Kim ngạch nhập khẩu từ New Zealand là 447,8 nghìn USD, giảm 67,34% so với năm 1999, tương ứng với 985,3 nghìn USD. Tuy nhiên tỷ trọng nhập khẩu là 33,41%, do tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2000 giảm mạnh. Kim ngạch nhập khẩu từ Singapore giảm từ 1154,7 nghìn USD năm 1999 xuống còn 275,3 nghìn USD năm 2000, giảm 76,62% tương đương với lượng tuyệt đối là 879,4 nghìn USD. Mặc dù vậy, tỷ trọng nhập khẩu từ Singapore là 19,25%.
Kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc và từ Thái Lan vẫn không cao mặc dù có lợi thế về địa lý. Kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc là 123,4 nghìn USD, từ Thái Lan và 106,7 nghìn USD. Tỷ trọng giá trị nhập khẩu trong tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2000 từ Trung Quốc và Thái Lan lần lượt là 8,63% và 11,24%.
Giá trị nhập khẩu từ các thị trường đều giảm với mức gần tương đương nhau, do đó tỷ trọng nhập khẩu từ các nước của Công ty năm 2000 nhìn chung không có thay đổi nhiều so với năm 1999.
71 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu thực phẩm tại Công ty Thực phẩm miền Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghệ An, Thanh Hoá và Hà Nội, để nâng sản lượng lên 500 nghìn tấn vào năm 2010. Do đó trong thời gian tới Việt Nam vẫn phải nhập khẩu sữa phục vụ cho nhu cầu trong nước.
c. Đường: Mặt hàng đường, Công ty chỉ nhập khẩu để kinh doanh từ năm 1999 trở về trước. Năm 1999 kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này là 1210 nghìn USD chiếm tỉ trọng 24,52% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 1999. Sang năm 2000, sản lượng đường sản xuất trong nước tăng nhanh, nhu cầu tiêu dùng lại tăng chậm, tình hình nhập lậu sản phẩm đường qua biên giới tăng mạnh bán với giá thấp. Lượng cung lớn hơn cầu khiến cho lượng đường nhập khẩu của Công ty bị tồn đọng hơn 3000 tấn. Sang năm 2000 và 2001, Công ty thực phẩm miền Bắc đã chuyển sang xuất khẩu đường. Hiện nay đường đang là một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của Công ty.
d. Dầu ăn: Kim ngạch nhập khẩu dầu ăn hàng năm của Công ty giảm dần. Dầu ăn cũng là mặt hàng mà nước ta có thể sản xuất được. Năm 1999, kim ngạch nhập khẩu là 534,4 nghìn USD, chiếm tỉ trọng 10,83%. Năm 2000, giá trị nhập khẩu giảm đột ngột chỉ còn 70,9 nghìn USD giảm 86,73% tương ứng với lượng giảm 463,5 nghìn USD. Tuy nhiên tỉ trọng nhập khẩu mặt hàng này trong năm 2000 vẫn khá lớn chiếm 14,96% do tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2000 giảm mạnh. Năm 2001 giá trị nhập khẩu giảm xuống chỉ còn 36,7 nghìn USD, giảm 48,94% mức giảm tuyệt đối là 34,2 nghìn USD.
Hiện nay ở Việt Nam ngoài Công ty dầu Tường An, còn có những sản phẩm dầu Neptune, dầu Marvella... Việt Nam hiện có hơn hai nhà máy tinh luyện hiện đại, công suất 66.500 tấn/năm. Nhận định được tình hình đó, Công ty thực phẩm miền Bắc không đưa dầu ăn vào danh mục hàng hoá ưu tiên nhập khẩu.
e. Malt: Malt là loại nguyên liệu dùng để sản xuất bia. Malt chủ yếu được nhập khẩu từ Đan Mạch, Pháp, Đức, Australia, Singapore. Năm 1999 kim ngạch nhập khẩu khá lớn 2590,3 nghìn USD chiếm tỉ trọng 52,49%. Tuy nhiên năm 2000 giá trị nhập khẩu mặt hàng này giảm mạnh chỉ còn 407,0 nghìn USD giảm 84,29% tương ứng với mức giảm 2183,3 nghìn USD. Năm 2001 Công ty chỉ nhập khẩu trong ba tháng đầu năm đạt giá trị 78,9 nghìn USD giảm 90,61% so với năm 2000, mức giảm tuyệt đối là 328,1 nghìn USD. Giá trị nhập khẩu chiếm tỉ trọng rất thấp chỉ 7,38% so với năm 1999 thì kim ngạch nhập khẩu Malt giảm 96,95% tương đương 2511,4 nghìn USD. Malt bia là mặt hàng không sản xuất được trong nước, hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu khoảng từ 10 nghìn tấn đến 15 nghìn tấn. Nếu doanh nghiệp tìm được nguồn cung cấp chất lượng ổn định, giá thành hạ, lại liên hệ tiêu thụ sản phẩm lâu dài, thì đây sẽ là một mặt hàng nhập khẩu chiến lược của Công ty.
f. Bột mì: Bột mì là mặt hàng nhập khẩu ủy thác duy nhất của Công ty. Năm 1999, giá trị nhập khẩu là 304,8 nghìn USD. Năm 2000, giá trị nhập khẩu mặt hàng này tăng lên 769,7 nghìn USD tăng 152,53% tướng ứng với mức tăng 464,9 nghìn USD. Tỉ trọng nhập khẩu mặt hàng này trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Công ty là khá lớn 53,83%. Năm 2001 giá trị nhập khẩu mặt hàng này giảm xuống 12,32% so với năm 2000 tương đương 94,8 nghìn USD. Tuy nhiên vẫn tăng so với năm 1999 là 121,43% tương ứng với lượng tăng 370,1 nghìn USD.
Nhìn chung cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Công ty còn nghèo nàn, một số mặt hàng trong nước có thể sản xuất được một cách hiệu quả. Giá thành nhập khẩu thường cao do không tìm được nguồn hàng giá rẻ nên giá trị nhập khẩu giảm dần. Lãnh đạo Công ty cần tìm các biện pháp để thay đổi cơ cấu nhập khẩu, nhập khẩu các mặt hàng phù hợp hơn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
3. Cơ cấu thị trường nhập khẩu.
Tuy các mặt hàng kinh doanh nhập khẩu của Công ty là không nhiều song Công ty lại nhập khẩu từ nhiều nguồn ở nhiều nước. Thị trường nhập khẩu chủ yếu của Công ty là những nước ở châu á, còn lại một vài nước châu Âu và châu úc.
Qua bảng sau, chúng ta có thể có một số nhận xét về cơ cấu thị trường nhập khẩu của Công ty thực phẩm miền Bắc, và sự biến đổi như sau:
a. Năm 1999.
Hai thị trường nhập khẩu chủ yếu của Công ty là New Zealand và Singapore. Năm 1999, kim ngạch nhập khẩu từ New Zealand là 1463 nghìn USD, chiếm 29,65% tổng giá trị nhập khẩu trong năm. Đối với Singapore, hai số liệu đó lần lượt là 1154,7 nghìn USD và 23,40%. Hàng hoá nhập khẩu từ New Zealand, chủ yếu là sữa bột, rượu. Còn Singapore từ lâu đã được xem là cảng trung chuyển của thương mại thế giới, mà chủng loại hàng hoá nhập khẩu là rất đa dạng.
Cùng nằm trong Asean với Singapore và Việt Nam, song kim ngạch nhập khẩu từ Thái Lan chỉ 364,7 nghìn USD, chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong tổng giá trị nhập khẩu (7,39%). Là một nước có chung đường biên với Việt Nam, tuy nhiên kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc chỉ là 462,8 nghìn USD chiếm tỷ trọng 9,38%. Kim ngạch nhập khẩu từ Nhật Bản của Công ty là 555,1 nghìn USD, từ ấn Độ là 405,6 nghìn USD. Gía trị nhập khẩu từ Đan Mạch rất khiêm tốn, chỉ 214,1 nghìn USD, chiếm 4,43% trong tổng kim ngạch nhập khẩu năm 1999 của Công ty. Các thị trường khác bao gồm Pháp, Đức, Australia đóng góp vào giá trị nhập khẩu của Công ty là 314,3 nghìn USD, chiếm 6,37% trong tổng kim ngạch nhập khẩu.
