Đề tài Một số giải pháp nhằm mở rộng công tác huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ba Đình, Hà Nội

Một lần nữa khẳng định công tác huy động vốn có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Nếu coi NHTM là tổ chức nhận tiền gửi để cho vay thì vốn được coi là nguyên liệu đầu vào cho quá trình kinh doanh còn công tác huy động vốn được coi là công tác tạo nguồn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Quy mô, cơ cấu, tính chất của nguồn vốn huy động ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu, tính chất của các khoản cho vay tín dụng của ngân hàng. Vì vậy công tác huy động vốn không chỉ là một hoạt động đơn thuần mà nó còn quyết định rất lớn đến hiệu quả của các mặt hoạt động khác.

doc75 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm mở rộng công tác huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ba Đình, Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều chuyển vốn trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam nhằm điều chuyển vốn đến những nơi thiếu vốn trên toàn quốc phục vụ tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của cả nước. Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn tại chi nhánh NHNO&PTNT Ba Đình qua các năm 2000/2002 đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Nguồn vốn huy động 371.476 406.535 417.547 Nguồn vốn sử dụng 57.987 75.251 88.884 ± Vốn huy động/cho vay +313.489 +331.284 +328.663 (Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNo&PTNT Ba Đình) Chi nhánh đã và đang khắc phục hạn chế nhất định trong công tác huy động vốn. Tỷ trọng nguồn vốn huy động ngắn hạn và trung - dài hạn so với tổng nguồn vốn huy động đã có sự chuyển biến tích cực. Tổng nguồn vốn huy động trung dài hạn tăng lên qua các năm, trong đó nguồn huy động trung và dài hạn tăng trưởng mạnh cả về quy mô cũng như cơ cấu trên tổng nguồn. Đây là sự chuyển biến tích cực thể hiện sự cố gắng nỗ lực của chi nhánh trong công tác huy động vốn. Điều đó đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của chi nhánh đặc biệt là cho vay các dự án trung dài hạn và thực hiện điều chuyển vốn trong toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. Hơn nữa khẳng định uy tín của chi nhánh đối với khách hàng, khách hàng đã đặt niềm tin ở ngân hàng khi gửi tiền vào ngân hàng với thời hạn dài mà không sợ biến động mất vốn. Nói đến thành công trong công tác huy động vốn ở chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình không thể không nói đến chính sách huy động vốn của chi nhánh rất đúng đắn, linh hoạt, hợp lý. Mặc dù trụ sở chi nhánh chưa được khang trang, bề thế song chi nhánh đã vạch ra chiến lược huy động vốn hợp lý: đó là mở rộng mạng lưới huy động tới khắp các địa bàn là dân cư. Từ chỗ chi nhánh chỉ có 1 bàn tiết kiệm và 1 phòng nguồn vốn tổ chức hoạch định và tiến hành công tác huy động vốn, đến nay mạng lưới huy động được mở rộng với 5 phòng giao dịch trải rộng trên khắp địa bàn quận Ba Đình trong đó có một phòng giao dịch nằm trên địa bàn quận Thanh Xuân, điều đó chứng tỏ chi nhánh đã bắt đầu mở rộng địa bàn hoạt động của mình ra toàn thành phố Hà Nội. Cùng với sự tăng lên của doanh số huy động vốn, đội ngũ cán bộ thực hiện chức năng huy động vốn cũng có sự chuyển biến về số lượng cũng như về trình độ chuyên môn đảm bảo đáp ứng công tác huy động vốn của chi nhánh trong tình hình mới. Bên cạnh đó chi nhánh đã thực hiện chính sách lãi suất mềm dẻo, hấp dẫn được khách hàng. Trên cơ sở các mức lãi suất của NHNo&PTNT Việt Nam, kết hợp với việc tham khảo lãi suất của các ngân hàng bạn, phối hợp với công tác phân tích lãi suất đầu ra đầu vào, cân đối nguồn vốn hợp lý, chi nhánh đưa ra mức lãi suất huy động vốn thích hợp, theo các kỳ hạn, đảm bảo huy động đủ nguồn vốn mà ngân hàng cần, đồng thời cũng hấp dẫn được khách hàng tức là đáp ứng lợi ích của khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. Chính sách lãi suất của chi nhánh hợp lý ở chỗ vừa đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng bạn vừa thực hiện đúng mục tiêu huy động vốn mà ngân hàng đặt ra: về lượng huy động, thời hạn huy động, loại tiền huy động …, bên cạnh đó chi nhánh cũng luôn thay đổi các hình thức huy động vốn một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế của từng thời kỳ, từng địa bàn hoạt động. Với những ưu điểm trên, chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình luôn luôn là lá cờ đầu trong công tác huy động vốn của toàn hệ thống. Trong thời gian tới, chi nhánh cần phát huy những kết quả đó, và khắc phục những tồn tại để xứng đáng là đơn vị tiên phong trong công tác huy động vốn của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. 2. Những hạn chế trong công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình và những nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó. Công tác huy động vốn ở chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình đã đạt được những thành công lớn trong thời gian qua. Tuy nhiên, như đã nói ở trên công tác huy động vốn là một hoạt động ngân hàng phức tạp, linh hoạt trong từng thời kỳ. Trên bước đường hoạt động của mình ngân hàng phải vừa làm vừa học hỏi để không ngừng bổ sung và hoàn thiện, vì vậy không thể tránh khỏi những khiếm khuyết tồn tại, cần phải khắc phục ngay trong thời gian tới. + Hạn chế thứ nhất: Chiến lược khách hàng của chi nhánh chưa được xác định rõ cho phù hợp với tình hình thực tế: với lợi thế là một NHNo&PTNT, một hệ thống NHTM quốc doanh có chi nhánh rộng khắp trên toàn quốc, số lượng khách hàng truyền thống rất đông đảo mà chủ yếu là dân cư. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế khách hàng truyền thống của chi nhánh có tiền gửi tại nhiều ngân hàng khác. Như vậy, nếu nguồn tiền gửi của khách hàng bị phân tán thì nguồn huy động rẻ nhất của chi nhánh bị san sẻ cho các ngân hàng bạn. Trong quan hệ gửi và lĩnh tiền của dân chúng chưa được cải tiến nhiều, các hoạt động này vẫn được thực hiện chủ yếu là thủ công và trực tiếp... mọi khoản tiền gửi ở ngân hàng, dân chúng chỉ nhận được một phần lãi, còn các tiện ích khác gần như chưa được thực hiện: Chuyển đổi chiết khấu, thanh toán chi trả... Bên cạnh đó công tác marketting ngân hàng của chi nhánh chưa được thực hiện đồng bộ, liên tục. Nguyên nhân: Các hình thức huy động vốn tại chi nhánh chưa phong phú, còn đơn điệu, phần lớn là các hình thức huy động truyền thống. Mạng lưới huy động vốn tuy đã được mở rộng nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đôi khi khách hàng chưa thực sự là “thượng đế” của ngân hàng. Khách hàng sẽ chỉ đến giao dịch, gửi tiền tại những ngân hàng có công nghệ ngân hàng hiện đại, thuận tiện, có bãi đỗ xe rộng... đáp ứng những đòi hỏi này trong thời gian qua chi nhánh đã có những cải tiến, áp dụng một số công nghệ hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất song vẫn chưa có sự chuyển biến lớn mà nguyên nhân chủ yếu là NHNo&PTNT Việt Nam chưa chú trọng đến việc đổi mới công nghệ ngân hàng. Một nguyên nhân nữa là chi nhánh hầu như chỉ làm công tác tiếp thị, quảng cáo mỗi khi cần huy động vốn làm sao đáp ứng được nhu cầu cấp bách của mình trong một thời gian nào đó. Còn chính sách thu hút vốn trong dân chúng qua những hoạt động dịch vụ hoặc quyền lợi của người gửi tiền thì ít được quảng cáo. Do vậy, sự hiểu biết của người dân đối với chi nhánh còn bị hạn chế. