khoản cho vay có vấn đề chưa được thực hiện một cách có khoa học, làm ảnh hưởng đến chính sách tín dụng của ngân hàng. Việc phân loại này cần phải theo các tiêu thức sau : - Thời gian và tính chất khoản cho vay.
- Ngành kinh tế.
nhằm đề ra các biện pháp giải quyết thích hợp và có chính sách hạn chế đầu tư vào các ngành có tỷ lệ nợ quá hạn cao.
Trong quản trị tín dụng, mục tiêu của việc giải quyết các khoản nợ quá hạn là: Sớm thu hồi được nợ với rủi ro thấp nhất. Do vậy ngân hàng phải đưa ra được giải pháp thích hợp cho từng trường hợp với nguyên nhân cụ thể và phải theo trình tự:
- Phân tích nguyên nhân dẫn đến các khoản nợ có vấn đề.
- Chọn giải pháp thích hợp.
- Theo dõi việc thực hiện các giải pháp và điều chỉnh nếu chưa thích hợp.
Việc quản lý rủi ro tín dụng nên dùng biện pháp đánh giá lại các khoản tín dụng đã cấp nhằm cho phép Ban lãnh đạo các ngân hàng TMCP chủ động, linh hoạt, cập nhật thường xuyên và kịp thời đề xuất với Hội đồng quản trị giải quyết rủi ro tín dụng, cho phép các NHTMCP thấy được thực trạng kinh doanh, vị thế của mình trong hoạt động tín dụng, tránh tình trạng lãi giả lỗ thật khi Tài sản Có thì vẫn tồn tại trên bảng tổng kết tài sản song đã mất khả năng thu hồi, tạo điều kiện cho các NHTMCPlàm sạch bảng cân đối. Đồng thời tạo điều kiện cho NHNN nắm được thực trạng chất lượng tín dụng của các NHTMCP để có biện pháp chỉ đạo hỗ trợ kịp thời.
2.2.4.Thông tin tín dụng tạo điều kiện cho người ra quyết định có được những quyết định đúng đắn, phù hợp nhờ vào việc phân tích, nhận định về khách hàng cũng như về thị trường thông qua số lượng, chất lượng của thông tin. Thông tin càng đầy đủ, nhanh nhậy, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao. Do vây ngân hàng phải có kế hoạch và có đầu tư vào việc tạo lập và cập nhật thông tin đồng thời phải có sự hợp tác phối kết hợp giữa các NHTM trong mối quan hệ với Hiệp hội Ngân hàng và CIC nhằm có một hệ thống thông tin phong phú, đầy đủ và có tính thời sự phục vụ cho công tác tín dụng đạt hiệu quả cao.
2.2.5. Thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng tín dụng:
Một nguyên tắc của Hội đồng tín dụng có quyền lực là trí tuệ tập thể, quyền lực tập thể song trách nhiệm của cá nhân trong Hội đồng tín dụng sẽ được cá thể hoá. Không có trường hợp Hội đồng tín dụng cùng chịu trách nhiệm tập thể đối với hành động của mình. Để phân định trách nhiệm giữa Hội đồng tín dụng ( trong đó có Tổng giám đốc ) và Tổng giám đốc và giữa các thành viên của Hội đồng tín dụng với nhau, quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội đồng tín dụng cần được quy định rõ ràng rành mạch, trình tự thông qua các quyết định của Hội đồng có chế độ bảo lưu ý kiến của các thành viên trong hội đồng để đảm bảo cho việc đưa ra quyết định nhanh gọn, chặt chẽ, phát huy được trí tuệ của từng thành viên trong hội đồng. Trong bất kỳ trường hợp nào Tổng giám đốc cũng không mất đi quyền quyết định cuối cùng.
Nói chung, Hội đồng tín dụng phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo Tính hợp pháp của các quyết định đầu tư bên cạnh tính Hiệu quả của nó
2.2.6. Tăng cường hợp tác trong đầu tư tín dụng để thực hiện các dự án có quy mô lớn: Hợp tác trong cho vay của các ngân hàng, đặc biệt là các NHCP có nguồn vốn nhỏ và năng lực thẩm định còn hạn chế, nhằm hạn chế rủi ro và tăng năng lực cạnh tranh. Song để thực hiện được sự hợp vốn này, đòi hỏi các NH phải xây dựng được các dự án và chương trình cho vay có hiệu quả và thực sự hợp tác trong việc thẩm định, phân chia chi phí thẩm định, quản lý tài sản thế chấp và phân chia rủi ro...
