Trước đây của thu nhập quốc dân. Xét về phạm vi, tiết kiệm quốc gia được xem
xét về tính toán trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân bao gồm cả kĩnh vực sản xuất kinh doanh và hoạt động dịch vụ. Trong khi tích luỹ chỉ chú ý tới sản phẩm thặng dư của lĩnh vực sản xuất mà không chú ý tới lĩnh vực dịch vụ tạo ra GDP. Cách phân tích đó cho thấy lượng tiết kiệm quốc gia lớn hơn nhiều so với quan niệm tích luỹ trước đây.
63 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 894 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm huy động nguồn vốn trong dân phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chỉ tồntại một thời gian (đặc biết là huy động vốn trung và dài hạn ) không phát huy được như tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm bảo đảm bằng vàng...
Bốn là về lãi suất kém nhạy bén.Tuy rằng từ năm 1996 trở lại đây có sự chuyển biến (đã có lãi suất thực dương) nhưng giai đoạn lãi suất đầu vào chưa khuyến khích người gửi, lãi suất đầu ra thì người vay lại khôngchịu nổi làm cho dòng chảy tín dụng bị ngừng trệ, lúc thì ứ tiền trong dân cư, lúc thì ứ tiền trong ngân hàng.
Do những tồn tại trên nên hệ thống tài chính trung gian chưa phát huy được hiệu quả, thông qua hình thức gửi tiết kiệm hệ thống tì chính chỉ huy đáng
được khoảng 17% tổng lượng tiền nhàn rỗi số còn lại nằm dưới dạng tích trữ vàng ,USD và các hình thức khác.
2. Tình hình dân cư tự đầu tư
Nếu tính chung cả 5 năm (1991 - 1995)thì tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước tính trên khoảng 18 tỷ USD (theo mặt bằng giá cả năm 1995) trong
đó phần của Nhà nước chiếm khoảng 43 %, phần của tư nhân đầu tư chiếm 30 % và phần còn lại là do các nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 1995 theo số liệu thống kê, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 62.000 tỷ đồng tăng 19% so với năm 1994 trong đó nguồn vốn các doanh nghiệp tự đầu tư là 5.000 tỷ đồng (riêng khầu hao cơ bản là 2.500 tỷ đồng ) nhân dân và các Công ty thuộc khu vực tư nhân đầu tư 16.000 tỷ đồng, các Công ty đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp khoảng 20.000 tỷ đồng phần ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư phát triển chiếm trên 30% tổng số chi ngân sách.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam bao gồm chủ yếu các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ đó là khoảng 10 triệu hộ nông dân, 1,5 triệu cá nhân và hộ kinh doanh, tiểu chủ , 22.000 doanh nghiệp đăng ký theo luật doanh nghiệp tư nhân và luật Công ty. Công cuộc đổi mới kinh tế đã tạo ra một bước ngoặt quyết định cho sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đến lượt mình , sự phát triển của khu vực này đã đóng vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Sự phát triển của khu vực này đã làm tăng số công ăn việc làm một cách đáng kể ở khu vực đô thị cũng như nông thôn.Theo số liệu của Bộ lao động- Thương binh và xã hội, tỷlệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm từ 13% năm 1989 xuống 6,08% năm 1994 và xuống 5,88 % năm 1996,hàng năm có khoảng 1 triệu chỗ làm việc mới được tạo ra trong nước chủ yếu nhờ khu vực kinh tế này. Nếu như trong giai đoạn 1988 - 1993, lao động ở khu vực Nhà nước giảm 1,1 triệu người thì khu vực ngoài quốc doanh tăng 5,4 triệu người.
Mặc dù còn đang trong giai đoạn hình thành, nhưng kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần cho nền kinh tế gần 2/3 GDP. Và một điều rõ ràng tốc độ tăng trưởng kinh tế có giữ được cao như mong muốn hay không chắc chắn sẽ phụ thuộc vào sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bước phát triển rõ rệt nhất của kinh tế ngoài quốc doanh, nhằm tạo dựng được một khung pháp lý phù hợp, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển mạnh mẽ thể hiện qua bảng về số lượng doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế .
Biểu: Số lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế.
1991
1992
1993
1994
1995
Doanh nghiệp Nhà nước
9832
9.300
6.055
6.246
6104
Doanh nghiệp tư nhân
76
3126
8690
14.164
15435
Công ty trách nhiệm hữu hạn
13
1170
3389
5310
5925
Công ty cổ phần
3
65
106
134
143
Doanh nghiệp có vốn nước ngoài
218
373
566
838
1200
Hợp tác xã
1549
6200
Tổng cộng
10.263
14.126
18.899
28.351
35402
Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế quốc doanh dang được ghi nhận ở mức khá cao trong mấy năm gần đây nhờ tận dụng được nhứng tiềm năng công suất tạo lập trong quá khứ và nhiều đặc quyền chưa được triệt bỏ từ cơ chế cũ. Mặc dù còn bị thua thiệt nhiều về chính sách và xuất phát điểm , các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã chứng tỏ tính hiệu quả hơn so với doanh nghiệp Nhà nước. Cụ thể là theo tính toán của Bộ kế hoạch và đầu tư, hiện nay GDP trên 1 đồng vốn bỏ ra của doanh nghiệp ngoài quốc doanhlà 1,6. Tỷ trọng nộp vào ngân sách Nhà nước của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng từ 23 % năm 1991 lên 24 % năm 1995. Nhìn bề ngoài chỉ tiêu nộp vào ngân sách Nhà nước là 3,3 còn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 0,38 nhưng nếu trừ đi nộp khấu hao và thuế
gián thu thì các tỷ kệ đó của doanh nghiệp Nhà nước là 0,24 còn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 0,27.
Để thấy sự phát triển của khu vực này về nguồn nhân lực, các dữ liệu ở bảng sau cho chúng ta thấy tỷ trọng phát triển trong cơ cấu vốn giữa quốc doanh và ngoài quốc doanh, ngoài quốc doanh và liên doanh nước ngoài.
Tỷ trọng vốn của các loại hình doanh nghiệp
1991
1992
1993
1994
1995
Tổng số (%)
100
100
100
100
100
Doanh nghiệp Nhà nước (%)
88,25
78,2
71,0
63,2
58,1
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (%)
0,15
1,1
6,2
6,6
5,7
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (%)
11,6
17,7
22,8
3,2
36,2
(Nguồn : Tổng cục thống kê)
Những thông tin ít ỏi và chắc chắn còn xa với thực tế trên đây chỉ phần nào chứng minh cho sự năng động, tính hiệu quả và tiềm năng to lớn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một khu vực kinh tế đầy triển vọng.
Theo số liệu các cuộc điều tra khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 1995 mức vốn bình quân ở các doanh nghiệp tư nhân là 100 - 130 triệu đồng trong đó doanh nghiệp tư nhân có vốn điều lệ trên 500 triệu đồng chỉ chiếm 5% ở Công ty trách nhiệm hữu hạn là 600 - 700 triệu đồng và ở Công ty cổ phần la 5 - 6 tỷ đồng. Ta có bảng về vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như sau:
1991
1992
1993
1994
1995
Doanh nghiệp tư nhân
11
540
1351
2090
2500
Công ty trách nhiệm hữu hạn
25
1212
2723
3882
1237
Công ty cổ phần
30
566
850
1071
1211
Tổng
66
2318
4924
7013
7981
Mặc dù đã có bước phát triển nhảy vọt về số lượng doanh nghiệp, về mức độ tăng vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ 66 tỷ (1991), 2318 tỷ (1992) ; 1921 tỷ (1993) ; 7043 tỷ (1994) và 7981 tỷ (1995) năm 1995 gấp hơn 100 lần so với năm 1991 nhưng tỷ trọngvốn của khu vực này trong tổng số vốn
đầu tư của toàn bộ nền kinh tế lại có xu hướng giảm. Tổng số vốn của 22.000doanh nghiệp đã đăng ký theo luật chỉ mới bằng 18 % số vốn của doanh nghiệp Nhà nước. Hầu hết các máy móc thiết bị của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã cũ và lỗi thời.
