Để cho công tác quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước đạt hiệu quả cao, BHXH huyện Sóc Sơn nên thực hiện một số công việc sau:
- Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức công đoàn, cơ quan thuế trên địa bàn huyện để có thể nắm chắc được tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp như: số lao động mới được tuyển dụng, tiền lương thực tế của từng người lao động, thời hạn hợp đồng của từng người lao động
- Kiến nghị với BHXH thành phố Hà Nội về việc cần bổ xung, thay thế, đầu tư thêm vào hệ thống máy tính và công nghệ thông tin.
- Đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý thu BHXH về mặt chuyên môn, nghiệp vụ. Đặc biệt bổ xung thêm về công nghệ thông tin và sử dụng cho thành thạo máy vi tính. Tiếp thu những phần mềm về BHXH để thuận tiện cho công tác quản lý.
- Tuyển dụng thêm một số cán bộ trẻ, mới ra trường đã được đào tạo sâu về nghiệp vụ và có năng lực.
- Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền đén người lao động, người sử dụng lao động, các cơ quan quản lý Nhà nước, các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp để chủ thể nhận thức đúng đắn về chính sách BHXH từ đó sẽ có tác động tích cực, trước hết là nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, sau là nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sử dụng lao động. Quan tâm đến quyền lợi của người lao động cũng là quan tâm đến lợi ích của toàn doanh nghiệp.
- Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, tổ chức Đảng, đoàn thể trong việc thực hiện chỉ thị số 15/CT-TW về “tăng cường thực hiện các chế độ BHXH”. Phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng, tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp ngoài Nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
- Không ngừng mở rộng cả phạm vi, hình thức và nội dung thông tin, tuyên truyền từ nói chuyện chuyên đề, hội thảo, tờ rơi, áp phích, báo đến phát thanh và truyền hình. Nêu gương các doanh nghiệp làm tốt. Phê phán các doanh nghiệp trốn đóng BHXH. Thông tin tuyên truyền phải sát cơ sở, sát người lao động, tránh tuyên truyền mang tính hình thức để chủ sử dụng lao động và người sử dụng lao động hiểu được chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước và tự giác tham gia BHXH.
71 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước trên địa bàn huyện Sóc Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyện Sóc Sơn lại có trình độ vi tính thấp. Hầu như trước đây họ không được tiếp xúc với máy tính, cho nên máy tính chỉ có tác dụng như một cái máy chữ. Họ làm việc chủ yếu bằng tay, tính toán đơn thuần. Vậy thì làm sao có thể làm tốt được khi đối tượng quản lý ngày càng nhiều, ngày càng nhiều nội dung, và nhiều con số phức tạp.
Hơn nữa chế độ bố làm BHXH thì sẽ có một suất cho con sau này đã làm hạn chế đi rất nhiều trong việc tuyển dụng những người có năng lực. Vì những người được này chưa chắc đã có năng lực, đã được đào tạo chuyên sâu. Khi làm việc thì cơ chế bố con chồng chéo, làm giảm đi tính nghiêm khắc, hiệu quả công việc.
Thông tư liên tịch số 09/2002/TTLT-BTCCBCP-BLĐTBXH-BTC-BYT của ban tổ chức cán bộ chính phủ-Bộ lao động-Thương binh và xã hội-Bộ tài chính-Bộ y tế ngày 8/2/2002 hướng dẫn về việc chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam tuy làm cho công tác quản lý BHXH gặp nhiều thuận lợi và thống nhất hơn trong công tác quản lý nhưng đã làm phát sinh một số khó khăn mới cho cán bộ quản lý thu BHXH. Đó là việc chồng chéo giữa các chế độ bảo hiểm gây ra khó khăn trong công tác thu, chi trả bảo hiểm. Cán bộ quản lý thu BHXH không được đào tạo các nghiệp vụ của BHYT nên khi làm việc dễ nhầm sang bộ phận khác.
Thu nhập của cán bộ quản lý chỉ là mức lương hành chính nên rất thấp. Để có thêm thu nhập để phục vụ cho cuộc sống gia đình nên đã có trường hợp nảy sinh tiêu cực. Nắm được được điểm tâm lý này, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng biện pháp hối lộ khi cán bộ quản lý xuống thanh tra tình hình lao động, quỹ tiền lương trích nộp BHXH…Do đó ảnh hưởng lớn đến khoản thu BHXH.
Trong năm vừa qua BHXH huyện Sóc Sơn đã được BHXH thành phố Hà Nội nhận đào tạo lại và bổ xung nhiều cán bộ quản lý. Đặc biệt đã đầu tư cho một hệ thống máy tính mới đồng thời đào tạo tin học cho cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
3.1.2. Khuôn khổ pháp luật về BHXH còn chưa đầy đủ
Chính sách BHXH được thực hiện ở nước ta từ năm 1961 đến nay đã đạt được những kết quả to lớn, góp phần ổn định đời sống của hàng triệu lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần vào ổn định kinh tế - xã hội đất nước. Đặc biệt, từ khi thực hiện các quy định của Bộ luật lao động và điều lệ BHXH được ban hành kèm theo nghị định 12/CP của chính phủ, chính sách BHXH đã thực sự đổi mới. Đối tượng của BHXH đã được mở rộng cho người lao động trong các thành phần kinh tế. Các quan hệ BHXH, nhất là các quan hệ tài chính BHXH đã được thể hiện rõ ràng. Với việc hình thành quỹ BHXH trên cơ sở sự đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động. Tuy nhiên, chính sách BHXH hiện hành còn nhiều hạn chế, một số nội dung của BHXH chưa thực sự phù hợp, chính sách BHXH vẫn còn đan xen với một số chính sách khác.Hơn nữa, có nhiều văn bản về BHXH do nhiều cơ quan ban hành điều chỉnh những mối quan hệ khác nhau của BHXH làm cho tính thống nhất của chính sách không được đảm bảo. Một số văn bản sửa đổi các quy định trong điều lệ BHXH làm cho việc thực hiện chính sách BHXH gặp khó khăn, làm cho hiệu lực của pháp luật về BHXH chưa hiệu quả. Cho đến nay còn nhiều văn bản đã ban hành từ lâu vẫn đang thực hiện, thậm chí tạo ra sự chồng chéo, trùng lắp khó theo dõi, khó thực hiện.
Đặc biệt vấn đề nổi cộm nhất của BHXH hiện nay là việc trốn nộp BHXH cho người lao động của các doanh nghiệp vẫn chưa có được biện pháp xử lý. Vẫn biết là các doanh nghiệp đã vi phạm bộ luật lao động nhưng do không có các văn bản pháp luật quy định rõ ràng nên các cơ quan chức năng như BHXH cũng không thể cưỡng chế được chủ doanh nghiệp. Vẫn không có hình phạt thích đáng. Do vậy, không răn đe được người sử dụng lao động.
3.1.3. Máy tính, công nghệ thông tin còn thiếu
Bước sang thời đại của máy tính và công nghệ thông tin thì mọi công việc sẽ được giải quyết một cách dễ dàng hơn, và BHXH cũng vậy. Đã xuất hiện rất nhiều phần mềm công nghệ trợ giúp cho việc tính toán các chế độ BHXH. Tuy nhiên, BHXH huyện Sóc Sơn còn rất hạn chế trong lĩnh vực này. Hệ thống máy tính ở đây đã quá cũ kỹ, khó cho việc sử dụng các phần mềm công nghệ hiện đại. Sự hiểu biết về máy tính của cán bộ rất hạn chế, nhiều cán bộ còn không biết sử dụng máy vi tính. Chính vì vậy đã không thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công việc.
