- Lựa chọn chiến lược và thời điểm để tiến hành mua lại rất quan trọng vì nó quyết định sự thành công và giá mua. Để mua lại hiệu quả nhất, công ty đi mua phải thuyết phục công ty mục tiêu là mua lại sẽ đem lại lợi ích cộng hợp lớn hơn vì các công ty này thường muốn bảo vệ các cổ đông cũng như nhân viên của họ. Ví dụ như Philip Morris mua lại Miller năm 1969 thành công nhờ Philip có lợi thế về Marketing trong khi Miller yếu về mặt này. Còn nếu không có sự đồng thuận của đối tác, cuộc mua lại sẽ rất khó và giá cũng sẽ rất cao. Các công ty ở Việt Nam có lợi thế về nguồn lao động rẻ và thị trường tiêu thụ tiềm năng tương đối lớn sẽ là lợi thế để có thể tạo nên lợi ích cộng hợp.
- Vấn đề khó khăn cuối cùng là sự hợp nhất của hai công ty. Sự hợp nhất phải bảo đảm được sự cộng hợp để duy trì lợi thế cạnh tranh trong các lĩnh vực như tài chính, sản xuất, nghiên cứu và phát triển hay quản lý. Công ty mẹ ở Việt Nam càng khó khăn hơn vì kiến thức quản trị cũng như kinh nghiệm kinh doanh quốc tế vẫn còn yếu, và đặc biệt và vấn đề văn hóa doanh nghiệp vẫn còn khá mới mẽ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên nếu các công ty có thể sử dụng lực lượng Việt kiều thì vấn đề khó khăn về nhân sự sẽ được giảm đi đáng kể.
Với quy định hiện nay, con đường thuận lợi hơn cả cho các nhà đầu tư Việt Nam có lẽ là liên kết với các DN của người Việt Nam đang làm ăn để mở rộng, tái đầu tư hoặc mua cổ phần hoặc liên kết với DN của bạn để phối hợp làm ăn thay vì tự mình bắt đầu.
Và dù lựa chọn hình thức đầu tư nào, thì các DNVN cần liên hệ với Việt kiều ở các nước để thu thập thông tin và xin tư vấn để đầu tư vào lĩnh vực và sản phẩm phù hợp
Ngoài ra, các DNVN cần liên hệ chặt chẽ với các Đại sứ quán, Cơ quan Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài để xin cung cấp thông tin và tư vấn trước khi quyết định ĐTTT tại một nước.
Tóm lại, mặc dù có khá nhiều trở ngại các DN Việt Nam cần phải vượt qua, nhưng để nâng cao vị thế trên thị trường trong và ngoài nước. Các công ty cần có sự chuẩn bị và chiến lược để có thể bắt đầu tham gia vào xu hướng của thế giới.
83 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm khuyến khích – thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghị định; đã ban hành Luật đầu tư ra nước ngoài là một chương trong Luật đầu tư...Song, Nhà nước vẫn cần tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN hơn nữa, cần có những cải thiện về môi trường pháp lý cũng như giới thiệu môi trường và cơ hội đầu tư kinh doanh cho doanh nghiệp Việt Nam ở các nước đối tác chiến lược.
Thế mạnh của Việt Nam là các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, trồng cao su, khai thác khoáng sản, dầu khí; sản xuất chế biến hàng gia dụng, vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, để tận dụng những thế mạnh đó, cần có môi trường pháp lý mở cửa và ổn định, cơ chế thông thoáng khuyến khích, tạo thuận lợi cho các DN, bởi hiện nay các cơ chế chính sách cho hoạt động ĐTRNN đang còn nhiều bất cập, chưa thực sự khuyến khích các DN ĐTRNN. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách ĐTRNN là đòi hỏi tất yếu và cần tạo môi trường ph áp lý ổn định, bằng cách rút ngắn thời gian, quy trình thẩm định cấp phép đầu tư; mở rộng đối tượng, cho phép tất cả các thành phần kinh tế đều có thể tham gia đầu tư ra nước ngoài. Cần có quy định cụ thể, một đầu mối trong việc cấp phép đầu tư, chuyển tiền đầu tư ra nước ngoài, chuyển lợi nhuận về nước. Bên cạnh đó cũng cần khuyến khích các doanh nghiệp có dự án đầu tư ở nước ngoài sử dụng lao động và nguyên vật liệu đưa từ trong nước ra.
Trước hết, cần xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật như liên quan đến các DN (luật Doanh nghiệp); liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài (chương quy định về luật đâu tư ra nước ngoài nằm trong luật đầu tư); liên quan đến hoạt động tín dụng cho vay ngoại tệ của các ngân hàng và các TCTD; liên quan đến thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục xuất cảnh...Chính phủ cần điều chỉnh để có sự thống nhất đồng bộ giữa các điều khoản trong các luật; tránh tình trạng như hiện nay nhiều dự án phải thông qua nhiều ngành, nhiều cơ quan khác nhau; mà giữa các cơ quan này thực hiện theo các Luật khác nhau (Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật đầu tư, Quy định của Ngân hàng Nhà nước, Luật về Ngân hàng – Tài chính, Luật xuất nhập khẩu,...); trong đó các luật này lại không có sự đồng bộ; khiến nhiều dự án thông qua ở cơ quan này nhưng vẫn chưa thực hiện được do bị vướng mắc ở cơ quan khác. Vì thế, cần phải nhanh chóng giải quyết những mâu thuẫn giữa các Luật, xây dựng hành lang pháp lý đồng bộ điều chỉnh hoạt động kinh tế mới này. Có thể bằng cách các văn bản quy phạm pháp luật cần rõ ràng, ngắn gọn, minh bạch và phải lượng hoá được các chỉ tiêu cần thiết, tránh đưa ra quá nhiều quy định mang tính định tính gây phiền phức khi xét duyệt giấy phép đầu tư và tạo cơ hội cho những tiêu cực nảy sinh.
Tiếp đó, việc quản lý nguồn ngoại tệ là cần thiết nhưng thủ tục chuyển tiền phải nhanh và thoáng, nếu có thể nên gói gọn ngay trong giấy phép đầu tư. Khi DN cầm được giấy phép đầu tư là đã có thể chuyển được tiền ra nước ngoài. Một khi DN phải chờ đợi thủ tục quá lâu sẽ vuột mất nhiều cơ hội đầu tư.
Đơn giản hoá thủ tục đăng ký và cấp giấy phép cho các dự án đầu tư ra nước ngoài, tiến tới bỏ hình thức cấp giấy phép, chuyển sang đăng ký đầu tư. Có thể bỏ qua việc đòi hỏi các DN chứng minh nguồn tài chính, bỏ qua việc đòi hỏi phải giải trình chi tiết ra nước ngoài sử dụng số tiền đó vào việc gì. Linh hoạt hơn trong việc đòi hỏi về tổng VĐT các dự án ĐTRNN của DNVN, không nhất thiết các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, tài chính, tín dụng, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có sử dụng vốn nhà nước phải thoả mãn điều kiện từ 150 tỷ VNĐ trở lên; hay vốn của các thành phần kinh tế từ 300 tỷ VNĐ trở lên; cũng như các dự án không thuộc các lĩnh vực trên, nhưng có sử dụng vốn của Nhà nước từ 300 tỷ VNĐ trở lên, hoặc vốn của các thành phần kinh tế khác từ 600 tỷ VNĐ trở lên; thì mới được chấp nhận đầu tư. Vì vấn đề quan trong là ý tưởng kinh doanh và huy động vốn vào hoạt động vủa mình có hợp pháp hay không...Mà thực tế thì các DNVN khi ĐTRNN hoạt động theo luật pháp của nước sở tại nên cơ quan quản lý trong nước không cần phải với tay tới. Như vậy là đã vô hình chung gây cán trở việc thực hiện ĐTRNN của các DN trong nước khi họ có ý tưởng hay, khi họ tìm được kẽ hở từ thị trường nước ngoài nhưng không được thực hiện do không phải là lĩnh vực lớn vì thế không nhất thiết cần đến tổng nguồn VĐT lớn như trong quy định của Nghị định 78. Vậy nên, thông thoáng hơn trong các chính sách ĐTRNN, tránh “gò bó” điều kiện được thực hiện dự án, sẽ tạo điều kiện thì các DNVN ra nước ngoài mới tự tin "ra biển lớn".