Nhằm tìm hiểu tình hình hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đã có cuộc điều tra về doanh nghiệp tư nhân ở 3 thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh theo phương pháp chọn mẫu (tổng số các doanh nghiệp được điều tra là 280 doanh nghiệp ). Trong tổng số doanh nghiệp điều tra ở 3 địa phương thì số doanh nghiệp kinh doanh trong ngành thương mại chiếm tỷ trọng cao nhất là 45,07%, trong đó Hà Nội là 25,45% Hải Phòng là 67,31% và thành phố Hồ Chí Minh là 49,29%. Số doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chiếm tỷ trọng 25% trong đó Hà Nội là 29,09% Thành phố Hồ Chí Minh là 28,9% còn Hải Phòng có tỷ lệ thấp là 7,69%. Cuộc điều tra còn cho thấy, trong tổng số vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân phần vốn đầu tư ban đầu bằng tiền mặt còn thấp.
Bảng tỷ lệ vốn đầu tư ban đầu bằng tiền mặt:
(% / tổng số doanh nghiệp )
Tỷ lệ tiền mặt
Chung
Hà Nội
Hải Phòng
TP. HCM
100% T M
62,15
57,14
65,96
62,13
70- 100%
5,97
5,71
6,38
2,96
50% - 100%
5,98
11,43
8,41
4,14
30% - 50%
5,98
14,29
4,25
4,3
< 30%
21,91
11,43
14,89
26,04
Tổng số
100,00
100,00
100,0
100,00
Số liệu ở trên cho thấy tỷ lệ % tiền mặt trong đầu tư ban đầu của các doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm hơn 60 % tổng số vốn, gần 40% vốn đầu tư nằm dưới dạng trang thiết bị văn phòng, tài sản cố định.
Qua việc phân tích tình hình phát triển của kkhu vực kinh tế ngoài quốc doanh ta có thể thấy rằng từ năm 1992 trở lại đây kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển mạnh mẽ về quy mô và số lượng nhưng nhìn chung khu vực vẫn chưa phát huy hết khả năng của mình. Vốn đầu tư trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn ở quy mô nhỏ tập trung chủ yếu (khoảng 80%) vào các lĩnh vực thương maị, dịch vụ phục vụ tiêu dùng. Để khu vực kinh tế tư nhân phát triển đúng hướngvà nhanh hơn càn có sự nâng đỡ nhiều mặt từ phía Nhà nước trong đó vấn đề quan trọng là cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
3. Nguyên nhân của những tồn tại trong việc huy động vốn
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong việc huy động vốn của dân cư kể cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng chung quy lại có những vấn đề sau:
a. Về huy động đầu tư gián tiếp
Lãi suất tiền gửi trung và dài hạn đã được điều chỉnh cao hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn nhưng quyền lợi kinh tế đó vẫn chưa xứng với thời gian gửi tiền của nhân dân. Có nghĩa là lãi suất tiền gửi ngắn hạn hợp lý hơn và dài hạn còn bất hợp lý. Xây dựng lãi suất tiền gửi trung và dài hạn còn ít mức. Trả lãi cho tiền gửi có kỳ hạn rút ra trước thời hạn chưa linh hoạt, người rút tiền vẫn bị thiệt thòi nhiều.
- Hình thức gửi tiền chưa phong phú và hấp dẫn.
- Việc gửi tiền vào các tổ chức tín dụng hoặc cho các doanh nghiệp và cá nhân vay chưa bảo đảm an toàn và mức độ tin cậy để : chọn mắt gửi vàng”
- Tổ chức mạng lưới thu hút tiền gửi tiết kiệm cảu ngân hàng chưa rộng khắp nhất là khu miền núi nông thôn và hải đảo. cách thức chi trả tiền gửi còn có nhiều vấn đề chưa hợp lòng dân, thủ tục rườm rà ...
b. Về hình thức đầu tư trực tiếp:
Nguyên nhân chủ yếu là do môi trường để khuyến khích đầu tư còn hạn chế
- Vốn đầu tư ngân sách không đủ sức khắc phục tình hình yếu kém về hạ tầng kinh tế xã hội vốn tín dụng đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ , do vậy đã hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Quy hoạch vùng, ngành đô thị khu vực công đã có bước triển khai mạnh nhưng nói chung chưa được xét duyệt làm cơ sở chuẩn bị cho đầu tư bố trí kế hoach đầu tư.
Thiếu một môi trường pháp lý đảm bảo cho sự ổn định và phát triển kinh tế với nhịp độ cao và bền vững.
- Luật khuyến khích đầu tư trong nước đã có nhưng còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết
+ Thủ tục xét duyệt đầu tư còn phiền hà, qua nhiều cửa làm cho nhà đầu tư phải “chạy lên chạy xuống” nhiều lần, nghĩa là khía cạnh hành chính còn nhiều vấn đề gây cản trở
- Nhiều biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đã được quy định rõ nhưng chưa được áp dụng trong thực tế, đặc biệt các biện pháp hỗ trợ về đất đai mặt bằng sản xuất kinh doanh, hỗ trợ vốn, công nghệ và các dịch vụ đầu tư khác
- Các ưu đãi về thuế , nhất là đối với các dự án đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất còn thấp không khuyến khích được các nhà đầu tư.
Phần III
Một số giải pháp nhằm huy động vốn trong dân phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
* *
*
I. Những mục tiêu phát triển lớn cho giai đoạn 1996-2000 và dự tính việc huy động vốn để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế
1. Những mục tiêu phát triển lớn của giai đoạn 1996-2000
Để xây dựng những kế hoạch 5 năm có cơ sở khoa học và đảm bảo thực hiện vững chắc cần phải có chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế cho cả một thời gian dài nhằm dự đoán trước những khó khăn thuận lợi mà chúng ta có thể gặp trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII sau khi phân tích đặc điểm tình hình trong nước và thế giới, những thời cơ mà chúng ta phải chủ động nắm lấy để vươn lên phát triển nhanh và vững chắc tạo thế và lực mới đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1996-2000. Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền
kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào những năm tiếp theo của đầu thế kỷ sau.
Đến năm 2000, GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 1990. Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 9-10%; sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 4,5%; công nghiệp 14-15%; dịch vụ 12-13%; xuất khẩu khoảng 28%. Tỷ lệ đầu tư/GDP đạt khoảng 30%. Năm 2000, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 34-35% trong GDP nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 19-20%; dịch vụ chiếm khoảng 45-46%.
2) Những hướng ưu tiên đầu tư trong thời kỳ 1996-2000
Trong giai đoạn 1996-2000, nguồn lực đầu tư phát triển trong toàn bộ nền kinh tế sẽ định hướng đầu tư vào các ngành và các lĩnh vực kinh tế - xã hội chủ yếu như: phát triển nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu nông thôn; phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến và sản xuất hàng xuất khẩu; xây dựng hạ tầng giao thông, thông tin liên lạc, cấp thoát nước; hạ tầng xã hội, giáo dục, y tế văn hoá, môi trường, khoa học công nghệ.
