Trong thời gian thực tập tại NHCT-Thanh Xuân,kết hợp với những lý thuyết đã được học tại trường em đã hoàn thành song đề tài luận văn "Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động huy động vốn tại chi nhánhNHCT-Thanh Xuân".Qua đó giúp em có thêm một số kiến thức thực tế về hoạt động huy động vốn tại các NHTM hiện nay.
70 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1090 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Với sự phong phú đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đến gửi tiền
Hình thức huy động có kỳ hạn được người dân ưa chuộng hơn,sử dụng nhiều hơn hình thức huy động không kỳ hạn,điều này được giải thích :phần lớn nguời dân trong địa bàn gửi tiền vào ngân hàng với mục đích hưởng lợi nhuận chứ không phải để giao dịch do đó khi có mức chênh lệch về lãi suất giữa các hình thức huy động họ sẽ lựa chọn hình thức nào có lãi suất cao hơn để gửi.
Trên thực tế lãi suất tiền gửi không kỳ hạn bao giờ cũng thấp hơn lãi suất của khoản tiền gửi có kỳ hạn,do ngân hàng khi cho vay đều là những khoản có thời gian xác định,nguồn huy động không kỳ hạn người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào nên rủi ro về thanh khoản của nguồn này là cao hơn các nguồn tiền gửi có kỳ hạn
Đối với tiền gửi không kỳ hạn lãi trả được tính theo phương pháp tích số.
số tiền lãi phải trả = tổng tích số dư được tính lãi *lãi suất tháng/30 ngày.
Đối với tiền gửi có kỳ hạn lãi được tính tròn theo tháng hoặc năm.
số tiền lãi phải trả = số dư * lãi suất tháng(hoặc năm) *thời gian gửi(tháng,năm)
Qua bảng 4 ta cũng thấy số tiền gửi với kỳ hạn ngăn 12 tháng.Trên thực tế nhu cầu về vốn trên địa bàn và các dự án chi nhánh đầu tư đều đòi hỏi phải có nguồn vốn dài hạn,nếu chi nhánh chỉ huy động được từ nguồn ngắn hạn thì đây cũng là khó khăn với ngân hàng,ngân hàng chỉ có thể đem một phần nguồn vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn mà không thể đem hết nguồn ngắn hạn đi đầu tư dài hạn được,mặc dù đã phân tích,xem xét kỹ đến vòng quay,tính luân chuyển của đồng vốn.
chi nhánh xem là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động Để khắc phục tình trạng đó chi nhánh cũng đã có những chính sách lãi suất linh hoạt trong khuân khổ cho phép,nên nguồn huy động dài hạn > 12 tháng cũng dần tăng,năm 1997 chi nhánh con số huy động dài hạn đối với nội tệ là 0,đến năm 2001 con số này là 92.120 triệu đồng.Đối với ngoại tệ tiền gửi dài hạn > 12 tháng cũng tăng qua các năm,mặc dù lãi suất huy động ngoại tệ luôn thấp hơn lãi suất huy động nội tệ nhưng do tỷ giá USD/VND có xu hướng tăng khiến dân chúng ưu thích gửi ngoại tệ .
Lãi suất luôn là yếu tố mang tính nhạy cảm ,chỉ cần một sự thay đổi nhẹ trong lãi suất sẽ ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của chi nhánh,do đó lãi suất luôn được huy động vốn,lãi suất luôn là lãi suất thực dương,được xác định theo tín hiệu thị trường có tính đến mối quan hệ cung cầu về vốn với nguyên tắc ngươì gửi tiền và ngân hàng cùng có lợị.
3.2/Tiền gửi của các doanh nghiệp
Bảng 5 biến động của tiền gửi của các doanh nghiệp từ năm 1997-2001
(nguồn số liệu lấy từ phòng kinh doanh)
Đơn vị :triệu đồng.