3.2. Từ đối tượng quản lý.
3.2.1.Sự trốn tránh đóng BHXH của chủ sử dụng lao động
Trong tổng quỹ BHXH, nguồn thu chiếm tỷ trọng cao nhất là thu BHXH từ các doanh nghiệp, vì vậy tăng cường biện pháp quản lý thu BHXH từ nguồn này giữ một vai trò hết sức quan trọng. Trước hết là đối với người sử dụng lao động và người lao động trong doanh nghiệp đây là khoản thu bắt buộc. Mức thu, thời hạn thu nộp và trách nhiệm của người sử dụng lao động đã được quy định trong khoản 2 điều 44 nghị định 12/CP của chính phủ và nhiều văn bản pháp quy khác về BHXH. Những quy định này thực chất xoay quanh 3 nội dung thu đúng, thu đủ, thu kịp thời của nhiệm vụ thu BHXH. Nhưng trong thời gian qua, thực hiện công tác thu BHXH ở cơ sở cho thấy: Bên cạnh những doanh nghiệp chấp hành tốt chế độ đăng ký, thu nộp BHXH cho người lao động, có nhiều doanh nghiệp dây dưa, trốn tránh, nợ đọng BHXH, hạch toán thu chi BHXH không đúng chế độ quy định. Điều đó được thể hiện ở 3 nội dung lớn:
Một số doanh nghiệp đăng ký đóng BHXH chưa đầy đủ
Căn cứ để xác định mức nộp BHXH của doanh nghiệp là số lao động và mức tiền lương cấp bậc của lao động trong doanh nghiệp.Vì vậy, để đánh giá một doanh nghiệp đã đóng BHXH đúng, đủ hay chưa ta phải xem xét nhiều yếu tố:
- Về lao động: Khi doanh nghiệp kê khai với cơ quan BHXh chưa đúng, chưa đủ sẽ giảm mức nộp BHXH hàng tháng. Đồng thời gây thiệt thòi cho người lao động về thời gian tham gia BHXH mà đáng lẽ họ phải được xác nhận trên sổ BHXH. Cụ thể là:
+ Một số doanh nghiệp được tuyển dụng vào doanh nghiệp và bố trí làm những công việc có tính chất ổn định, liên tục trong thời gian dài. Qua kiểm tra nhiều tháng liên tục cho thấy họ đều có tên trong bảng thanh toán tiền lương của bộ phận kế toán. Nhưng doanh nghiệp không ký hợp đồng lao động hợc chỉ ký hợp đồng thời vụ 3 tháng đầu tiên, không báo với cơ quan quản lý nhà nước về lao động. Điều này đã vi phạm khoản 2 điều 27 chương IV của bộ luật lao động và cũng không đưa những lao động này vào danh sách đóng BHXH.
+ Doanh nghiệp kéo dài thời gian thử việc khi tuyển dụng lao động một cách tùy tiện, trái với quy định của điều 32 chương IV Bộ luật lao động. Trong thời gian kéo dài đó doanh nghiệp không đăng ký đóng BHXH cho người lao động.
+ Doanh nghiệp chưa hoàn tất các thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động như quy định của điều 35 chương IV Bộ luật lao động, đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và đưa lao động ra khỏi danh sách đóng BHXH. Cụ thể là trong các trường hợp người lao động vi phạm nội quy lao động, khi doanh nghiệp không bố trí được công ăn việc làm cho người lao động.
+ Doanh nghiệp tuyển lao động vào làm việc trước khi có thông báo thỏa thuận doanh nghiệp không đăng ký đóng BHXH cho người lao động.
- Về tiền lương đóng BHXH: Là một trong hai yếu tố cấu thành mức nộp BHXH của một doanh nghiệp và thường thất thu BHXH trong các trường hợp:
+ Doanh nghiệp không đưa khoản phụ cấp khu vực của người lao động vào danh sách đóng BHXH như điều 37 điều lệ BHXH đã quy định.
+ Doanh nghiệp không báo cáo tăng mức nộp BHXH với cơ quan BHXH ngay khi người lao động được nâng bậc lương.
+ Doanh nghiệp không tổ chức thi tay nghề nâng bậc lương cho người lao động một cách thường xuyên như quy định. Có nhiều lao động hàng chục năm không được nâng bậc lương, không thay đổi mức lương đóng BHXH.
Trong những trường hợp trên, không những ngành BHXH bị thất thu mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người lao động về mức hưởng BHXH khi họ bị ốm đau, thai sản, tử tuất, hưu trí.
Các doanh nghiệp thực hiện việc thu nộp BHXH chưa kịp thời như điều 37 nghị định 12/CP của chính phủ quy định
Như trên đã nói, BHXH là khoản thu mang tính chất hoán trả trực tiếp cho người lao động khi gặp rủi ro. Vì vậy, trên ai hết, chủ sử dụng lao động phải nhận thức được rằng nợ cơ quan BHXH chính là nợ người lao động. Nhưng trong thực tế quản lý thu BHXH ở cơ sở cho thấy thời gian qua có rất nhiều doanh nghiệp để nợ đọng với thời gian dài, có doanh nghiệp từ khi thành lập đến nay hầu như không nộp BHXH cho người lao động. Việc các doanh nghiệp để nợ đọng BHXH đang là vấn đề bức xúc ở nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực kinh tế và gây hậu quả hết sức nặng nề.
- Đối với doanh nghiệp: Khi người lao động chưa nhìn thấy những cống hiến về sức lao động, trí tuệ, kinh tế của mình được xác nhận trên sổ BHXH thì sẽ ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng lao động, ảnh hưởng đến điều hành cũng như hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh.
- Đối với người lao động: Theo văn bản pháp quy về chế độ BHXH hiện hành thì cơ quan BHXH có quyền từ chối chi trả trợ cấp BHXH khi doanh nghiệp chưa hoàn thành nghĩa vụ đóng BHXH, vì vậy người lao động chưa được hưởng trợ cấp BHXH trong lúc cần thiết.
- Đối với xã hội: Không đạt được mục đích an sinh xã hội như chủ trương của Đảng, nhà nước đề ra, gây ra những khiếu kiện của người lao động tới nhiều ban, ngành phải giải quyết.
Một số doanh nghiệp thực hiện hạch toán thu chi sai so với quy định của điều lệ BHXH và các văn bản pháp quy về chế độ kế toán thống kê
- Doanh nghiệp thu 5% tiền lương của người lao động, nhưng không đưa những người đó vào danh sách đóng BHXH mà sử dụng số tiền này vào mục đích khác, trong khi đó người lao động vẫn tưởng rằng họ đang tham gia BHXH.
- Đối với những lao động mang tính thời vụ, không đưa vào danh sách đóng BHXH, doanh nghiệp cũng không thanh toán trả 15% tiền lương cho người lao động cùng với tiền lương của họ theo quy định của bộ luật lao động.
- Doanh nghiệp không bố trí được việc làm, người lao động nghỉ tự do, doanh nghiệp thu cả 20% BHXH của những lao động này.
- Doanh nghiệp không hạch toán 15% BHXH vào giá thành mà trừ cả 20% trên bảng thanh toán tiền lương của người lao động hàng tháng.
- Do nợ BHXH kéo dài, người lao động không được thành toán chế độ ốm đau, thai sản. Để tránh những phản ứng của người lao động, doanh nghiệp dùng nguồn tiền thu 5% của người lao động có việc làm và 20% của người nghỉ tự túc để chi trả ốm đau, thai sản.
- Một số doanh nghiệp trích thừa số phải nộp BHXH khi hạch toán kế toán và sử dụng phần chênh lệch vào mục đích khác. Phần chênh lệch do doanh nghiệp trích 15% BHXH bào giá thành theo số lao động trong danh sách đóng BHXH đầu năm, nhưng diễn biến trong năm có nhiều lao động nghỉ tự túc nộp cả 20%, tức là 15% BHXH của công nhân nghỉ việc tự túc đã được thanh toán 2 lần. Điều này làm tăng chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm, giảm lợi nhuận, giảm lợi tức chịu thuế của doanh nghiệp.