2.2.7. Công tác tổ chức, chất lượng cán bộ:
Tổ chức của ngân hàng phải sắp xếp đảm bảo tính khoa học, quy định rõ chức năng nhiệm vụ, phạm vi trách nhiệm của từng phòng ban và từng cá nhân sao cho có sự thống nhất về quyền hạn và nghĩa vụ , phù hợp với năng lực chuyên môn, việc nào cũng có người chịu trách nhiệm, người nào cũng làm theo chức trách của mình. Tuy nhiên phải đảm bảo được việc phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các phòng ban và từng cá nhân trong một phòng. Ngân hàng còn phải thành lập bộ phận kiểm soát nội bộ độc lập với các phòng ban. Trong lĩnh vực tín dụng, bộ phận này kiểm soát việc tuân thủ chính sách và quy trình tín dụng, việc theo dõi nợ theo định kỳ,....
Nhân tố chất lượng cán bộ ngày càng trở nên quan trọng do nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Để quản lý tín dụng tốt, cán bộ tín dụng phải có năng lực phân tích tài chính, văn hoá pháp lý, có kiến thức về kinh tế và xã hội...Do vậy ngân hàng phải có những đầu tư nhất định trong tuyển chọn và đặc biệt là công tác đào tạo cán bộ.
Bố trí và sắp xếp quản trị viên phải gắn với năng lực phẩm chất và kinh nghiệm thực tiễn, đồng thời phải thực hiện quy trình luân chuyển hợp lý.
Việc bố trí sắp xếp nhân sự phải đặc biệt chú trọng đến những vị trí then chốt - tức là những chức danh được giao quyền ra quyết định tín dụng. Một quản trị viên ngân cấp chi nhánh đòi hỏi phải hội đủ các tiêu chuẩn sau:
- Có năng lực chuyên môn về nghề ngân hàng.
- Có đạo đức.
- Có năng lực về quản trị.
Các tiêu chuẩn này không thể đo bằng bằng cấp mà phải được đánh giá qua thực tiễn. Cần phải thực hiện luân chuyển cán bộ trong nội bộ một chi nhánh và giữa các chi nhánh với nhau: Một giám đốc chi nhánh nhỏ có năng lực có thể chuyển sang một chi nhánh lớn hoặc ngược lại...
- Tiến hành phân cấp và giao quyền phán quyết tín dụng : Việc phân cấp và giao quyền phán quyết hợp lý sẽ nâng cao trách nhiệm của người quyết định cho vay, đồng thời phát huy được tri thức của tập thể những người có kinh nghiệm về hoạt động tín dụng, từ đó hạn chế được tình trạng vô trách nhiệm và sai sót của cá nhân.
VI. Kiến nghị :
1. Kiến nghị với Nhà nước và các tổ chức liên quan :
1.1. Kiến tạo môi trường pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ, thuận lợi cho kinh doanh tín dụng:
- Nên quy định trong luật Công ty : Đối với nghành nghề kinh doanh tiền tệ - tín dụng - ngân hàng, giấy phép thành lập do NHNN cấp, trên cơ sở trao đổi giữa NHNN và UBND tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở chính.
-Ban hành các cơ chế đồng bộ để thực hiện Luật Ngân hàng và Luật các TCTD.
-Ban hành Luật sở hữu tài sản và các văn bản dưới luật quy định rõ chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về cấp chứng thư sở hưũ tài sản, quản lý quá trình mua bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố, bảo lãnh về tài sản cho các pháp nhân và thể nhân.
-Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về công chứng tài sản, xem xét lại mức phí và đối tượng thu phí công chứng.
-Chỉ đạo việc phối kết hợp giữa NHNN, Cục Quản lý vốn Bộ Tài chính tạo điều kiện cho các DNNN được góp vốn vào các NHTMCP.
-Bổ xung thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các chủ các khoản nợ được ưu tiên với các chủ nợ đang được cầm cố thế chấp tài sản trong Luật dân sự.
1.2.Tăng cường biện pháp quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp.
-Cần quy định rõ một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập, giấy phép đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp. Cơ quan này phải chịu trách nhiệm về tư cách pháp nhân, vốn tự có thực tế, năng lực, trình độ của doanh nghiệp.
-Giấy phép kinh doanh và quy mô hoạt động phải phù hợp với vốn sở hữu và năng lực, trình độ quản lý thực tế.