Đối với nguồn vốn nhà nước, Chính phủ Việt Nam có thể định hướng trực tiếp hoặc hỗ trợ gián tiếp nhằm thực hiện cơ cấu đầu tư hợp lý theo ngành và lãnh thổ Việt Nam sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
- Nâng cấp các trục giao thông xuyên cả nước; phát triển đồng bộ hệ thống giao thông ở 3 vùng kinh tế trọng điểm. Mở thêm các tuyến giao thông từ các khu kinh tế trọng điểm đến các điểm kinh tế, dân cư ở Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long, các tuyến nối với các nước láng giềng, giải toả ách tắc giao thông ở các đô thị lớn và mở đến các nơi vùng sâu vùng xa, cải tạo nâng cấp mở rộng các cảng sông cảng biển hệ thống các sân bay, hệ thống thông tin liên lạc ở các vùng xa xôi... phát triển giao thông nông thôn, miền núi bảo đảm 100% trung tâm xã và cụm xã ở miền núi có đường ôtô đi đến.
- Phát triển nguồn điện, hệ thống lưới điện, nhất là lưới điện trung và hạ thế. Bảo đảm cung cấp điện đầy đủ cho các khu công nghiệp, các đô thị và khu vực nông thôn.
- Phát triển và củng cố hệ thống thuỷ lợi cung cấp nước cho sản xuất, phòng chống lũ lụt và môi trường môi sinh. Cải thiện tình hình cấp thoát nước ở các thành phố lớn, khu công nghiệp và thị xã, tiếp tục thực hiện chương trình nước sạch nông thôn.
- Hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp chế biến nhất là công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tạo bước chuyển biến cơ cấu nông thôn, phát triển các ngành công nghiệp sử dụng lao động và khai thác nguồn tài nguyên tại chỗ.
- Phát triển nghề rừng, nghề biển, trồng rừng đầu nguồn bảo vệ và chăm sóc rừng, môi trường hải sản hỗ trợ chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn.
- Thực hiện chương trình phát triển nguồn nhân lực chương trình phát triển kinh tế xã hội miền núi, xoá đói giảm nghèo với các mục tiêu về xã hội; xoá các lớp học 3 ca, các trường học tạm bợ, phát triển hệ thống các trường dạy nghề, nâng cấp đại học quốc gia và khu vực. Xoá xà trắng về y tế, củng cố y tế tuyến huyện, tuyến tỉnh, xây dựng trung tâm kỹ thuật cao. Xây dựng các trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ, xây dựng và phát triển các cơ sở phúc lợi công cộng về văn hoá, thông tin, truyền thanh truyền hình và các công trình xã hội khác.
Đối với vốn đầu tư tư nhân trong và ngoài nước Nhà nước Việt Nam thông qua việc phổ biến qui hoạch kế hoạch hướng dẫn chính sách đòn bẩy để định hướng ưu tiên vào các ngành các lĩnh vực đầu tư như phát triển nguồn điện, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, các cơ sở công nghiệp khai thác và chế biến nguyên liệu, vật liệu, phát triển thông tin liên lạc... đặc biệt khuyến khích mạnh việc đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Trên cơ sở thực hiện luật đầu tư nước ngoài đã sửa đổi, dự kiến thu hút khoảng 80% nguồn vốn FDI tập trung vào các ngành sản xuất, nhất là sản xuất công nghiệp. Những dự án đòi hỏi số vốn lớn,
công nghệ phức tạp thuộc các ngành dầu khí, xi măng, sản xuất thép hoá chất cơ bản và những dự án đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng sẽ có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia bằng nhiều hình thức kể cả hình thức BOT và những hình thức tương tự BOT.
3) Nhu cầu vốn đầu tư và phương hướng huy động vốn đầu tư trong giai đoạn 1996-2000
Đại hội đảng cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân thời kỳ 1996-2000 là 9-10% và đến năm 2000, GDP bình quân đầu người gấp đôi năm 1990. Để đạt được mục tiêu trên tỷ lệ tích luỹ cần thiết được xác định theo công thức: s = g x k
s: tỷ lệ tích luỹ trong GDP
g: tốc độ tăng trưởng
k: tỷ số gia tăng giữa vốn đầu ra (ICOR)
Hệ số (ICOR) bình quân thời kỳ 1996-2000 dự kiến là 3-3,5. Như vậy nhu cầu về vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm 1996-2000 (tính theo giá năm 1995) phải đạt 41-42 tỷ USD gấp hơn hai lần so với 5 năm trước.
Mức đầu tư thực hiện trong từng năm (tính bằng tỷ USD) theo giá 1995 dự tính như sau:
Năm
Tổng nguồn vốn
1996
5,5
1997
7
1998
8,3
1999
9,8
2000
10,8
Tổng cộng 1996-2000
41,4
Về nguồn vốn, Đảng và Nhà nước ta xác định vốn ngoài nước là rất quan trọng, vốn trong nước là có ý nghĩa quan trọng. Về lâu dài tỷ trọng vốn đầu tư
trong nước cũng như tỷ trọng vốn đầu tư cho các doanh nghiệp và nhân dân sẽ tăng lên.
Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước: khả năng tích luỹ ngân sách. Từ nguồn thu trong nước giành cho đầu tư phát triển bình quân hàng năm chiếm khoảng 3,7 - 3,8% GDP, bằng 12,6% tổng nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế. Một phần nguồn vốn ODA và các khoảng vay nước ngoài sẽ được đưa vào ngân sách để đầu tư. Dự kiến tổng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách (bao gồm cả tích luỹ từ thu ngân sách trong nước và một phần vốn ODA) chiếm 21%. Nguồn vốn tín dụng đầu tư của nhà nước: Dự tính khả năng nguồn vốn tín dụng đầu tư của nhà nước vào khoảng 16-17% tổng đầu tư trong nền kinh tế (vốn huy động trong nước là 7%, vốn huy động từ nước ngoài cho vay chiếm 10%).
Nguồn vốn ODA trong 5 năm 1996-2000 có khả năng đưa vào thực hiện là 7-8 tỷ USD, trong đó có trên 4 tỷ USD trong số 6,2 tỷ USD đã được cộng đồng tài trợ cam kết trong các năm 1993, 1994, 1995 nhưng chưa thực hiện, số còn lại sẽ được tiếp tục vận động. Nguồn vốn ODA này sẽ bổ xung cho nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và chuyển vào quĩ tín dụng đầu tư của nhà nước.
- Nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước: Nguồn vốn này bao gồm vốn khấu hao cơ bản để lại, trích lợi nhuận sau thuế, vốn thu hút thêm thông qua các hình thức liên doanh và vốn vay. Trong 5 năm 1996-2000 dự kiến nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm khoảng 14-15% tổng nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế.