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. Mặt khác do trình độ của nhân dân chưa đồng đều, chưa quen với việc mở tài khoản cá nhân để thanh toán qua ngân hàng và thu nhập của họ còn thấp nên chưa phát sinh nhu cầu thanh toán đó. + Hạn chế thứ hai: Chi nhánh chưa huy động được nhiều nguồn vốn ngắn hạn đặc biệt là nguồn vốn không kỳ hạn: nguồn vốn ngắn hạn là một nguồn có tính chất không ổn định, nhưng nó lại là nguồn có chi phí huy động thấp. Trong thời gian qua, chi nhánh chưa thực sự quan tâm đến nguồn vốn này, quy mô của nguồn này giảm liên tục trong ba năm gần đây: năm 2001 huy động được 297.057 triệu đồng chiếm 80% trên tổng nguồn nhưng đến năm 2002 chỉ còn 137.301 triệu đồng chiếm 33,9%, đến năm 2003 đã giảm xuống còn 90,33% so với năm 2002, chiếm 29,7% so với tổng nguồn, với quy mô là 124.023 triệu đồng. Nguyên nhân của sự giảm sút này là do chi nhánh chưa quan tâm một cách thích đáng đến công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Do đó chưa thu hút được nguồn tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân. Một nguyên nhân khác là do khách hàng của chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình chủ yếu là dân cư với lượng tiền tiết kiệm ổn định và nhu cầu thanh toán không cao nên họ thích gửi tiền có kỳ hạn dài hơn để có được thu nhập (lãi suất) cao hơn. + Hạn chế thứ ba: Các hình thức huy động vốn ngoại tệ còn bị hạn chế: Công tác huy động vốn ngoại tệ ở chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn, thủ tục gửi ngoại tệ còn rườm rà, phức tạp; hiện nay ngân hàng chưa được bán ngoại tệ nên khi khách hàng cần mua ngoại tệ để gửi tiết kiệm sẽ gặp nhiều khó khăn hơn các ngân hàng khác có nghiệp vụ này. Bên cạnh đó việc mở tài khoản cá nhân ở các ngân hàng còn ít, hiện nay tại chi nhánh chỉ có khoảng 300 tài khoản cá nhân với số dư không lớn. Nguyên nhân: Do đặc thù riêng chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình là một NHNO&PTNT nên việc huy động vốn ngoại tệ còn thấp hơn so với các NHTM thuộc hệ thống Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, hơn nữa lãi suất tiền gửi ngoại tệ chưa thực sự hấp dẫn khách hàng so với lãi suất đồng nội tệ, xu hướng của người dân hiện nay thường giữ ngoại tệ và vàng nên số lượng ngoại tệ đưa vào đầu tư còn thấp. Hiện tượng “Dolar hoá” này đã gây khó khăn cho công tác huy động vốn ngoại tệ của ngân hàng. Để huy động vốn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn bắt buộc các ngân hàng phải đưa ra mức lãi suất huy động cao, như thế ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng. Hơn nữa, tâm lý của người dân chưa thực sự tin tưởng vào hệ thống ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng ngoài quốc doanh (do sự đổ vỡ của một số doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động ngân hàng không lành mạnh: Dệt Nam Định, Minh Phụng EPCO...thay vào đó là sự bất ổn kinh tế trong khu vực, sự biến động tỷ giá, sự xuất hiện của một số thông tin xấu, sai lệch về cơ chế quản lý ngoại hối. Tất cả những nguyên nhân trên dẫn đến người dân sợ không dám gửi tiền vào ngân hàng, các hiện tượng găm giữ ngoại tệ, một số khách hàng do lo sợ đã rút tiền hàng loạt ở các ngân hàng phía Nam). Để luôn là lá cờ đầu của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, trở thành một trong những ngân hàng quốc doanh giữ vị trí chủ chốt trong nền kinh tế, chi nhánh cần có những biện pháp khắc phục một số tồn tại trên. Đồng thời Nhà nước cũng cần tạo ra một môi trường thuận lợi để hoạt động ngân hàng thực sự là đòn bẩy thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Chương III giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng công tác huy động vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình. I. Những định hướng trong công tác huy động vốn của Chi nhánh. 1. Nhu cầu về vốn trong thời gian tới. Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, vấn đề thiếu vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết, việc huy động vốn: Cả nguồn vốn bên ngoài và nguồn vốn bên trong sẽ tạo điều kiện cho đầu tư phát triển về kinh tế trong tình hình mới. Trong chiến lược phát triển kinh tế Đảng ta đã chỉ rõ "Chính sách tài chính quốc gia hướng vào nguồn tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, điều tiết quan hệ tích luỹ, tiêu dùng theo hướng tăng dần tỷ lệ tích luỹ…". Mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, vững chắc, trong đó mục tiêu huy động vốn phải gắn với tăng trưởng kinh tế, phải duy trì tỷ lệ huy động vốn 9-10%/ năm, cố gắng huy động một lượng vốn lớn, cố gắng huy động vốn trong nước từ 50%-60% tổng vốn huy động. Ngành ngân hàng phải tạo lập các nguồn huy động vốn tối đa, đặc biệt là vốn trung- dài hạn phục vụ đầu tư phát triển, làm sao ngành ngân hàng đáp ứng khoảng 60% trong tổng số vốn cần thiết của toàn xã hội phục vụ việc đổi mới công nghệ xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển các dự án công- nông nghiệp quan trọng. Tạo dựng những tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, mục tiêu từ nay đến năm 2020 của nước ta là ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Vì vậy tập trung mọi nguồn lực, phát huy nội lực, thực hiện tiết kiệm để đầu tư là vấn đề cấp thiết được đặt ra. Đây không chỉ là vấn đề của riêng nước ta mà theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới khi bước vào giai đoạn đầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì không nước nào lại không ở tình trạng thiếu vốn đầu tư một cách gay gắt. Thực tế, tốc độ công nghiệp hoá- hiện đại hoá của mỗi nước phụ thuộc vào mức độ, cách thức tạo vốn khả dụng của chính nước đó. Vì thế, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, mỗi quốc gia tự tìm cho mình biện pháp phù hợp để có thể huy động vốn và sử dụng vốn một cách tốt nhất, phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế và hiện đại hoá cơ sở kỹ thuật. Ngày trước, các nước đi đầu trong công nghiệp hoá phải mất hàng trăm năm, nhưng sau này