-Có quy định về việc thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy phép đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập đối với các trường hợp vi phạm như: buôn lậu, sản xuất kinh doanh hàng giả, lừa đảo...
-Cần có biện pháp kinh tế, hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán thống kê. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp. Thực hiện chế độ bắt buộc về việc cung cấp định kỳ thông tin tài chính của đơn vị.
1.3 Điều chỉnh chiến lược xuất nhập khẩu. Hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng mà trong nước đủ năng lực sản xuất và cung ứng bình thường trên thị trường nội địa.Tăng cường nhập khẩu vật tư nguyên liệu, máy móc công nghệ hiện đại...Hạn chế xuất khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm phục vụ phát triển sản xuất trong nước.
1.4. Có biện pháp cụ thể để ngăn chặn và xoá bỏ các tổ chức và cá nhân kinh doanh tiền tệ, tín dụng trái phép, cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ và nhịp nhàng giữa các nghành pháp luật, chính quyền địa phương.
2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước :
2.1.Quy chế thành lập NHTMCP cần hoàn thiện và phải được thực hiện một cách nghiêm túc, tránh hình thức : Ngân hàng nhà nước TƯ cần chủ trì một đề tài nghiên cứu xây dựng một hệ phương pháp luận về đánh giá, thẩm định dự án thành lập NHTMCP với sự cộng tác tham gia của Viện khoa học ngân hàng, Hiệp hội ngân hàng Việt nam, Bộ Tài chính.... để có thể đưa ra được căn cứ khoa học cho quyết định cấp phép (tốt nhất là trên cơ sở các chỉ tiêu được lượng hoá và có thể điều chỉnh qua từng thời kỳ), xây dựng một quy trình xem xét thẩm định và cấp phép phù hợp. Đồng thời xây dựng một hệ thống các tiêu chí nhằm quản lý và kiểm soát hoạt động của các NHTMCP, ngoài các cơ chế quy chế chung áp dụng cho hệ thống NHTM:
- Cần có những quy định cụ thể về việc tăng vốn điều lệ vào đầu các năm tài chính và ngân hàng nào không đáp ứng được phải có kế hoạch sát nhập với ngân hàng khác.
-Việc quy định các thành phần cổ đông, tỷ lệ góp vốn cổ phần của mỗi cổ đông, việc điều hành các NHTMCP , chức năng nhiệm vụ của BKS (do đại hội cổ đông bầu), vấn đề sát nhập các NHTMCP,... cần phải được xem xét lại, nhằm điều chỉnh cho phù hợp với thực tế, nhất là sau một thời gian các NHTMCP đi vào hoạt động đã bộc lộ những mặt chưa được. Cụ thể là các quyết định 166/QĐ-NH5; 275/QĐ-NH5; Điều 78,79 Luật các TCTD.
-Cần ban hành sớm quy chế trích lập và sử dụng quỹ dự phòng bù đắp rủi ro, quy chế kiểm toán NHTMCP.
- Cần quy định : Đối với những ngân hàng có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên Chủ tịch HĐQT phải chuyên trách hoạt động ngân hàng; Ngân hàng có vốn điều lệ dưới 100 tỷ đồng phải đặt bộ phận thường trực của chủ tịch HĐQT tại Hội sở.
- Cần quy định : Đối với các NHTMCP kinh doanh lỗ, nợ quá hạn cao, đoản ngoại hối, quá hạn thanh toán L/C trả chậm... trong một thời hạn nhất định (3 tháng, 6 tháng...) không khắc phục được NHNN áp dụng các chế tài để xử lý: Hạn chế huy động vốn, cho vay, tạm dừng hoặc thu hồi giấy phép thanh toán quốc tế, giấy phép kinh doanh ngoại tệ, tăng dự trữ bắt buộc... Cần ban hành quy chế thu hồi giấy phép hoạt động của NHTMCP trong trường hợp vi phạm trầm trọng các quy định của nhà nước và ngân hàng trung ương 2.2.Cần ban hành quy chế giám sát hoạt động ngân hàng bao gồm các chỉ tiêu phục vụ cho việc kiểm tra kiểm soát hoạt động kinh doanh nói chung và tín dụng nói riêng, đặc biệt các tiêu chí, chỉ tiêu cụ thể hơn đối với các ngân hàng TMCP. Các chỉ tiêu này phải phản ánh được nội dung các tiêu chí của hệ thống CAMEL: vấn đề Vốn (Capital), Chất lượng tài sản có(Assets Quality), khả năng quản lý (Management), Khả năng sinh lời của tài sản ( Ea _rnings ), Khả năng sẵn sàng thanh toán (Liquidity) và Các chỉ tiêu tổng quát khác như : Tình hình chấp hành các điều luật, quy chế; sự phù hợp về cơ cấu giữa TS Có và TS Nợ ; Tình hình chất lượng nợ...