- Nguồn vốn của tư nhân. Đầu tư của tư nhân có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và mở mang ngành nghề ở nông thôn phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải. Dự kiến tỷ lệ tiết kiệm của dân cư bình quân trong 5 năm 1996 - 2000 vào khoảng 15% GDP; trong tổng số tiết kiệm của dân cư, phần tham gia đầu tư trực tiếp chiếm khoảng 33%, phần tham gia đầu tư tiếp chiếm khoảng 25% phần còn lại
được đưa vào tín dụng ngắn hạn. Như vậy, vốn tiết kiệm của dân cư khoảng 16-17% tổng vốn đầu tư trong nền kinh tế. Ngoài ra nguồn ngoại tệ của dân cư từ nước ngoài gửi về với khối lượng không nhỏ cũng có thể huy động tham gia vào đầu tư phát triển kinh tế.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 5 năm 1996-2000 dự kiến nguồn vốn FDI thực hiện khoảng 13-15 tỷ USD (bao gồm cả vốn thực hiện một số dự án sẽ hoàn thành sau năm 2000) chiếm 31% tổng nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế.
II. Một số kiến nghị và giải pháp huy động vốn trong dân
1) Đối với nguồn tiết kiệm trong dân cư
a) Kiến nghị nhằm xây dựng mức lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý
Điều chỉnh lãi suất ngân hàng thời gian qua là tương đối phù hợp với chỉ số lạm phát. Tác dụng là thu hút được một lượng tiền gửi khá lớn vào ngân hàng nhưng phần lớn là tiền gửi ngắn hạn. Trong thời gian tới xây dựng chính sách lãi suất nên thống nhất quan điểm coi lãi suất là đòn bẩy mạnh nhất để khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng. Công cụ này đã được kiểm nghiệm qua hàng nghìn năm hình thành và phát triển quan hệ tín dụng trên thế giới. Dù "thời tiết" kinh tế và chính trị của một đất nước như thế nào, muốn huy động được nhiều vốn phải có một mức lãi suất hấp dẫn. Trong nền kinh tế thị trường ở đâu có lợi ích cao ở đó người ta tìm cách đầu tư vốn vào nhiều nhất. Biện pháp lợi ích kinh tế bằng công cụ lãi suất bao giờ cũng là biện pháp tối ưu nhất để huy động nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư ở mức cao nhất.
Một chính sách lãi suất hợp lý là một chính sách lãi suất được xây dựng có cơ sở khoa học và thực tiễn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện đại. Xây dựng các mức lãi suất tiền gửi trung hạn và dài hạn hợp lý cho giai đoạn hiện nay và thời gian tới, cần phải giải quyết theo các hướng sau:
- Tiếp tục xác định mức lãi suất tiền gửi trung và dài hạn cao hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn, thời gian gửi tiền càng dài thì người gửi có khả năng gặp rủi ro càng cao, nên phải có mức lãi suất cao đề bù được rủi ro đến với họ mà những rủi ro đó là khó dự báo chính xác.
- Cũng như lãi suất tiền gửi ngắn hạn, lãi suất tiền gửi trung hạn và dài hạn cần xây dựng thành nhiều mức. Tuy nhiên tiền gửi trung hạn và dài hạn có thể gửi trong một thời gian dài, nên có thể chia ra một số mức nhất định. Mỗi mức lãi suất cho khoảng thời gian bao lâu là tuỳ thuộc vào thời gian gửi tiền của dân cư và nhu cầu huy động vốn của mỗi ngân hàng. Có thể xây dựng theo cách từ 2-5 năm ấn định mức lãi suất 2 năm, 3 năm, 4 năm, 5 năm, trên 5 năm ấn định mức lãi suất theo luỹ tiến thời gian hoặc cứ 5 năm 1 mức đồng thời áp dụng nguyên tắc tỷ lệ lãi suất hàng năm của tiền gửi dài hạn luôn cao hơn tỷ lệ lạm phát khoảng 2,5 - 3%.
- Khi có nhu cầu, cần huy động một lượng vốn lớn để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các công trình trọng điểm, ngân hàng có thể nâng mức lãi suất tiền gửi cao hơn lúc bình thường và trả lãi trước cho người gửi tiền.
- Trong khi chúng ta chưa tổ chức được thị trường chứng khoán, các ngân hàng nên trả lãi cho người gửi tiền trung hạn và dài hạn nhưng có nhu cầu rút ra trước thời hạn với mức lãi suất bằng với mức lãi suất đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn tương ứng.
b) Giải pháp huy động tiết kiệm thông qua quĩ tiết kiệm bưu điện.
Các biện pháp huy động vốn nhằm thu hút nhiều nhất nguồn vốn trong dân không nên chỉ dừng ở việc hoàn thiện chính sách lãi suất ngân hàng. Để động viên lượng tiền nhàn rỗi hiện đang dự trữ trong dân cần phải mở rộng và hoàn thiện các hình thức huy động hiện có của Ngân hàng và kho bạc nhà nước, cần phải mở thêm các kênh huy động vốn, áp dụng nhiều hình thức huy động
như tiền gửi có thưởng, tiền gửi có mục đích... Huy động nguồn vốn tiết kiệm qua Quỹ tiết kiệm bưu điện là một điển hình.
Các điều kiện thuận lợi để thành lập Quỹ tiết kiệm bưu điện ở Việt Nam:
Như đã nói ở trên hiện nay nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển đang đòi hỏi rất lớn trong khi đó tỷ lệ huy động tiền gửi tiết kiệm trong dân cư đạt tỷ lệ thấp so với số tích luỹ của nền kinh tế. Sự bất cập này do nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân cơ bản là do mạng lưới hệ thống ngân hàng chưa rộng khắp đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng xa xôi hẻo lánh, đồng thời hình thức huy động tiền tiết kiệm của ngân hàng còn chưa phong phú và dịch vụ vẫn chưa tạo thuận lợi cho người gửi tiền nhỏ.
Vì vậy việc thiết lập một hệ thống thu hút tiết kiệm rộng rãi gần dân trong phạm vi cả nước là một yêu cầu cấp bách để động viên nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Bưu điện có mạng lưới gồm 2760 bưu cục được phân bố rộng khắp và vốn quen thuộc với người dân. Hầu hết các bưu cục đã được xây dựng khang trang và đủ khả năng thực hiện việc nhận tiền tiết kiệm cũng như thực hiện các dịch vụ thanh toán, chi trả trong dân (chỉ tính riêng dịch vụ chuyển tiền qua bưu điện năm 1997 lưu lượng đã đạt tới 4.900 tỷ đồng).
Không những thế hầu hết các bưu cục mở cửa từ 7h00 đến 19h hoặc 21h hàng ngày nên rất thuận lợi cho người dân. Việc mở tài khoản tiết kiệm ở bưu điện còn giúp cho người dân có thể rút tiền hoặc thanh toán ở bất cứ một bưu cục nào trong cả nước.
Với mạng viễn thông hiện đại đã được số hoá và đang từng bước cáp quang hoá, cùng với đội ngũ có trình độ kỹ thuật cao, Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam có thể nhanh chóng thiết lập mạng thanh toán on-line hiện đại mà thiếu nó thì không thể thúc đẩy việc thanh toán không dùng tiền mặt trong dân.
Những lý do nêu trên cho thấy rằng, do tận dụng được các thế mạnh sẵn có là mạng lưới rộng khắp kỹ thuật hiện đại và năng lực các bưu cục còn đủ, Bưu điện có khả năng thu hút tiền gửi tiết kiệm cho quốc gia rộng rãi đối với mọi đối tượng từ thành thị đến nông thôn và thực hiện thanh toán trong dân với chi phí thấp nhất.