chỉ mất vài chục năm. Trong vài thập kỷ gần đây, khi nói tới công nghiệp hoá người ta nói đến lợi thế của các nước đi sau trong việc tạo vốn để giải quyết có hiệu quả các vấn đề kinh tế xã hội, công nghệ kỹ thuật, môi trường sinh thái… Từ sự phân tích trên, chúng ta cần nhận thức rõ về thời cơ thuận lợi và khó khăn thực tế từ bên trong, lựa chọn khéo léo cách thức tạo vốn tối ưu cho nền kinh tế "mở" đang tăng trưởng tích cực ở nước ta. Vì thế cần xác định rõ ràng nguyên nhân của các hạn chế và thành công trong quá trình tạo vốn cho công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở một số nước không nằm trong việc sử dụng nguồn vốn nào mà chính việc chọn mô hình tăng trưởng kinh tế và hoạch định thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô trong đó có chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn mà nước đó theo đuổi. Lịch sử thế giới đã chứng minh: Một số nước do ỷ lại hoàn toàn vào đầu tư từ bên ngoài đã dẫn tới những thất bại và một số nước đạt những thành công về công nghiệp hoá- hiện đại hoá là do có sự độc lập tự chủ về kinh tế. Thực tế hiện nay cho thấy, ngân hàng là tác nhân quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Vì thế, cùng với các NHTM khác, chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình cần tăng cường khả năng huy động vốn của mình để góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là tăng cường vốn trung - dài hạn. Bên cạnh việc dồn vốn phục vụ đầu tư phát triển, chúng ta cần phải chăm lo đời sống của nhân dân và ổn định nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Điều đó càng gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng. Hơn bao giờ hết, nhiệm vụ tạo vốn phục vụ cho công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước đang là thách thức rất lớn đối với tất cả các ngành, các cấp trong đó có ngành ngân hàng. Khó khăn đối với nền kinh tế nước ta hiện nay là ngân sách Nhà nước vẫn còn bị thâm hụt, thị trường tiền tệ phát triển chậm chạp, một lượng vốn nhàn rỗi khá lớn trong dân chúng mà ngân hàng vẫn chưa huy động và kiểm soát được; mức độ đảm bảo an toàn, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ còn thấp, môi trường pháp lý chưa kiện toàn hoàn chỉnh; trình độ quản lý nợ và viện trợ nước ngoài, đầu tư xây dựng cơ bản còn bất cập; sức cạnh tranh về hàng hoá về thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trên thị trường quốc tế còn hạn chế. Do vậy để khắc phục những khó khăn trên, chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà ngân hàng tiếp tục triển khai sẽ căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Trong đó vấn đề phát triển khoa học công nghệ trên cơ sở dựa vào nguồn lực trong nước, đi đôi với mở rộng và hợp tác quốc tế nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực bên ngoài mà quan trọng nhất là cần đa dạng hoá mọi nguồn vốn cho công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo định hướng đề ra. NHNo&PTNT Ba Đình là một NHTM thuộc hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, mà đối tượng phục vụ chính của NHNo&PTNT Việt Nam là bà con nông dân. Nông nghiệp nước ta hiện nay còn lạc hậu so với các nước khác trên thế giới. Do vậy, nhu cầu đầu tư đổi mới công nghệ trong nông nghiệp là một đòi hỏi rất cấp bách hiện nay của nước ta. Là một chi nhánh nằm trên địa bàn thủ đô Hà Nội, chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình cần phải cố gắng hết sức để huy động được thật nhiều vốn phục vụ cho công cuộc đổi mới công nghệ trong nông nghiệp, nâng cao đời sống của bà con nông dân. 2. Định hướng trong công tác huy động vốn. Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi sự nỗ lực vươn lên của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế. Đất nước ta còn nghèo, mức thu nhập đầu người mới chỉ gần 300USD/ đầu người / năm, do đó tỷ lệ tích luỹ vốn còn thấp. Mặt khác để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn. Vì vậy công tác huy động vốn, đặc biệt là vốn trung - dài hạn luôn được nhấn mạnh là mục tiêu hàng đầu của ngành ngân hàng. Đây chính là một thách thức lớn của toàn ngành NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình nói riêng đã đặt mục tiêu cho công tác huy động vốn trong thời gian tới như sau: + Đáp ứng cao nhất về vốn phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đặc biệt là trong nông nghiệp. + Tạo lập một nguồn vốn vững chắc và ngày càng tăng trưởng nhằm phục vụ cho công tác tín dụng không ngừng phát triển và đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả. +Đáp ứng nhu cầu tăng trưởng nguồn vốn hàng năm cao hơn tốc độ tăng GDP. + Mở rộng, phát triển các dịch vụ ngân hàng. + Từng bước nâng cao tỷ lệ vốn ngắn hạn trong cơ cấu, huy động một cách tốt nhất nguồn vốn có chi phí thấp. + Khai thác sử dụng vốn một cách hiệu quả làm cơ sở tăng trưởng cho nguồn vốn huy động. + Xây dựng chiến lược kinh doanh, trước hết là chiến lược vốn phục vụ phát triển kinh tế đất nước. + Đa dạng hoá nguồn vốn, phương thức huy động vốn qua nhiều kênh. Để thực hiện các mục tiêu trên ngân hàng phải quán triệt các quan điểm chỉ đạo, phát huy nội lực trong nước là chủ yếu, bên cạnh đó kết hợp tiềm lực bên ngoài, đảm bảo sự thống nhất giữa các công tác huy động vốn và các mặt hoạt động khác, thực hiện tiết kiệm có hiệu quả phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam. NHNo&PTNT Ba Đình là một trong những chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, trên cơ sở định hướng phát triển nguồn vốn của NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Ba Đình đã xác định phương hướng, mục tiêu của mình như sau: Tăng cường huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, coi trọng công tác huy động vốn trung - dài hạn, đồng thời đẩy mạnh huy động nguồn vốn ngắn hạn đặc biệt là nguồn không kỳ hạn. Cụ thể nhiệm vụ năm 2004 của chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình là: + Phương hướng và mục tiêu tổng quát của chi nhánh: Xây dựng NHNo&PTNT Ba Đình thành một ngân hàng lớn mạnh hơn về quy mô, phạm vi hoạt động, năng lực tài chính tăng cường khả năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện để ngân hàng hoạt động lành mạnh có hiệu quả, góp phần giữ vững an toàn hệ thống, đáp ứng đủ vốn phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá. + Chính sách huy động vốn: Mở rộng mạng lưới huy động vốn là các phòng giao dịch, các quầy huy động vốn ở các khu dân cư tập trung. Tiếp cận các tổ chức kinh tế, trường học, bệnh viện, khu dân cư… là những nơi có tiềm năng về vốn, mặt khác tranh thủ sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức tín dụng ngoài hệ thống. Phấn đấu tăng trưởng nguồn vốn huy động lên 