-Cần xem xét quy định lại các yếu tố cấu thành nên vốn tự có của TCTD.
2.3. NHNN cần ban hành tiêu chuẩn quản lý và đánh giá chất lượng tín dụng có tính thống nhất đối với hệ thống Ngân hàngTMCP. Các tiêu chuẩn này phải phản ánh được tình hình hoạt động và kinh doanh của ngân hàng về các phương diện : Huy động vốn, Cho vay, Khả năng chống đỡ rủi ro, Chất lượng khách hàng và Hiệu quả của hoạt động tín dụng.
Ví dụ, về huy động vốn cần phải nắm được tỷ lệ vốn huy động kỳ này so với kỳ trước; tỷ lệ vốn huy động so với vốn tự có và quỹ dự trữ - phản ánh khả năng và mức độ an toàn trong việc mở rộng huy động vốn của NHTM; Tỷ lệ vốn huy động có kỳ hạn với tổng nguồn vốn huy động - phản ánh mức độ ổn định của nguồn vốn và cho phép NHTM có kế hoạch cho vay; tỷ lệ huy động vốn so với tổng tài sản Nợ - phản ánh uy tín của NHTM...
Về tình hình cho vay thì cần phải quan tâm tới doanh số cho vay kỳ này so với kỳ trước, tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ ...
Và hàng loạt các tiêu chí khác liên quan đến khả năng chống đỡ rủi ro, chất lượng khách hàng và hiệu quả hoạt động kinh doanh tín dụng ..v.v
-Cần quy định thống nhất quy trình quản lý hoạt động tín dụng áp dụng cho các NHTM nói chung và ngân hàng TMCP nói riêng. Quy trình này phải đảm bảo được việc quản lý hoạt động tín dụng dưới góc độ: quản lý rủi ro tín dụng và quản lý quy trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng.
2.4. Cần điều chỉnh và sử dụng các công cụ quản lý tiền tệ phù hợp và có hiệu quả.
-Đối với dự trữ bắt buộc: nên áp dụng kỳ tính toán DTBB là 4kỳ /tháng nhằm tăng tính linh hoạt và sự phù hợp của công cụ này trong điều kiện tình hình thực tế hiện nay, đảm bảo cho NHTM đủ khả năng thanh toán. Theo dõi và xử phạt kịp thời, nghiêm túc những vi phạm về DTBB. Cần có thêm các quy định cụ thể nhằm hạn chế những vận dụng linh hoạt của các NHTM đặc biệt khối các NHTMCP nhằm tránh DTBB, ví dụ việc nhận tiền gửi 13 tháng lấy lãi 3 tháng 1lần hoặc được rút gốc trước thời hạn được hưởng lãi của kỳ hạn gửi tiền tương ứng...
-Đối với chính sách lãi suất : Chính sách lãi suất nên đặt trọng tâm là khuyến khích đối với sự phát triển môi trường tài chính, tăng khối lượng tiết kiệm qua ngân hàng( nguồn vốn đầu tư tiềm năng do hệ thống ngân hàng kiểm soát) và hạ lãi suất trong điều kiện lạm phát không ổn định sẽ làm giảm khối lượng tiết kiệm, giảm lòng tin của công chúng vào cách thức điều hành của hệ thống ngân hàng.
Quan điểm tổng thể là nên duy trì một lãi suất đủ cao nhằm tăng cường tiết kiệm, khuyến khích mở rộng môi trường tài chính tiến tới làm cho lãi suất thích nghi dần với cơ chế thị trường với những bước đi thích hợp sẽ làm cho lãi suất thực sự là công cụ đẵc lực tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động có hiệu quả trong cơ chế thị trường và nhờ đó, chất lượng tín dụng được nâng cao. Hiện nay lãi suất đầu ra đầu vào của NHTM bị hạn chế trong một khoảng hẹp, làm cho sự vận động của quy luật cung cầu và giá trị không còn chỗ đứng trong phạm vi kiểm soát của nhà nước.
Lãi suất chiết khấu, một công cụ của chính sách tiền tệ gần như không hoạt động: cần phải tạo điều kiện cho thương phiếu, trái phiếu kho bạc được đưa ra thị trường và trở thành một loại hàng hoá cho thị trường tiền tệ.