- Việc hạch toán chi trả 6 chế độ BHXH khi doanh nghiệp nghiệp nhận được tiền của cơ quan BHXH nhiều khi còn chưa đúng người, đủ số, kịp thời. Hoặc có những công nhân viên trên bảng thanh toán tiền lương trong tháng thể hiện đủ 26 ngày công lao động, đồng thời trên bảng tổng hợp ngày nghỉ hưởng trợ cấp BHXH của tháng đó cũng có nghỉ ốm, thai sản.
3.2.2. Nhận thức của người lao động về quyền lợi BHXH còn hạn chế
Người lao động, những người trực tiếp chịu ảnh hưởng của chính sách BHXH. Họ được Đảng và nhà nước quan tâm trong suốt quá trình lao động thông qua BHXH, BHYT. Tuy nhiên, sự hiểu biết của họ về BHXH là rất ít, thậm chí là không có. Trên địa bàn huyện Sóc Sơn có hàng trăm doanh nghiệp ngoài Nhà nước, nhưng trên thực tế không có nhiều doanh nghiệp đóng BHXH cho người lao động. Vậy thì vì đâu mà các chủ doanh nghiệp lại có thể trốn tránh nộp BHXH cho người lao động ? Một lý do là sự thiếu nghiêm khắc trong quy định về luật BHXH, nhưng một lý do khác lại xuất phát từ phía người lao động. Đó là sự thiếu hiểu biết về BHXH.
Trên địa bàn huyện Sóc Sơn, người lao động trong các doanh nghiệp chủ yếu là lao động thủ công, lao động tay chân. Họ không được đào tạo nhiều về các kiến thức cần thiết cho mỗi người lao động. Họ chỉ học cho mình được một nghề, mà đối với họ như vậy là quá đủ. Khi ký kết hợp đồng lao động thì một số ít là biết yêu cầu về việc tham gia BHXH, nhưng phần lớn là không biết và do đó chủ lao động có thể trốn tránh được. Cũng có nhiều trường hợp vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Đó là họ không muốn đóng 5% tiền lương của mình cho cơ quan BHXH. Và như vậy, nghiễm nhiên họ sẽ không được hưởng 15% tiền lương mà lẽ ra doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan BHXH.
Do trình độ hạn chế, họ không hiểu hết vai trò của BHXH đối với hiện tại và tương lai của mình ra sao. Nhiều khi có người hiểu biết về BHXH nhưng khi ký hợp đồng vẫn phải chấp nhận việc doanh nghiệp không tham gia BHXH cho họ. Lý do chính là huyện Sóc Sơn là một huyện ngoại thành nghèo nhất thành phố Hà Nội. Người dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp. Trong những năm gần đây, nhờ đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và nhà nước kinh tế của huyện đã khấm khá lên, đời sống nhân dân được cải thiện. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã ra đời. Do đó xuất hiện nhu cầu sử dụng lao động. Mặc dù công việc vẫn chưa có nhiều, tiền lương chưa cao song nếu được làm việc tại những doanh nghiệp, hợp tác xã này, người dân có cơ hội nhận được thu nhập lớn hơn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy nên rất khó khăn để người dân xin được một việc làm tại các doanh nghiệp này. Lợi dụng yếu tố này chủ doanh nghiệp đã không đóng BHXH cho người lao động. Nhưng do sợ mất việc làm, họ không dám đấu tranh để đòi quyền lợi. Mặt khác họ cũng không biết cơ quan nào sẽ bảo vệ cho quyền lợi chính đáng của mình.
Nhiều trường hợp khi ký hợp đồng lao động, chủ lao động chỉ ký hợp đồng dưới 3 tháng, hết 3 tháng lại ký tiếp. Như vậy, người lao động cũng không được tham gia BHXH. Các doanh nghiệp lấy lý do là sản xuất theo mùa vụ, lao động không ốn định, chủ yếu là lao động nông nhàn để trốn tránh cơ quan BHXH.
Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm đến lao động trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Chính vì vậy những kiến thức về BHXH đã được tuyên truyền phổ biến rộng rãi. Người lao động cũng hiểu biết nhiều hơn về quyền lợi BHXH của mình. Nhưng do nhu cầu công việc, cũng như khó khăn trong công tác quản lý thu BHXH các doanh nghiệp ngoài Nhà nước nên quyền lợi hưởng BHXH của nhiều người lao động vẫn bị vi phạm.
3.2.3. Các tổ chức công đoàn cơ sở chưa thực sự vững mạnh
Trong địa bàn huyện, do tính chất nhỏ bé của sản xuất nên mỗi doanh nghiệp có số lao động không lớn. Chính vì vậy, việc thành lập các tổ chức công đoàn là hết sức khó khăn. Khi các tổ chức công đoàn còn yếu thì không thể bảo vệ được quyền lợi cho người lao động, không thể đi sâu vào tình hình thực tế của doanh nghiệp. Hơn nữa, tổ chức công đoàn huyện lại không phối hợp với cơ quan thuế, cơ quan BHXH nên không nắm được những thuận lợi và khó khăn khi doanh nghiệp tham gia BHXH cho người lao động.
Chương 3
Một số giải pháp quản lý nhằm tăng khả năng thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn huyện Sóc Sơn
I. Phương hướng hoàn thiện quản lý thu Bảo hiểm xã hội của BHXH huyện Sóc Sơn
1. Hoàn thiện chủ thể quản lý thu BHXH
1.1. Đào tạo về cơ bản và nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ thu BHXH
Qua 10 năm hoạt động, ngành BHXH đã được Đảng và nhà nước đánh giá cao. Hoạt động BHXH ngày càng trở nên gần gũi và cần thiết đối với xã hội. Vị thế của ngành BHXH ngày càng được khẳng định vững chắc hơn. Những thành công của ngành bảo hiểm trước hết là do chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước về đổi mới công tác BHXH, xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của ngành, xây dựng mô hình tổ chức phù hợp và không thể không kể đến yếu tố con người là nỗ lực của toàn bộ cán bộ, công chức trong ngành. Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức trong toàn ngành hiện nay đang được cải thiện một phần so với khi mới thành lập. So với năm 1996, tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học tăng lên và đạt khoảng 30%. Tỷ lệ số người có trình độ thấp hoặc chưa qua đào tạo giảm đi. Bên cạnh đó nhiều cán bộ công chức còn tiếp tục theo học tại những trường khác nhau. Thực tế cho thấy, chỉ có một số ít các trường đại học đào tạo chuyên ngành bảo hiểm. Hay nói cách khác chỉ có một số ít cán bộ làm việc theo đúng ngành nghề được đào tạo. Do đó, việc bổ sung các kiến thức tối thiểu phục vụ yêu cầu trước mắt là hết sức cần thiết, là tiền đề quan trọng để thực hiện hiện đại hóa sau này. Vấn đề đặt ra là cần phải bổ xung những loại kiến thức nào, các loại chuyên môn nghiệp vụ ra sao, các biện pháp thực hiện như thế nào ?
Việc đào tạo cán bộ, công chức của ngành bảo hiểm có hai dạng là đào tạo bổ xung và đào tạo nâng cao. Có vấn đề nhận thức cần được làm rõ là trong những năm gần đây, nhà nước rất chú trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công chức nhà nước, nhất là khi Thủ tướng chính phủ có quyết định số 874/TTg ngày 20/11/1996 về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước và thành lập Cục đào tạo và bồi dưỡng công chức nhà nước năm 1997. Điều quan trọng là đào tạo cán bộ công chức là đào tạo bổ xung và nâng cao, chứ không phải như một số người hiểu chưa đúng là theo học tại các trường đại học và trung học chuyên nghiệp. Đào tạo bổ xung là cung cấp thêm những kiến thức mà cán bộ còn khiếm khuyết để có quan điểm đúng, có đủ khả năng thực hiện được các công việc mà vị trí công tác đòi hỏi, nhằm dần dần đáp ứng tiêu chuẩn hóa đối với cán bộ. Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước ưu tiên cho đào tạo bổ sung về lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin học. Còn đào tạo nâng cao chủ yếu là về chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao trình độ tác nghiệp, trình độ hiểu biết về chuyên môn nghiệp vụ.