Nâng cao tinh thần trách nhiệm trong xử lý công việc của các nhà chức trách, có thẩm quyền liên quan đến khâu thẩm định cấp giấy phép cho các dự án ĐTRNN; nhằm rút ngắn thời gian hoặc chí ít cũng tuân theo đúng khoảng thời gian luật định; tránh tình trạng chậm trễ so với thời gian luật định.
Như vậy, cần phải tháo các "nút thắt" về thủ tục, hoàn thiện hệ thống cơ cấu, chính sách, xây dựng hành lang pháp lý đồng bộ...để DNVN thuận lợi hơn trong việc vươn ra nước ngoài mở rộng thị trường, giảm chi phí và khẳng định tên tuổi của mình trên trường quốc tế.
3. Ban hành các chính sách ưu đãi, khuyến khích hoạt động ĐTTT ra nước ngoài
Hiện nay, nước ta mới chỉ có Nghị định quy định về Đầu tư ra nước ngoài, các thông tư, quyết định liên quan, song nhìn chung cũng chỉ là đưa ra các quy định về thủ tục, về pháp luật mà các DN khi tiến hành ĐTRNN phải tuân theo; chứ thực sự vẫn chưa có một văn bản chính thức nào khuyến khích hoạt động ĐTTT ra nước ngoài. Chính vì vậy, Nhà nước cần tiếp tục thực hiện và phát huy mặt tích cực của một số chính sách ưu đãi đã và đang áp dụng trong thời gian qua đối với các DNVN ĐTRNN như: Xây dựng danh mục dự án đặc biệt khuyến khích và khuyến khích đầu tư ra nước ngoài với các hình thức ưu đãi phù hợp, đặc biệt là chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, ngoại hối.
Thứ nhất, chính sách thuế:
Thuế là công cụ tài chính số một có tác động đến khả năng tạo lợi nhuận của dự án đầu tư, do thuế ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, đến khả năng sinh lời của đồng vốn và đến khả năng tái đầu tư của các DN.
Trong Nghị định 78/2006/NĐ-CP (Văn bản pháp luật mới nhất quy định về ĐTTT ra nước ngoài đối với các DNVN); tại điều 27: Nghĩa vụ tài chính có quy định “...2. Trường hợp dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư thì mức thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam đối với phần lợi nhuận chuyển về nước được áp dụng như mức thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng đối với dự án đầu tư trong nước cùng lĩnh vực đầu tư.
Trường hợp nước tiếp nhận đầu tư là quốc gia hoặc thuộc vùng lãnh thổ đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam thì nghĩa vụ về thuế của nhà đầu tư đối với Nhà nước Việt Nam thực hiện theo quy định của Hiệp định đó.
Trường hợp nước tiếp nhận đầu tư là quốc gia hoặc thuộc vùng lãnh thổ chưa ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam thì khoản thuế thu nhập doanh nghiệp đã được nộp ở nước tiếp nhận đầu tư sẽ được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam.
Việc miễn thuế xuất khẩu đối với tài sản mang ra nước ngoài để triển khai dự án đầu tư thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.”
Ta thấy rằng, quy định như vậy chỉ đơn thuần là đảm bảo sự công bằng giữa các DN hoạt động kinh doanh sản xuất trong nước với các DNVN đem vốn ĐTRNN (tránh đánh thuế hai lần, miễn thuế xuất khẩu tài sản mang đi đầu tư, miễn thuế nhập khẩu và không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT khi nhập khẩu trở lại...); chứ thực sự chưa có gì là khuyến khích, là ưu tiên hơn so với các DN trong nước ở mức bình thường. Mà ta biết rằng, các DN chỉ ĐTRNN khi kỳ vọng vào tỷ suất lợi nhuận sau khi đã trừ đi các tác động có thể có của các rủi ro thì vẫn lớn hơn tỷ suất lợi nhuận đầu tư ở trong nước. Chính vì thế, để thúc đẩy các DNVN đầu tư nhiều hơn nưa ra thi trường thế giới, Nhà nước cần phải thay đổi chính sách thuế áp dụng đối với các DN ĐTRNN, tạo cở sở, điều kiện tốt hơn, ưu tiên hơn về nghĩa vụ tài chính đối với các nhà đầu tư như:
Áp dụng các mức thuế suất ưu đãi hơn cho các dự án thuộc Danh mục các lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích ĐTRNN; Ưu đãi về khoản thời gian miễn, giảm thuế. Đây là khoảng thời gian rất có ý nghĩa đối với các DN trong bước đầu triển khai dự án; là điều kiện cần thiết để các dự án có thể tồn tại và tăng trưởng trong tương lai.
Không đánh thuế nhập khẩu đối với các mẫu vật, tài liệu kỹ thuật... nhập khẩu nhằm mục đích nghiên cứu, phân tích, phục vụ cho việc thực hiện dự án ĐTRNN; đồng thời, không tính vào đối tượng chịu thuế GTGT
Nếu DN sử dụng lợi nhuận thu được để tái đầu tư ở nước ngoài thì Nhà nước phải hoàn lại số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp đối với khoản thu của dự án.
Thứ hai, chính sách ngoại hối, tín dụng
Thông tư số 10/2006 – NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn các TCTD cho khách hàng vay vốn để ĐTRNN đã thông thoáng hơn trước rất nhiều trong việc cho vay tín dụng cũng như các tục chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để tiến hành đầu tư đã đỡ rườm rà và phức tạp hơn nhiều. Song thực tế muốn thúc đẩy hơn nữa hoạt động ĐTTT ra nước ngoài của các DNVN có đủ lực thì các chính sách về ngoại hối, tín dụng cần ngắn gọn, thông thoáng hơn nữa; Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVN ĐTRNN. Chẳng hạn như:
Tiếp tục nới lỏng và tự do hoá trong chính sách quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối. Bằng hình thức có thể là giảm dần, hoặc loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước; Hay như bỏ qua các thủ tục, các quyết định quản lý ngoại hối mang tính chất hành chính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tạo điều kiện dễ dàng cho các DNVN mua ngoại tệ, hay chuyển ngoại tệ có liên quan đến hoạt động ĐTRNN của Việt Nam; đặc biệt đối với những dự án nằm trong Danh mục khuyến khích và đặc biệt khuyến khích.
Cho phép các DNVN mở tài khoản ở nước ngoài để thuận tiện việc trang trải các nhu cầu về ngoại tệ của DN.
Phát triển thị trường ngoại hối đáp ứng nhu cầu ngoại tệ, Nhà nước cần đưa ra một số chính sách hạn chế rủi ro tỷ giá hối đoái, hoặc chính sách hỗ trợ cho các DN khi tỷ giá hối đoái biến động lớn trên thị trường (rủi ro tỷ giá hối đoái xảy ra).
Các TCTD cần nới lỏng điều kiện cho vay tín dụng đối với các DN vay vốn để ĐTRNN; các thủ tục cho vay tránh rườm rà, phức tạp. Tạo điều kiện thuận lợi cho các DN tiếp cận dễ dàng nguồn vốn tín dụng bằng cách giữ lãi suất ổn định ở mức hợp lý, đa dạng hoá các hình thức vay vốn như bảo lãnh tín dụng.
Thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ các DN tiếp cận các khoản vay từ các TCTD thông qua bảo lảnh; cho phép DN ĐTRNN huy động và luân chuyển vốn trên thị trường tài chính, thị trường chứng khoán...