Có thể thấy kim ngạch nhập khẩu chủ yếu là từ châu á, trong đó các thị trường nhập khẩu lớn là New Zealand và Singapore. Ngoài Thái Lan và Singapore, các đại diện khác trong khối Asean không có trong danh mục thị trường nhập khẩu của Công ty. Ta cũng thấy rằng Công ty không nhập khẩu từ
Bảng 5: Cơ cấu nhập khẩu theo thị trường
Đơn vị: 1000 USD.
STT
Tên nước
1999
2000
2001
Tỷ lệ so sánh
Giá trị nhập khẩu
Tỷ trọng
Giá trị NK
Tỷ trọng
Giá trị NK
Tỷ trọng
2000/1999
2001/2000
1
New Zealand
1463,08
22,65
477,76
33,41
425,6
40,34
0,38
0,89
2
Singapore
1154,67
23,40
275,27
19,25
150,55
14,27
0,23
0,54
3
Thái Lan
364,66
7,39
160,73
11,24
97,90
9,28
0,44
0,61
4
ấn Độ
405,62
8,22
94,09
6,58
0,23
5
Đan Mạch
214,16
4,34
124,84
8,73
110,56
20,48
0,58
0,88
6
Nhật Bản
555,13
11,25
66,06
4,62
45,25
4,29
0,19
0,68
7
Trung Quốc
462,85
9,38
123,41
8,63
91,26
8,65
0,26
0. 74
8
Các thị trường khác
314,33
6,37
107,84
7,54
133,88
12,69
0,34
1,24
Tổng trị giá
4934,50
100
1. 430,00
100
1055,00
100
0,29
0,74
quốc gia nào thuộc châu Mỹ, có thể do xa cách về mặt địa lý sẽ làm tăng chi phí, làm giảm hiệu quả kinh doanh.
b. Năm 2000.
Kim ngạch nhập khẩu từ New Zealand là 447,8 nghìn USD, giảm 67,34% so với năm 1999, tương ứng với 985,3 nghìn USD. Tuy nhiên tỷ trọng nhập khẩu là 33,41%, do tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2000 giảm mạnh. Kim ngạch nhập khẩu từ Singapore giảm từ 1154,7 nghìn USD năm 1999 xuống còn 275,3 nghìn USD năm 2000, giảm 76,62% tương đương với lượng tuyệt đối là 879,4 nghìn USD. Mặc dù vậy, tỷ trọng nhập khẩu từ Singapore là 19,25%.
Kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc và từ Thái Lan vẫn không cao mặc dù có lợi thế về địa lý. Kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc là 123,4 nghìn USD, từ Thái Lan và 106,7 nghìn USD. Tỷ trọng giá trị nhập khẩu trong tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2000 từ Trung Quốc và Thái Lan lần lượt là 8,63% và 11,24%.
Giá trị nhập khẩu từ các thị trường đều giảm với mức gần tương đương nhau, do đó tỷ trọng nhập khẩu từ các nước của Công ty năm 2000 nhìn chung không có thay đổi nhiều so với năm 1999.
c. Năm 2001.
Đáng chú ý nhất trong năm 2001 là Công ty không còn nhập khẩu từ thị trường ấn Độ. Hàng nhập khẩu từ ấn Độ không ổn định về nguồn hàng và chất lượng. New Zealand và Singapore vẫn là hai thị trường nhập khẩu của Công ty. Kim ngạch nhập khẩu từ New Zealand là 425,6 nghìn USD, chiếm 40,34% tổng kim ngạch nhập khẩu, giảm 10,93% so với năm 2000, tương đương với 55,2 nghìn USD. Ngoài sữa bột Snow, các loại rượu, thì bột mì cũng là một trong những mặt hàng nhập khẩu từ New Zealand. Singapore vẫn chiếm vị trí thứ hai, giá trị nhập khẩu là 150,5 nghìn USD, chiếm 14,27% tổng giá trị nhập khẩu. Tiếp theo là Đan Mạch, Thái Lan, Trung Quốc với tổng giá trị nhập khẩu lần lượt là 110,6 nghìn USD, 97,0 nghìn USD, 91,3 nghìn USD. Kim ngạch nhập khẩu từ Nhật Bản là 45,2 nghìn USD. Kim ngạch nhập khẩu từ các thị trường khác là 133,9 nghìn USD, tăng 24,21% tương ứng với lượng tuyệt đối là 26,1 nghìn USD.
Tóm lại từ bảng trên có thể có một số kết luận:
- Kim ngạch nhập khẩu chủ yếu là từ New Zealand và Singapore.
- Kim ngạch nhập khẩu từ hầu hết các thị trường trong ba năm qua liên tục giảm, dẫn đến tổng kim ngạch giảm.
- Công ty không nhập khẩu từ thị trường các nước châu Mỹ, nhập khẩu rất ít từ thị trường châu Âu, mà chủ yếu là từ châu á.
Một phần dẫn đến lý do trên là do cách trở về mặt địa lý.
4. Kết quả bán hàng nhập khẩu qua các hình thức bán.
Bảng 6: Cơ cấu doanh số bán hàng nhập khẩu (tỷ đồng).
1999
2000
2001
Chỉ tiêu
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
Doanh số
189,8
100
201,2
100
196
100
Bán buôn
145,94
76,89
163,49
81,26
145,46
74,22
Bán lẻ
43,86
23,11
37,71
13,74
50,54
25,78
Doanh số bán hàng nhập khẩu năm 1999 là 60,1 tỷ đồng. Trong đó doanh số bán buôn là 46,2 tỷ đồng, chiếm 76,93% doanh số bán lẻ là 13,9 tỷ đồng chiếm 23,07% tổng doanh số bán hàng nhập khẩu. Năm 1999, doanh số bán buôn là 22,3 tỷ đồng giảm 51,73%, tương ứng với số tiền là 23,9 tỷ đồng, doanh thu bán lẻ giảm xuống 5,2 tỷ đồng, giảm 62,59% tương ứng với số tiền là 8,7 tỷ đồng. Doanh thu bán hàng giảm là do Công ty chưa có chính sách ưu đãi với các kênh phân phối, đẩy mạnh mở rộng các kênh phân phối, năm 2001 doanh số bán buôn là 14,4 tỷ đồng, giảm 48,88% so với năm 2000 tương ứng với 7,9 tỷ đồng. Doanh thu bán lẻ là 5,0 tỷ đồng, giảm 3,85% so với năm 2000 tương ứng số tiền 0,2 tỷ đồng. Doanh thu bán lẻ giảm là do Công ty chưa chuẩn bị hàng hoá kịp thời, chưa chú trọng đổi mới các cửa hàng phục vụ tốt nhu cầu khách hàng. Doanh thu bán buôn giảm vì một số đại lý thua lỗ làm giảm lượng hàng nhập khẩu tiêu thụ qua hình thức bán buôn.
Nhìn chung trong ba năm qua, hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu nói riêng của Công ty gặp nhiều khó khăn, do nhu cầu thị trường biến động và mặt hàng kinh doanh còn phụ thuộc theo thời vụ. Mặt khác, hoạt động bán lẻ của Công ty gặp nhiều khó khăn do phải cạnh tranh với các doanh nghiệp sản xuất và các tư nhân. Vì vậy Công ty cần phải mở rộng, nâng cao chất lượng kênh phân phối sản xuất, giới thiệu sản phẩm rộng rãi đến người tiêu dùng thông qua các phương tiện quảng cáo khuếch trương... đồng thời Công ty cần phải cải tiến phương thức bán buôn như: bán buôn qua hội chợ, bán buôn qua đại diện thương mại.
5. Hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty.
Bảng 7: Hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty qua ba năm 1999 - 2001.
Đơn vị: Tỷ đồng.
STT
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
1
Doanh số bán hàng nhập khẩu
60,1
27,5
19,4
2
Chi phí kinh doanh hàng nhập khẩu
55,3
24,8
17,5
3
Thuế nhập khẩu
2,5
1,3
0,9
4
Lợi nhuận trước thuế
4,8
2,7
1,7
5
Lợi nhuận từ nhập khẩu
2,3
1,4
1,1
6
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí
4,16
5,65
6,29
7
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu
3,83
5,09
5,67
5. 1 Lợi nhuận từ hoạt động nhập khẩu:
Lợi nhuận trước thuế được tính bằng doanh thu trừ đi chi phí. Lợi nhuận sau thuế là lợi nhuận trước thuế trừ đi các khoản nộp vào ngân sách Nhà nước. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ các hoạt động tài chính và lợi nhuận từ các hoạt động khác hình thành lãi thực của Công ty. Từ đó lãi thực được phân bố thành các quỹ theo quy định hiện hành của nhà nước.
Theo bảng trên ta thấy lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu hàng năm giảm dần. Lợi nhuận từ nhập khẩu là 2,3 tỷ năm 1999 thành 1,8 tỷ năm 2000, giảm 21,74% tương ứng với mức giảm là 0,5 tỷ đồng. Năm 2001 lợi nhuận từ nhập khẩu là 1,5 tỷ, giảm 16,67% tương ứng với 0,3 tỷ. Doanh số bán hàng nhập khẩu giảm, lợi nhuận từ lợi nhuận nhập khẩu giảm. Công ty cần cố gắng nhiều hơn để nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
5. 2. Tỉ suất lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu:
Tỷ suất lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu, là một trong những chỉ tiêu quan trọng của doanh nghiệp thương mại hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
a. Tỉ suất lợi nhuận theo chi phí.
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Dc =
Lợi nhuận từ nhập khẩu
Tổng chi phí nhập khẩu
x 100%
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí thể hiện thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận khi bỏ ra 100 đồng chi phí. Theo số liệu của bảng trên cho thấy năm 1999 Công ty bỏ ra 100 đồng chi phí thì thu được 4,16 đồng lợi nhuận. Năm 2000 là 5,652 đồng lợi nhuận. Năm 2001 thu được 6,29 đồng lợi nhuận. Kết quả trên chứng tỏ Công ty đã từng bước cắt giảm chi phí nhập khẩu, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Tuy nhiên tỷ suất lợi nhuận theo chi phí như các năm trên là còn thấp, Công ty cần tiếp tục cắt giảm chi phí để nâng cao hơn hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
b. Tỉ suất lợi nhuận theo doanh thu.
Dr =
Lợi nhuận từ nhập khẩu
Tổng doanh thu nhập khẩu
x 100%
Theo số liệu của bảng trên cho thấy năm 1999 Công ty bỏ ra 100 đồng doanh thu thì thu được 3,83 đồng lợi nhuận. Năm 2000, tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu là 5,09. Năm 2001 thu được 5,67 đồng lợi nhuận. Ta thấy kể từ năm 2000, tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu tăng song vẫn còn thấp.
Việc tổ chức các khâu hoạt động nhập khẩu từ nghiên cứu thị trường đến tiêu thụ hàng hoá còn chưa tính toán một cách chặt chẽ và chưa khoa học nên chưa tiêu giảm được những chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh hàng nhập khẩu. Mặc dù Công ty có nhiều nỗ lực cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu quả đồng vốn bỏ ra, tuy nhiên hiệu quả kinh doanh còn thấp. Để duy trì doanh nghiệp, tập thể cán bộ công nhân viên Công ty cần có nhiều nỗ lực hơn nữa.
III. Đánh giá hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty thực phẩm miền Bắc.
1. Một số kết quả đạt được trong hoạt động nhập khẩu.
Những năm vừa qua, mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, song tinh thần quyết tâm cố gắng vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ được quán triệt đến từng cán bộ công nhân viên của Công ty. Cùng với tinh thần đoàn kết tốt xây dựng đơn vị ngày càng lớn mạnh, Công ty đã đạt được những kết quả đáng mừng. Là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động đa chức năng (sản xuất, kinh doanh, dịch vụ) hàng năm có tổng doanh thu cao, đóng góp vào ngân sách Nhà nước hàng năm trên 10 tỉ đồng. Công ty đã không ngừng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao nghiệp vụ cán bộ công nhân viên. Mức lương hàng tháng từ 555.000 đồng/người được nâng lên 873.000 đồng/người.
Công ty đã làm được những kết quả như sau:
+ Công ty đã thực hiện chính sách khoán đối với từng xí nghiệp, các đơn vị thành viên. Ngoài các hoạt động trợ giúp của Công ty thì các xí nghiệp phải tự tổ chức việc tiêu thụ và tự tìm kiếm khách hàng. Với cơ chế này, các xí nghiệp thành viên, các đơn vị trực thuộc năng động hơn, từ đó không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của đơn vị.
+ Công ty đã thực hiện hàng loạt các chính sách biện pháp nhằm hoàn thiện hỗ trợ các hoạt động tiêu thụ. Công ty có chính sách ưu đãi với các khách hàng truyền thống, khách hàng mua số lượng nhiều (chiết khấu thương mại có thể lên tới 5%) đồng thời có những phương thức thanh toán ưu đãi.
Công ty đã mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh bằng việc đầu tư lắp đặt một nhà máy sản xuất bánh quy cao cấp bằng dây chuyền công nghệ hiện đại của Đức, cùng với dây chuyền sản xuất rượu vang của Pháp. Đồng thời Công ty cũng đã đầu tư sửa chữa và nâng cấp xưởng bia, hạ tầng cơ sở như đường xá, trạm điện và toàn bộ khu sản xuất.
Việc lãnh đạo và kiểm soát có nhiều mặt tích cực. Công ty luôn tổ chức các hoạt động kiểm tra, kiểm soát tình hình sản xuất kinh doanh đồng thời phát hiện những sai sót bất hợp lí để có biện pháp khắc phục kịp thời. Hàng tháng, hàng quý Công ty còn tổ chức họp định kỳ để các phòng ban, các xí nghiệp thành viên báo cáo tình hình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình nhằm rút ra kinh nghiệm cho hoạt động tiêu thụ ở kỳ sau.
Qua một số năm hoạt động Công ty đã mở rộng thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Công ty đã có mối quan hệ hợp tác ổn định lâu dài với các nước khu vực châu á. Công ty đang có nhiều nỗ lực để mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Những kết quả trên chứng tỏ Công ty đang dần dần thích nghi với cơ chế thị trường.
Mấy năm vừa qua, Công ty luôn luôn nộp đầy đủ các khoản thu ngân sách. Đồng thời với sự phát triển của mình, Công ty tạo công ăn việc làm thường xuyên, thu nhập ổn định cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của Công ty. Thông qua nhập khẩu, Công ty đã đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng trong nước.
2. Những mặt tồn tại và nguyên nhân.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động nhập khẩu của Công ty còn có những mặt tồn tại. Cần phải nhìn nhận một cách khách quan những thành tựu và hạn chế để có biện pháp phù hợp, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Những hạn chế của Công ty bao gồm:
- Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu còn thấp, kim ngạch nhập khẩu và doanh thu từ nhập khẩu ngày càng giảm, tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu và tỷ suất lợi nhuận theo chi phí còn thấp. Công ty chưa chú ý đến đẩy mạnh công tác tiêu thụ. Hoạt động quảng cáo của Công ty còn chưa được chú trọng, hệ thống quảng cáo chỉ mang tính chất cục bộ, thiếu sức thuyết phục và sáng tạo. Trong Công ty chưa hình thành quỹ quảng cáo, các chi phí quảng cáo được hoạch toán và chi phí bất thường trong Công ty. Đồng thời Công ty còn thiếu đội ngũ nhân viên làm công tác này có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao.