Về đối tượng cần đào tạo bổ sung và đào tạo nâng cao của ngành BHXH, có thể chiếm phần lớn trong toàn bộ tổng số công chức của ngành, nhất là cán bộ công chức trẻ mới tuyển dụng và số cán bộ sắp được bổ nhiệm. Về đào tạo bổ sung trước hết phải nói đến lý luận chính trị và quản lý hành chính nhà nước. Những kiến thức này trước đây cán bộ công chức ít có điều kiện học tập. BHXH là chính sách lớn của Đảng và nhà nước, do vậy mỗi cán bộ phải có quan điểm đúng, có hiểu biết về điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, về pháp luật mới…để áp dụng trong công việc hàng ngày. Các kiến thức về lý luận chính trị và quản lý nhà nước sẽ giúp mỗi người củng cố thêm lập trường quan điểm, cập nhật thêm kiến thức.
Với xu thế đối tượng tham gia BHXH ngày càng nhiều, chỉ có con đường hiện đại hóa chúng ta mới có thể quản lý được với yêu cầu ngày càng cao. Nói đến hiện đại hóa không thể không nói tới hệ thống công nghệ thông tin. Khi công nghệ đã được trang bị thì các phương pháp quản lý cũng thay đổi, đòi hỏi mỗi người từ nhân viên đến cán bộ lãnh đạo phải có phương pháp quản lý mới. Chúng ta đã biết công nghệ thông tin đã làm thay đổi thế giới một cách nhanh chóng và khủng khiếp như thế nào. Nếu được ứng dụng công nghệ thông tin thì hoạt động của ngành bảo hiểm cũng thay đổi như vậy. Vấn đề là việc bổ sung, đào tạo phải được thực hiện như thế nào để có thể theo kịp công nghệ. Vì vậy, việc đào tạo bổ sung về sử dụng máy vi tính là hết sức cần thiết. Đào tạo nâng cao trong lĩnh vực này chính là đào tạo các chuyên gia giỏi về tin học, nhất là phần mềm liên quan đến BHXH.
Một loại chuyên gia nữa rất cần thiết cho hệ thống là chuyên gia về chính sách bảo hiểm. Khi hội đồng quản lý là bộ phận cao nhất giúp Thủ Tướng chính phủ trong việc hoạch định chính sách BHXH, thì bộ phận tham mưu cho hội đồng quản lý và tổng giám đốc về chính sách BHXH là rất quan trọng. Các chuyên gia này am hiểu về điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, để từ đó đưa ra các đề suất phù hợp.
Hơn nữa, tuy các nước khác nhau có những chính sách BHXH khác nhau nhưng việc học hỏi kinh nghiệm về BHXH của các quốc gia khác cũng rất quan trọng. Do đó, nên chủ động đưa các cán bộ trẻ, có năng lực đi học tập, công tác nước ngoài để mang về các kỹ năng, phương pháp hiện đại phục vụ hoạt động BHXH.
1.2. ứng dụng công nghệ thông tin và tăng cường đầu tư hệ thống máy tính vào nghiệp vụ BHXH
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hoạt động của các tổ chức là một trong những mực tiêu chiến lược hàng đầu, đã và đang được các nhà quản lý quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin quản lý nghiệp vụ BHXH không chỉ có lợi ích giảm chi phí, mà còn thống nhất cách nhìn của nhiều người, nhiều đơn vị dưới một tiêu chuẩn thống nhất. Tạo ra phong cách làm việc khoa học và hiệu quả, xây dựng các nguyên tắc bảo mật an toàn, có sự tính toán khoa học khi lưu trữ, xây dựng được sự tin cậy đối với các đối tượng tham gia quan hệ BHXH…từ đó nâng cao chất lượng phục vụ. BHXH Việt Nam đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt dự án ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý nghiệp vụ BHXH. Với dự án đó, thông qua việc tham gia các hội nghị quốc tế về xử lý số liệu BHXH, trao đổi kinh nghiệm về công nghệ thông tin với các nước có hệ thống BHXH phát triển cao như úc, Pháp, Anh, cũng như phối hợp với các công ty phần mềm trong nước và ngoài nước để tiến hành lựa chọn nhà cung cấp giải pháp phần mềm tối ưu.
Hiện nay, với những tiến bộ lớn trong lĩnh vực thông tin, đặc biệt là khả năng truyền thông tốc độ cao, giúp chúng ta có thể thấy những hiệu quả to lớn mang lại từ ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thông tin đối tượng đóng BHXH, đối tượng hưởng BHXH và quản lý tài chính quỹ BHXH. Về quản lý thông tin đối tượng đóng BHXH, thông qua hệ thống nhập, xử lý và lưu trữ thông tin trên máy tính, toàn bộ dữ liệu về quá trình đóng BHXH của hàng triệu người lao động được kiểm tra, cập nhật hàng tháng. Lưu trữ tập trung trong một cơ sở dữ liệu chủ, qua đó quản lý chặt chẽ và là cơ sở chính xác để giải quyết các chế độ BHXH ngắn hạn, dài hạn. Hoạt động này là cả một khối lượng công việc rất lớn phát sinh và tích lũy liên tục. Với yêu cầu thông tin chính xác, lưu trữ tập trung, an toàn, cung cấp số liệu nhanh chóng, kịp thời khi có yêu cầu thì phải sử dụng công nghệ thông tin là điều tất yếu.
Về quản lý hồ sơ đối tượng hưởng BHXH, được quản lý, lưu trữ chi tiết các tiêu thức theo hồ sơ gốc của hàng triệu đối tượng trong phạm vi cả nước, sẽ tạo tiền đề cho việc quản lý thống nhất trong toàn hệ thống. Số liệu có tính nhất quán và độ chính xác cao do được áp dụng thống nhất phương pháp tính toán ở tất cả các đơn vị. Phát hiện nhanh chóng các sai sót trong tính toán mức hưởng đối với các hồ sơ cũ. Quản lý chặt chẽ biến động, giúp loại trừ khả năng giả mạo hồ sơ và kê khống đối tượng hưởng. Cung cấp thông tin nhanh chóng giúp cho yêu cầu quản lý.
Đưa công nghệ thông tin vào quản lý tài chính quỹ BHXH từ các khâu: kế hoạch, thực hiện thanh quyết toán thu chi, hệ thống sổ sách biểu mẫu kế toán, báo cáo chi tiết, tổng hợp, thống kê phân tích tài chính và dự báo xu thế…sẽ tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc và số người tham gia công tác quản lý tài chính, giúp các đơn vị thấy rõ tình hình tài chính ở nhiều góc độ khác nhau. Rõ ràng, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH là một hướng phát triển tất yếu, đã và sẽ đem lại hiệu quả rất cao. Qua đó tạo ra được hệ thống xử lý số liệu BHXH thống nhất, đáp ứng yêu cầu mở rộng các đối tượng tham gia BHXH, quản lý chính xác lưu trữ lâu dài…Từ đó nhanh chóng có được thông tin về số lượng, cơ cấu đối tượng tham gia BHXH, các số liệu thống kê cần thiết để xây dựng các chiến lược phát triển của ngành.