Ngoài ra, hiện nay bản Đề án khuyến khích đầu tư ra nước ngoài do Bộ Kế hoạch - Đầu tư xây dựng đã hoàn thành và đang trình Chính phủ. Đề án này cụ thể hoá các chính sách khuyến khích đầu tư như: khuyến khích đầu tư vào các địa bàn nào, các quốc gia, lãnh thổ nào; khuyến khích đầu tư và đặc biệt khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nào, ngành nghề nào; truyền thống hay lĩnh vực mới, có lợi thế... Điều này là vô cùng quan trong khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO được hơn một năm. Vì vậy, Chính phủ cần nhanh chóng thông qua Đề án khuyến khích này và cộng với những chính sách khuyến khích riêng của Chính phủ mới có thể thúc đẩy xu hướng ĐTRNN của DN Việt Nam ngày càng thêm sôi động.
4. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ và tư vấn cho các DN thực hiện ĐTTT ra nước ngoài
Về mặt tổ chức:
Thành lập các bộ phận chuyên trách đảm nhận việc quản lý hoạt động đầu tư của Việt Nam ở nước ngoài. Bộ phận này có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất những văn bản, quy định pháp lý liên quan đến hoạt động ĐTRNN. Đồng thời cũng là đầu mối giải quyết những vướng mắc mà các DN gặp phải khi tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
Thành lập Hiệp hội ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam để bảo vệ quyền lợi và giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam giải quyết các vướng mắc trong quá trình sản xuất kinh doanh ở nước ngoài. Hiệp hội trở thành cầu nối giữa Chính phủ Việt Nam cũng như Chính phủ các nước nhận đầu tư với DN và sẽ là tổ chức xúc tiến đầu tư hiệu quả nhất.
Thành lập quỹ hỗ trợ ĐTRNN của Việt Nam nhằm tài trợ tài chính cho các dự án ĐTTT ra nước ngoài, bảo đảm lợi ích và bảo vệ các DN trước những rủi ro về chính trị hoặc các rủi ro khác mà các công ty bảo hiểm thông thường không thể cung cấp các dịch vụ đó được.
Chính phủ giao cho các đại sứ quán, lãnh sự quán và phòng thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tạo điều kiện cao nhất, toàn diện hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến hành các dự án ĐTTT ở nước ngoài. Quán triệt quan điểm gắn kết ngoại giao với kinh tế. Cụ thể về các khia cạnh như cung cấp hộ chiếu, vía, thông tin thị trường, tư vấn pháp lý, thậm chí bảo lãnh pháp lý và xun phaép nước sở tại được thành lập hiệp hội DNVN...Coi đó là một nhiệm vụ bắt buộc đối với các cơ quan này.
Tổ chức các đoàn công tác với sự tham gia của các chuyên gia trên tất cả các lĩnh vực: Luật pháp, kinh tế, tài chính, cùng với các doanh nhân... đi thăm dò, tìm hiểu khai thác tình hình thực tế các nước trong khu vực và trên thế giới, tìm kiếm cơ hội đầu tư theo từng lĩnh vực, ngành nghề, sau đó về phổ biến cho các DN trong nước. Đây cũng sẽ là một hình thức xúc tiến đầu tư mang lại hiệu quả cao, vì các thông tin về môi trường đầu tư được đưa ta từ các chuyên gia hàng đầu trên các lĩnh vực liên quan đến đầu tư và xuất phát từ thực tế của từng nước nhận đầu tư.
Cần có một cơ quan chuyên môn hỗ trợ các DNVN khi ĐTRNN, tập trung hỗ trợ để DNVN có thể khẳng định được tên tuổi ở các nước.
Về mặt cơ chế, chính sách:
Cần tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư trên tầm vĩ mô, trước hết là ở các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh. VN cần thay đổi cách làm. Các cuộc xúc tiến đầu tư, tìm hiểu thông tin không nên chỉ dừng lại ở mục đích... tham quan mà cần thật sự hiệu quả. Cần phải qui định rõ trách nhiệm mới tốt được. Kinh phí xúc tiến đầu tư tốt nhất nên chuyển trực tiếp cho DN hoặc các hiệp hội chứ không nên dành cho quan chức, công chức. Bởi đã có nhiều cuộc xúc tiến lớn, tai nghe mắt thấy tay sờ nhưng DN thì chẳng có lợi gì.
Tăng cường cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho các DN có nguyện vọng ĐTTT ra nước ngoài. Ví dụ như tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa Chính phủ với các DN có dự án ĐTTT ở nước ngoài; với Chính phủ sở tại để giải quyết các bất cập của các DN trong quá trình ĐTRNN. Thậm chí Chính phủ có thể đi trước mở đường bằng các hiệp định bảo hộ đầu tư, chống đánh thuế hai lần... tạo thuận lợi cho DN vì suy cho cùng, dù làm ăn ở đâu thì lợi nhuận cũng được chuyển về công ty mẹ. Hàn Quốc còn coi DN ĐTRNN là thực hiện sứ mạng lịch sử của quốc gia. Họ chuyển sản xuất ra ngoài lãnh thổ để trong nước phát triển dịch vụ. Đó là cách giải quyết môi trường tốt nhất. Vì vậy Việt Nam nên theo hướng khuyến khích ĐTTT ra nước ngoài và nó phải song hành với khuyến khích thu hút FDI.
Nhà nước phải tăng cường hỗ trợ và tư vấn cho các cá nhân và doanh nghiệp tiến hành ĐTTT ra nước ngoài; Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực FDI. Chẳng hạn như tăng cường đàm phán và ký kết nhiều văn bản pháp luật song phương và đa phương (như các Hiệp định đầu tư đa phương, khu vực và Hiệp định đầu tư song phương (BIT) với các đối tác chủ yếu) để tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các DNVN nhằm tăng cường thúc đẩy cũng như bảo vệ được lợi ích của các DNVN khi ĐTRNN. Ví dụ như: Ký kết hiệp định và thoả thuận hợp tác như Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư; Hiệp định Tránh đánh thuế 2 lần (1996); Hiệp định khung thành lập Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) tháng 10/1998; Thoả thuận tạo điều kiện thuận lợi cho người, hàng hoá, phương tiện thúc đẩy đầu tư thương mại năm 1999 (Thoả Thuận Cửa Lò 1999) và được sửa đổi, bổ sung năm 2002 (Thoả thuận Viêng Chăn 2002), Hiệp định về hợp tác lao động, Hiệp định năng lượng-điện, Hiệp đinh chung về thương mại dịch vụ (GATS) điều chỉnh một số trường hợp về đầu tư, tuy định mô hình quan trọng cho việc điều tiết các vấn đề FDI; Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIM);...
Trong đó, đặc biệt cần tiếp tục tăng cường, đẩy mạnh việc đàm phán ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời xúc tiến nhanh việc thực thi các hiệp định đã được ký kết, đưa các hiệp định này vào cuộc sống; nâng cao hiệu quả triển khai các Hiệp định đã ký kết trong thực tiễn để hỗ trợ các DNVN ĐTRNN. Hiệp định tránh đánh thuế hai lần có tác dụng lớn tạo điều kiện cho các ưu đãi thuế của Việt Nam phát huy hiệu quả khuyến khích đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Việc ký kết và thực thi các hiệp định này sẽ hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của việc thu thuế trùng, khuyến khích dòng luân chuyển vốn quốc tế; nâng cao được cả tính quốc tế của thuế Việt Nam và dần bổ sung cho công cuộc cải cách thuế của Việt Nam đạt hiệu quả cao hơn. Chính phủ Việt Nam cần:
Xác định rõ nước cần ký kết. Tập trung đàm phán ký kết Hiệp định với các nước có mối quan hệ kinh tế - đầu tư với Việt Nam, hoặc có tiềm năng phát triển mạnh trong thời gian tới.
Nâng cao trình độ chuyên môn và củng cố kinh nghiệm của cán bộ tham gia đàm phán. Những người tham gia đàm phản phải hiểu biết về các mẫu Hiệp định, các điều khoản và các khía cạnh pháp lý của chúng; hiểu rõ quan hệ kinh tế - đầu tư hiện tại và triển vọng trong tương lai giữa Việt Nam và nước ký kết; thông thạo ngoại ngữ quốc tế đặc biệt là Tiếng Anh.