- Đội ngũ cán bộ am hiểu nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu còn chưa nhiều. Mặc dù công tác tuyển dụng đã được xem trọng, tuy nhiên trình độ cán bộ làm ngoại thương vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc xuất nhập khẩu, vốn đòi hỏi hiểu biết sâu sắc, tinh thông nghiệp vụ.
- Công tác nghiên cứu thị trường chưa đáp ứng được yêu cầu hoạch định các kế hoạch chiến lược kinh doanh. Hoạt động nghiên cứu thị trường của Công ty chưa toàn diện, thiếu tính tổng thể và không có tính lâu dài, do đó ảnh hưởng đến việc đưa ra những kế hoạch chiến lược trung và dài hạn.
- Chính sách mặt hàng còn sơ lược, chưa có tính chính xác, chỉ dựa trên tình hình chung của thị trường mặt hàng còn chưa đa dạng, phong phú, chưa phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu ít thay đổi, mặt khác các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Công ty phải cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu khác và với các sản phẩm trong nước. Thay đổi cơ cấu sản phẩm nhập khẩu là một yêu cầu đặt ra ngày càng bức thiết.
Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty thực phẩm miền Bắc
I. Định hướng phát triển kinh doanh của Công ty trong những năm tới.
1. Các định hướng phát triển chung.
Năm 2005 Việt Nam sẽ phải hoàn thành cắt giảm thuế, tham gia vào AFTA. Thời cơ mới đặt ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và nhiều thách thức. Phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại đến năm 2010 của Việt Nam là tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính sách nhập khẩu từ nay đến năm 2010 phải hướng vào việc phục vụ ngày càng tốt hơn các nhu cầu về phát triển sản xuất trong nước, tăng trưởng xuất khẩu và các nhu cầu tiêu dùng hợp lí của nhân dân.
Trước điều đó, Công ty thực phẩm miền Bắc đang đứng trước những cơ hội và thử thách. Cơ hội là xu hướng mở rộng quan hệ quốc tế liên doanh liên kết hợp tác đầu tư nhằm thu hút tận dụng các nguồn lực để giải quyết khó khăn của Công ty. Tuy nhiên Công ty đứng trước nguy cơ bị thu hẹp thị phần do không có sản phẩm độc quyền, thiếu vốn và hạn chế về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực. Đồng thời hàng nhập khẩu chủ yếu của Công ty là nông sản, trong nước có thể sản xuất.
Định hướng kế hoạch năm 2002 dựa trên định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, tình hình trong nước và quốc tế, khai thác tối đa nội lực và tranh thủ ngoại lực. Căn cứ vào tình hình hoạt động kinh doanh trong những năm qua, Công ty có định hướng sản xuất kinh doanh như sau:
- Đáp ứng và thoả mãn một cách tối đa nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng xã hội trên cơ sở chấp hành nghiêm túc các qui định chính sách của Nhà nước. Thông qua đó duy trì và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Đồng thời phải làm tăng lợi nhuận của Công ty, tăng các khoản nộp ngân sách, góp phần làm lợi cho Nhà nước, cho xã hội, để nền kinh tế ngày càng phát triển.
- Xây dựng tổ chức lại Công ty để bộ máy gọn nhẹ ổn định hơn. Cụ thể là tổ chức bộ máy nhân sự, xây dựng chiến lược kinh doanh các mặt hàng kinh doanh chủ yếu. Nghiên cứu thay đổi từng bước cơ cấu hàng nhập khẩu hiệu quả hơn.
2. Chính sách cụ thể của Công ty.
Ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên trong Công ty xác định rằng trong thời gian tới, tình hình kinh doanh sẽ ngày càng khó khăn hơn. Sẽ có nhiều đối thủ cạnh tranh, với nhiều phương thức kinh doanh hiệu quả, có nhiều ưu thế về vốn, nhân lực... Đây cũng là tình hình khó khăn chung của các doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện nay. Dự kiến kế hoạch của Công ty trong thời gian tới là tương đối thận trọng, các chỉ tiêu đề ra năm 2002 tuy hơn các chỉ tiêu kế hoạch năm 2001, song nếu so sánh với các chỉ tiêu thực hiện năm 2001 thì đều thấp hơn hoặc tương đương.
Cụ thể là tổng doanh thu dự kiến năm 2002 là 570.000 triệu đồng chỉ bằng 60% doanh thu thực hiện năm 2001.
Trong đó dự kiến kế hoạch bán hàng trên thị trường nội địa, năm 2002 là 451.350 triệu đồng, chỉ bằng 65,31% doanh thu thực tế bán hàng thị trường thị trường nội địa năm 2001.
- Dự kiến doanh thu từ xuất khẩu năm 2002 là 71.400 triệu rất thấp so với doanh thu từ xuất khẩu thực hiện năm 2001 chỉ bằng 35,29%. Kế hoạch căn cứ vào tình hình biến động của thị trường thế giới, các hợp đồng đã ký, và mối quan hệ với bạn hàng nước ngoài.
- Dự kiến doanh thu từ dịch vụ là 3.400 triệu, chiếm 85% so với doanh thu thực hiện năm 2001. Phân tích dựa trên tính ít biến động về doanh thu từ dịch vụ qua các năm.
Chỉ có một chỉ tiêu dự kiến kế hoạch năm 2002 lớn hơn so với thực hiện năm 2001, đó là chỉ tiêu doanh thu từ sản xuất. Dự kiến là 43.850 triệu, tức là bằng 106,95% doanh thu thực tế từ sản xuất.
2.1. Chính sách mặt hàng kinh doanh.
Trong thời gian tới Công ty vẫn giữ chiến lược đa dạng hoá mặt hàng để đảm bảo tính linh hoạt và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Gần đây mặt
Nội dung
ĐVT
Năm 2001
Dự kiến KH
Năm 2002
K/hoạch
Thực hiện
Tổng doanh thu
Tr. đồng
474. 000
938. 321
570. 000
- Bán hàng trên thị trường nội địa
Tr. đồng
360. 000
691. 046
451. 350
- Doanh thu từ xuất khẩu
Tr. đồng
71. 000
202. 275
71. 400
- Doanh thu từ dịch vụ
Tr. đồng
6. 000
4. 000
3. 400
- Doanh thu từ sản xuất
Tr. đồng
37. 000
41. 000
43. 850
Mặt hàng kinh doanh chủ yếu
Đường các loại
Tấn
47. 500
100. 578
55. 000
Sữa các loại
Tấn
150
162
170
Cao su các loại
Tấn
7. 000
6. 500
7. 600
Bánh kẹo các loại
Tấn
1. 300
1. 400
1. 200
Rượu các loại
1000 chai
1. 000
700
900
Thuốc lá các loại
1000 bao
100. 000
110
120
Hàng thực phẩm khác
Tấn
245
300
Xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu
1000USD
4. 700
13. 485
5. 400
Mặt hàng xuất khẩu
- Đường các loại
Tấn
48. 000
35. 500
40. 000
- Cao su các loại
Tấn
7. 000
6. 500
7. 600
- Hàng thực phẩm khác
1000USD
500
690
800. 000
Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu
1000USD
1. 782
1. 055
885
Mặt hàng nhập khẩu
- Rượu các loại
1000 chai
100
231,5
120
- Sữa bột các loại
Tấn
70
153
160
- Thực phẩm khác
1000 USD
50,05
115,6
80
- Nhập ủy thác
1000 USD
1. 140
674,9
850
hàng đường và thuốc lá là mặt hàng chủ đạo của Công ty. Thuốc lá là mặt hàng nhạy cảm, có hại cho sức khoẻ, nên gặp khó khăn trong việc xúc tiến tiêu thụ. Tuy vậy, Công ty xác định với kinh nghiệm kinh doanh từ lâu, lại có sẵn quan hệ lâu dài với khách hàng và các nhà cung ứng, thì trong thời gian tới đây vẫn là hai mặt hàng chủ đạo của Công ty. Ngoài ra, vẫn nên duy trì những mặt hàng như bánh kẹo, sữa, rượu để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Hiện nay Công ty đang có hai kho chứa đường ở Vĩnh Tuy và Sơn Tây. Trong thời gian tới sẽ nâng cấp các kho hiện có, đồng thời sẽ nghiên cứu mở rộng thêm các kho mới ở các đầu mối như Gia Lâm, Hà Tây... Còn mặt hàng thuốc lá thì cần mở thêm các đại lý bán buôn ở các tỉnh phía Bắc. Đối với các khu vực trung tâm thành thị như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định sẽ tập trung kinh doanh các mặt hàng thuốc lá có chất lượng cao như Vinataba, Vinagol, 555, Dunhill; còn các chủng loại như Du lịch, Thăng Long, Bông sen chủ yếu được phân bổ về các vùng nông thôn có thu nhập thấp hơn thành thị.