Xuất phát từ nhu cầu góp phần ổn định đời sống nhân dân và tạo ra một lượng vốn trong nước đáng kể góp phần thực hiện thành công chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một trong các biện pháp hữu hiệu là đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền tiền gửi tiết kiệm, thành lập một hệ thống tiết kiệm quốc gia đủ mạnh nhằm thu hút vốn cho ngân sách nhà nước. Hệ thống này phải có mạng lưới rộng khắp và được trang bị hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhân dân gửi tiết kiệm. Với những điều kiện sẵn có của mình, Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam là đơn vị có khả năng thực hiện hiệu quả nhất nhiệm vụ nêu trên.
Mục đích thành lập quĩ tiết kiệm bưu điện Việt Nam:
Quĩ tiết kiệm bưu điện Việt Nam được thành lập với mục đích:
- Tạo một kênh thu hút vốn thường xuyên và ổn định cho ngân sách nhằm hỗ trợ đầu tư và đầu tư cho cơ sở hạ tầng cũng như các công trình kinh tế quan trọng góp phần thực hiện thành công chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Tạo một mạng lưới thu hút tiết kiệm rộng khắp gần dân nhằm mục đích đẩy phong trào tiết kiệm trong dân và qua đó góp phần ổn định đời sống nhân dân.
- Cung cấp hệ thống phương tiện kỹ thuật on-line hiện đại đảm bảo sự tiện dụng cao nhất cho nhân dân trong việc gửi tiền, rút tiền và thanh toán không dùng tiền mặt.
Tổ chức thực hiện:
Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam là một đơn vị cấu thành thuộc Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam có chức năng nhiệm vụ điều hành quản lý và giám sát hoạt động của toàn hệ thống tiết kiệm bưu điện theo phân cấp của tổng công ty.
Quĩ tiết kiệm bưu điện Việt Nam do Giám đốc phụ trách và các phó giám đốc giúp việc. Giám đốc do Hội đồng quản trị tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam bổ nhiệm.
Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam bao gồm các phòng chức năng có nhiệm vụ giúp giám đốc điều hành, quản lý, kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động của hệ thống tiết kiệm bưu điện.
Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam có hai trung tâm máy tính đặt tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chịu trách nhiệm điều hành, quản lý toàn bộ số tài khoản tiền gửi của khách hàng, giám sát, kiểm tra toàn bộ các hoạt động thu hút tiết kiệm, chuyển tiền, thanh toán qua đường bưu điện. Hai trung tâm máy tính hạch toán phụ thuộc Quỹ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam, mỗi trung tâm có con dấu và tài khoản riêng.
Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam có thể mở các chi nhánh tại các tỉnh, thành phố khi cần thiết và được phép của Tổng công ty.
Các bưu điện tỉnh, thành phố trong cả nước chịu sự quản lý thống nhất của Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam. Tại mỗi bưu điện tỉnh, thành phố có một phòng chức năng quản lý dịch vụ tiết kiệm và chuyển tiền. Phòng chức năng này có nhiệm vụ giám sát hướng dẫn nghiệp vụ cho các bưu cục trong phạm vi mình quản lý, điều hoà vốn đảm bảo thanh toán cho các bưu cục, chuyển tiền thu hút tiết kiệm vào tài khoản của Quỹ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam mở tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp.
Các bưu cục cấp I, cấp II và cấp III được phép mở dịch vụ tiết kiệm bưu điện có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ theo qui định.
Nội dung hoạt động của quĩ tiết kiệm như sau:
- Huy động tiết kiệm bưu điện: Quỹ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam huy động các nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn của các tổ chức dân cư thuộc mọi thành phần kinh tế bằng các thể thức:
+ Tiết kiệm có kỳ hạn
+ Tiết kiệm không kỳ hạn...
- Thực hiện dịch vụ chuyển tiền qua bưu điện.
+ Thư chuyển tiền
+ Điện chuyển tiền.
+ Chuyển tiền nhanh.
+ Séc bưu chính.
- Dịch vụ thanh toán, chi trả trên tài khoản tiết kiệm bưu điện: Quĩ tiết kiệm Việt Nam thực hiện việc thanh toán trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm theo lệnh thanh toán của chủ tài khoản:
- Dịch vụ đại lý:
+ Thu cước phí điện thoại
+ Trả lượng hưu, bảo hiểm xã hội.
+ Thu tiền nhà, tiền điện, tiền nước...
- Sử dụng vốn.
Căn cứ trên số dư tiền tiết kiệm huy động được Quỹ tiết kiệm bưu điện Việt Nam phải bảo đảm chi trả tiết kiệm thường xuyên cho người gửi. Quỹ tiết kiệm phải có trách nhiệm chuyển cho Bộ Tài chính theo kế hoạch số vốn huy động được để Ngân sách nhà nước sử dụng cho đầu tư.
Trường hợp số tiền huy động được sau khi trừ đi phần để lại chi trả còn lớn hơn số tiền phải nộp ngân sách nhà nước theo kế hoạch, để phát huy hiệu
quả đồng vốn và tạo ra lãi để bù đắp khoản lãi vay phải trả cho khách hàng, sau khi được phép của Bộ Tài chính, Quĩ tiết kiệm được quyền sử dụng vào một số mục đích sau:
+ Mua trái phiếu, tín phiếu Chính phủ.
+ Mua tín phiếu công trình do quĩ hỗ trợ đầu tư phát hành
+ Mua trái phiếu công trình do Tổng cục Bưu chính viễn thông Việt Nam phát hành.
+ Gửi tại các tổ chức tín dụng.
Mô hình điều hành vốn:
Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam mở một hệ thống tài khoản riêng để điều hành việc chuyển, trả vốn tiết kiệm. Hệ thống tài khoản của Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam được quản lý thống nhất theo cơ chế một chủ tài khoản mẹ
và nhiều chủ tài khoản nhánh. Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam mở tài khoản mẹ tại Ngân hàng Nông nghiệp T.W. Bưu điện các tỉnh thành phố cung cấp dịch vụ tiết kiệm bưu điện mở tài khoản nhánh tại Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh. Bưu cục huyện cung cấp dịch vụ tiết kiệm Bưu điện mở tài khoản tiết kiệm tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp huyện.
Qui trình chuyển vốn huy động tiết kiệm diễn ra như sau:
- Cuối mỗi ngày các bưu cục cấp III phải chuyển toàn bộ số tiền huy động được về bưu cục huyện sau khi trích số tiền dùng chi trả cho ngày hôm sau theo đúng qui định của Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam. Bưu cục huyện nộp toàn bộ số tiền vào tài khoản của tiết kiệm bưu điện mở tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp huyện sau khi đã trích số tiền dùng cho chi trả theo qui định của Quỹ tiết kiệm bưu điện Việt Nam và lệnh cho chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp huyện chuyển số tiền theo qui định của Quỹ tiết kiệm bưu điện Việt Nam vào tài khoản tiết kiệm bưu điện mở tại Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh.
- Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh chuyển số tiền theo qui định của Quĩ tiết kiệm Việt Nam vào tài khoản mẹ mở tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp Trung ương theo yêu cầu của giám đốc quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam.
- Trong khoảng thời gian từ ngày 25 đến 30 hàng tháng quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam ra lệnh chuyển khoản tiền theo kế hoạch đã định vào tài khoản của Bộ tài chính mở tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước. Bộ Tài chính ghi nợ và tính lãi trả cho Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam.
Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam có trách nhiệm qui định cụ thể số tiền các bưu điện tỉnh, các bưu điện huyện và các bưu cục xã được phép giữ lại để ghi trả cho khách hàng.
Mối quan hệ Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam và các cơ quan quản lý nhà nước:
- Mối quan hệ giữa Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam và Tổng cục Bưu điện: Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của Tổng cục bưu điện trong phạm vi bưu chính và viễn thông.