Tăng cường triển khai các hiệp định đã ký kết. Tăng cường trao đổi thông tin giữa Việt Nam với các nước ký kết để nâng cao hiệu quả thi hành của Hiệp định.Tuyên truyền và giáo dục cho các DN hiểu biết về các Hiệp định (đặc biệt là Hiệp định tránh đánh thuế hai lần) để DNVN có cơ hội tận dụng các ưu đãi đã được ký kết.
Tham gia đầy đủ các Công ước quốc tế liên quan đến đầu tư nước ngoài như: Công ước Washinhton năm1965, Công ước liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ. Hiệp định về các vấn đề thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)...Đàm phán với Chính phủ các nước đối tác về các thủ tục xuất nhập cảnh, tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ việc chuyển nhân lực, lao động trong nước sang các nước tiếp nhận đầu tư...
Chính phủ cần có những Hội nghị thúc đẩy đầu tư giữa nước ta và các nước tiếp nhận đầu tư. Ví dụ như hội nghị thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài giữa Việt Nam-Lào, ngày 18/6/2007, Uỷ ban Kế hoạch và Đầu tư Lào cho biết Việt Nam hiện có 65 doanh nghiệp đầu tư sang Lào, với tổng vốn hơn 460 triệu USD, là nước đầu tư lớn thứ 3 thế giới vào Lào
Nếu có những dự án tốt, phù hợp nhưng DN thiếu vốn thì Nhà nước cần thiết phải có chính sách hỗ trợ, như cho vay vốn ưu đãi.
Ngoài ra, cần có chính sách phát triển các dịch vụ tài chính – ngân hàng như dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, bảo hiểm, bảo lãnh tín dụng, dịch vụ hỗ trợ tư pháp và hướng dẫn các thủ tục đăng ký đầu tư ở từng thị trường nước ngoài.
Về mặt thông tin:
Trong các biện pháp hỗ trợ, đơn giản và thường xuyên nhất là hỗ trợ thông tin. Thông tin phải kịp thời, chính xác, cụ thể chứ không phải chung chung. Nhưng trước đó, cần có cấp đàm phán, thực thi các hiệp định để bảo vệ con người và tài sản doanh nhân. Tránh trường hợp như vụ Tanzania bắt tàu VN. Ngay như thông tin, DN trong nước cũng thiếu chứ chưa nói khi đã ra nước ngoài. Rủi ro vì thế rất cao.
Hoặc là cung cấp các thông tin cần thiết như quan hệ cung cầu hàng hoá, triển vọng phát triển của thị trường nước ngoài, môi trường đầu tư của nước sở tại, thông tin về đối tác đầu tư và các cơ hội đầu tư tốt.
Tổ chức các hội chợ, triển lãm, quảng cáo, tham quan thị truờng, làm trung gian cho các cuộc tiếp xúc giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác tiềm năng.
5. Nâng cao năng lực quản lý của nước ta đối với hoạt động ĐTTT ra nước ngoài
Ta cũng biết việc quản lý hoạt động ĐTTT ra nước ngoài của các DN hiện nay còn khá lỏng lẻo và gặp nhiều khó khăn. Cần nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước đối với các dự án tiến hành tại các quốc gia khác. Trước hết là để nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVN tại nước ngoài, vừa là để có thể nắm bắt các khó khăn mà DN vướng mắc trong quá trình đầu tư, để Chính phủ và các cơ quan chức năng có thế đưa ra những điều chỉnh, bổ sung những chính sách phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa thúc đẩy hoạt động ĐTRNN của các DNVN. Mặt khác, việc nâng cao quản lý cũng nhằm mục đích hạn chế các hoạt động, các giao dịch bất chính, gây thất thoát ngoại tệ của đất nước; giám sát tiến trình sản xuất kinh doanh của các DN nhằm tránh việc lợi dụng khoảng cách về địa lý, khó khăn trong quản lý để có những hành vi tham ô, tham nhũng...gây nguy hại cho DN cũng như cho nền kinh tế nước ta.
Để việc quản lý hoạt động ĐTRNN của Việt Nam được tốt hơn ngoài những việc hiện nay đã và đang thực hiện, có thể kiến nghị thêm một số giải pháp như:
Thành lập hẳn một cơ quan có nhiệm vụ giám sát hay bộ phân chuyên trách đảm nhận công tác quản lý các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các DNVN. Với mục đích là nhằm giám sát, điều phối các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các DN; từ đó đề xuất các phương án xây dựng, điều chỉnh và đề xuất những văn bản, quy định pháp lý liên quan đến hoạt động ĐTRNN; giúp các DN tránh khỏi những rủi ro do thiếu hiểu biết hoặc quá liều lĩnh; hạn chế tệ nạn tham nhũng, gây thất thoát ngoại tệ. Đồng thời, là cơ quan đầu mối giải quyết các vướng mắc mà các DN gặp phải khi tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
Thành lập đoàn khảo sát tại chỗ ở các nước tiếp nhận đầu tư để đánh giá sâu và chính xác hiệu quả hoạt động ĐTRNN
Thiết lập mối liên hệ thân thiết, gần gũi hơn nữa giữa các cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ, tham tán của Việt Nam ở nước ngoài với các DNVN, để hỗ trợ kịp thời các DNVN khi gặp khó khăn, giải quyết kịp thời các tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư...Yêu cầu các cơ quan này có báo cáo định kỳ về chính sách và cơ hội đầu tư của nước sở tại.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên có những chính sách, quy định rõ ràng trong việc khen thưởng và kỷ luật đối với các DN ĐTRNN. Nếu DN có thành tích tốt khi hoạt động đầu tư tại các quốc gia khác, mang về các nguồn lợi nhuận đáng kể cho nền kinh tế trong nước, nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước thì nên có những khen thưởng xứng đáng; nhẳm khuyến khích những DN này và tạo động lực khuyến khích các DN khác đang đề xuất các dự án ĐTRNN. Song song với đó là các biện pháp kỷ luật cứng rắn, xử lý nghiêm khắc đối với những DN mà không tuân theo luật định như: chậm trễ trong việc báo cáo kết quả kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư; thời gian giải ngân quá chậm trễ; không tuân theo thủ tục chuyển ngoại tệ, lợi nhuận kinh doanh về nước; có biểu hiện tham ô, gian lận gây thất thoát ngoại tệ...
Nói tóm lại, song song với việc thiết lập và mở rộng các mối quan hệ hữu nghị, tốt đẹp, thân thiết với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, muốn thúc đẩy hơn nữa hoạt động ĐTTT ra nước ngoài của các DNVN thì việc đưa ra các quy định, các chính sách thông thoáng, thủ tục ngắn gọn, các chính sách hỗ trợ, ưu đãi, khuyến khích việc ĐTRNN của Nhà nước, của Chính phủ là vô cùng quan trọng. Vì càng hạn chế càng nằm trong trạng thái “bó” lâu thì sự hỗ trợ cho DN VN ở nước ngoài càng ít và không tạo được lực mới cho nền kinh tế để phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
II. NHÓM GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP ĐTRNN (CÁC NHÀ ĐẦU TƯ)
Để hoạt động ĐTTT ra nước ngoài sôi động hơn nữa trong những năm tiếp theo. Bên cạnh những giải pháp kiến nghị đã đưa ra đối với Chính phủ và các cơ quan chức năng Nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền từ Trung Ương đến địa phương; thì Chính bản thân các DNVN cũng phải có những cố gắng, nỗ lực của mình; phải có những giải pháp cho riêng DN mình; để có thể sẵn sàng vươn ra thế giới hội nhập, phát huy tối đa các thế mạnh của mình trên trường quốc tế.
Thiết nghĩ, nếu như không còn bất kỳ một bất cập, bất kỳ một vướng mặc nào trong vấn đề Luật pháp, thủ tục, ngoại tệ,...gây khó khăn, trở ngại cho việc ĐTRNN của các DNVN; nếu như có nhiều chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ đầy đủ về mọi mặt, cực kỳ thuận lợi cho hoạt động ĐTRNN (hình ảnh ví vón đơn giản như việc người dân tộc thiểu số Việt Nam tiến hành sản xuất kinh doanh, đầu tư ra các thành phố lớn); thì liệu rằng “dòng nước chảy ngược” từ các DNVN ra các nước khác trên thế giới có thực sự đủ năng lực, kinh nghiệm, đủ khả năng cạnh tranh,... để đạt được các kết quả “đáng nể” trên trường quốc tế hay không!.