Cùng với việc nghiên cứu sản xuất ra các sản phẩm bánh kẹo mới có mùi vị khác lạ, thơm ngon, Công ty cũng tiến hành nghiên cứu cải tiến mẫu mã, bao bì sản phẩm: các hình bên ngoài hộp bánh phải sắc nét, lịch sự và trang nhã tương xứng với chất lượng sản phẩm. Thông qua bao bì, góp phần định vị sản phẩm, từ đó góp phần củng cố và nâng cao uy tín của Công ty.
2.2. Chính sách phân phối.
Hiện nay Công ty chỉ có hai cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở 203 Minh Khai và chợ Nghĩa Tân. Trong thời gian tới sẽ mở thêm một số cửa hàng tại các địa điểm tập trung đông dân cư, có lưu lượng người qua lại đông như Đồng Xuân, Hàng Buồm, Thái Hà, Kim Liên... Công ty sẽ mở rộng hệ thống đại lý phân phối để thúc đẩy lượng hàng hoá tiêu thụ. Các hướng mở rộng của Công ty sẽ là tăng thêm số đại lý trên các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng... là nơi có thị trường tiêu thụ lớn để dần dần mở rộng ra phía Nam.
Đối tượng làm đại lý cho Công ty là các công ty thương mại, đặc biệt là các cửa hàng chuyên kinh doanh các mặt hàng thực phẩm. Bên cạnh số lượng, không ngừng quản lý giám sát chặt chẽ để xử lý kịp thời những biểu hiện xấu để khắc phục những điểm yếu kém. Quản lý nghiêm ngặt về giá, tránh việc đại lý tự do nâng giá gây thiệt hại cho người bán lẻ trong kênh phân phối để có sự trợ giúp thích hợp.
2.3. Chính sách giao tiếp khuyếch trương.
Đây là hoạt động cần thiết để khách hàng biết về sản phẩm. Với tình hình Công ty hiện nay, việc quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, truyền thanh là chưa hợp lý vì Công ty sẽ khó có khả năng để trang trải chi phí. Công ty sẽ xúc tiến bán hàng thông qua catalog hàng mẫu, hội chợ triển lãm, quảng cáo trên báo chí.
Hiện nay Công ty đã có các Catalog giới thiệu về sản phẩm. Catalog cung cấp thông tin cần thiết như kích cỡ, giá cả, khối lượng, hình thức thanh toán... để giới thiệu cho khách hàng dễ dàng, thuận tiện. Hội chợ triển lãm cũng rất cần thiết đối với Công ty trong việc thiết lập các mối quan hệ làm ăn, trong việc định vị sản phẩm.
2.4. Chính sách giá cả của Công ty.
Giá cả là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường. Việc hoạch định chiến lược giá đúng đắn sẽ góp phần giữ vững thị phần, gia tăng doanh số. Một số chính sách giá sắp tới của Công ty:
Đối với các mặt hàng mà Công ty nhập về: rượu, đường, cao su, dầu ăn... Công ty tiếp tục xây dựng một kế hoạch giảm giá vững chắc.
Trong số các nhà cung ứng trên thị trường, Công ty tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu nhập hàng của nhà cung cấp với giá thấp nhất mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm, số lượng, tránh mua hàng qua nhiều kênh trung gian. Hiện nay Công ty chủ yếu nhập đường của nhà máy đường Lam Sơn.
Trong thời gian tới, Công ty vẫn tiếp tục hoạch định một số phần trăm tiền lãi giành để thưởng cho các nhà môi giới, các nhà phân phối chính, vì họ là những người đứng ra hoạt động Marketing, bán hàng và trực tiếp tiếp liệu. Phần lớn khoản lãi này họ dùng để bù đắp các chi phí chuyên chở, tồn kho, trả lương cho lực lượng bán hàng cung các chi phí khác.
Đối với các mặt hàng Công ty sản xuất, tiếp tục tìm các biện pháp hạ giá thành, giảm chi phí nguyên vật liệu, chi phí cố định, sử dụng nguyên vật liệu thay thế. Hiện nay, giá một số loại sản phẩm như bánh kẹo và rượu vang Hữu nghị của Công ty cao hơn so với các sản phẩm cùng loại của các Công ty bánh kẹo Hải Hà, Tràng An, Rượu vang Thăng Long... Do đó việc điều chỉnh lại giá cả là một yêu cầu khá bức thiết đang được đặt ra cho đội ngũ cán bộ công nhân viên Công ty Thực phẩm miền Bắc.
2.5. Cơ sở vật chất, các trang thiết bị công nghệ.
Hiện nay, ngoài nhà máy sản xuất kẹo và bánh qui cao cấp Hữu nghị mới được đầu tư cải tạo hiện đại, còn tất cả các trụ sở chi nhánh của Công ty đều đã xuống cấp, lạc hậu so với tình hình kinh doanh hiện nay. Các cơ sở vật chất, kho hàng đều chưa tốt. Công ty đang có kế hoạch đầu tư nâng cấp, cải tạo lại các cơ sở kinh doanh, cửa hàng, nhà kho theo hướng hiện đại hoá của Nhà nước. Trong thời gian tới, ngoài việc trích quỹ dự phòng sản xuất kinh doanh, Công ty sẽ lập dự án để xin Bộ chủ quản cấp vốn để đầu tư vào công nghệ mới. Dự án lập dựa trên cơ sở điều tra nghiên cứu thị trường về chất lượng sản phẩm với giá cả thích hợp.
2.6. Chính sách về nhân sự.
Ban lãnh đạo Công ty xác định rõ tầm quan trọng của công tác dân sự đến sự lớn mạnh và phát triển của Công ty. Bên cạnh những hình thức đào tạo tại chỗ, Công ty cũng đã và đang cử các nhân viên theo học các khoá nâng cao trình độ chuyên môn. Việc học thêm về ngoại ngữ, tin học cũng được khuyến khích.
Việc tuyển dụng nhân viên theo đúng tiến trình, có sự giám sát quản lý chặt chẽ của Ban giám đốc, phòng tổ chức. Điều này nhằm đảm bảo cho Công ty có nguồn nhân lực đủ năng lực, trình độ, sức khoẻ, phẩm chất đạo đức. Ngoài ra việc khen thưởng cũng được coi trọng đúng mức.
II. Một số giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty thực phẩm miền bắc.
1. Nghiên cứu thị trường.
Nội dung Marketting hiện đại đã chỉ rõ hãy sản xuất ra cái thị trường cần hơn là cái mình có. Doanh nghiệp cần phải hiểu biết rõ về từng biến động của thị trường. Ngày nay công tác nghiên cứu thị trường đã trở nên đặc biệt quan trọng trong định hướng kinh doanh của doanh nghiệp. Với việc nắm bắt đúng, kịp thời xu hướng biến động của thị trường, có thể tạo cơ sở để có những quyết định đúng đắn nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nghiên cứu thị trường là quá trình nghiên cứu phân tích các thông tin về các yếu tố cấu thành thị trường, nhằm tìm hiểu qui luật vận động và những nhân tố ảnh hưởng đến thị trường, trên cơ sở đó xây dựng chiến lược kinh doanh.