Khép dần khoảng cách giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ tiến tới chấm dứt cho vay ngoại tệ. Ngoại tệ cho các nhu cầu thanh toán đối ngoại cần được` đáp ứng thông qua thị trường ngoại tệ liên hàng.
2.5.Tăng cường hiệu quả của hệ thống thông tin tín dụng:
-Cần có biện pháp mở rộng mạng lưới các TCTD tham gia vào hệ thống CIC để có nguồn thông tin rộng rãi và đầy đủ: Hoàn thiện hệ thống các quy định, các chỉ tiêu thông tin, mã số, chế độ thu thập, xử lý, lưu trữ, bảo mật, cung cấp và sử dụng thông tin.
Bổ xung sửa đổi quy chế về tổ chức hoạt động của CIC ban hành kèm theo quyết định số120/QĐ-NH14 ngày 24/4/1995 bắt buộc các TCTD phải tham gia CIC để có đủ thông tin về khách hàng và các TCTD phải cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin của mọi khách hàng cả về số liệu thực tế và dự báo khả năng tài chính.
Sửa đổi quy định tại điểm 5.3 điều 5 thể lệ tín dụng ngắn hạn về một khách hàng vay vốn nhiều ngân hàng “ việc sử dụng thông tin của hệ thống thông tin tín dụng CIC là điều kiện bắt buộc phải có trước khi cho vay. Các Trung tâm thông tin tín dụng có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin về khách hàng và chịu trách nhiệm về thông tin đã cung cấp “
-Hoàn thiện phần mềm chương trình, quy trình kỹ thuật nghiệp vụ CIC, chế độ truyền dẫn thông tin tín dụng qua mạng máy tính, triển khai thông nhất trong cả nước.
3 Kiến nghị với các Ngân hàng Thương mại Cổ phần:
Thực tế cho thấy rằng trong số các rủi ro tín dụng của các NHTM , trên 80% xảy ra là do nguyên nhân chủ quan gây ra. Tổng kết như vậy, nhằm đưa đến một thông điệp rằng, cho dù có kiến nghị rất nhiều với các cơ quan các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương nhằm tạo một môi trường kinh tế và pháp lý bình ổn, đầy đủ và đồng bộ cho hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng đạt hiệu quả, song hơn ai hết, nhân tố quyết định hạn chế rủi ro tín dụng phải là chính các NHTM nói chung và các NHTMCP nói riêng.
Điều này rất logic, bởi tuy tín dụng không thể tồn tại và hoạt động độc lập với các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, không thể tách rời khỏi sự quản lý kiểm soát của NHNN, song Tín dụng lại diễn ra hàng ngày hàng giờ tại các TCTD, chất lượng của nó phụ thuộc vào chất lượng của các bước phân tích và ra quyết định tín dụng. Và ngược lại, chất lượng tín dụng đem lại hiệu quả hay thiệt hại cho chính các TCTD.
Một số kiến nghị các Ngân hàng thương mại cổ phần:
3.1. Nghiêm chỉnh chấp hành mọi quy chế, nguyên tắc tín dụng, các luật định và các quy định có liên quan. Có thể nói đây là tập hợp đồ sộ các văn bản với những quy định khá chi tiết và nhiều khi có những trùng lặp và mâu thuẫn. Vậy nên cần phải tiến hành rà soát, tổng hợp lại, yêu cầu cán bộ tín dụng, cán bộ lãnh đạo điều hành các cấp phải nghiên cứu và nghiêm chỉnh thực hiện. Đồng thời, các ngân hàng TMCP cần phải có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng để họ có các kiến thức tổng hợp, nắm vững nghiệp vụ ngân hàng, hiểu rõ kinh doanh thương mại, nắm chắc kiến thức pháp lý, kiến thức quản lý tài sản Nợ, tài sản Có, phân tích hoạt động kinh doanh, đánh giá khách hàng, quản lý rủi ro, dự đoán thị trường...Kèm theo đó là nâng cao khả năng quản lý điều hành, năng lực chuyên môn và phẩm chất của cán bộ lãnh đạo.
Ngoài ra, các quy trình tín dụng, quy trình công nghệ và luân chuyển chứng từ giữa các phòng ban trong các ngân hàng TMCP phải được quy định rõ ràng đảm bảo hoạt động kinh doanh nhịp nhàng, có hiệu quả, tránh chồng chéo về tác nghiệp chuyên môn cũng như về trách nhiệm.