Vậy để đạt được thành công trong hoạt động ĐTRNN, các DNVN cần:
Hoàn thiện, nâng cao chất lượng việc lập dự án đầu tư và chuẩn bị nhân lực cho dự án
Muốn ĐTRNN, DN phải cần lập được dự án đầu tư có tính khả thi cao, đảm bảo tính toán, cân đối hợp lý khả năng tài chính.
Trước hết, các DN phải nâng cao nhận thức cho các DN về tầm quan trọng của việc lập các dự án đầu tư chứ không phải chỉ đơn thuần là mang tính hình thức, để hợp thức hoá thủ tục hành chính và xin cấp giấy phép đầu tư. Vì “không chuẩn bị là chuẩn bị cho thất bại”.
Tiếp đó, trong khâu chuẩn bị, lập dự án đầu tư cần có sự chuẩn bị, tính toán một cách cụ thể chi tiết; đáp ứng đầy đủ các thủ tục, yêu cầu theo quy định trong Nghị định 78/2006/NĐ-CP. Có rất nhiều loại dự án khác nhau với những đặc thù riêng, tuỳ thuộc vào từng loại hình đầu tư mà DNVN lựa chọn khi tiến hành ĐTRNN như: Đầu tư mới, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh; theo hình thức liên kết, sát nhập; hay mua lại...Và tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực khác nhau: công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, bưu chính - viễn thông, hay đầu tư phát triển vào cở sở hạ tầng, vào giáo dục – đào tạo, vào phát triển nguồn nhân lực...
Đồng thời, trong quá trình chuẩn bị cho một dự án đầu tư, các DN cũng phải tiến hành công tác chuẩn bị nguồn nhân lực cho dự án như công tác tuyển dụng, đào tạo đội ngũ cán bộ lập dự án có chuyên môn, có trình độ, am hiểu về quy trình lập dự án đầu tư cũng như lĩnh vực định đầu tư của dự án. Tập hợp những người có tinh thần trách nhiệm cao; không chỉ cho khâu lập dự án mà cho tất cả các khâu còn lại của dự án. Con người là yếu tố quyết định cơ bản. Muốn ĐTRNN có hiệu quả phải có nguồn nhân lực đủ năng lực về chuyên môn, am hiểu lĩnh vực hoạt động, có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực của đó. Hơn hết, đó phải là những người có tinh thần trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp và đặc biệt phải thông thạo về ngoại ngữ...Vì vậy, bên cạnh lựa chọn ra đội ngũ nhân lực phù hợp với dự án, các DN nên chủ động đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho dự án của DN mình.
2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNVN trên trường quốc tế.
Thứ nhất: DNVN lựa chọn vũ khí cạnh tranh phát huy tối đa lợi thế của DN mình.
Có nhiều loại vũ khí cạnh tranh đang được các Công ty trên thế giới sử dụng. Đó là (1) sự vượt trội về kỹ thuật/công nghệ, (2) danh tiếng về chất lượng, (3) sự hỗ trợ về sản phẩm và dịch vụ, (4) mạng lưới chăm sóc khách hàng, (5) khả năng giữ nhân viên giỏi, (6) chi phí thấp, (7) danh tiếng và thương hiệu, (8) khả năng tài chính, (9) sự định hướng khách hàng và khả năng nghiên cứu thị trường, (10) sự đa dạng của sản phẩm, và (11) phân đoạn thị trường.
Mỗi một loại vũ khí đều có những đặc điểm riêng, có những vượt trội riêng, vì vậy mỗi loại vũ khí mang đến cho Công ty những lợi thế riêng. Danh tiếng và thương hiệu được coi là tài sản quý giá và là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu. Khả năng về tài chính, khả năng giữ được nhân viên giỏi là một trong những điểm mạnh giúp doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ của mình. Danh tiếng về chất lượng, hỗ trợ về sản phẩm và dịch vụ, mạng lưới chăm sóc khách hàng, định hướng khách hàng... được coi là những vũ khí cạnh tranh đầy hiệu quả. Tuy nhiên, sức mạnh của mỗi loại vũ khí trong các ngành khác nhau cũng khác nhau. Do vậy, các Công ty trước hết cần phải hiểu rõ đặc điểm riêng của mình để lựa chọn vũ khí cạnh tranh cho phù hợp. Thực tế, các Công ty nước ngoài thường sử dụng kết hợp khoảng 5-6 vũ khí để đạt được lợi thế cạnh tranh.
Việc lựa chọn và phát triển vũ khí cạnh tranh phụ thuộc vào các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài. Các yếu tố bên trong như điểm yếu, điểm mạnh, năng lực của Công ty và đặc điểm ngành nghề mà Công ty đang hoạt động là cơ sở để cho Công ty lựa chọn loại vũ khí. Tương tự, các yếu tố bên ngoài như chủ trương, chính sách, và sự hỗ trợ của nhà nước cũng là căn cứ để lựa chọn vũ khí cạnh tranh.
Đối với các DNVN, do có sự hạn chế về vốn, công nghệ và quản lý nên các DN chỉ nên chọn ra những vũ khí có thể duy trì và phát triển thành lợi thế cạnh tranh. Các vũ khí có thể lựa chọn là:
Danh tiếng về chất lượng: Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh đầy lợi hại trên thị trường. Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập của người tiêu dùng ngày càng cao thì chất lượng của các sản phẩm/dịch vụ càng được chú trọng. Đặc biệt, để đưa được hàng hoá vào các thị trường khó tính như thị trường Mỹ và châu Âu, chất lượng hàng hoá cần phải đạt tới mức “chất lượng quốc tế” và phải được một tổ chức có uy tín chứng nhận. Vì vậy, để xâm nhập vào được các thị trường như thị trường Mỹ và châu Âu, các DN cần xây dựng được cho mình một danh tiếng về chất lượng. Việc tạo lập được một danh tiếng về chất lượng là một điều hoàn toàn không dễ, tuy nhiên các DNVN vẫn có thể làm được điều này.
Chi phí thấp: Chi phí thấp là một vũ khí cạnh tranh đầy mãnh lực. DNVN, với lợi thế có nguồn lao động dồi dào, đơn giá rẻ, có thể sản xuất ra các sản phẩm/dịch vụ để tiêu thụ với giá cả mang tính cạnh tranh cao. Hơn thế nữa, các DNVN còn có thể áp dụng các phương pháp quản lý vật tư tiên tiến (ví dụ JIT) hoặc thiết lập đồng minh chiến lược trong cung cấp nguyên vật liệu nhằm giảm thiểu chi phí đầu vào, giảm giá thành sản phẩm.
Hỗ trợ về sản phẩm: Hỗ trợ về sản phẩm/dịch vụ là một vũ khí cạnh tranh được nhiều Công ty sử dụng. Thực tế chứng minh rằng, các sản phẩm/dịch vụ phụ trợ đi kèm đã giúp Công ty xây dựng được một mối quan hệ tốt với khách hàng và tạo cho khách hàng một niềm tin tuyệt đối vào sản phẩm/dịch vụ của Công ty. Đây là một dịch vụ dễ thực hiện nhưng tốn kém ít. Tuy nhiên, thời gian qua, các DNVN ít chú ý đến hoạt động hỗ trợ về sản phẩm và dịch vụ, vì vậy họ đã mất một phần lớn thị phần vào tay các DN do nước ngoài đầu tư. Các DNVN cần phải đẩy mạnh và đầu tư hơn nữa hoạt động hỗ trợ về sản phẩm và dịch vụ của mình.