Phân tích thị trường nhằm xác định những thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm cuả doanh nghiệp, khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, nhằm xây dựng hoàn thiện chiến lược kinh doanh, làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Công ty thực phẩm miền Bắc đã có Phòng Marketting chuyên nghiên cứu về thị trường. Tuy nhiên theo tôi, Công ty cần chú ý đầu tư hơn nữa về công tác này. Cụ thể:
- Công ty cần nhận thức rõ tầm quan trọng của nghiên cứu thị trường, cần dành một phần kính phí thường xuyên để đầu tư vào lĩnh vực này.
- Củng cố thị trường hiện tại của doanh nghiệp và tìm hiểu để xâm nhập vào các thị trường mới.
Thị trường mục tiêu là thị trường hiện tại của doanh nghiệp và là cơ sở để xác định mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Qui mô của thị trường mục tiêu vừa thể hiện thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường, vừa thể hiện tình trạng và mức độ cạnh tranh hiện tại. Thị trường hiện tại của các đối thủ cạnh tranh và phần thị trường không tiêu dùng tương đối hợp thành thị trường tiềm năng, là mục tiêu của các hướng tăng trưởng thị trường của doanh nghiệp. Qui mô của thị trường tiềm năng phản ánh khả năng và triển vọng phát triển thị trường của doanh nghiệp trong tương lai. Hiện nay thị trường tiêu thụ các sản phẩm nhập khẩu chính chỉ tập trung ở Hà Nội và các tỉnh lân cận phía Bắc như Vĩnh Phú, Nam Định, Hải Phòng... Trong thời gian tới ngoài việc củng cố thị trường hiện có, doanh nghiệp cần phát triển ra các tỉnh miền Trung và từng bước xâm nhập thị trường phía Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long nơi tập trung đông dân cư.
Tuỳ theo từng thời kì mà một doanh nghiệp kinh doanh có thể lựa chọn chiến lược kinh doanh. Nếu chiến lược của doanh nghiệp là thị phần thì doanh nghiệp sẽ phải tạm thời giảm bớt lợi nhuận nhằm tăng cao thị phần hướng tới mục tiêu lâu dài. Doanh nghiệp cần phải chú ý tuân thủ nguyên tắc sau khi chọn chiến lược thị phần:
- Mở rộng thị trường trên cơ sở đảm bảo vững chắc thị phần hiện có. Nếu xâm nhập được vào thị trường này song lại mất thị trường khác thì sẽ là thất bại của doanh nghiệp, nên việc mở rộng thị trường không được tách rời với việc củng cố những thị trường đã có.
2. Hoàn thiện hình thức kinh doanh nhập khẩu.
Hiện nay hai hình thức kinh doanh nhập khẩu của Công ty là nhập khẩu tự doanh và nhập khẩu uỷ thác (bột mỳ). Hai hình thức này có một số ưu điểm song cũng có những điểm hạn chế, do đó Công ty nên nghiên cứu để thực hiện các hình thức kinh doanh nhập khẩu khác. Chẳng hạn Công ty có thể liên doanh với các đơn vị kinh tế khác để cùng thực hiện giao cách thúc đẩy hoạt động ngoại thương theo hướng có lợi cho cả hai bên, lãi cùng hưởng, lỗ cùng chịu. Hình thức này có thể giúp Công ty tận dụng ưu thế về mối quan hệ bạn hàng của phía đối tác hoặc khai thác lợi điểm về vốn. Công ty cũng có thể xem xét hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng, nhập khẩu các thực phẩm cần thiết và xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Hình thức nhập khẩu này có thể mang lại lợi nhuận cả từ hoạt động xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Hình thức này góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn của Công ty, đồng thời giảm bớt các thủ tục thanh toán phiền hà, góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí kinh doanh.
Hiện nay Công ty giao dịch thông qua hình thức giao dịch thông thường. Công ty thường cử người sang Trung Quốc, Singapore, ấn độ..tìm hiểu nguồn hàng và ký kết hợp đồng nhập khẩu. Hình thức này có ưu điểm là giúp Công ty không bị chia sẻ lợi nhuận, đồng thời chủ động trong hoạt động kinh doanh, tiếp xúc trực tiếp với nhu cầu thị trường. Tuy nhiên với điều kiện hạn chế về vốn và nguồn nhân lực hiện nay của Công ty, thì hình thức này còn chưa phát huy thật hiệu quả. Vì vậy Công ty có thể tham khảo các hình thức kinh doanh nhập khẩu khác để có thể phát huy hiệu quả hơn các lợi điểm của Công ty, khắc phục nhược điểm.
Hình thức thanh toán cũng là một vấn đề cần lưu ý. Hiện nay hình thức thanh toán chủ yếu của Công ty là thanh toán qua L/C. Đây là hình thức thanh toán phổ biến trong thanh toán quốc tế. Hình thức này có nhiều ưu điểm, nó đảm bảo quyền lợi đối với cả hai bên trong hợp đồng xuất nhập khẩu. Tuy nhiên thanh toán qua hình thức này thường có chi phí cao. Công ty có thể xem xét bàn bạc với những bạn hàng truyền thống có mối quan hệ tốt để đạt phương thức chuyển tiền nhanh như thư chuyển tiền. Tiền hàng có thể được chuyển một phần trước và trong khi giao hàng, phần còn lại được thanh toán sau khi giao hàng. Hình thức này giúp cho Công ty giảm được chi phí mở L/C, lại tiết kiệm được thời gian và giảm bớt thủ tục phiền hà cho cả hai bên.
3. Đẩy mạnh tiêu thụ hàng nhập khẩu.
Tiêu thụ hàng nhập khẩu là khâu quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu. Mục tiêu của việc phát triển mạng lưới bán hàng là nhằm tiếp cận khách hàng, hiểu rõ nhu cầu khách hàng và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của họ. Đồng thời phát triển mạng lưới bán hàng còn làm nhằm tăng lượng khách mua hàng, từ đó nâng cao sản lượng tiêu thụ.
Công ty đang có kế hoạch mở rộng hệ thống đại lý trong kênh phân phối. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường quản lý các kênh phân phối mà chủ yếu là quản lý các đại lý. Các biện pháp quản lý có thể là:
+ Quản lý nghiêm ngặt về giá, tránh việc các đại lý của Công ty tự do nâng giá gây thua thiệt cho người bán lẻ và người tiêu dùng, mà trước hết là ảnh hưởng đến uy tín của Công ty.
+ Phải thường xuyên đánh giá hiệu quả hoạt động của các đại lý trong kênh phân phối theo những tiêu chuẩn cụ thể như: sản lượng và doanh số tiêu thụ, uy tín của đại lý, từ đó phát hiện ra các điểm yếu để có thể kịp thời xử lý.
+ Tìm ra các nhu cầu và trở ngại của các đại lý trong kênh phân phối để có thể có sự trợ giúp thích hợp.
b. Đẩy mạnh và mở rộng các hình thức bán hàng.
Công ty nên tăng cường việc bán buôn qua kho của Công ty. Với hình thức này Công ty sẽ không phải mất chi phí vận chuyển cho khách hàng, nhưng Công ty phải giảm giá xuống hoặc có thể chiết khấu nhằm bù đắp cho khách hàng khoản chi phí vận chuyển. Ưu điểm của phương thức này là Công ty không phải tốn nhiều nhân lực và thời gian trong tiêu thụ, đồng thời tránh được rủi ro khi giao hàng đang vận chuyển. Công ty cũng nên tiến hành bán buôn thông qua đại diện thương mại và phương thức bán buôn qua hội chợ.