3.2. Với một quyết định tín dụng, cần phải có sự cân nhắc kỹ càng, không xem xét hời hợt và phê duyệt một cách dễ dàng, phải đặt vấn đề trong sự tác động qua lại với các nhân tố : pháp luật, chủ trương chính sách, quy trình cho vay và quan trọng nhất là phải biết rõ khách hàng của mình là người như thế nào, họ muốn gì, phải hoàn thiện đầy đủ thủ tục về đánh giá khách hàng vay vốn, lưu giữ đầy đủ hồ sơ pháp lý về hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng như cần xác định rõ mục đích sử dụng vốn vay... và từ đó dùng các kiến thức và bài học kinh nghiệm để xử lý.
Muốn vậy các ngân hàng TMCP cần phải có một chính sách tín dụng và chính sách khách hàng hợp lý, có chú trọng vào việc lựa chọn khách hàng, tức là biết lựa chọn lĩnh vực đầu tư có hiệu quả.
3.3. Không nên coi tài sản thế chấp là chỗ dựa an toàn cho số tiền vay phát ra. Tài sản thế chấp là cơ sở giúp các ngân hàng có khả năng thu hồi nợ vay một khi khách vay không còn khả năng trả nợ, song không nên tuyệt đối hoá vai trò của tài sản thế chấp vì thực tế đã chứng minh thu nợ bằng tài sản xiết nợ đang là gánh nặng, khó xử lý đối với các ngân hàng TMCP, và thu nợ bằng tài sản thế chấp không phải là một giải pháp tốt mà chỉ là giải pháp tình thế, bắt buộc; khả năng thu nợ bằng tiền thực sụ từ TSTC cũng là một công việc nhiều khó khăn. Vì vậy, mặc dù có TSTC nhưng mọi nguyên tắc, thủ tục quy trình cho vay giám sát và thu nợ phải được thực hiện nghiêm túc như trường hợp không có TSTC, phải thực hiện cho vay theo mức quy định về TSTC, cần phải có quy định cụ thể về TSTC và đánh giá TSTC; đồng thời phải yêu cầu người vay mua bảo hiểm TSTC.
Mặt khác, không phải khách hàng nào cũng phải có TSTC mới cho vay việc cho vay còn phụ thuộc vào chân dung và sức khoẻ của doanh nghiệp : bề dày trong mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp, là khả năng quản lý, năng lực trả nợ, hiệu quả kinh tế của dự án hoặc thương vụ đang có nhu cầu vay vốn....
3.4. Thực tế cho thấy hầu hết người đi vay kinh doanh thua lỗ đều có dấu hiệu báo trước. Ngân hàng không thu được nợ là do không có sự theo dõi, giám sát nên không nhận biết sớm được thông tin. Vì vậy, việc lượng định rủi ro thường xuyên phải được chú trọng trong quy trình cho vay, cần thực hiện thủ tục theo dõi giám sát việc sử dụng vốn vay và phải được lập thành biên bản. Cụ thể, nên chia kỳ hạn cho vay thành những giai đoạn nhỏ, rõ ràng và ở mỗi giai đoạn đó cán bộ tín dụng phải lượng định lại mức độ rủi ro của khoản vay dựa trên những thông tin nắm bắt được từ đó đưa ra biện pháp xử lý nhằm cải thiện khả năng thu nợ.
3.5.Đối với cán bộ tín dụng cần phải có phân công phân nhiệm rõ ràng đồng thời phải đặc biệt chú ý quan tâm đến quyền lợi của họ. Việc này vừa tạo nên tâm lý cho cán bộ tín dụng thấy tầm quan trọng của công việc họ đang làm vừa tạo cho họ an tâm với công việc được giao, với thu nhập tương ứng với trách nhiệm.
3.6. Về chế độ quản lý, điều hành, kiểm soát giám sát của các ngân hàng TMCP : Các ngân hàng TMCP cần ban hành các quy chế hoạt động của Ban điều hành, cụ thể hoá quy chế hoạt động của Ban Kiểm Soát do Đại hội cổ đông bầu, quy chế nhân viên, quy chế hoạt động và quyền hạn của ban Tổng kiểm soát - là một bộ phận độc lập đối với mọi phòng ban của ngân hàng- và nghiêm chỉnh chấp hành các quy chế này. Các ngân hàng TMCP cần coi công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên của ban Tổng kiểm soát là công tác thanh tra tại chỗ và là phương tiện nâng cao chất lượng kinh doanh nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng.