Năm
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng tiền gửi của các doanh nghiệp
23.615
63.650
54.292
130.862
159.364
tăng trưởng tuyệt đối
40.035
-9.358
76.570
28.502
tỷ lệ tăng trưởng
100%
269,53%
85,29%
241,03%
121,78%
Nhìn vào bảng 5 ta thấy nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế biến động như sau:năm 1997 lượng tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 23.615 triệu đồng,năm 1998 đạt 63.650 triệu đồng,tăng 40.035 triệu đồng so với năm 1997,tỷ lệ tăng trưởng là 269,53%;năm 1999 đạt 54.292 triệu đồng,giảm 9.358 triệu đồng so với năm 1998,tốc độ tăng trưởng là 85,29%;năm 2000 đạt 130.862 triệu đồng,tăng 76.570 triệu đồng so với năm 1999,tốc độ tăng trưởng là 241,03%;năm 2001 đạt 159.364 triệu đồng,tăng 28.502 triệu đồng so với năm 2000,tốc độ tăng trưởng đạt 121,78%.
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng trưởng khồn ổn định qua các năm,đặc biệt năm 1999 giảm 9.358 triệu đồng so với năm 1998,có hiện tượng này là do tình hình kinh tế năm 1999 diễn biến phức tạp,giảm phát kéo dài trong những tháng đầu năm,trong năm 1999 NHTW đã 4 lần giảm lãi suất để kích cầu,lãi suất cho vay của các NHTM giảm 2 lần trong vòng 4 tháng(1/2;1/6),làm cho dư nợ tín dụng tăng khá hơn so với những tháng đầu năm.
Lãi suất huy động của ngân hàng giảm đáng kể đã kích thích các doanh nghiệp chuyển số tiền dự định gửi tiết kiệm vào đầu tư và tiêu dùng,làm cho lượng tiền gửi của các doanh nghiệp trong năm 1999 giảm xuống nhưng sự sụt giảm này cũng chỉ là tạm thời.
Từ cuối năm 2000 đến đầu 2001 nền kinh tế nước ta đã phục hồi và phát triển với tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước(GDP) đạt 6,8% so với năm 2000.Trong đó khu vực công nghiệp-xây dựng tăng 10,4%,khu vực nông,lâm nghiệp,thuỷ sản tăng 2,7%;khu vực dịch vụ tăng 6,1%.Tuy chưa đạt được mục tiêu tăng trưởng 7,5% do quốc hội đề ra nhưng tốc độ tăng trưởng của năm 2001vẫn đạt cao hơn tốc độ tăng trưởng của 3 năm trước(năm 1998 tăng 5,8%;năm 1999 tăng 4,8%;năm 2000 tăng 6,7%)sự tăng trưởng đó tạo thông thoáng cho các doanh nghiệp.
Từ năm 2000 đến nay chi nhánh càng ngày càng thu hút được nhiều khách hàng có uy tín,tình hình tài chính lành mạnh,làm ăn có hiệu quả,có một số lượng lớn khách hàng đến mở tài khoản giao dịch tại chi nhánh:kho bạc nhà nước quận Thanh Xuân,điều này khiến cho mức giao dịch vốn qua ngân hàng tăng lên. Nếu tình hình kinh tế tăng trưởng ổn định trong tương lai tiền gửi của các doanh nghiệp sẽ tăng lên.
Xác định được vai trò của tiền gửi các tổ chức kinh tế trong tổng nguồn vốn,từ đó chi nhánh có những chính sách ưu đãi hợp lý trong chính sách vay vốn,chính sách lãi suất,thanh toán và goạt động giao dịch khác,đã thu hút các tổ chức kinh tế đến gửi tiền vào chi nhánh(tổng công ty xây dựng Sông Đà,Bóng đèn phích nước Rạng Đông...).
Bảng 6 kết cấu nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp từ năm 1999-2001
(nguồn số liệu lấy từ phòng kinh doanh)
đơn vị :triệu đồng.