Định hướng khách hàng: Định hướng khách hàng là việc DN hoạt động theo tôn chỉ “sản xuất ra các sản phẩm/dịch vụ phải trên cơ sở nhu cầu khách hàng và chất lượng sản phẩm/dịch vụ là mức độ thoả mãn nhu cầu khách hàng của sản phẩm/dịch vụ đó”. Vì vậy, Công ty cần phải nghiên cứu nhu cầu khách hàng để sản xuất ra sản phẩm/dịch vụ không chỉ thoả mãn nhu cầu khách hàng ngay từ đầu mà còn thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của họ. Việc triển khai các chương trình cải tiến chất lượng như ISO 9000:2000, TQM, hoặc bất kỳ một hệ thống cải tiến chất lượng nào khác đều nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Phân đoạn thị trường: Phân đoạn thị trường là một vũ khí cạnh tranh hiệu quả, đặc biệt là đối với các DN có nguồn lực hạn chế. Việc phân chia thị trường ra thành các phân đoạn khác nhau là việc các DNVN phải lựa chọn cho mình một thị trường phù hợp là một con đường đúng đắn để đi đến thành công. Các DNVN với những hạn chế của mình về vật lực và tài lực vẫn có thể chọn ra cho mình một thị trường riêng không chỉ ở trên lãnh thổ Việt Nam mà còn cả ở thị trường nước ngoài.
Bảng: Tóm lược một số cách lựa chọn vũ khí cạnh tranh cho một số ngành
Công nghệ cao
Dịch vụ
Chế tạo
Tổng hợp
1. Vượt trội về kỹ thuật
1. Danh tiếng về chất lượng
1. Danh tiếng về chất lượng
1. Danh tiếng về chất lượng
2. Danh tiếng về chất lượng
2. Giữ nhân viên giỏi
2. Danh tiếng, thương hiệu
2. Hỗ trợ về sản phẩm, dịch vụ
3. Hỗ trợ về sản phẩm, dịch vụ
3. Danh tiếng, thương hiệu
3. Chi phí thấp
3. Danh tiếng, thương hiệu
4. Mạng lưới chăm sóc khách hang
4. Hỗ trợ về sản phẩm, dịch vụ
4. Đa dạng về sản phẩm
4. Giữ nhân viên giỏi
5. Giữ nhân viên giỏi
5. Nguồn tài chính
5. Phân đoạn thị trường, tập trung
5. Chi phí thấp
6. Chi phí thấp
6. Định hướng khách hàng, nghiên cứu thị trường
6. Hỗ trợ về sản phẩm, dịch vụ
6. Nguồn tài chính
Xây dựng các cơ sở chăm sóc khách hàng: Khách hàng ngày càng quan tâm đến dịch vụ hậu mãi khi mua một sản phẩm/dịch vụ nào đó. Vì vậy, bố trí các cơ sở chăm sóc khách hàng ở những thuận tiện với đầy đủ trang thiết bị, đội ngũ nhân viên có tay nghề cao, tận tình phục vụ là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc bán hàng. Các Công ty, các DN Việt Nam phải quan tâm hơn nữa đến việc thiết lập mạng lưới chăm sóc khách hàng nếu muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của DN mình. (nếu không khả năng cạnh tranh đã yếu lại càng yếu đi).
Danh tiếng và thương hiệu: Thương hiệu là một tài sản quý giá mà không phải DNVN nào cũng nhận thức được. Vừa qua do không có thương hiệu mà sản phẩm của nhiều DNVN khi xuất ra nước ngoài đã phải chịu nhiều bất lợi như giá thấp hoặc phải bán nhờ thương hiệu của một hãng nước ngoài nào đó. Do vậy, đầu tư xây dựng thương hiệu vững mạnh là việc làm cần thiết và cực kỳ quan trọng đối với các DNVN.
Giữ nhân viên giỏi: Nhân viên giỏi là một trong những nhân tố quyết định chất lượng của công việc, quyết định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Giữ nhân viên giỏi là một vũ khí cạnh tranh đầy uy lực, đặc biệt là đối với các ngành công nghệ cao và dịch vụ. Tầm quan trọng của việc giữ được các nhân viên giỏi đã được kiểm chứng rõ ràng ở các DN có VĐT nước ngoài. Tuy nhiên, đối với các DN, tổ chức của Việt Nam thì điều này vẫn hoàn toàn mới. Vì vậy, tuyển dụng và giữ nhân viên giỏi ở lại làm việc cho Công ty phải là một trong những chiến lược dài hạn, đúng đắn mà các doanh nghiệp Việt Nam cần tiến hành áp dụng.
Dưới đây là bảng tóm lược một số cách lựa chọn vũ khí cạnh tranh cho một số ngành mà theo kinh nghiệm của các nước phát triển trên thế giới đã thực hiện liên kết 5-6 vũ khí cạnh tranh. Các DNVN có thể tham khảo và vận dụng một cách sáng tạo sao cho phù hợp với chiến lược cụ thể DN mình.
Thứ hai: Nâng cao năng lực tài chính của DN mình
Bên cạnh việc xác định chính xác vũ khí cạnh tranh, để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế, các DNVN phải nâng cao năng lực tài chính của mình có thể bằng cách tích luỹ và tập trung cho mình một lượng VĐT nhất định, hay tham gia vào thì trường tài chính, thị trường chứng khoán nhằm tăng việc huy động và luân chuyển vốn trên thị trường. Các dự án ĐTRNN hiện nay của các DNVN có tổng VĐT vô cùng nhỏ so với mặt bằng chung của nhiều nước trên thế giới. Mà trong tổng VĐT đó, vốn tự có của DN chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn. Một quốc gia mà mạnh về tài chính, mạnh về kinh tế, thì đó ắt sẽ là một cường quốc kinh tế trên thế giới như Mỹ, Nhật... Với DN cũng vậy, nếu có năng lực tài chính mạnh, DN sẽ chủ động hơn rất nhiều, tránh được nhiều thủ tục của việc vay tín dụng, vay VĐT...
Để huy động và tập trung vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh ở cả thị trường trong nước và ngoài nước. một số DN cùng lĩnh vực hoạt động nên xem xét liên hiệp với nhau hình thành lên các tổng công ty lớn; từ các tổng công ty lớn này sẽ phát triển thành các tập đoàn kinh tế, các công ty xuyên quốc gia. Các tập đoàn kinh tế này là tru cột của nền kinh tế quốc dân, vừa là đầu tàu kéo các DN khác ĐTRNN, là nòng cốt thực hiện ĐTRNN để khai thác thị trường quốc tế. Khi đó, năng lực cạnh tranh của các DN sẽ trở thành sức mạnh cạnh tranh của cả một tập đoàn kinh tế, mạnh hơn rất nhiều.
Thứ ba: Đầu tư năng lực KH-CN; nâng cao hiệu quả sản xuất của DN
Trình độ KH-CN có tính chất quan trọng đối với việc sản xuất kinh doanh của DN, đến năng lực cạnh tranh của DN. Vì vậy, các DN phải luôn cố gắng đổi mới trang thiết bị, tích cực học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu về các công nghệ mới, để áp dụng các công nghệ mới nay nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, được miễn giảm thuế đối với khoản thu nhập tạo ra từ công nghệ mới, và hơn nữa còn được vay vốn ưu đãi để đầu tư.
Các DN có thể áp dụng biện pháp khấu hao nhanh để đổi mới công nghệ và hạch toán các khoản chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học và đầu tư ứng dụng công nghệ cao vào giá thành sản phẩm, giá thành sản phẩm rẻ cũng sẽ là một vũ khí cạnh tranh lợi hại của DN khi ĐTRNN.
Chủ động học hỏi, tìm hiểu về những công nghệ mới và hiện đại, có thể ứng dụng trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, qua các buổi toạ đàm, đào tạo về công nghệ mới. Mở rộng các hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ mới. Tiếp cận với các kênh chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam. Tham khảo ý kiến, tư vấn của các chuyên gia về khoa học công nghệ để lựa chọn được công nghệ, xây dựng phương án kinh doanh và phát triển thị trường phù hợp.
Các DN cũng có thể mua lại những công nghệ cũ của nước ngoài vẫn có khả năng phát huy hiệu quả trong thực tiễn và phù hợp với khả năng tài chính của DN.