Về phương thức bán lẻ, ngoài việc mở rộng và nâng cấp cửa hàng tại khu vực trọng điểm, Công ty cần tổ chức bán hàng trực tiếp cho các quầy bán lẻ, bán buôn cho người tiêu dùng thông qua đội ngũ bán hàng tiếp thị. Công ty cần tăng cường bổ sung thêm đội ngũ tiếp thị, phân công khu vực một cách rõ ràng, tránh việc chồng chéo giữa các nhân viên trong cùng khu vực. Khi khách hàng có nhu cầu ít, họ sẽ trực tiếp đến các kho gần nhất để chở hàng cho khách. Nếu nhu cầu của khách hàng lớn, những nhân viên này sẽ thông báo về phòng kinh doanh để tổ chức phương tiện vận chuyển cho khách hàng.
4. Đào tạo và tuyển dụng nhân lực.
Con người là trung tâm của mọi hoạt động. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu, cần làm tốt các khâu từ nghiên cứu thị trường, tổ chức thực hiện các nghiệp vụ nhập khẩu cho đến tổ chức tiêu thụ hàng nhập khẩu. Muốn vậy, ở mỗi khâu đều cần cán bộ kinh doanh hàng nhập khẩu tinh thông nghiệp vụ, có đầy đủ phẩm chất thích hợp với công việc. Để đạt được điều đó, Công ty cần chú trọng đến việc đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực để có được đội ngũ cán bộ đủ mạnh có thể đảm đương được nhiệm vụ. Công ty nên chú trọng các biện pháp sau:
a. Tuyển dụng.
Công ty cần làm thật tốt khâu tuyển dụng để thu hút người tài về phục vụ cho Công ty. Việc tuyển dụng nhân viên phải theo đúng tiến trình, có sự giám sát chặt chẽ của Ban giám đốc, của phòng tổ chức. Làm tốt công tác này sẽ góp phần chọn lọc được những nhân viên tinh thông nghiệp vụ chuyên môn, có đầy đủ phẩm chất đạo đức để đảm đương được yêu cầu công việc. Công ty nên tránh việc tuyển dụng theo lối mòn cảm tính.
b. Đào tạo và đào tạo lại.
Thời đại chúng ta đang sống thay đổi rất nhanh về mọi mặt. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng vậy, nếu cán bộ kinh doanh không cập nhật thông tin, không được bổ sung kiến thức kịp thời, không rèn luyện nghiệp vụ thường xuyên thì rất dễ bị lạc hậu, không theo kịp đòi hỏi yêu cầu của công việc. Nhu cầu đào tạo, đào tạo lại nhân lực của Công ty đã trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Ban lãnh đạo của Công ty phải đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề này để từ đó có sự lựa chọn các phương pháp để thực hiện chương trình đào tạo, phát triển và đánh giá chương trình đó để đáp ứng nhu cầu, có được nguồn nhân lực tốt hơn.
Bên cạnh những hình thức đào tạo tại chỗ, Công ty nên cử các nhân viên có khả năng, có đủ phẩm chất cần thiết để theo học các khoá nâng cao trình độ chuyên môn nhằm giúp họ chuyên sâu công tác. Đồng thời Công ty nên tạo điều kiện để nhân viên nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, các kỹ năng khác cần cho công việc.
Công ty cần chú ý bồi dưỡng đội ngũ nhân viên theo các hướng sau:
Tạo điều kiện cho những người có đủ năng lực, uy tín tham gia đàm phán ký kết hợp đồng.
Trang bị thêm kiến thức xuất nhập khẩu theo tiêu chuẩn Incoterm 2001, trang bị kiến thức về các phương tiện thanh toán hiện đại.
c. Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động.
Một nhân viên có năng lực không có nghĩa là anh ta luôn luôn làm việc tốt. Từng cá nhân làm việc tốt cũng không có nghĩa là hoạt động của tập thể Công ty sẽ tốt. Phát huy khả năng tiềm tàng của mỗi nhân viên, gắn kết từng nhân viên vào tập thể, tạo nên sức mạnh tập thể là điều không đơn giản. Để làm được điều trên, Công ty nên áp dụng các biện pháp như sau:
+ Khen thưởng:
Hình thức này có tác dụng động viên nhân viên cả về mặt tinh thần lẫn kinh tế. Công ty nên áp dụng hình thức khen thưởng một cách linh hoạt như sau:
Thưởng chung cho các cán bộ nhân viên trong các dịp lễ lớn.
Thưởng cho các cá nhân có thành tích cao, làm việc hiệu quả, mang lại lợi ích cho Công ty, có thể trao bằng khen hoặc đề bạt thăng chức cho họ.
Sau mỗi kỳ kinh doanh, nếu có điều kiện, Công ty nên tổ chức các cuộc đi chơi xa, tham quan cho cán bộ nhân viên của Công ty nếu Công ty có đủ kinh phí đài thọ. Đây cũng là một hình thức khen thưởng có hiệu quả.
+ Tổ chức các phong trào thi đua:
Để thúc đẩy cán bộ công nhân viên hăng say làm việc, Công ty nên tổ chức các phong trào thi đua về sản lượng sản xuất, về doanh số bán ra giữa các đơn vị cơ sở. Công ty phải có thông báo thường xuyên về danh sách các cửa hàng, đơn vị có hiệu quả kinh doanh cao nhất, kết hợp với mức thưởng cho cửa hàng đơn vị đó.
5. Tạo vốn và sử dụng vốn.
Đặc điểm chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là thiếu vốn kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu do thiếu vốn nên nhiều khi không thể gom hàng kịp thời, đúng và đủ cho bên đối tác. Các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nhiều khi do thiếu vốn nên đành bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao.
Vốn kinh doanh là điều kiện cần để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ hàng hoá, mở rộng phạm vi kinh doanh. Hiện nay ở Công ty tổng vốn kinh doanh còn hạn chế gây khó khăn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng qui mô tiêu thụ, nâng cấp cơ sở vật chất. Để giải quyết tình trạng này Công ty cần tăng cường huy động nguồn vốn của cán bộ công nhân viên. Công ty cũng có thể sử dụng quỹ đất của mình, khoảng 500.000 m2, để vay vốn ngân hàng. Cán bộ Công ty cần lập dự án kinh doanh để xin Bộ thương mại và Nhà nước cấp thêm vốn kinh doanh cho Công ty. Công ty cũng cần thu hút nguồn vốn của xã hội bằng cách tranh thủ tận dụng các điều kiện thanh toán, tín dụng của nhà cung cấp và của khách hàng.
6. Các biện pháp kiểm tra đánh giá hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu.
Mục đích của việc kiểm tra đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là nhằm nắm được diễn biến kết quả hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu, để từ đó có thể chắc chắn không xa rời mục tiêu phát triển của doanh nghiệp. Ngoài ra ở đây còn nhằm mục đích thu thập thông tin để giúp lập kế hoạch hoạt động kinh doanh cho lần tiếp sau.
Mặc dù có sự khác nhau do đặc thù của doanh nghiệp và lĩnh vực hoạt động kinh doanh, song nội dung kiểm tra đánh giá kết quả vẫn thường thống nhất với nhau ở một số điểm là:
* Đề ra nội dung kiểm tra.
Kiểm tra toàn diện các hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu của Công ty để đánh giá một cách đầy đủ chính xác, song cần chú trọng:
- Các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh hàng nhập khẩu như nghiên cứu thị trường, nghiên cứu về đối thủ cạnh tranh, về khách hàng của Công ty:
+ Thu thập thông tin.
+ Xem xét vốn kinh doanh cũng như khả năng thanh toán, kiểm tra kết quả hoạt động bán hàng.
+ Đánh giá hoạt động của Ban lãnh đạo Công ty.
* Định lượng các kết quả, hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu
Cần định lượng kết quả để có cơ sở trong việc đánh giá. Nguồn thông tin là từ các báo cáo tình hình kinh doanh hàng nhập khẩu.