- Mối quan hệ giữa Quĩ tiết kiệm bưu điện Việt Nam và Bộ tài chính: Hàng năm Bộ Tài chính phối hợp với Tổng cục bưu chính viễn thông Việt Nam xây dựng kế hoạch nhận vốn của Bộ Tài chính, kế hoạch huy động vốn của Quĩ Tiết kiệm Bưu điện Việt Nam. Trong bản kế hoạch phải xác định được số lượng tiền ứng với kỳ hạn sử dụng cần thiết của Ngân sách Nhà nước. Trên cơ sở kế hoạch đã được hai bên nhất trí, Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam phải thực hiện theo kế hoạch về huy động vốn và Bộ Tài chính cũng sử dụng các nguồn vốn tuân theo bản kế hoạch đó, trường hợp đặc biệt có thay đổi kế hoạch thì cần có sự thoả thuận giữa hai bên.
Bộ Tài chính quyết định phương thức lãi suất đối với số vốn Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam chuyển cho Bộ Tài chính theo kỳ hạn.
Bộ Tài chính ban hành chế độ kế toán đối với hệ thống tiết kiệm bưu điện và thực hiện công tác giám sát, kiểm tra các hoạt động huy động và chuyển vốn tiết kiệm bưu điện đối với Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam.
- Mối quan hệ giữa Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước:
Ngân hàng nhà nước thực hiện việc giám sát, kiểm tra lãi suất huy động, thanh toán và chuyển tiền công tác an toàn kho quĩ của toàn hệ thống tiết kiệm bưu điện.
Hiệu quả của giải pháp:
- Đối với nhà nước: Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam có khả năng thu hút một lượng vốn đáng kể trong tầng lớp dân cư đặc biệt là các khoản tiền nhỏ để hình thành một nguồn vốn lớn, một kênh cung cấp vốn ổn định cho việc đầu tư vào các công trình kinh tế quan trọng của đất nước. Dự kiến từ cuối năm 1998 đến năm 2002 Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam có thể cung cấp cho kế hoạch đầu tư của chính phủ số tiền là 45.500 tỷ đồng. Những năm tiếp theo đó số lượng thu hút được dự kiến tăng trung bình 15% năm.
Mặt khác hàng chục triệu người sẽ được tạo điều kiện thuận lợi trong việc gửi tiền tiết kiệm và qua đó giúp họ chi tiêu có kế hoạch hơn, góp phần vào việc
ổn định đời sống của mỗi gia đình. Quĩ tiết kiệm Bưu điện Việt Nam sẽ là người kế toán, người thủ quĩ đang tin cậy của mọi gia đình, góp phần vào chương trình xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước.
Thông qua hệ thống tài khoản tiết kiệm cá nhân và nhờ mạng bưu cục đã được on-line hoá, việc thanh toán trong dân trở nên thuận tiện và phát triển. Điều này sẽ làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông góp phần vào việc ổn định hệ thống tiền tệ của đất nước.
- Đối với ngành bưu điện: Dịch vụ tiết kiệm bưu điện và các dịch vụ tài chính bưu chính sẽ góp phần phát triển và hoàn thiện hệ thống các dịch vụ bưu chính của Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam. Vì các dịch vụ bưu
chính có quan hệ tương hỗ với nhau khá chặt chẽ nên việc phát triển các dịch vụ tiết kiệm bưu điện sẽ thúc đẩy sự phát triển lưu lượng các dịch vụ khác như bưu phẩm, mua hàng qua bưu điện.
Trong giai đoạn tăng tốc vừa qua Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam đã xây dựng được mạng lưới bưu chính viễn thông khá mạnh. Do yêu cầu về phục vụ nên nhiều bưu cục được mở nhưng năng lực còn dư thừa, hiệu quả kinh tế chưa cao, thậm chí còn thua lỗ. Vì vậy việc mở ra các dịch vụ tài chính, bưu chính, đặc biệt là tiết kiệm bưu điện sẽ góp phần đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả của mạng lưới bưu chính viễn thông.
Tổng doanh thu của quĩ tiết kiệm bưu điện Việt Nam được dự tính theo bảng sau:
(Đơn vị: triệu đồng)
1998
1999
2000
2001
2002
Doanh thu
Tiết kiệm
0
72.000
420.000
840.000
1.440.000
Chuyển tiền
0
46.000
53.000
58.300
58.300
Thanh toán
0
10.000
20.000
35.000
55.000
Thu khác
0
7.000
10.000
15.000
25.000
Tổng doanh thu
0
135.000
503.000
948.300
1.578.300
Bàn thêm về điều kiện bảo đảm:
Để triển khai giải pháp trên, theo tôi có nhiều việc phải làm đồng bộ, trong đó quan trọng nhất là:
1. Ngành bưu điện phải tập trung xây dựng mạng lưới các bưu cục với trang thiết bị hiện đại, đủ sức thông tin, truyền dẫn, kết nối toàn ngành, đảm bảo về mặt kỹ thuật.
2. Chuẩn bị nhân lực cho hoạt động này, không chỉ đảm bảo về số lượng (không cần tăng nhiều mà có thể kiêm nhiệm) mà cơ bản là phải đào tạo nghiệp vụ tài chính ngân hàng và phẩm chất đạo đức để hoàn thành nhiệm vụ với lòng tin của quần chúng.
3. Xử lý mối quan hệ có tính cạnh tranh giữa hệ thống tiết kiệm qua bưu điện với các hình thức gửi tiết kiệm, gửi tiền huy động vốn khác sao cho hỗ trợ nhau, thúc đẩy nhau theo hướng dẫn và quản lý chung của nhà nước.
4. Nghiên cứu xác định chế độ trách nhiệm, cách thức phối hợp giữa các ngành có liên quan, chế tài xử lý những phát sinh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền và tập trung được nguồn vốn cho các nhiệm vụ đã được nhà nước hoạch định.
5. Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng các qui định pháp luật về loại hình hoạt động này tuyên truyền sâu rộng trong dân cư, khuyến khích tinh thần dành vốn cho tiết kiệm, cho đầu tư phát triển sản xuất tăng cường các cơ sở xã hội ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
6. Tạo lập một môi trường kinh tế lành mạnh, ổn định nền tài chính tiền tệ đảm bảo an toàn tiền gửi, đảm bảo tiền gửi được sử dụng đúng mục đích và với hiệu quả cao.
Đối với nước ta, việc gửi tiền tiết kiệm qua hệ thống bưu điện còn là mới mẻ, nhưng là một hướng có triển vọng. Trung Quốc đã làm theo kinh nghiệm của Nhật Bản từ 5 năm nay và đã thành công. Ta không thể nóng vội nhưng cần phải khẩn trương chuẩn bị hội đủ các điều kiện để có thể triển khai nhanh chóng.
2) Đối với hình thức tự đầu tư của nhân dân.
Như đã trình bày ở phần trên, vấn đề liên quan chủ yếu đến hình thức từ đầu tư của nhân dân là môi trường đầu tư kinh doanh chưa khuyến khích được
người dân đầu tư. Do đó trong thời gian tới cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư của tư nhân.
Môi trường đầu tư là cả điều kiện vật chất lẫn điều kiện pháp lý.
a. Cải thiện điều kiện đầu tư cần làm tốt và xúc tiến một số công việc sau đây:
- Nhà nước cần có chính sách nhất quán phát triển kinh tế xã hội với sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế. Nhà nước cần có chiến lược huy động vốn cho từng ngành, từng lĩnh vực. Từ đó các nhà đầu tư lựa chọn kế hoạch đầu tư phù hợp với mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Thời gian qua do xây dựng nhiều phương án chưa có căn cứ khoa học, không phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế khiến nhiều công trình bị bỏ dở, lãng phí. Hoặc công trình đã hoàn thành nhưng hoạt động kém hiệu quả.
- Việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền nhằm khuyến khích đầu tư. Những năm qua, lạm phát được đẩy lùi và được kiềm chế nhưng nguy cơ tái lạm phát tiềm ẩn còn lớn. Tốc độ tăng trưởng cao dẫn đến tình trạng quá tải ở một số lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực xây dựng, giao thông, bưu điện... Sự quá tải này gây sức ép tăng gia và dẫn đến lạm phát. Mà lạm phát là yếu tố cản trở việc tính toán chính xác hiệu quả kinh tế từ đó dẫn đến mất an toàn cho đồng vốn bỏ ra kinh doanh. Do đó việc sử dụng tốt các công cụ tài chính tiền tệ để tạo môi trường đầu tư an toàn.
- Xây dựng hoàn thiện các cơ sở hạ tầng để phục vụ cho việc giao lưu hàng hoá, phù hợp với sự nhanh nhạy của kinh tế thị trường. Vấn đề này càng xúc tiến càng nhanh càng tốt vì chính nó đang là yếu tố cản trở lớn đối với đầu tư. Cải thiện môi trường đầu tư ngay bây giờ chính là cải thiện điều kiện của cơ sở hạ tầng.
b. Hoàn thiện môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý phải được hoàn thiện theo hướng vừa thúc đẩy, hỗ trợ, khuyến khích đầu tư kinh doanh, vừa tạo được cơ chế giám sát hữu hiệu đối với hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư.
Để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các nhà đầu tư cần phải có một hệ thống pháp lý đồng bộ nên chúng ta phải hoàn thiện và sửa đổi bổ sung thêm một số luật:
- Luật bảo hộ quyền sở hữu tư nhân
- Luật thương mại
- Luật về ngân hàng và các tổ chức tài chính
- Luật chứng khoán
- Luật chống độc quyền và khuyến khích cạnh tranh.
Trước mắt cần nghiên cứu sửa đổi một số đạo luật liên quan trực tiếp đến đầu tư kinh doanh:
- Sửa đổi bổ sung bộ luật hình sự khắc phục hiện tượng "hình sự hoá" các quan hệ dân sự và kinh tế, tạo môi trường hỗ trợ và khuyến khích các nhà đầu tư chấp nhận rủi ro trong kinh doanh đồng thời nâng cao và phát huy vai trò của Toà án kinh tế trong việc giải quyết các vụ án kinh tế.
- Sửa đổi về cơ bản Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân hiện hành theo hướng đơn giản hoà thủ tục và rút ngắn thời gian thành lập, đa dạng hoá loại hình tổ chức kinh doanh, thiết lập cơ cấu linh hoạt về quản lý công ty, đồng thời tạo điều kiện cho chủ đầu tư, chủ nợ tự bảo vệ được lợi ích của mình, tổ chức đăng ký kinh doanh thống nhất trên phạm vi lãnh thổ toàn quốc, nâng cao vai trò và năng lực của cơ quan quản lý nhà nước trong giám sát thi hành Luật công ty.
c. Thúc đẩy thực hiện luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Việc quốc hội ban hành luật khuyến khích đầu tư trong nước với một số khoản ưu đãi đã có tác dụng nhất định. Tuy vậy tác dụng này còn đang bị hạn chế rất nhiều bởi lẽ mặc dù chính phủ đã ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành, nhưng luật này vẫn cần có thêm nhiều cơ chế chính sách đồng bộ hơn mới thực sự đi vào cuộc sống.
Trước mắt cần xử lý gấp một số vướng mắc liên quan đến Luật khuyến khích đầu tư trong nước như sau.
Về bảo đảm hỗ trợ đầu tư:
- Hỗ trợ về đất đai: Đất đai, mặt bằng sản xuất là khó khăn lớn nhất đối với các nhà đầu tư tại Việt Nam. Hỗ trợ về đất đai cho các nhà đầu tư trước hết là cung cấp mặt bằng cho các nhà đầu tư thuê và sau đó mới là biện pháp miễn giảm bằng thuế. Khó khăn hiện nay của các nhà đầu tư trong việc thuê đất là có quá nhiều các văn bản pháp qui chồng chéo nhau trong lĩnh vực này, là sự chậm trễ của các cơ quan chức năng và những hiện tượng tiêu cực trong quá trình xin thuê đất. Việc tháo gỡ khó khăn này sẽ động chạm đến nhiều qui định pháp lý ở những bộ luật khác, đồng thời lệ thuộc rất nhiều vào tiến độ cải cách thủ tục hành chính của các cơ quan chức năng nhà nước. Như vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan. Đây là vấn đề phức tạp. Vì vậy để có thể tạo ra sự bình đẳng, công khai cho tất cả các nhà đầu tư trong việc thuê đất, Nhà nước cần cho phép và hỗ trợ hình thành một thị trường bất động sản. Nguồn cung trên thị trường này bao gồm diện tích đất chưa được sử dụng, diện tích đất đã được nhà nước giao cho các tổ chức cá nhân nhưng họ cũng có nhu cầu cho thuê tiếp. Nguồn cầu là các nhà đầu tư có nhu cầu tìm kiếm mặt bằng kinh doanh. Cơ chế hoạt động trên thị trường là cơ chế đấu thầu. Việc ưu tiên cho một số dự án đầu tư trong luật này có thể thực hiện thông qua hình thức đấu thầu hạn chế. Để làm được việc này, các địa phương cần sớm xác định quĩ đất chưa sử dụng, đất đang có nhu cầu cho thuê và công bố một cách công khai rộng rãi.
- Hỗ trợ tín dụng: Một trong những khó khăn lớn hiện nay của các doanh nghiệp là thiếu vốn nguyên nhân chính là các doanh nghiệp không có tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn phức tạp, lãi suất cao. Để hỗ trợ các nhà đầu tư trong lĩnh
vực tín dụng, như đối với các dự án được đặc biệt ưu đãi, Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp khuyến khích như hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh và tái bảo lãnh
tín dụng thông qua quĩ bảo lãnh hoặc quĩ hỗ trợ đầu tư quốc gia. Hoạt động này cần phối hợp với các ngân hàng thương mại nhưng không được phép làm ảnh hưởng đến tính tự chủ kinh doanh của ngân hàng.
- Các hình thức hỗ trợ khác: Nhà nước cần hỗ trợ các chương trình, dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ xúc tiến mở rộng thị trường, việc chuyển giao và đổi mới công nghệ.
Về ưu đãi đầu tư:
Các tiêu thức xác định quyền được hưởng ưu đãi: so với các tiêu thức về địa bàn, ngành nghề lĩnh vực tiêu thụ (xuất khẩu) công nghệ và lao động cần bổ sung thêm hình thức đầu tư BOT và BT, ngoài ra cần mở rộng phạm vi địa bàn như khai thác tận dụng đồi núi trọc, kể cả cho các mục đích kinh doanh ngoài trồng rừng và trồng cây lâu năm; đồng thời cũng cần bổ sung thêm cả phạm vi ngành nghề cho cả lĩnh vực dịch vụ phần mềm và cơ sở hạ tầng xã hội. Đối với các dự án ở địa bàn khó khăn, chủ đầu tư được hưởng khoản ưu đãi về tiền thuê đất và thuế đất.