40% so với năm 2003 trong đó chú trọng tăng nguồn vốn huy động từ dân cư, dự kiến doanh số huy động vốn năm 2004 là 584.000 triệu đồng. + Chính sách khách hàng: Năm tới chi nhánh cố gắng mở rộng thị phần ở những khách hàng truyền thống, đồng thời không ngừng tìm kiếm mở rộng khách hàng mới. Làm tốt công tác tiếp thị: đi tiếp thị các đơn vị, tổ chức kinh tế đến mở tài khoản và giao dịch thanh toán, hoàn thiện công tác phân loại khách hàng, nghiên cứu thị trường từ đó đưa ra định hướng, chính sách huy động đối với từng loại khách hàng cụ thể. + Chính sách lãi suất: Thường xuyên nắm bắt nhanh nhậy lãi suất thị trường để điều chỉnh kịp thời, linh hoạt cơ chế lãi suất huy động một cách hợp lý nhằm khơi tăng nguồn vốn tiền gửi tiết kiệm, vừa đáp ứng yêu cầu cạnh tranh vừa đảm bảo yêu cầu hạch toán kinh doanh. Đồng thời chủ động đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đặc biệt chú trọng huy động vốn từ dân cư. Đưa lãi suất huy động và lãi suất cho vay đảm bảo đủ sức cạnh tranh, hiệu quả, hấp dẫn được khách hàng, đồng thời cần quán triệt nguyên tắc "Lãi suất - chi phí = hiệu quả"…. Với việc đề ra các phương hướng, mục tiêu cụ thể, nhất định trong năm tới chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình sẽ gặt hái được nhiều thành công mới về hoạt động kinh doanh nói chung và công tác huy động vốn nói riêng. II. Một số giải pháp. 1. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn: Trong thời gian qua, chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trên thực tế còn bộc lộ nhiều hạn chế cần được khắc phục. Trước tình hình mới này, việc đa dạng hoá hình thức huy động vốn là một trong những biện pháp để chi nhánh có thể huy động với lượng vốn lớn, cụ thể chi nhánh nên tiến hành đa dạng theo một số quan điểm sau: Ngân hàng cần tiếp tục phát huy các hình thức huy động truyền thống như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, các hình thức kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, các công cụ thanh toán và các giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành, đa dạng hoá thời hạn gửi cụ thể ngoài loại 3,6,9,12 tháng nên thêm loại dài hạn như 2, 3 hay 5 năm cùng với việc đưa thêm các yếu tố chuyển nhượng để thuận tiện cho việc bán lại của các cá nhân, doanh nghiệp hay các NHTM trước ngày đến hạn. Bên cạnh đó cần đưa ra nhiều hình thức huy động vốn mới như tiền gửi tiết kiệm xây nhà, tiền gửi tiết kiệm có thưởng…, và tiến tới trong điều kiện tiềm ẩn nguy cơ tái lạm phát nên thực hiện "Bảo tiền gửi" phát hành trái phiếu bên ngoài để vay vốn nước ngoài đồng thời mở rộng quan hệ với các ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính nước ngoài… Ngân hàng cũng cần quan tâm hơn nữa đến việc huy động tiền gửi qua tài khoản thanh toán, điều này cũng có nghĩa là khuyến khích dân cư làm quen với việc mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Thực tế cho thấy nếu thực hiện tốt công tác này sẽ tạo ra được một nguồn vốn lớn cho ngân hàng với chi phí huy động rẻ nhất. Để làm được điều này, trong điều kiện hiện nay cần quy định các tổ chức hành chính sự nghiệp kể cả kho bạc Nhà nước mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng tạo điều kiện cho ngân hàng sử dụng khối lượng tiền mặt tạm thời nhàn rỗi của các đơn vị này vào quá trình tài trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Sự tách bạch về việc thanh toán và mở tài khoản của hệ thống các cơ quan thuộc Ngân sách Nhà nước và thanh toán qua Kho bạc đã làm cho nền kinh tế thiếu vốn lại càng thiếu vốn hơn trong lúc đó tiền tạm thời nhàn rỗi trong hệ thống ngân sách lại không được tận dụng, tất nhiên trong trường hợp Kho bạc là thành viên của thị trường liên ngân hàng thì số tiền tạm thời nhàn rỗi đó vẫn được tận dụng đem lại hiệu quả cao. Hiện nay còn có nhiều doanh nghiệp có nguồn tiền lớn như bưu điện, điện lực, cấp nước… nên cần tổ chức thu qua hệ thống ngân hàng bằng cách yêu cầu người thanh toán mở tài khoản tại ngân hàng và thực hiện chuyển khoản, không cần đến cơ quan thu tiền của các tổ chức nói trên hay phải trực ở nhà để trả tiền trực tiếp qua người thu. Đơn vị thụ hưởng cũng tiết kiệm được chi phí khi phải đi thu qua từng hộ gia đình, từng đơn vị, còn các ngân hàng quản lý tài khoản của các đơn vị và cá nhân nói trên có thể sử dụng số tiền gửi của họ để tăng cường nguồn vốn huy động của mình. NHNo&PTNT Ba Đình nên có phương án để tiếp cận và triển khai theo hình thức này. Trong thời gian tới, ngân hàng nên tiến hành hình thức mở tài khoản tiền gửi cá nhân để trả lương đối với cán bộ công nhân viên, đây là hình thức đang được sử dụng phổ biến ở các nước phát triển nhưng hình thức này khá mới mẻ với các ngân hàng ở Việt Nam do nền kinh tế nước ta chưa phát triển, thu nhập của người dân chưa cao. Khi ngân hàng áp dụng hình thức mở tài khoản tiền gửi cá nhân để trả lương đối với cán bộ công nhân viên sẽ huy động thêm nguồn vốn kinh doanh trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi cá nhân và doanh nghiệp. Như vậy từ số dư tài khoản của doanh nghiệp tại ngân hàng, ngân hàng sẽ thực hiện việc chi trả lương cho nhân viên của doanh nghiệp. Đến kỳ phát lương doanh nghiệp sẽ gửi một bảng lương cho ngân hàng. Ngân hàng căn cứ vào bảng lương đó để trích tiền từ tài khoản của doanh nghiệp sang tài khoản của nhân viên mà họ đã mở tài khoản ở ngân hàng. Trong trường hợp nhân viên chưa có tài khoản tiền gửi, ngân hàng có thể đến tận nhà để tuyên truyền, khuyến khích họ mở tài khoản vừa có lợi cho doanh nghiệp là không phải đến ngân hàng rút tiền về phát lương, vừa có lợi cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp là an toàn và lại được hưởng thêm một phần lãi đối với số tiền chưa sử dụng đến tất nhiên ngân hàng phải đảm bảo bí mật số dư tài khoản của người gửi tiền. Để đa dạng hoá các hình thức huy động vốn ngân hàng cần phải đưa ra hình thức dịch vụ nhận và trả tiền ngoài giờ của ngân hàng (ngoài giờ hành chính, các ngày nghỉ, ngày lễ tết) áp dụng công nghệ tiên tiến cho mô hình ngân hàng hoạt động 24/24h để có thể thu hút tiền gửi của dân chúng bất cứ lúc nào trong ngày. Đồng thời, ngân hàng cần thử nghiệm hình thức thu nhận tiền tại nhà, tại văn phòng của doanh nghiệp, sau đó chính thức áp dụng ở những nơi có đủ điều kiện, vấn đề huy động vốn trung - dài hạn là vấn đề khó khăn đối với hệ thống NHTM nước ta hiện nay. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải có sự chú ý, quan tâm của các ngành, các cấp và Nhà nước. Trong năm 2003 vừa qua NHNo&PTNT Ba Đình đã đưa ra hình thức huy động mới đó tiền gửi bậc thang, theo hình thức này khách hàng có thể gửi tiền một lần nhưng được rút tiền làm nhiều lần nhưng không bị mất lãi, lãi suất được tính trên số dư của tài khoản theo từng bậc một. Trong thời gian tới chi nhánh nên đưa ra một số hình thức huy động khác như: gửi một lần rút lãi hàng tháng, gửi tiết kiệm theo niên kim cố định tức là tháng nào cũng gửi vào một số tiền nhất định vào một tài khoản với thời hạn trên một năm và được hưởng lãi suất có kỳ hạn…Có như vậy mới khuyến khích được khách hàng gửi tiền có kỳ hạn dài hơn, tạo nguồn vốn ổn định cho ngân hàng. Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới để đứng vững, tạo lòng tin với khách hàng chi nhánh phải đa dạng hoá nghiệp vụ huy động ngoại tệ. Bởi hiện nay khi nền kinh tế nước ta mở cửa, mở ra nhiều cơ hội giao lưu làm ăn buôn bán giữa các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức nước ngoài nên nhu cầu ngoại tệ ngày càng tăng. Trong lúc đó khả năng huy động ngoại tệ của chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình còn yếu, còn mới. Chính vì vậy chi nhánh cần đưa ra những hình thức huy động hấp dẫn và hết sức thuận lợi để không những huy động vốn của các tổ chức kinh tế và dân cư trong nước mà còn thu hút được vốn của các công ty nước ngoài, xí nghiệp kinh doanh và các cá nhân nước ngoài đang ở Việt Nam. Ngoài ra còn phải tích cực tìm nguồn vốn ngoại tệ từ nước ngoài bằng cách thông qua các hợp đồng vay vốn của các tổ chức tín dụng ngoài nước để đầu tư vào các dự án kinh tế. 2. Mở rộng quan hệ đại lý và mạng lưới huy động: Việc cạnh tranh để thu hút khách hàng là cần thiết đối với chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình. Mặc dù gặp một số bất lợi song công tác huy động vốn ở chi nhánh đã đạt những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên để công tác huy động vốn đạt thành quả tốt hơn, huy động được một lượng vốn lớn đòi hỏi trong thời gian tới chi nhánh cần mở rộng thêm mạng lưới huy động. Chi nhánh phải tiến hành xem xét những tuyến phố, những khu vực đông dân cư để đặt các quầy huy động, đặc biệt là các tuyến phố trong nội thành nơi có mật độ dân cư lớn, những nơi cách xa các chi nhánh ngân hàng. Hơn nữa hiện nay đang xuất hiện một số khu đô thị mới, việc mở rộng công tác huy động vốn của chi nhánh tới khu vực này sớm sẽ tạo điều kiện giúp cho chi nhánh huy động vốn tốt, đồng thời tạo lập uy tín của chi nhánh đối với khách hàng. ở một số khu vực nơi tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp…chi nhánh cũng nên bố trí các quầy tiết kiệm để huy động vốn được nhiều hơn nữa. Mặc dù cuộc sống sinh viên còn có nhiều khó khăn nhưng vì cuộc sống xa nhà nên họ thường phải dự trữ một lượng tiền đủ để trang trải các khoản sinh hoạt phí trong vài tháng. Quỹ tiết kiệm hoạt động không những đem lại an toàn cho đồng tiền của họ mà còn làm cho nó sinh lời. Như thế với một sinh viên thì số tiền huy động quá nhỏ những nếu tất cả sinh viên đều nhận thức được việc gửi tiền vào ngân hàng là có lời và đều gửi thì nguồn vốn của ngân hàng sẽ tăng lên một cách đáng kể. Tóm lại, để khơi tăng nguồn vốn huy động, bên cạnh việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn thì ngân hàng cũng cần phải đẩy mạnh và phát triển mạng lưới huy động tới khắp các khu vực kinh tế, các khu vực đông dân cư, các vùng ngoại thành- nông thôn. 3. Không ngừng đổi mới công nghệ Ngân hàng: NHNo&PTNT Ba Đình trong thời gian qua đã tích cực đổi mới công nghệ ngân hàng: Lắp đặt các trang thiết bị máy tính, nối mạng cục bộ, điện thoại, rút ngắn thời gian thực hiện nghiệp vụ, bỏ qua những khâu không cần thiết… Tuy nhiên trong thời gian tới chi nhánh cần tiếp tục phát huy theo hướng sau: Cải cách các thủ tục làm sao cho đơn giản, thuận tiện để quá trình thanh toán nhanh, có hiệu quả, tạo được niềm tin cho người gửi tiền. Tổ chức thực hiện các nghiệp vụ huy động tiền gửi một cách đồng bộ khoa học, phát triển công nghệ ngân hàng với hệ thống vi tính dàn trải khắp các phòng, trang bị các máy rút tiền tự động phục vụ yêu cầu rút tiền của khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác; cần rút ngắn thời gian thực hiện một nghiệp vụ, cắt bỏ những khâu không cần thiết. Về tổ chức cần cải tiến và đổi mới mô hình tổ chức cùng với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cần phát triển mạnh kinh doanh đa năng, không chỉ nhận tiền gửi cho vay theo lối truyền thống mà phải mở rộng thêm nghiệp vụ tín dụng thu mua, chuyển nhượng, tư vấn, môi giới, bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán. Với việc đổi mới công nghệ ngân hàng chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình sẽ đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, tạo được uy tín với khách hàng và kéo thêm được nhiều khách hàng gửi tiền. 4. Huy động vốn gắn liền với các mặt hoạt động của ngân hàng: Việc nâng cao chất lượng tín dụng, áp dụng những công nghệ hiện đại trong công tác thanh toán, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, phục vụ tốt nhất, nhanh nhất cho khách hàng…tất cả đều tạo cho ngân hàng một chữ tín nơi công chúng, có như vậy ngân hàng mới thu hút được khách hàng về với mình đó cũng là yếu tố quan trọng và quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng. Công tác huy động vốn phải gắn liền với sử dụng vốn: Việc sử dụng vốn có hiệu quả là cơ sở để ngân hàng thực hiện huy động vốn sau này. Nếu sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đảm bảo cho ngân hàng có khả năng trang trải cho nguồn vốn đã huy động đồng thời tạo ra uy tín của ngân hàng. Đây là cơ sở để ngân hàng áp dụng các biện pháp kinh tế trong công tác huy động vốn sau này. Hơn nữa, việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ thúc đẩy sự phát triển trong quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, từ đó ngày càng có nhiều khách hàng đến giao dịch và gửi tiền vào ngân hàng. Huy động vốn và sử dụng vốn gắn bó với nhau theo một nguyên tắc đó là sự tương ứng về thời hạn, nghĩa là nguồn vốn nào cho vay loại hình ấy, tuy nhiên trong điều kiện của NHTM nếu có nguồn vốn trung- dài hạn thừa thì có thể cân đối cho vay ngắn hạn, hoặc nếu có nguồn vốn ngắn hạn thường xuyên luân chuyển ngân hàng có thể "chiếm dụng" để sử dụng cho vay trung - dài hạn nhưng phải xem xét đề phòng rủi ro có thể xảy ra. Như đã phân tích ở chương II công tác cho vay trung - dài hạn nói riêng và công tác cho vay nói chung của chi nhánh còn chưa thực sự mạnh. Sự cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn đã được cải thiện nhiều song vốn còn chênh lệch. Do đó chi nhánh cần thiết phải tăng cường hoạt động tín dụng để từ đó có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình. Tóm lại, công tác huy động vốn cần có sự gắn bó chặt chẽ với các mặt hoạt động khác của ngân hàng, đặc biệt là sử