Để ngày càng ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH, cần coi trọng hơn nữa quan hệ giữa các yếu tố, cần thống nhất trong nghiệp vụ thu chi, kế toán, chế độ chính sách. Từ đó cùng với những đổi mới về kỹ thuật, công nghệ, xây dựng được hệ thống xử lý số liệu BHXH có chất lượng, hiệu quả. Muốn vậy, phải có sự phối hợp đồng bộ từ trung ương đến địa phương, giữa các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố với nhau. Để có một mạng máy tính mạnh cho hệ thống BHXH, chúng ta phải mạnh dạn ứng dụng những kỹ thuật hiện đại bằng việc quan tâm đầu tư trang bị máy móc, thiết bị hiện đại cho toàn bộ hệ thống, đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu. Điều quan trọng và cần làm là xây dựng cho được hệ thống các tiêu chuẩn trong các nghiệp vụ BHXH. Ngoài ra, còn phải đầu tư cho phần mềm đáp ứng nhu cầu tự động hóa cao, có khả năng thích ứng với sự thay đổi về chế độ chính sách.
BHXH huyện Sóc Sơn cần kiến nghị với BHXH thành phố Hà Nội về việc đầu tư cho hệ thống máy tính mới, thay thế cho những máy tính đã cũ của mình. Đồng thời phải thay dần các công việc tính toán thu chi các chế độ bằng phần mêm công nghệ. Hy vọng rằng trong tương lai gần, hệ thống thông tin BHXH Việt Nam được nối mạng toàn ngành, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển với các ngành nghề khác.
1.3. BHXH phải được quản lý tập trung, thống nhất
Hoạt động của BHXH là một hoạt động sự nghiệp vì lợi ích chung của toàn xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội, do đó công tác quản lý BHXH chủ yếu nhằm vào mục đích hiệu quả xã hội mà không phải lợi nhuận. Để thực hiện đầy đủ thống nhất, kịp thời các chế độ BHXH đối với tất cả người lao động, nhất thiết phải có một nguồn lực tài chính ổn định, lâu dài, đó là quỹ BHXH. Chính vì vậy, BHXH phải được quản lý tập trung, thống nhất do những yêu cầu khách quan và thực tiễn là:
- Hoạt động bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng mang tính hỗ trợ lẫn nhau giữa những người tham gia bảo hiểm, theo nguyên tắc số đông bù số ít. Trong bảo hiểm thương mại, nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ nhiều trường hợp người tham gia bảo hiểm nhưng không được quyền đòi bồi thường, vì không có rủi ro gây ra tổn thất đối với đối tượng bảo hiểm. Nhưng lại có trường hợp khi xảy ra rủi ro, người tham gia bảo hiểm nhận được tiền bồi thường lớn hơn rất nhiều lần so với phí bảo hiểm họ đã nộp. Trong BHXH, nguyên tắc này thể hiện việc phân phối lại thu nhập giữa những người lao động, thực hiện sự chuyển dịch thu nhập giữa những người lao động, thực hiện sự chuyển dịch thu nhập có tính chất xã hội. Phân phối lại thu nhập giữa những người có thu nhập cao và người thu nhập thấp khác nhau, giữa những người khỏe mạnh may mắn có việc làm ổn định với những người ốm yếu, rủi ro. Như vậy, càng có nhiều người tham gia BHXH, càng có nhiều chế độ BHXH đối với người lao động được tập trung vào đầu mối quản lý, hình thành nên quỹ BHXH tập trung, thống nhất thì hoạt động BHXH càng có hiệu quả cả về mặt kinh tế lẫn xã hội.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính phủ, được Chính phủ giao cho quản lý quỹ, BHXH Việt Nam phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác thống kê, hạch toán kế toán, hướng dẫn các nghiệp vụ thu chi trong ngành. Người lao động chỉ tin tưởng, yên tâm tham gia BHXH khi BHXH Việt Nam quản lý chặt chẽ, không bị thất thoát, lãng phí quỹ. Vì vậy, tăng cường quản lý quỹ BHXH thực chất là tổ chức một cách khoa học các nghiệp vụ thống kê, kế toán thu chi, đồng thời xử phạt nghiêm minh các hiện tượng buông lỏng, lãng phí, tham ô.
1.4. Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn tới
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng tăng của BHXH huyện Sóc Sơn trong giai đoạn tới, đòi hỏi công tác thi đua, khen thưởng phải không ngừng đổi mới và tập trung vào các nội dung sau:
- Một là: Đổi mới nhận thức về ý nghĩa và vai trò quan trọng của công tác thi đua khen thưởng trong giai đoạn mới. Đây được xem là yêu cầu cấp thiết để BHXH Sóc Sơn và các quận, huyện khác thường xuyên phát động các phong trào thi đua với những mục tiêu, nội dung cụ thể, gắn liền với các các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao của từng đơn vị và từng ngành.
Thực hiện nội dung này đòi hỏi từ người lãnh đạo quản lý cao nhất đến những người trực tiếp thực thi công việc hàng ngày phải nhận thức được thi đua không phải là công việc khác với những việc làm hàng ngày mà nó nằm trong các công việc hàng ngày của mỗi người. Nền tảng của các hoạt động thi đua chính là các hoạt động diễn ra thường ngày như: thu, chi BHXH, xét duyệt hồ sơ, giám định y tế, kiểm tra…Như vậy nếu nhận thức và hiểu đúng bản chất của thi đua khen thưởng, thì trong bất kỳ một công việc nào chúng ta cũng có thể cùng nhau làm tốt hơn, nhất là đối với công việc khó khăn, cấp bách, phức tạp.
- Hai là: Đổi mới phương thức tổ chức phát động và duy trì phong trào thi đua. Thi đua là thuộc tính vốn có nằm ngay trong các hoạt động hàng ngày của mỗi người. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chúng ta phát động phong trào thi đua môt cách tràn lan, không có mục tiêu, không có nội dung cụ thể, mà cần phải cân nhắc, lựa chọn kỹ mục tiêu cần đạt được trước khi phát động một phong trào.
Trong thực tiễn, phong trầo thi đua thường được phát động để giải quyết các nhiệm vụ trọng tâm, bức xúc, những việc khó, việc mới, việc tồn đọng lâu ngày chưa được giải quyết của từng đơn vị. Ngược lại, nếu công việc không cấp bách, không khó khăn mà phát động phong trào thi đua thì hiệu quả sẽ thấp. Vì vậy, không nhất thiết là phải phát động phong trào thi đua vào đầu năm mà có thể phát động vào bất kỳ thời gian nào trong năm nếu xét thấy là cần thiết mà nếu không phat động phong trào thi đua thì không thể hoàn thành đúng thời gian và chất lượng đề ra. Đổi mới phương thức phát động thi đua cần phải thực hiện được các yêu cầu cơ bản sau:
+ Xác định mục tiêu cho phong trào. Mục tiêu phải cụ thể, phải sát với thực tiễn thì hiệu quả của phong tào thi đua càng cao và ngược lại. Mục tiêu không được quá cao, dễ làm nản lòng mọi người, mục tiêu không được quá thấp tưởng chừng như không thi đua cũng thực hiện được.
+ Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc để duy trì phong trào thi đua thông qua các biện pháp nghiệp vụ về thi đua khen thưởng và nghiệp vụ của các đơn vị trực tiếp giải quyết mục tiêu đặt ra của phong trào.
- Ba là: Đổi mới công tác khen thưởng, khen thưởng và thi đua là hai mặt của một vấn đề vì vậy nó không thể tách rời nhau. Thi đua là để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất, hiệu quả với chi phí và thời gian ít, còn khen thưởng là sự đánh giá, ghi nhận những thành tích đã đạt được trong thi đua. Khen thưởng phải dựa trên kết quả của thi đua. Thực hiện nội dung đổi mới khen thưởng đòi hỏi BHXH huyện Sóc Sơn phải tập trung làm tốt các công việc sau:
+ Xây dựng bảng điểm thi đua thể hiện đầu đủ các nội dung để đánh giá kết quả thi đua chính xác, khách quan.