Tuỳ từng trường hợp có thể dùng một hay kết hợp các phương pháp đánh giá như: phương pháp chỉ tiêu, phương pháp thanh tra...
* So sánh kết quả đạt được với các tiêu chuẩn đề ra
Công ty cần xem xét so sánh các mặt như:
- So sánh mục tiêu doanh số bán hàng nhập khẩu, lợi nhuận kinh doanh hàng nhập khẩu, thị phần...
- Tìm hiểu nguồn lực của Công ty có đầy đủ phù hợp với kế hoạch kinh doanh hàng nhập khẩu hay không?
- Đánh giá kết quả kinh doanh hàng nhập khẩu có tương xứng với nguồn lực mà Công ty đã bỏ ra hay không?
- Tìm hiểu phương tiện thực hiện kinh doanh hàng nhập khẩu có phù hợp với thị trường hay không?
Từ những kết quả so sánh, Công ty cần nghiên cứu đề ra các giải pháp khắc phục và rút kinh nghiệm cho các lần sau.
7. Kiến nghị đối với Nhà nước.
Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà nước cần phải tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định. Quyết định 19 /2001/QĐ-TTg ngày 3/2/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc bãi bỏ 84 loại giấy phép đã mở ra được khá nhiều thị trường cho các doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tận dụng và sử dụng tốt nguồn lực của đất nước như lao động có tri thức, các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ, vốn hỗ trợ đầu tư từ ngân sách nhà nước, vay hỗ trợ phát triển ODA. Nhà nước nên thiết lập nhiều kênh đối thoại trực tiếp và cung cấp thông tin công khai cho các doanh nghiệp thông qua các hiệp hội, các tổ chức hỗ trợ. Một số kênh thông tin thương mại tại phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Bộ thương mại đã được tổ chức, nhưng vẫn cần được tăng cường hơn nữa để hỗ trợ cho doanh nghiệp tìm thị trường, bạn hàng, kiểm tra giá cả. Thông tin rộng rãi và công khai các hoạch định chiến lược, chính sách phát triển của nhà nước. Nhà nước cần xây dựng thủ tục đơn giản và rõ ràng để các doanh nghiệp được thuận lợi trong kinh doanh. Hiện nay việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng còn đang gây nhiều trở ngại cho doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Các văn bản hướng dẫn thực hiện đã trở nên quá tải làm cho luật thuế trở nên không đồng bộ, khó theo dõi và cản trở chấp hành. Theo thống kê sơ bộ hiện có khoảng 200 văn bản các loại. Việc hoàn thuế giá trị gia tăng có nhiều bất cập, đang trở thành một vấn đề bức xúc trong khi mỗi ngành có hàng chục vạn hoá đơn giá trị gia tăng với tổng trị giá lên tới hàng chục tỷ đồng cần trình lên ngành thuế xin khấu trừ.
Kết luận
Đất nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, bước vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Sau hơn mười năm đổi mới, cục diện nền kinh tế đã có nhiều tiến bộ tích cực, đời sống nhân dân được nâng cao. Hoạt động thương mại quốc tế đã góp phần vào việc phát huy nội lực, tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng cũng như quá trình ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu nói riêng đang ngày càng được quan tâm vì có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Công ty Thực phẩm miền Bắc được thành lập trên cơ sở sát nhập các Công ty con với khoản nợ trên mười tỷ đồng. Trong những năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh nhập khẩu song Công ty vẫn cố gắng khắc phục khó khăn, vượt qua các trở ngại để góp phần xây dựng nền kinh tế đất nước. Từ khi thành lập đến nay, Công ty Thực phẩm miền Bắc có nhiều đóng góp quan trọng vào tổng thu ngân sách. Đặc biệt trong ba năm gần đây tình hình kinh doanh có nhiều biến chuyển tốt. Năm 1999, tổng doanh thu của Công ty là 670,8 tỉ đồng. Năm 2001 doanh thu tăng lên 938,32 tỉ đồng. Lợi nhuận của Công ty tăng từ 648 triệu đồng năm 1999 lên 2147 triệu đồng năm 2001. Mức lương bình quân đầu người của Công ty cũng được cải thiện, năm vừa qua (2001), là 873 nghìn đồng.
Đạt được những kết quả đáng khích lệ này phải kể đến đóng góp quan trọng của hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu. Hoạt động này đã góp phần tạo thu nhập ổn định cho người lao động trong Công ty. Mặc dù vậy, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty vẫn còn nhiều hạn chế. Doanh thu từ nhập khẩu và tỉ suất lợi nhuận theo doanh thu còn thấp. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu còn nghèo nàn, các mặt hàng nhập khẩu chưa có sức cạnh tranh cao. Công tác tổ chức tiêu thụ kinh doanh hàng nhập khẩu cũng còn một số bất cập.
Với mong muốn đóng góp một phần vào sự thành công của Công ty, Luận văn trình bày kết quả của việc nghiên cứu thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty trong ba năm 1999 - 2001. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Công ty cần nghiên cứu thay đổi cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu hiện tại bằng các mặt hàng có hiệu quả kinh doanh cao hơn. Công ty nên chú ý khâu tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy các hoạt động xúc tiến bán hàng. Đồng thời Công ty cần chú trọng trong việc tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực để tạo ra đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Nghiên cứu nắm bắt để đáp ứng tốt nhất đúng nhu cầu thị trường cũng là một trong những bí quyết giúp doanh nghiệp thành công trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng.
Mong muốn của em khi làm bản luận văn tốt nghiệp này là được củng cố kiến thức, nhận thức của bản thân trong lĩnh vực chuyên môn sau khi ra trường, và góp phần nhỏ bé vào sự phát triển của Công ty Thực phẩm miền Bắc, nơi em đã thực tập chuẩn bị cho tốt nghiệp. Tuy nhiên với kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian thực tập không nhiều nên không thể tránh khỏi những sai sót. Em mong muốn nhận được sự đánh giá quan tâm, sự chỉ bảo góp ý tận tình của các Thầy cô giáo trong Khoa Thương mại cùng các bạn sinh viên để bài viết của em được hoàn thiện và đầy đủ hơn.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế. PGS. TS. Trần Chí Thành. Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, NXB Giáo dục 1997.
Giáo trình Thương mại quốc tế. PGS. TS. Nguyễn Duy Bột. Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, NXB Thống kê 1998.
Giáo trình Tổ chức và nghiệp vụ kinh doanh thương mại quốc tế. PGS. TS. Trần Chí Thành. Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, NXB Thống kê 1997.
Giáo Trình Kinh tế thương mại. PGS. TS. Đặng Đình Đào. NXB Thống kê 1999.
Báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo kế toán hàng năm, báo cáo nhập khẩu của Công ty thực phẩm miền Bắc ba năm 1999-2001.
Tình hình kinh tế thị trường thế giới - Dự báo thời gian tới. Trung tâm thương mại Việt Nam 1994.
Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương. Vũ Hữu Tửu. Trường ĐH Ngoại thương 1992.
Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại thương. Bùi Xuân Lưu, Vũ Hữu Tửu. Trường ĐH Ngoại thương 1992.
Từ điển chính sách thương mại quốc tế, Walter Goode, NXB Thống kê 1998.
Pháp luật thương mại quốc tế và Việt Nam. Lê Quang Liêm. NXB Thống kê 1999.
Những qui định pháp luật của Việt Nam và công ước quốc tế về giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1994.
Hướng dẫn sử dụng thư tín dụng trong ngoại thương, Trường ĐH Ngoại thương 1989.
Thời báo Kinh tế Việt Nam, Hội kinh tế Việt Nam, một vài số báo 1999-2002.
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, một vài số báo 1999-2002.
Sài Gòn tiếp thị, một vài số báo 1999-2002.
Báo Đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một vài số báo 1999-2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0501.doc