dụng vốn. Có như thế chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình mới có thể phát triển nhanh và vững chắc trong thời gian tới. 5. Chiến lược khách hàng: Khác với những hoạt động sản xuất kinh doanh khác, trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng mang tính thường xuyên và lâu dài. Khả năng tồn tại và phát triển của Ngân hàng phụ thuộc chủ yếu vào chữ tín của khách hàng kể cả khách hàng gửi tiền và khách hàng vay tiền. Điều đó khẳng định chính sách khách hàng là một biện pháp quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, cụ thể như sau: Hiện nay ở chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình chưa có sự tách bạch giữa phòng nguồn vốn và phòng marketing ngân hàng (nghiên cứu khách hàng) chính vì thế công tác khách hàng chưa được quan tâm nhiều lắm. Để công tác huy động vốn có hiệu quả, chi nhánh nên sớm có phòng marketing ngân hàng riêng, hoạt động chuyên sâu, triển khai chính sách khách hàng thực sự có hiệu quả, đi vào nề nếp. Phòng này phải có các đồng chí cán bộ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ thường xuyên có giao dịch với khách hàng để nắm bắt được những yêu cầu đòi hỏi từ phía khách hàng. Từ đó có biện pháp đáp ứng kịp thời các yêu cầu đó. Ngày nay khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển thì việc khuyếch trương hoạt động quảng cáo, tuyên truyền là một việc làm rất cần thiết. Với phương châm "Mọi khách hàng là bạn đồng hành của Ngân hàng", "Chúng tôi chính là sự phát triển của các bạn", ngân hàng phải làm sao cho mọi người biết đến hoạt động của mình, cho người dân thấy được lợi ích khi giao dịch với khách hàng. Muốn vậy hoạt đông quảng cáo, tuyên truyền để mọi người hiểu biết rộng rãi về mọi hoạt động của ngân hàng là một việc làm cần thiết hơn bao giờ hết trong tình hình cạnh tranh khốc liệt giữa các NHTM hiện nay. Thế kỷ XXI có thể nói là thế kỷ bùng nổ công nghệ thông tin, công nghệ tin học phát triển nhanh chóng, đặc biệt là sự phát triển của mạng máy tính toàn cầu Internet, ngân hàng có thể sử dụng các các tiện ích mà mạng Internet mang lại. Trong thời gian tới chi nhánh nên có một kế hoạch xây dựng cho mình một trang web riêng, qua đó ngân hàng có thể quảng bá hình ảnh của mình tới công chúng, qua đó khách hàng có thể tìm kiếm, tra cứu các thông tin cần thiết về các chính sách của ngân hàng (chính sách sản phảm, chính sách lãi xuất …) tại bất cứ địa điểm và thời điểm nào mà khách hàng có thể truy cập Internet được. Chi nhánh cần phân loại khách hàng để có chính sách khuyến khích đối với khách hàng có số dư tiền gửi lớn, ổn định thông qua lãi suất, giảm phí thanh toán và các chế độ ưu tiên khác. Hàng năm cần tổ chức hội nghị khách hàng để củng cố mối quan hệ với khách hàng, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của khách hàng từ đó đưa ra được chiến lược khách hàng hợp lý hơn. Chi nhánh cố gắng cải tạo cơ sở vật chất khang trang hơn để tạo độ tin cậy với khách hàng, bố trí nơi làm việc khoa học, thuận tiện, gặp gỡ tặng quà với những khách hàng có số dư tiền gửi lớn, có quan hệ thường xuyên với ngân hàng trong những ngày lễ tết. Với những nhân viên ngân hàng có thành tích cao trong giao tiếp thì cũng được khen thưởng kịp thời. Để vạch ra chiến lược khách hàng và thực hiện nó một cách khoa học, có hiệu quả chi nhánh cũng cần phải có hòm thư đóng góp ý kiến của khách hàng, kịp thời chấn chỉnh những sai sót trong quá trình kinh doanh, phát huy những thành tích đã đạt được. 6. Chính sách cán bộ đúng đắn phù hợp với nhu cầu kinh doanh: Đây là một trong những chính sách được đề cao trong các chính sách của NHNo&PTNT Ba Đình. Chi nhánh luôn đặt hiệu quả của công việc gắn liền với quyền lợi và trách nhiệm mỗi cán bộ công nhân viên. Chính sách cán bộ đúng đắn là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo ra sự thành công của ngân hàng. Trong quá trình phát triển lâu dài, NHNo&PTNT Ba Đình cần tiếp tục xây dựng một đội ngũ cán bộ được đào tạo đồng bộ về nghiệp vụ ngân hàng, năm vững và sử dụng thành thạo máy vi tính, giỏi về ngoại ngữ,… nhằm phù hợp với những đòi hỏi mới. Có những hình thức khen thưởng kịp thời để khuyến khích sự năng động sáng tạo, bên cạnh đó là các hình thức sử phạt nghiêm minh những việc làm sai trái, tạo lập môi trường làm việc thuận lợi hơn nữa mà ở đó mọi người đều có mối quan hệ tốt trong công việc. Về thái độ phục vụ của nhân viên cũng cần phải thay đổi nhất là các nhân viên tiếp xúc thường xuyên, trực tiếp hàng ngày với khách hàng, những nhân viên đó đòi hỏi cần phải nhiệt tình, vui vẻ, lịch sự, cởi mở, tận tâm và có trình độ. Đồng thời phải thay đổi phong cách phục vụ để khi khách hàng bước vào ngân hàng họ luôn cảm nhận được điều đó, phục vụ làm sao để họ cảm thấy thoải mái khi bước ngân hàng. Tổ chức cán bộ cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ một cách hệ thống theo tiêu chuẩn quy định, cán bộ làm công tác nguồn vốn phải hiểu biết nhiều mặt nghiệp vụ, có khả năng xử lý mọi tình huống công tác một cách thành thạo, giải đáp từng thắc mắc của người gửi tiền… Những người làm công tác huy động phải thành thạo tỷ lệ tiết kiệm, được đào tạo về tin học, về thanh toán không dùng tiền mặt… Nhân viên tại quỹ huy động vốn cơ sở phải được phổ cập các kiến thức cơ bản về huy động vốn, lãi suất, tín dụng, tỷ giá hối đoái, ngoại tệ,… phải hiểu biết và giải thích được cho khách hàng các hình thức huy động vốn, nêu bật được lợi ích của việc gửi tiền… Nói tóm lại, cán bộ ngân hàng cần phải tích cực hoạt bát, lịch sự khi giao tiếp, trên cơ sở đó tăng cường tín nhiệm, thắt chặt mối quan hệ bạn hàng lâu dài. Như thế, ngân hàng đã có một chính sách cán bộ đúng đắn, phù hợp với nhu cầu kinh doanh, tạo được niềm tin với khách hàng, giúp ngân hàng khơi tăng nguồn vốn để đầu tư và sử dụng vốn cho nền kinh tế. 7. Chính sách lãi suất: Chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng của ngân hàng. Vì thế các ngân hàng luôn phải tìm cách duy trì lãi suất cạnh tranh, dành vốn không chỉ với nhau mà còn với các tổ chức tiết kiệm và người phát hành các công cụ khác nhau của thị trường vốn. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, cho dù chỉ có một sự khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiền tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn mà họ đang có từ một tổ chức tiết kiệm này sang một tổ chức khác. Mặt khác, ngân hàng cũng cần có chính sách lãi suất ưu đãi đối với những khách hàng quen, khách hàng có số dư tiền gửi cao, gửi trong thời gian dài…còn trong thời gian tới khi dịch vụ ngân hàng đã được hiện đại hoá thì ngân hàng không nên trả lãi đối với loại tài khoản tiền gửi không kỳ hạn nhưng đồng thời ngân hàng cũng không nên yêu cầu khách hàng trả lệ phí dịch vụ cho những khoản thanh toán này, có như thế mới khuyến khích dân chúng gửi tiền vào ngân hàng và tạo thành thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng trong hoạt động giao dịch mua bán và thanh toán. Cuối cùng ngân hàng cần có những quy định cụ thể trong việc công bố lãi suất để người dân theo dõi một cách dễ dàng hơn. Nếu có một sự thay đổi nào cũng nên tiến hành công bố vào một thời điểm nhất định và phải thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân nắm bắt kịp thời. Mặt khác, khi ban hành một chính sách lãi suất mới thì nên có chính sách cho người gửi tiền trước đó cũng được hưởng mức lãi suất mới kể từ ngày ban hành, còn thời gian trước đó vẫn hưởng theo mức lãi suất cũ. Như thế tuy có phức tạp cho việc tính toán của cán bộ ngân hàng nhưng sẽ khuyến khích người dân gửi tiền mà không lo sợ đồng tiền mất giá. III. Một số kiến nghị. 1. Đối với Chính phủ. Trong công tác huy động vốn đầu tư cho phát triển kinh tế thì nguồn vốn lớn nhất mà các ngân hàng có thể huy động được là các khoản tiền gửi, các khoản tiền tiết kiệm của các tổ chức, các cá nhân…Đây là những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi hoặc những khoản tích luỹ của dân cư. Vì vậy để có thể huy động vốn thì ngoài việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Nhà nước còn phải có các chính sách nhằm thu hút vốn, biện pháp hữu hiệu ngăn chặn xài sang lãng phí, tệ nạn tham ô …để nâng cao tích luỹ. Khi đã có những khoản tích luỹ thì cần phải có các biện pháp thu hút vốn để biến chúng thành những khoản đầu tư phục vụ cho phát triển kinh tế. Vì vậy, để huy động được những khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư, thu hút người dân gửi tiền vào ngân hàng thì một vấn đề mang ý nghĩa quyết định đó là phải thực hiện ổn định kinh tế, kiềm chế lạm phát hoặc có một cách thức bảo toàn vốn cho người gửi tiền được quy định một rõ ràng để tạo lòng tin và sự yên tâm của công chúng khi ngân hàng nắm giữ các khoản vốn của họ. Nhà nước cần ban hành và thực hiện một cách đồng bộ các văn bản pháp quy trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng. Trong khi thực hiện chính sách tiền tệ cần hướng đến việc loại bỏ các công cụ điều hành trực tiếp, tiến đến sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tài chính - tiền tệ. Ngoài những biện pháp trên, Nhà nước cũng cần có những quy định về việc xử lý những việc làm sai trái của NHTM mà cụ thể và trực tiếp là các cán bộ ngân hàng. Bên cạnh đó cũng cần có những chính sách khen thưởng rõ ràng, tránh tình trạng người làm đúng bị quy kết trách nhiệm. Những vụ bê bối trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong thời gian vừa qua có nguyên nhân không nhỏ là sự tiếp tay của các cán bộ tín dụng ngân hàng đã làm thất thoát tài sản của Nhà nước cũng như gây ra sự xáo trộn nền kinh tế, làm mất lòng tin của công chúng với ngân hàng…Đó là những bài học lớn cho hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam. Chính vì vậy, hoạt động của các ngân hàng phải được đặt trong một môi trường pháp lý phù hợp với những đòi hỏi hiện tại. Bộ luật về NHTM và bộ luật về các tổ chức tín dụng ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01/10/1998 sẽ tạo một bước mới trong hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM cũng như trong việc thực thi chính sách tài - tiền tệ của NHNN Việt Nam. Ngoài ra, NHNN cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát hoạt động của các NHTM. Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Nó có thể tạo thuận lợi đến công tác huy động vốn nhưng đồng thời cũng có thể cản trở làm hạn chế đến kết quả huy động vốn. Như thế sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện tiền đề cơ bản và quan trọng nhất cho mọi sự tăng trưởng nói chung và cho việc đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn vào ngân hàng. Đối với Việt Nam hiện nay, một trong những nội dung của việc tạo lập ổn định nền kinh tế vĩ mô là kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ, nó là điều kiện cho việc thực thi có hiệu quả các giải pháp nhằm huy động vốn của ngân hàng. Thực tế trong thời gian qua cho thấy Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành có liên quan đã có nhiều cố gắng trong việc tạo lập, duy trì sự ổn định tiền tệ. Các ngân hàng bước đầu đã sử dụng một số công cụ của chính sách tài chính- tiền tệ như lãi suất, tỷ giá hối đoái…để ổn định nền kinh tế và đã có những kết quả đáng khích lệ. Hiện tượng phát hành tiền vào lưu thông để bù đắp chi tiêu ngân sách Nhà nước đã không còn nữa, phần nào làm cho tiền tệ ổn định, giảm được tỷ lệ lạm phát. Vì thế trong giai đoạn hiện nay cần phải điều chỉnh các công cụ và chính sách một cách linh hoạt để nó dễ dàng thích nghi được với những biến động nhanh chóng của nền kinh tế, đồng thời tác động mạnh mẽ tới việc khơi tăng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy để phát triển nền kinh tế công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì vấn đề huy động vốn, hình thành và phát triển thị trường vốn là cần thiết. Kể từ khi nền kinh tế của nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước, nền kinh tế đã có những thành tựu đáng khích lệ; tốc độ phát triển kinh tế năm sau cao hơn năm trước, đời sống nhân dân được cải thiện nhiều, các đơn vị kinh tế đã được tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chủ tạo lập nguồn vốn và sử dụng chúng có hiệu quả. Tuy nhiên với cơ chế huy động vốn như hiện nay thì không thể đáp ứng theo nhu cầu nền kinh tế đặt ra, đặc biệt là nguồn vốn trung - dài hạn. Như thế việc hình thành và phát triển thị trường vốn theo đúng nghĩa của nó là việc làm cần thiết. Thị trường vốn được hình thành và phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán, mặt khác đây là nơi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của mình thành tiền mặt một cách nhanh chóng nhất, các doanh nghiệp có đủ điều kiện sẽ được phát hành chứng khoán của mình thông qua việc đấu thầu của các trung gian hoặc bán trực tiếp của nhà đầu tư. Người sở hữu chứng khoán có thể bán chứng khoán của mình ở sở giao dịch, thông qua thị trường vốn sẽ tạo kênh cho mọi nguồn vốn xã hội chảy đến những nơi có nhu cầu đầu tư, sử dụng vốn có hiệu quả và với giá rẻ nhất nhằm thúc đẩy sản xuất cũng như các hoạt động, dịch vụ. Ngân hàng cũng có thể mở rộng khả năng huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ như: trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng. Hơn nữa hiện nay nguồn vốn huy động của các ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, công tác huy động vốn trung - dài hạn gặp nhiều