Trong vấn đề công nghệ, các DNVN cũng cần phải chú ý một vấn đề. Tại sao Nhật, EU không chuyển giao cho ta công nghệ chế biến cà phê? Bởi vì nếu chuyển giao thì cà phê của họ sẽ mất tính cạnh tranh với cà phê VN. Trong chuyến đi Tanzania, phía bạn rất muốn Việt Nam chuyển giao công nghệ chế biến hạt điều. Nhưng không thể làm theo cách nghĩ đơn giản của nhiều quan chức. Vì Tanzania có giá lao động rất rẻ, sản lượng hạt điều lại lớn. Nếu cho họ công nghệ thì ngay lập tức hạt điều VN sẽ có một đối thủ cạnh tranh đáng gờm. Các DNVN thực sự phải sáng suốt trong chuyển giao công nghệ. Còn các nhà chức trách nên có tư duy quản lý nhằm vào chỗ tương tự như thế này, có tính định hướng chứ không phải hạn chế chung chung.
Thứ tư: Nâng cao năng lực quản lý của chính bản thân các DN
Việc quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý DN đối với các DN hoạt động trong nước đã khó, việc quản lý các DN đầu tư tại các nước ngoài còn khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Vì vậy, điều quan trọng nhất trong đội ngũ lao động trong DN là những nhà quản lý và điều hành phải có trình độ hiểu biết, trước hết là về lĩnh vực mà mình đang kinh doanh, biết khai thác triệt để mọi nguồn lực trong DN và tận dụng mọi cơ hội đầu tư...
Các DN cần có những chính sách khuyến khích, trợ giúp các thành viên trong DN, tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao trình độ quản lý trong DN như: có các suất học bổng, đào tạo tại nước ngoài, sau khi học xong sẽ quay về tiếp tục quản lý, điều hành một bộ phận của chuyên môn nào đó của DN; tìm hiểu, học hỏi để khắc phục sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, về tập quán... để xây dựng văn hoá doanh nghiệp của mình trên nước sở tại.
Các nhà quản lý, lãnh đạo cần tích luỹ kinh nghiệm, có khả năng làm việc độc lập và có kỹ năng xử lý tình huống tốt tại nơi “đất khách quê người”.
3. Đầu tư hợp lý cho Nghiên cứu thị trường nước tiếp nhận đầu tư.
Một yếu tố quan trọng khi các DNVN có ý định mở rộng hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh ra nước ngoài cần có sự chuẩn bị kỹ từ khâu nghiên cứu thị trường, chính sách pháp luật, tập quán, thói quen tiêu dùng, các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm; đặc biệt là tìm hiểu nghiên cứu kỹ chính sách thuế, phí; các quy định xuất nhập khẩu ... môi trường đầu tư ở nước sở tại để lựa chọn các cơ hội đầu tư phù hợp với mình.
Các DN cần có chiến lược đầu tư hợp lý cho việc nghiên cứu thị trường, lựa chọn xem xét để đối với từng thị trường cụ thể đưa ra quyết định sản xuất mặt hàng gì, tiêu thụ như thế nào? Xem xét DNVN có thể đầu tư cái gì và nên đầu tư cái gì ra nước ngoài để đất nước thực sự có lợi.
Đồng thời, đối với các dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước ngoài, các DN cần thực hiện chế độ báo cáo tài chính định kỳ cho cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài; xem khâu nào vướng mắc, vướng mắc ở đâu để Nhà nước xem xét có sự điều chỉnh các chính sách, quy định cho phù hợp với các yêu cầu thực tiễn. Như vậy Nhà nước sẽ có điều kiện quản lý theo sát hoạt động ĐTRNN của các DN. Về phần mình, DN phải thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định mới có thể đẩy nhanh các khâu cấp phép đầu tư, thực hiện dự án đầu tư một cách hiệu quả.
Trước hết, về thị trường, các DNVN nên nhắm đến những thị trường dễ chấp nhận các sản phẩm và công nghệ VN như châu Phi, ASEAN… Song cũng luôn phấn đấu tích luỹ năng lực kinh nghiệm để vươn ra thị trường các nước phát triển, nhờ các luật sư tư vấn đầu tư để tìm hiểu về thị trường các nước phát triển như Mỹ, Anh, Úc, Đức, Nhật, Ý... Hiện nay, xu hướng đầu tư vào thị trường các nước phát triển nhất là Mỹ của các DNVN đang tăng lên rõ rệt; đặc biệt là các công ty thuỷ sản đầu tư, xuất khẩu sang Mỹ. Và các mặt hàng này của Việt Nam đang ngày càng có vị thế ở nước ngoài, các DNVN không còn cảm thấy ra nước ngoài làm ăn là chuyện gì đó xa lạ như trước đây nữa.
Phải xem việc ĐTRNN là một bộ phận để phát triển mở rộng thị trường, là cầu nối thúc đẩy thương mại phát triển. Vì vậy, cần xem xét và lựa chọn kỹ lưỡng hình thức đầu tư sao cho có lợi nhất cho DN mình và cho đất nước. Mỗi hình thức đầu tư có những ưu nhược điểm riêng và áp dụng trong các trường hợp khác nhau. Ngoài hình thức đầu tư mới thị Mua lại và sát nhập cũng là một sự lựa chọn tốt và có thể rất phù hợp với điều kiện thực tế của các DNVN hiện nay.
Với mua lại và sát nhập (M&As) có 4 lợi ích cơ bản so với đầu tư mới. Thứ nhất, công ty có thể nhanh chóng để hiện diện tại một thị trường nước ngoài hơn là đầu tư mới. Thứ hai, bằng hình thức này, công ty có thể ngăn cản các đối thủ cạnh tranh, nhất là trong các thị trường toàn cầu hoá nhanh chóng. Thứ ba, công ty mua lại có thể tăng hiệu quả các công ty được mua lại bằng cách chuyển giao công nghệ, vốn và kinh nghiệm quản lý. Cuối cùng, M&As có thể ít rủi ro hơn đầu tư mới và có thể tận dụng được các tài sản giá trị của công ty được mua như mối quan hệ khách hàng, hệ thống phân phối, nhãn hiệu, hệ thống sản xuất.
Tuy nhiên, hình thức M&As có nhược điểm là bên mua lại có thể đánh giá công ty được mua với giá quá cao, thường là do họ quá lạc quan về lợi ích do sự cộng hợp giữa công ty đi mua và công ty được mua. Ngoài ra sự khác biệt về văn hoá tổ chức và cách vận hành sẽ tạo ra sự mâu thuẫn dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Ngược lại, đầu tư mới có lợi thế hơn so với M&As là công ty có thể linh hoạt hơn để có thể tạo ra một công ty theo ý muốn; xây dựng văn hoá tổ chức cho một công ty mới dễ hơn là thay đổi văn hoá từ công ty khác
Đối với các nước đang phát triển như nước ta thì hình thức M&As còn là con đường nhanh chóng hơn để tiếp cận với công nghệ hiện đại cũng như sở hữu được thương hiệu nổi tiếng như đã đề cập ở trên. Nếu chúng ta phải xây dựng từ đầu thì phải mất thời gian quá dài để có thể xây dựng các ngành công nghiệp hiện đại. Còn nếu chúng ta dựa vào nguồn đầu tư từ nước ngoài thì cũng khó thực hiện được. Nếu là các ngành công nghệ cao thì các doanh nghiệp nước ngoài thường đầu tư 100% vốn nước ngoài để bảo vệ công nghệ như Canon, Toyota. Một số công ty lúc mới vào Việt Nam vì chưa am hiểu thị trường thường tiến hành liên doanh với các đối tác Việt Nam nhưng khi đã đứng vững trên thị trường liền tìm cách trở thành doanh nghiệp hoàn toàn vốn nước ngoài, ví dụ như Acecook, Unilever... Cho nên song song với hình thức đầu tư mới, các DNVN cần chú ý đến hình thức M&As để khai thác các lợi thế của nó.
Để mua một DN một cách hiệu quả, công ty đi mua phải chú ý cả 3 giai đoạn: lựa chọn công ty mục tiêu, lựa chọn chiến lược mua lại thích hợp và hòa nhập hai tổ chức thành một.