3.7. Cần cụ thể hoá quy trình xử lý nợ quá hạn : Nợ quá hạn đang là vấn đề nóng bỏng của các ngân hàng TMCP hiện nay. Hầu hết các khoản nợ quá hạn hiện nay còn đang được treo trong bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng mà chưa có hướng xử lý dứt điểm. Vấn đề này sẽ tạo cho cán bộ tín dụng không triệt để đòi và giải quyết nợ quá hạn đồng thời tạo tâm lý chây ỳ,ỷ lại đối với các doanh nghiệp. Vì vậy cần phải có quy trình cho việc xử lý các khoản nợ quá hạn và nếu cần thiết, thành lập riêng một bộ phận xử lý nợ quá hạn. Bộ phận này sẽ nhận bộ hồ sơ các món quá hạn một thời gian nhất định sau ngày quá hạn, có trách nhiệm thu hồi nợ và tìm hiểu nguyên nhân quá hạn của món vay và đề đạt cách xử lý khi cần thiết.
Kết luận
Sự an toàn của các ngân hàng luôn là mối quan tâm đối với nhiều người, từ các nhà quản lý, những người điều hành đến các nhà kinh doanh, các cổ đông, các nhà đầu tư và những công dân của đất nước. Bởi lẽ những thua lỗ của ngân hàng có ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế hơn bất cứ sự thua lỗ của các loại hình doanh nghiệp nào khác, nó ảnh hưởng bất lợi tới niềm tin của công chúng và chuyển sang các thành phần kinh tế khác mang tính dây chuyền . Ra đời và phát triển từ chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế và trong bước chuyển sang cơ chế thị trường của nền kinh tế, các Ngân hàng Thương mại Cổ phần đã đạt được một số kết quả , góp phần đảm bảo an toàn, ổn định trong hoạt động chung của toàn hệ thống ngân hàng, đồng thời góp phần thực thi chính sách tiền tệ trong cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó các Ngân hàng thương mại cổ phần còn có rất nhiều tồn tại cần chỉnh sửa, nếu không sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới sự an toàn, ổn định của hệ thống tài chính tiền tệ nói riêng và nền kinh tế nói chung .
Vì vậy, việc nghiên cứu hoạt động kinh doanh tín dụng và các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại Cổ phần là một vấn đề có tính quan trọng và cấp thiết nhằm đưa khối các Ngân hàng này hoạt động phù hợp với yêu cầu tồn tại và phát triển một cách an toàn và vững chắc.
Danh mục các Tài liệu tham khảo
1.David Begg and Stanley Ficher, Rudger Dornbusch- Kinh tế học tập I NXB Giáo dục, trường Đại học Kinh tế quốc dân 1992, tr.335,347.
2.Edward W. Reed & Edward K .Gill- Ngân hàng Thương mại.
3.Frederic S.Mishkin : Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường Tài chính. NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà nội 1994, tr.258,584.
4.Hệ thống hoá văn bản Pháp luật về Ngân hàng -Q 7- NHNNVN.
5.Kinh tế 98-99 Thế giới & Việt nam - Thời báo Kinh tế -
6.Ngân hàng và doanh nghiệp - Hiệp hội liên ngân hàng về đào tạo. Banque de France - CFPB- ROBERT RAS.
7.Nguyễn Hữu Thân- Phương pháp bảo hiểm phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh. NXB Thông tin 10/1991.
8.Những vấn đề cơ bản về Kinh tế Vĩ mô-NXB Giáo dục Hà nội 1996 tr.15,104,132. NXB Thành phố Hồ chí Minh 1993, tr.248,496.
9.Phân tích & Rủi ro tín dụng. Chương trình đào tạo của NHNNVN & NH ANZ 1997. Mark Mc Aleer- Tư vấn đào tạo tín dụng-Nhóm NH úc& Niudilân.
10.Phân tích và quản lý các Dự án đầu tư . Nguyễn ngọc Mai NXB Khoa học và Kỹ thuật. tr.82,107.
11.Quản lý tài chính Doanh nghiệp vừa và nhỏ . Ronald C. Spurga Nhà xuất bản Thống kê Hà nội 1994.
12.Tạp chí Lý luận và Nghiệp vụ Ngân hàng - NHNNVN 46 năm ngành Ngân hàng Việt nam. Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng thời gian qua. Thạc sĩ Nguyễn chí Trung NHNTVN.