- Các ưu đãi về thuế: Cần có mức thuế ưu đãi nhằm phát triển vùng sâu vùng xa.
Để khuyến khích các doanh nghiệp xâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu, ngoài những biện pháp tín dụng như đã trình bày ở trên, trong việc miễn thuế xuất nhập khẩu cần đưa ra thêm các biện pháp khác như hoàn lại thuế giá trị gia tăng (luật là được giảm mức thuế doanh thu); tính gấp đôi các chi phí tham gia triển lãm và ký kết hợp đồng trong hạch toán giá thành; khấu hao nhanh nhằm giúp doanh nghiệp xuất khẩu có điều kiện thu hồi vốn nhanh, đổi mới công nghệ và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Những biện pháp này được gắn với những điều kiện ràng buộc như tỷ lệ sản phẩm xuất
khẩu và gắn với giới hạn ưu đãi nhằm tránh hiện tượng lạm dụng ưu đãi, bảo đảm nguồn thu thuế thu nhập.
d. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý xuất nhập khẩu:
Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu cần tiếp tục đổi mới theo hướng:
- Khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh, chuẩn bị điều kiện hội nhập AFTA và WTO, tạo môi trường kinh doanh để các nhà đầu tư trong nước chủ động tập dượt, sẵn sàng hội nhập thành công về kinh tế.
- Thực hiện từng bước nguyên tắc tự do kinh doanh, bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, định rõ danh mục những sản phẩm được bảo hộ, thời gian bảo hộ, công cụ và mức bảo hộ.
- Đối với hạn ngạch xuất khẩu, áp dụng đấu thầu công khai để bảo đảm công bằng, bình đẳng và hiệu quả.
e. Tổ chức thực hiện:
Để tổ chức thực hiện việc hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh đòi hỏi phải có sự phối hợp chung giữa các bộ các ngành nhằm thực hiện có hiệu quả. Cụ thể:
- Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ tri:
+ Xây dựng qui chế về khuyến khích tư nhân trong nước đầu tư phát triển kinh tế hạ tầng theo hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao.
+ Nghiên cứu sửa đổi bổ sung các qui định chi tiết thi hành luật khuyến khích đầu tư trong nước và thực hiện các công việc có liên quan trong việc nâng cao hiệu lực của luật.
+ Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật về chống độc quyền.
-Bộ tài chính chủ trì: xây dựng cải cách hệ thống thuế.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo Luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
- Bộ Tư pháp: Tập hợp đánh giá lại toàn bộ văn bản pháp luật về đầu tư kinh doanh trên, tổ chức cải thiện một cách cơ bản môi trường pháp lý để đầu tư kinh doanh.
Kết luận
Huy động vốn vào đầu tư phát triển kinh tế xã hội là một nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Làm thế nào để huy động vốn cho đầu tư, làm đòn bẩy cho nền kinh tế phát triển là một bài toán khó. Đặc biệt là việc giải quyết tốt việc huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư là vấn đề hết sức quan trọng cần được coi là nền tảng trong sự phát triển ổn định, liên tục và lâu dài với tốc độ nhanh. Nếu xem nhẹ vốn và các khả năng huy động vốn thì mọi nỗ lực phấn đấu cho tăng trưởng kinh tế chỉ đem lại một kết quả hết sức hạn chế, thậm chí là nguyên nhân đưa đến khủng hoảng kinh tế. Bởi vì bất cứ một giải pháp nào trong việc huy động vốn nhàn rỗi của dân cư cũng cần một loạt các giải pháp đi kèm có ý nghĩa như một “liều thuốc giải” để tránh những cú sốc mạnh gây bất lợi cho nền kinh tế. Đồng thời, khi sử dụng các biện pháp huy động vốn trong dân cũng cần tránh những giải pháp về tiền tệ tín dụng hay ngân sách cứng nhắc nhất thời, có thể kiềm chế lạm phát nhưng lại làm chậm đà tăng trưởng kinh tế, có thể làm lỡ thời cơ rút ngắn khoảng cách tụt hậu của đất nước so với nhiều nước trong khu vực. Tuy nhiên, tất cả những vấn đề này lại khó có thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ một bài viết. Hy vọng vấn đề này được các nhà khoa học và quản lý quan tâm, tiếp tục nghiên cứ để làm rõ dưới mọi góc độ nhằm giúp cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế của Việt Nam sớm gặt hái được những thành quả to lớn hơn.
Hà Nội tháng 6/1998
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
2. Chính sách và biện pháp huy động các nguồn vốn (thông tin chuyên đề của Bộ Kế hoạch Đầu tư)
3. Vốn trong quá trình tăng trưởng kinh tế cao ở Nhật Bản (PTS Vũ Bá Thể)
4. Tích tụ và tập trung vốn trong nước (Trần Xuân Kiên)
5. Sử dụng công cụ tài chính tiền tệ để huy động vốn cho đầu tư phát triển (PTS Nguyễn Đình Tài)
6. Vốn trong dân - nguồn và giải pháp huy động (Trần Đào - Báo đầu tư năm 1996)
7. Vốn trong dân - một nguồn lực quan trọng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Đinh Xuân Hạ - Tạp chí nghiên cứu kinh tế 7/1997)
8. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ
9. Tạp chí kinh tế và dự báo
10. Tạp chí cộng sản
Mục lục Trang
lời nói đầu 1
Phần I
Vốn với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
I. Vốn là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế xã hội 3
1. Khái niệm về vốn sản xuất và vốn đấu tư 3
2. Vồn đầu tư và vốn sản xuất với tăng trưởng và phát triển kinh tế 5
II. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư với mục tiêu tăng
trưởng kinh tế 11
1. Khái niệm về tiết kiệm 11
2. Khái niệm về đầu tư 14
3. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư trong tổng sản phẩm
quốc dân với mục tiêu tăng trưởng kinh tế 16
III. Vốn trong dân với tăng trưởng và phát triển kinh tế 21
Phần II
Khả năng vốn trong dân và tình hình huy động vốn trong dân
vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
I. Khả năng vốn trong dân 25
1. Đánh giá về nguồn vốn trong dân 25
2. Hướng sử dụng vốn trong dân 26
II. Tình hình huy động vốn trong dân thời gian qua 29
1. Tình hình huy động đầu tư gián tiếp của dân thông qua
các tổ chức tài chính tín dụng 29
2. Tình hình dân cư tự đầu tư 32
3. Nguyên nhân của những tồn tại trong việc huy động vốn 36
Phần III
Một số kiến nghị và giảp pháp nhằm huy động vốn trong dân
phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế
I. Những mục tiêu lớn cho giai đoạn 1996 - 2000 và dự tính việc
huy động vốn để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế 39
1. Những mục tiêu phát triển lớn của giai đoạn 1996 - 2000 39
2. Những hướng ưu tiên đầu tư trong thời kỳ 1996 - 2000 40
3. Nhu cầu đầu tư và phương hướng huy động vốn đầu tư
trong giai đoạn 1996 - 2000 42
II. Một số kiến nghị và giải pháp huy động vốn trong dân 44
1. Đối với nguồn tiết kiệm trong dân cư 44
a. Kiến nghị nhằm xây dựng mức lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý 44
b. Giải pháp huy động tiết kiệm thông qua quĩ tiết kiệm bưu điện 45
2. Đối với hình thức tự đầu tư của nhân dân 54
kết luận 61
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6714.doc