Lựa chọn công ty mục tiêu thường dựa vào (1) tình hình tài chính, vị trí sản phẩm của công ty đó trên thị trường, (3) môi trường cạnh tranh, (4) năng lực quản lý và (5) văn hóa doanh nghiệp. DNVN ngoài các yếu tố trên còn phải lựa chọn công ty mục tiêu có thể thực hiện mục tiêu lâu dài là nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường thế giới và hiện đại hóa.
Lựa chọn chiến lược và thời điểm để tiến hành mua lại rất quan trọng vì nó quyết định sự thành công và giá mua. Để mua lại hiệu quả nhất, công ty đi mua phải thuyết phục công ty mục tiêu là mua lại sẽ đem lại lợi ích cộng hợp lớn hơn vì các công ty này thường muốn bảo vệ các cổ đông cũng như nhân viên của họ. Ví dụ như Philip Morris mua lại Miller năm 1969 thành công nhờ Philip có lợi thế về Marketing trong khi Miller yếu về mặt này. Còn nếu không có sự đồng thuận của đối tác, cuộc mua lại sẽ rất khó và giá cũng sẽ rất cao. Các công ty ở Việt Nam có lợi thế về nguồn lao động rẻ và thị trường tiêu thụ tiềm năng tương đối lớn sẽ là lợi thế để có thể tạo nên lợi ích cộng hợp.
Vấn đề khó khăn cuối cùng là sự hợp nhất của hai công ty. Sự hợp nhất phải bảo đảm được sự cộng hợp để duy trì lợi thế cạnh tranh trong các lĩnh vực như tài chính, sản xuất, nghiên cứu và phát triển hay quản lý. Công ty mẹ ở Việt Nam càng khó khăn hơn vì kiến thức quản trị cũng như kinh nghiệm kinh doanh quốc tế vẫn còn yếu, và đặc biệt và vấn đề văn hóa doanh nghiệp vẫn còn khá mới mẽ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên nếu các công ty có thể sử dụng lực lượng Việt kiều thì vấn đề khó khăn về nhân sự sẽ được giảm đi đáng kể.
Với quy định hiện nay, con đường thuận lợi hơn cả cho các nhà đầu tư Việt Nam có lẽ là liên kết với các DN của người Việt Nam đang làm ăn để mở rộng, tái đầu tư hoặc mua cổ phần hoặc liên kết với DN của bạn để phối hợp làm ăn thay vì tự mình bắt đầu.
Và dù lựa chọn hình thức đầu tư nào, thì các DNVN cần liên hệ với Việt kiều ở các nước để thu thập thông tin và xin tư vấn để đầu tư vào lĩnh vực và sản phẩm phù hợp…
Ngoài ra, các DNVN cần liên hệ chặt chẽ với các Đại sứ quán, Cơ quan Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài để xin cung cấp thông tin và tư vấn trước khi quyết định ĐTTT tại một nước.
Tóm lại, mặc dù có khá nhiều trở ngại các DN Việt Nam cần phải vượt qua, nhưng để nâng cao vị thế trên thị trường trong và ngoài nước. Các công ty cần có sự chuẩn bị và chiến lược để có thể bắt đầu tham gia vào xu hướng của thế giới.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế trong nước sẽ là sự gia tăng năng lực tài chính của các doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO thì ĐTTT ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới nhất định sẽ được tăng cường đáng kể. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng đã xác định: “Khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp và cá nhân Việt nam đầu tư ra nước ngoài”. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong vòng 5 năm tới các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đầu tư khoảng 1,0 đến 1,2 tỷ USD ra nước ngoài, bình quân mỗi năm 200 triệu USD. Đây có lẽ là một tín hiệu khả quan đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam.
Trong xu thế toàn cầu hoá, đầu tư quốc tế là một xu hướng tất yếu và ngày càng sôi động, đóng vai trò chủ lực của nền kinh tế mỗi quốc gia. Thực hiện chính sách mở cửa để tạo thế chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế, một số nước ĐPT hiện nay, cùng với việc thu hút và tiếp nhận FDI từ các bên ngoài, thì ĐTRNN là phương thức không thể thiếu, họ đang cố gắng vươn lên trở thành các nhà đầu tư quốc tế có uy tín, như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông....
Một năm sau khi ra nhập WTO, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.Và không nằm ngoài xu thế chung của kinh tế thê giới, Việt Nam đã có những động thái tích cực trong hoạt động ĐTTT ra nước ngoài. Việt Nam đã biết tận dụng những lợi thế so sánh của mình trong một số ngành như: dầu khí, cao su, chế biến hạt điều, thuỷ điện, xây dựng văn phòng cho thuê,... đã thu được những kết quả đáng kể trong lĩnh vực đầu tư mới này. Tuy nhiên vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định xuất phát cả từ phía Nhà nước và cả từ phía các DN.
Đề tài này đã tập trung nghiên cứu lý luận chung về ĐTRNN và thực tiễn các chính sách của Nhà nước đã áp dụng trong lĩnh vực ĐTTT ra nước ngoài cũng như thực tiễn hoạt động ĐTRNN của các DNVN trong thời gian qua (1989-4/2008), nhằm tìm ra những điểm mạnh và những hạn chế còn tồn tại để từ đó, đề xuất một số giải pháp - kiến nghị từ cả phía Chính phủ và phía các DN. Với mục đích khuyến khích thúc đẩy, tăng cường hoạt động ĐTRNN của các DNVN.
Do thời gian nghiên cứu có hạn và đây là một lĩnh vực kinh tế khá mới của nền kinh tế Việt Nam, khả năng tiếp cận nguồn thông tin còn hạn chế, cho nên các giải pháp đưa ra vẫn có phần mang tính định hướng, chưa cụ thể; mới chỉ ở giác độ vĩ mô là chính chứ chưa thể đi sâu vào nghiên cứu được trên giác độ vi mô. Chính vì thế, nếu có điều kiện để tiếp tục nghiên cứu đề tài này, em sẽ có thể đi sâu nghiên cứu điểm mạnh và hạn chế tồn tại của từng ngành, để từ đó đưa ra giải pháp thúc đẩy phù hợp với từng ngành và từng loại hình DN cụ thể.
Tuy nhiên, hy vọng đề tài này sẽ cung cấp được cho những cá nhân, DN quan tâm đến lĩnh vực này những thông tin bổ ích khi nghiên cứu, tìm hiểu hay thực hiện ĐTRNN, cũng như trong quá trình hoạch định chính sách khuyến khích các DNVN ĐTRNN. Tạo động lực mới cho nền kinh tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội 2007
Giáo trình Lập dự án Đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội 2007
Báo Khoa học và Phát triển ngày 29/12/2006
Đầu tư, số ngày 30/9/2005, tr.4 & số ngày 26/4/2007, tr.5
Đỗ Đức Định, Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở một số nước Đông Nam Á,
Khoa học – Xã hội, Hà Nội - 1993
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh, Các công cụ tài chính và vị thế củ Việt Nam trong khu vực đầu tư ASEAN, NXB Tài chính, Hà Nội – 2005
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh, Thúc đẩy Doanh nghiệp Việt Nam Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài NXB Tài chính, Hà Nội – 2006
Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005
Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005
Nghị định số 22/1999/NĐ–CP ngày 14/4/1999 và Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định về Đầu tư ra nước ngoài của Doanh nghiệp Việt Nam.
Thông tư số10/2006/TT-NHNN ngày 21/12/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 349 – Tháng 6/2007
Tạp chí Kinh tế phát triển số 125 – Tháng 11/2007
Quốc tế số 27/2005, tr.14
Một số trang website:
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐTTT
Đầu tư trực tiếp
DN
Doanh nghiệp
VĐT
Vốn đầu tư
NICs
Các nước công nghiệp mới
ĐPT
Đang phát triển
KH - CN
Khoa học – Công nghệ
ĐTRNN
Đầu tư ra nước ngoài
TCTD
Tổ chức tín dụng
DNVN
Doanh nghiệp Việt Nam
KT – XH
Kinh tế - Xã hội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28543.doc