13.Tạp chí thông tin Khoa học Ngân hàng 5/1997. Nợ quá hạn của các doanh nghiệp Trần Tuấn Anh - TP Hồ chí Minh.
14.Tạp chí Thông tin Khoa học Ngân hàng chuyên đề : “ Các biện pháp bảo đảm an toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các TCTD trong cơ chế thị trường ở Việt nam.
15.Tạp chí thông tin Ngân hàng 10/1997. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng nhìn ở tầm vĩ mô. PTS Ngô Hướng. Làm thế nào để hạn chế rủi ro tín dụng. PTS Hồ Diệu.
16.Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ - Hiệp hội Ngân hàng Việt nam 10/1997 -Chất lượng tín dụng và Chất lượng tuân thủ nguyên tắc tín dụng Nguyễn Thanh Duy. - Hoạt động ngân hàng TMCP những con số biết nói - Hoàng Huy
17.Thời báo Kinh tế Việt nam - số 23 ngày 21/3/1998 : Nợ quá hạn và gánh nặng tài sản thế chấp. Ngành Ngân hàng đang quá tải về nợ khó đòi Nguyễn Đức Hoàn.Cạnh tranh kinh doanh tiền tệ : Để Ngân hàng nội không thua Ngân hàng ngoại. Hoàng Lộc.
18.Thời báo Kinh tế Việt nam - số 77 24/9/1997 - Một phó giám đốc ngân hàng chiếm đoạt 11 tỷ đồng . Phương Hà.
19.Thời báo Kinh tế Việt nam -số 76 20/9/1997 - Ngân hàng thương mại cổ phần . Đàm Minh Thuỵ.
20.Thị trường Tài chính Tiền tệ - 1,2/1997 - Một số ý kiến bàn về khung pháp luật kinh tế ở Việt nam đảm bảo cho hệ thống Ngân hàng hoạt động có hiệu quả. Luật sư Trần Đình Triển.
21.Vấn đề Đổi mới chính sách Tài chính - Tiền tệ, kiểm soát lạm phát ở Việt nam và Kinh nghiệm của Nhật bản. Nhiều tác giả .
NXN Chính trị Quốc gia 1995. tr.318-323
Bảng số 4 : Chi tiết dư nợ cho vay nền kinh tế (31/12/98)
Đơn vị : Triệu đồng.
Stt
Tên
Ngân hàng
Ngắn hạn
Trung dài
hạn
Tổng
dư nợ
%+,-
12/97
1
AP Bank
438.377
17.987
456.364
+28,83
2
VP Bank
504.500
26.430
530.930
+3,10
3
HabuBank
68.516
37.144
105.660
+21,60
4
Kỹ thương
344.207
56.815
401.022
+21,92
5
Quốc tế
97.417
23.467
120.884
+ 185,01
6
Quân đội
571.644
115.745
687.389
+7,66
Cộng
2.024.661
277.588
2.302.249
+17,11
Nguồn : NHNN-Chi nhánh Hà nội.
1.2. Cơ cấu đầu tư và cho vay :
Phân theo ngành sản xuất kinh doanh :
-Công nghiệp : 25,6%
-Xây dựng : 23%
-Thương nghiệp dịch vụ : 41,5%
-Gia công chế biến : 6,9 %
-Ngành khác : 3%
Phân theo thành phần kinh tế :
-Quốc doanh : 38,16%
-Ngoài quốc doanh : 61,84%
2.1.Nợ quá hạn và tiến độ xử lý nợ quá hạn :
Tình hình nợ quá hạn tiếp tục gia tăng. Sau đây là tình hình nợ quá hạn tại các thời điểm :
Đơn vị : Triệu đồng.
Thời điểm
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Tỉ lệ %
31/12/1996
43.113
1.752.350
2,40
31/03/1997
322.271
1.881.664
17,12
30/06/1997
393.682
1.836.547
21,43
30/09/1997
429.497
1.864.447
23,03
31/12/1997
362.316
1.965.885
18,43
31/12/1998
344.810
2.302.249
14,98
Nguồn : NHNN-Chi nhánh Hà nội.
Phân tích dư nợ quá hạn đến tháng 12/1998, ta có những con số sau
+ Nợ quá hạn dươí 180 ngày 258.607,5 triệu đồng, chiếm 75%
+ Nợ quá hạn từ180-360 ngày 71.376 triệu đồng, chiếm 20,7%
+ Nợ khó đòi 14.826,5 triệu đồng, chiếm 4,3%.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28228.doc