+ Phát hiện và khen thưởng kịp thời các cá nhân, các phòng nghiệp vụ có thành tích đặc biệt xuất sắc, các gương người tốt việc tốt trong các phong trào.
+ Cải tiến thủ tục, hồ sơ khen thưởng theo hưởng giảm thiểu các giấy tờ và thủ tục không cần thiết.
- Bốn là: Đổi mới tổ chức và nhân sự làm công tác thi đua khen thưởng. Trong điều kiện chưa có cán bộ chuyên trách làm công tác thi đua, khen thưởng, trước mắt BHXH huyện Sóc Sơn cần phải chọn ra những cán bộ có đạo đức, phẩm chất trong sáng, lập trường tư tưởng vững vàng, có trình độ chuyên môn, tâm huyết với công việc. Về tổ chức, tiếp tục kiện toàn hội đồng thi đua khen thưởng để đáp ứng được yêu cầu.
1.5. Có chế tài xử phạt đối với các trường hợp không chấp hành chính sách chế độ BHXH
Đây là biện pháp nhằm tăng cường công tác pháp chế trong lĩnh vực BHXH. Mọi người lao động thuộc diện đối tượng tham gia BHXH đều phải chấp hành nghiêm chỉnh chính sách chế độ BHXH. Nhưng hiện nay trong các văn bản hiện hành, Nhà nước mới giao cho BHXH Việt Nam quyền kiểm tra, chưa giao cho quyền xử lý các trường hợp vi phạm chính sách BHXH như: nộp BHXH chậm hay không nộp, dùng thủ đoạn ký hợp đồng dưới 3 tháng một lần…Tất cả các thủ đoạn này để trốn nộp BHXH. Khi phát hiện ra, cơ quan BHXH lại không có quyền xử phạt, phải lập biên bản gửi các cơ quan có thẩm quyền xử lý, nên không thể kịp thời. Có xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng việc, đúng thời gian thì công tác xử lý mới có hiệu quả. Vì vậy đề nghị Chính phủ Việt Nam giao cho ngành BHXH Việt Nam có quyền thanh tra, kiểm tra, thì có quyền xử phạt. Đây là một bài học kinh nghiệm của Thái Lan và Malaysia…đã làm. Mức phạt cũng phải được nghiên cứu điều chỉnh, ít nhất cũng phải bằng mức thu ở đơn vị đó.
2. Hoàn thiện phía đối tượng quản lý
2.1. Nâng cao nhận thức về BHXH cho người lao động và chủ sử dụng lao động
Qua 10 năm thực hiện, công tác BHXH đã từng bước khẳng định vị thế quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội đất nước, cũng như đảm bảo quyền lợi BHXH cho người lao động bằng những kết quả cụ thể, to lớn trong thực tiễn xã hội. Trước hết là việc đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng. Nếu như trước kia chỉ có những người trong biên chế nhà nước mới được hưởng các chế độ BHXH thì hiện nay người lao động trong các thành phần kinh tế khác (theo quy định của luật lao động) cũng có quyền tham gia BHXH. Thứ hai, số thu BHXH hàng năm ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Thứ ba, do hình thành được quỹ BHXH tập trung, độc lập nên tính đến ngày 31/12/2004 quỹ đã đầu tư hơn 70 tỷ đồng tiền tạm thời nhàn rỗi vào đầu tư phát triển kinh tế-xã hội cần thiết của đất nước. Và cuối cùng là việc giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động thường xuyên được cải tiến theo hướng thuận tiện, chính xác hơn, hạn chế tối đa việc vi phạm pháp luật về BHXH và thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo cơ chế mới cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ. Một trong những khó khăn lớn nhất là việc người lao động, chủ sử dụng lao động chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của BHXH. Từ đó, họ chưa có thái độ và hành vi đúng đắn trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, hiện tượng né tránh, trốn nộp BHXH cho người lao động còn khá phổ biến, nhất là các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Số tiền nợ đọng BHXH của các đơn vị ngoài quốc doanh cũng không nhỏ. Trong trường hợp như vậy, cơ quan BHXH có quyền từ chối giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động theo nguyên tắc có đóng có hưởng. Rất nhiều trường hợp chủ sử dụng lao động đã thu tiền BHXH của người lao động nhưng không nộp cho cơ quan BHXH. Người lao động bị lợi dụng, vi phạm quyền lợi của mình về BHXH từ phía chủ sử dụng lao động mà vẫn không biết, không dám đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Nguyên nhân đơn giảm là họ không được hiểu biết đúng đắn, đầy đủ về chế độ, chính sách BHXH do pháp luật quy định.
Chính vì vậy, việc tuyên truyền, giải thích nhằm nâng cao nhận thức về BHXH của người lao động và chủ sử dụng lao động có ý nghĩa hết sức cấp bách và quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đây không chỉ là công việc của BHXH mà là nhiệm vụ chung của nhiều ngành, nhiều cấp, của toàn xã hội. Bởi vì đây là việc tuyên truyền, giải thích một chính sách xã hội lớn của Đảng và nhà nước, một nội dung quan trọng của bộ luật lao động và quan trọng hơn nữa là góp phần vào việc đảm bảo quyền lợi về BHXH của người lao động, cán bộ công chức và lực lượng vũ trang, những người bằng sự cống hiến của mình góp phần vòa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH đối với người lao động và chủ sử dụng lao động cần đi tìm lời giải cho những câu hỏi sau: tuyên truyền cái gì ? tuyên truyền như thế nào ? Trước hết đó là việc xác định rõ nội dung tuyên truyền, giải thích về bản chất, nội dung của chính sách BHXH. Cần làm cho mọi người hiểu được BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua việc huy động đóng góp để trợ cấp cho họ nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế-xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập gây ra bởi mất sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn để góp phần ổn định đời sống của gia đình và bản thân, an toàn xã hội. Từ đó, người lao động hiểu được bản chất nhân văn, nhân đạo của BHXH, họ có thể phân biệt rõ hơn sự khác nhau giữa BHXH và các loại hình bảo hiểm thương mại khác. Và như vậy, người ta sẽ không gọi nhầm là “công ty BHXH hay công ty BHXH Việt Nam nữa”.
Mặt khác, cũng phải tuyên truyền và giới thiệu cho họ về nội dung các chế độ BHXH mà người lao động tham gia BHXH được hưởng. Đặc biệt cần nhấn mạnh nội dung “tham gia BHXH vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của người lao động. Trên cơ sở đó, họ nhận thức được việc tham gia BHXH trước hết là vì quyền lợi của bản thân mình và cũng là nghĩa vụ của môic người đã được pháp luật quy định. Không chấp hành nghiêm chỉnh những quy định về BHXH là vi phạm bộ luật lao động và sẽ bị pháp luật xử lý. Do vậy, khi chủ sử dụng lao động trốn nộp BHXH cho người lao động là vi phạm pháp luật, họ có quyền đấu tranh, đòi hỏi nhằm bảo đảm quyền lợi của mình. Ngoài ra, việc giải đáp những vướng mắc của người lao động trong quá trình thực hiện các chế độ BHXH, việc phản ánh tâm tư, nguyện vọng, các kiến nghị bổ sung, sửa đổi nhưng bất hợp lý về chế độ BHXH cũng hết sức cần thiết và bổ ích.