khó khăn, chính vì thề ngân hàng cũng có nhiều trở ngại để cho vay trung - dài hạn. Mặt khác khả năng thanh toán của trái phiếu không đơn giản, nếu có thị trường vốn tập trung, việc phát hàng và mua bán lãi các trái phiếu theo đúng tính chất thị trường thì việc huy động vốn đặc biệt là vốn trung - dài hạn sẽ thuận lợi hơn cho các NHTM. 2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực hết sức phức tạp và có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Quản lý và giám sát hoạt động của các ngân hàng là cần thiết nhưng việc quản lý không tốt, không phù hợp dễ gây ra những sai lệch về thị trường tài chính - tiền tệ, ảnh hưởng chung đến nền kinh tế cũng như gây ra không ít khó khăn trong hoạt động của các NHTM. Để tăng tính chủ động cho các NHTM hoạt động trong một hành lang kinh doanh rộng hơn, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành cơ chế lãi suất thoả thuận. Đây là quyết định đúng đắn của Ngân hàng Nhà nước trong tình hình mới hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Những công cụ như: Hạn mức tín dụng, lãi suất…là những công cụ điều hành trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước. Việc loại bỏ chúng và thay bằng những công cụ gián tiếp: Dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở…sẽ làm cho việc điều hành chính sách tài chính- tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước được linh hoạt và hiệu quả hơn. Quản lý kinh doanh ngoại tệ là một nghiệp vụ rất quan trọng của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định tỷ giá hối đoái, tuy nhiên các công cụ quản lý của nhà nước nên hướng tới việc sử dụng các công cụ thị truờng (các công cụ gián tiếp) hơn là việc sử dụng các công cụ trực tiếp như nước ta hiện nay. Ngân hàng Nhà nước nên cho phép các NHTM được tự do kinh doanh ngoại tệ, tạo điều kiện cho công tác huy động vốn ngoại tệ của các NHTM. 3. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam. Mở thêm nhiều địa điểm đặt máy ATM. Giải pháp này tuy cần một lượng đầu tư ban đầu lớn song tác dụng và hiệu quả của nó sẽ được phát huy trong thời gian dài, đồng thời nó cũng làm tăng thêm uy tín của ngân hàng nói chung và trong công tác huy động vốn nói riêng. Khi ngân hàng thỏa mãn được nhu cầu rút tiền của khách hàng sẽ khuyến khích khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán, qua đó ngân hàng có thể huy động được nguồn này nhiều hơn. Cho phép các ngân hàng chi nhánh mở thêm các phòng giao dịch. Mở thêm các phòng giao dịch tuy làm tăng chi phí nhưng nó có tác dụng tạo ra hình ảnh của một ngân hàng có quy mô lớn từ đó tạo niềm tin cho khách hàng đối với ngân hàng. Đồng thời, việc tăng số lượng các phòng giao dịch sẽ làm cho ngân hàng đến gần hơn với những người có tiềm năng về vốn. Tổ chức thêm các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên của chi nhánh. Kết luận Một lần nữa khẳng định công tác huy động vốn có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Nếu coi NHTM là tổ chức nhận tiền gửi để cho vay thì vốn được coi là nguyên liệu đầu vào cho quá trình kinh doanh còn công tác huy động vốn được coi là công tác tạo nguồn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Quy mô, cơ cấu, tính chất của nguồn vốn huy động ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu, tính chất của các khoản cho vay tín dụng của ngân hàng. Vì vậy công tác huy động vốn không chỉ là một hoạt động đơn thuần mà nó còn quyết định rất lớn đến hiệu quả của các mặt hoạt động khác. Hiện nay công tác huy động vốn của các NHTM Việt Nam thường chỉ huy động được các khoản vốn ngắn hạn bằng các hình thức truyền thống như: Nhận tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu-trái phiếu … điều đó đã không đáp ứng được những đòi hỏi về vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Vì vậy công tác huy động vốn cần phải huy động được những khoản vốn có thời hạn dài để đầu tư trung - dài hạn đang là vấn đề cấp thiết được đặt ra với các NHTM nói chung và NHNo&PTNT nói riêng. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước, chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình đã chú trọng tới công tác huy động vốn. Tuy vậy do tác động của nhiều yếu tố chủ quan cũng như khách quan nên chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình vẫn chưa khai thác được tối đa tiềm năng vốn nhàn rỗi đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Trên cơ sở lý luận về hoạt động NHTM trong nền kinh tế thị trường, các hình thức huy động vốn của NHTM, tôi đã tiến hành đánh giá một cách tương đối toàn diện về thực trạng công tác huy động vốn của chi nhánh NHĐT&PT Thăng Long trong ba năm gần nhất 2001 - 2003. Những thành tựu đã đạt được cũng như những tồn tại trong công tác huy động vốn trong thời gian qua đã được phân tích cụ thể. Những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác huy động vốn, đồng thời có nêu một số kiến nghị góp phần hoàn thiện công tác huy động vốn của ngân hàng. Như đã phân tích ở trên muốn đạt được hiệu quả cao trong công tác huy động vốn thì không chỉ đòi hỏi sự cố gắng của bản thân các ngân hàng mà còn cần sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp và sự quan tâm của toàn xã hội. Với những số liệu thực có tại chi nhánh tôi đã viết chuyên đề này. Song do trình độ bản thân còn hạn chế, thời gian chuẩn bị không nhiều nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Do đó tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để bài viết này được hoàn thiện hơn và bản thân tôi cũng có cách nhìn nhận đúng đắn hơn khi bước vào công tác. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của tập thể cán bộ chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình cùng với sự chỉ bảo dạy dỗ tận tình của các thầy cô giáo đặc biệt là thầy giáo - GS.TS. Nguyễn Hữu Tài đã giúp tôi hoàn thành báo cáo thực tập này. Danh mục Tài liệu tham khảo - Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - Frederic. S. Mishkin - Ngân hàng thương mại - Eward.W.Reed và Eward K. Gill - Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - Khoa Ngân hàng Tài chính - Giáo trình Ngân hàng thương mại quản trị & nghiệp vụ - Tạp chí Ngân hàng. - Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ - Các số liên quan. - Báo cáo thường niên của chi nhánh NHNo & PTNT Ba Đình các năm 2001 - 2003 - Những vấn đề cơ bản về hoạt động Ngân hàng - NXB Thống kê. - Giáo trình lý thuyết tiền tệ - Trường đại học Tài Chính - Kế toán Hà Nội. - Giáo trình quản lý và kinh doanh tiền tệ - Trường đại học Tài Chính - Kế toán Hà Nội. - Ngân hàng trong nền kính tế thị trường - NXB Thống Kê. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0279.doc
Tài liệu liên quan