Những nội dung trên cần được thể hiện bằng các hình thức, phương pháp phù hợp thì mới đạt hiệu quả cao. Do đối tượng tuyên truyền về BHXH là người lao động và chủ sử dụng lao động nên phải sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau mới có thể phù hợp với nhận thức, tâm lý và trình độ của họ. Đối với người lao động cần sử dụng những hình thức sinh động như truyền hình, sách hỏi đáp về BHXH, tờ gấp giới thiệu về BHXH, các loại ấn phẩm tuyên truyền như áp phích, tranh cổ động…thông qua các cuộc thi tìm hiểu về BHXH. Đặc biệt nội dung tuyên truyền cần được biên tập cô đọng, dễ hiểu, hấp dẫn. Các ấn phẩm tuyên truyền cần phải được phổ cập rộng rãi đến người lao động, đơn vị sử dụng lao động dưới dạng tặng phẩm tuyên truyền. Kinh phí thực hện được trích từ nguồn kinh phí nghiệp vụ tuyên truyền, chi phí thu của ngành BHXH.
Tạp chí BHXH cũng là cơ quan ngôn luận quan trọng có thể truyền tải được hầu hết các nội dung nói trên đến người lao động và chủ sử dụng lao động. Chính vì vậy, cần có những biện pháp tăng cường phát hành tạp chí BHXH đến tận cơ sở nhằm góp phần nâng cao nhận thức của người lao động và chủ sử dụng lao động về BHXH. Sự phối hợp chặt chẽ giữa BHXH Việt Nam với các cơ quan thông tin đại chúng như đài truyền hình Việt Nam, đài tiếng nói Việt Nam, các báo như nhân dân, quân đội nhân dân, lao động…để tuyên truyền về BHXH trong những năm qua cũng là một hình thức quan trọng mang lại hiệu quả tuyên truyền cao.
Việc nhận thức đúng đắn của người lao động và chủ sử dụng lao động về ý nghĩa, tầm quan trọng của BHXH đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền về BHXH cả về chiều rộng lẫn chiều sâu của hoạt động này. Trước hết nó đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả trong công tác tuyên truyền về BHXH giữa BHXH Việt Nam với các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống tổ chức công đoàn và các cơ quan có liên quan trong xã hội. Chỉ có như vậy, chúng ta mới đạt hiệu quả mong muốn.
2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn cơ sở để thực hiện tốt chính sách BHXH
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng với chính sách kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp ngoài Nhà nước ngày càng phát triển nhanh chóng. Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân phát triển đã hình thành nên nền kinh tế nhiều thành phần. Các loại hình kinh tế ra đời và phát triển góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của đát nước, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động.
Nhìn chung, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của đa số các doanh nghiệp ngoài Nhà nước là tương đối ổn đinh, bảo đảm được việc làm và đời sống của người lao động. Tuy nhiên cũng còn một số doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn, thị trường, máy móc thiết bị và công nghệ lạc hậu…nên sản xuất không ổn định, dẫn đến việc làm và đời sống của người lao động bị bấp bênh, nhất là các doanh nghiệp thuộc ngành dệt may, da giầy, chế biến thủy hải sản…Đây là những ngành mà điều kiện lao động căng thẳng, thường xuyên phải tăng ca, tiền lương thấp, chủ sử dụng lao động ít quan tâm thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động như: BHXH, BHYT, hợp đồng lao động…
Trước tình hình các doanh nghiệp ngoài Nhà nước phát triển, nhanh chóng đòi hỏi tổ chức công đoàn cũng phải đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động, nhằm tập hợp đông đảo công nhân viên chức lao động vào tổ chức công đoàn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. BHXH là một chính sách lớn của Đảng và nhà nước, đây là chính sách được người lao động và cộng đồng rất quan tâm. Trước tình hình hàng triệu người lao động trong khu vực ngoài quốc doanh chưa được tham gia BHXH. Nguyên nhân do chủ lao động không muốn đóng BHXH cho người lao động vì sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận hoặc nếu có nộp thì cũng giảm bớt tiền lương, giảm số lao động, thực hiện hợp đồng lao động theo mùa vụ, ngắn hạn dưới 3 tháng, kéo dài thời gian thử việc. Vì vậy, thiệt hai đến quyền lợi của người lao động.
Mặt khác, nhiều người lao động trong khu vực ngoài quốc doanh, một phần do nhu cầu việc làm, hoặc do người lao động chưa hiểu hết về pháp luật lao động, về chính sách BHXH, hoặc do chưa thấy được lợi ích lâu dài, mà chỉ thấy phải đóng 5% tiền lương để đóng BHXH nên chưa tha thiết với chế độ bảo hiểm. Hơn nữa, các cơ quan chức năng kiểm tra pháp luật cũng chưa quan tâm đúng mức tới lĩnh vực BHXH, chế độ xử phạt chế tài còn quá nhẹ chưa đủ sức ngăn chặn vi phạm. Liên đoàn lao động Việt Nam đã ký kết văn bản liên tịch phối hợp hoạt động nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chính sách BHXH cho người lao động ngoài quốc doanh. Trong đó công đoàn có những nhiệm vụ sau:
- Chỉ đạo công đoàn cơ sở thực hiện tuyên truyền chính sách chế độ BHXH đến người lao động thông qua việc tuyên truyền miệng, hệ thống loa trong doanh nghiệp…
- Phối hợp các ban ngành chức năng thành phố quận huyện giám sát việc thực hiện chế độ BHXH trong các doanh nghiệp. Đưa nội sung công tác kiểm tra việc thực hiện BHXH là một trong những nội dung trọng tâm của hoạt động công đoàn các cấp hàng năm.
- Xây dựng chỉ tiêu đóng BHXH của các đơn vị thành chỉ tiêu thi đua của tổ chức công đoàn các cấp.
Là một tổ chức chính trị-xã hội của giai cấp công nhân và người lao động, có chức năng bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của người lao động, tổ chức công đoàn nói chung và công đoàn cơ sở nói riêng có một vị trí, vai trò rất quan trọng đối với công tác BHXH, vì đay là quyền lợi chính đáng của người lao động không chỉ về trước mắt mà còn về lâu dài. Vì vậy, hơn bao giờ hết, tổ chức công đoàn phải năng động, sáng tạo, đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động, thực hiện có hiệu quả chức năng được pháp luật quy định, nhất là hoạt động công đoàn ở khu vực ngoài quốc doanh.
BHXH huyện Sóc Sơn phải phối hợp với các tổ chức công đoàn huyện và công đoàn cơ sở để bảo vệ quyền lợi của người lao động. BHXH phải có vai trò như người cầm lái con tàu, chỉ đạo các tổ chức công đoàn, đồng thời cùng công đoàn phát hiện những doanh nghiệp trốn nộp BHXH và tố cáo với chính quyền. Có như vậy thì mới nắm được chính xác số lao động được đóng BHXH, số lao động không được đóng BHXH.
II. Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hôi huyện sóc sơn
1. Kiến nghị với BHXH huyện Sóc Sơn
Để cho công tác quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước đạt hiệu quả cao, BHXH huyện Sóc Sơn nên thực hiện một số công việc sau:
- Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức công đoàn, cơ quan thuế trên địa bàn huyện để có thể nắm chắc được tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp như: số lao động mới được tuyển dụng, tiền lương thực tế của từng người lao động, thời hạn hợp đồng của từng người lao động…
- Kiến nghị với BHXH thành phố Hà Nội về việc cần bổ xung, thay thế, đầu tư thêm vào hệ thống máy tính và công nghệ thông tin.
- Đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý thu BHXH về mặt chuyên môn, nghiệp vụ. Đặc biệt bổ xung thêm về công nghệ thông tin và sử dụng cho thành thạo máy vi tính. Tiếp thu những phần mềm về BHXH để thuận tiện cho công tác quản lý.
- Tuyển dụng thêm một số cán bộ trẻ, mới ra trường đã được đào tạo sâu về nghiệp vụ và có năng lực.
- Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền đén người lao động, người sử dụng lao động, các cơ quan quản lý Nhà nước, các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp để chủ thể nhận thức đúng đắn về chính sách BHXH từ đó sẽ có tác động tích cực, trước hết là nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, sau là nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sử dụng lao động. Quan tâm đến quyền lợi của người lao động cũng là quan tâm đến lợi ích của toàn doanh nghiệp.
- Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, tổ chức Đảng, đoàn thể trong việc thực hiện chỉ thị số 15/CT-TW về “tăng cường thực hiện các chế độ BHXH”. Phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng, tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp ngoài Nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
- Không ngừng mở rộng cả phạm vi, hình thức và nội dung thông tin, tuyên truyền từ nói chuyện chuyên đề, hội thảo, tờ rơi, áp phích, báo đến phát thanh và truyền hình. Nêu gương các doanh nghiệp làm tốt. Phê phán các doanh nghiệp trốn đóng BHXH. Thông tin tuyên truyền phải sát cơ sở, sát người lao động, tránh tuyên truyền mang tính hình thức để chủ sử dụng lao động và người sử dụng lao động hiểu được chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước và tự giác tham gia BHXH.
2. Kiến nghị với các đơn vị sử dụng lao động
- Nên thành lập các công đoàn cơ sở để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, theo dõi sát sao toàn bộ quá trình làm việc, nghỉ dưỡng sức của lao động.
- Không nên quá xem trọng lợi nhuận mà quên đi nghĩa vụ phải nộp BHXH cho người lao động. Phải quan tâm thực sự đến lợi ích của người lao động, có như vậy người lao động mới thực sự yên tâm cống hiến hết mình cho doanh nghiệp.
3. Kiến nghị đối với nhà nước
Để cho người sử dụng lao động nộp đầy đủ BHXH cho người lao động thì nhà nước phải ban hành luật BHXH:
- Luật BHXH phải thể hiện đường lối của Đảng và nhà nước, phù hợp với hiến pháp của nước ta.
- Luật BHXH phải được xây dựng trên cơ sở kế thừa của chính sách BHXH trước đây và thể hiện được những vấn đề mới trong quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường và hòa nhập với thế giới.
- Luật BHXH khi thể hiện phải coi trọng tính chất, đặc điểm lao động, tính xã hội, tính cộng đồng chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia.
- Luật BHXH phải đảm bảo lợi ích của người tham gia BHXH, đảm bảo quyền sở hữu của người đóng góp về khoản tiền đã đóng góp của mình.
- Luật BHXH phải hình thành trên cơ sở thực tiễn khách quan của Việt Nam, không nên áp đặt chủ quan của nhà nước, lại càng không nên sao chép nguyên mô hình của nước ngoài. Tuy nhiên cần phải chọn lọc các kinh nghiệm của nước ngoài về BHXH, nhưng cấn phải chú ý tới đặc điểm về lịch sử phát triển các yếu tố văn hóa, vai trò của nhà nước và vai trò của xã hội dân sự trong việc quản lý BHXH…
- Luật BHXH phải thực sự nghiêm khắc đối với các trường hợp người sử dụng lao động trốn nộp BHXH cho người lao động.
Bên cạnh việc ban hành luật BHXH, thì Nhà nước cần chú ý hơn nữa chính sách BHXH.
kết luận
Việc thực hiện chế độ chính sách BHXH đối với người lao động ở các doanh nghiệp ngoài Nhà nước luôn được Đảng và nhà nước quan tâm. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi sản xuất ngày càng phát triển, người lao động trong khu vực này ngày càng nhiều. Chính vì vậy, hoàn thiện quản lý thu BHXH có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Về cơ sở lý luận: Đề tài đã làm rõ một số khái niệm liên quan đến quản lý, bảo hiểm, và nghiệp vụ BHXH. Từ những phân tích đó, đề tài đã khẳng định BHXH là một hoạt động sự nghiệp đặc thù, một dịch vụ công nhằm đáp ứng nguyện vọng của người lao động.
Về cơ sở thực tiễn: Trên cơ sở phân tích lý luận đưa ra những nội dung chính về quản lý thu BHXH, đề tài đã phân tích thực trạng quản lý thu BHXH, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn nộp BHXH của chủ doanh nghiệp.
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn đưa ra giải pháp hoàn thiện quản lý thu BHXH từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước và những điều kiện để thực hiện giải pháp đó.
Do thời gian có hạn và kiến thức còn nhiều hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn chỉnh.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Nguyễn thị Ngọc Huyền, người đã hướng dẫn em từng bước trong việc tìm hiểu đề tài này.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Xuân Quý
Tài liệu tham khảo
Sách tham khảo:
Bảo hiểm xã hội-Những điều cần biết – Nhà xuất bản thống kê Hà Nội – 2001.
Bảo hiểm xã hội-Những điều cần biết - Nhà xuất bản thống kê Hà Nội – 2003.
Giáo trình:
Giáo trình Bảo hiểm – Hồ Sĩ Sà - Nhà xuất bản thống kê Hà Nội – 2000.
Giáo trình Khoa học quản lý – TS Đoàn Thị Thu Hà-TS Nguyễn THị Ngọc Huyền – Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật Hà Nội – 2001.
Giáo trình Quản lý học kinh tế quốc dân – GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn-TS, Mai Văn Bưu - Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật Hà Nội – 2001.
Tạp chí:
6. Bảo hiểm xã hội – Số 4, Tháng 4/2000 – Cần sớm ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ BHXH – Nguyễn Văn Chương.
Bảo hiểm xã hội – Số 4, Tháng 4/2000 - Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hiện đại hóa hoạt động ngành BHXH – Nguyễn Chí Tỏa.
Bảo hiểm xã hội – Số 4, Tháng 6/2000 - Đổi mới công tác thu BHXH – Lưu Trọng Tâm.
Bảo hiểm xã hội – Số 4, Tháng 6/2000 - Đôi điều suy nghĩ về thực trạng BHXH hiện nay – Hữu Nguyên.
Bảo hiểm xã hội – Số 3, Tháng 3/2001 – Tăng cường thực hiện BHXH trong đơn vị ngoài quốc doanh – Nguyễn Minh Hiếu.
Bảo hiểm xã hội – Số 3, Tháng 3/2001 – Bảo hiểm xã hội phải được quản lý tập trung, thống nhất - Đỗ Văn Sinh.
Bảo hiểm xã hội – Số 7, Tháng 7/2001 – Về các chế độ trong dự thảo Luật BHXH – Linh Anh.
Bảo hiểm xã hội – Số 11, Tháng 11/2000 – Nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn cơ sở để thực hiện tốt chính sách BHXH - Đặng Ngọc Tùng.
Bảo hiểm xã hội – Số 7, Tháng 7/2000 – Nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH – Xuân Vinh.
Bảo hiểm xã hội – Số 4, Tháng 4/2000 – Cần nâng cao nhận thức về BHXH của chủ sử dụng lao động – Trần Sơn.
Bảo hiểm xã hội – Số 12, Tháng 12/2000 – Bảo hiểm xã hội khu vực ngoài quốc doanh-Cuộc đua cần tiếp sức – Phóng viên thực hiện.
Bảo hiểm xã hội – Số 7, Tháng 7/2001 – Trốn nộp BHXH-Quyền lợi của người lao động Ai lo – Lệ Yến.
Bảo hiểm xã hội – Số 7, Tháng 7/2000 – Doanh nghiệp ngoài quốc daonh chưa sẵn sàng tham gia BHXH – Hải Tiến.
Bảo hiểm xã hội – Số 4, Tháng 7/2000 – Cần sớm ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ BHXH – Nguyễn Văn Chương.
20. Các số liệu và tài liệu của BHXH huyện Sóc Sơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36233.doc