Năm
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng nguồn vốn
23.615
63.650
54.292
130.802
159.364
Nội tệ
16.188
63.172
128.989
156.077
không kỳ hạn
1.342
57.294
104.733
146.075
kỳ hạn
14.846
5.878
kỳ hạn <12 tháng
23.559
9.406
kỳ hạn >12 tháng
0
0
697
596
Ngoại tệ
7.472
478
1.813
3.287
không kỳ hạn
3.526
121
1.519
2.097
kỳ hạn
3.901
357
kỳ hạn <12 tháng
100
899
kỳ hạn >12 tháng
0
0
194
291
Nhìn vào bảng 6 ta thấy tiền gửi của các tổ chức kinh tế rất đa dạng về hình thức:nội tệ,ngoại tệ,có kỳ hạn,không kỳ hạn...trong đó tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng lớn do:
Tiền gửi của các doanh nghiệp bắt nguồn chủ yếu từ các nguồn tạm thời nhàn rỗi,doanh nghiệp gửi vào ngân hàng để đảm bảo an toàn,một phần không
nhỏ số tiền được gửi vào ngân hàng để thực hiện các giao dịch,tận dụng các tiện ích của ngân hàng,mục tiêu gửi tiền của các đối tượng này không vì mục tiêu lãi suất nên vấn đề lãi suất không quan trọng,gửi tiền vào cũng để tránh tình trạng ứ đọng về vốn trong thời gian ngắn.
Mặc dù chi nhánh đã đa dạng hoá các loại hình dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp,dịch vụ tiền gửi quản lý và giữ hộ,tiền gửi vốn chuyên dụng...nhưng chưa được các doanh nghiệp sử dụng,điều này làm ảnh hưởng giảm nguồn vốn huy động của chi nhánh.
Để huy động tối đa nguồn này chi nhánh đã tạo mọi điều kiện để giúp đỡ các doanh nghiệp bằng các công nghệ hiện đại,nhằm giúp các doanh nghiệp có điều kiện cạnh tranh lành mạnh đem lại hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh.
Chi nhánh có chính sách ưu đãi về vật chất cụ thể cho từng nhóm khách hàng,phù hợp với chiến lược kinh doanh trong từng thời kỳ.
Đối với khách hàng có uy tín,giao dịch thường xuyên với các giao dịch vay mượn,thanh toán,mua bán ngoại tệ,tiền gửi tại chi nhánh có giá trị lớn thì chi nhánh giảm lãi suất tiền vay,tăng lãi suất tiền gửi,giảm phí phục vụ,giảm mức ký quỹ mở L/C,ưu tiên trong việc cung ứng,mua bán chuyển đổi ngoại tệ để giữ khách hàng.
Chi nhánh luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền theo yêu cầu,đảm bảo đầy đủ đúng hạn vốn và lãi của mọi khoản tiền gửi.
Đảm bảo bí mật số dư tiền gửi của khách hàng,từ chối việc điều tra,chuyển tiền gửi...mà không được sự đồng ý của khách hàng,trừ trường hợp pháp luật quy định.
3.3/Phát hành kỳ phiếu.
Bên cạnh huy động vốn bằng những hình thức truyền thống:tiền gửi dân cư,tiền gửi của các tổ chức kinh tế,chi nhánh còn phát hành kỳ phiếu,chủ yếu là kỳ phiếu mục đích để huy động vốn trên thị trường.Đây là một trong những hình thức huy động vốn dài hạn chưa được sử dụng nhiều trong các NHTM,hiện nay ở nước ta hình thức này không mang tính chủ động của các NHTM mà phát hành phụ thuộc chủ yếu vào chính sách của NHTW.
Theo quyết định 68/QQĐ-HĐBT-NHCT kỳ phiếu mục đích có một số đặc điểm sau:
Kỳ phiếu mục đích bằng tiền Việt Nam và bằng ngoại tệ của NHCT- Việt Nam phát hành khi được thống đốc NHTW cho phép.Kỳ phiếu mục đích là chứng chỉ nhận nợ của NHCT đối với người mua,có quy định mệnh giá,thời hạn và lãi suất.
Kỳ phiếu được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua,bán,cho,tặng,thừa kế.
Mọi công dân Việt Nam và cá nhân người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt Nam trên 12 tháng đều là đối tượng mua kỳ phiếu của NHCT,số tiền mua không hạn chế mức tối đa.
Kỳ phiếu mục đích của NHCT có thời hạn tối thiểu là 3 tháng.
Kỳ phiếu mục đích của NHCT được trả lãi dưới 3 hình thức:trả lãi trước,trả lãi sau,trả lãi từng định kỳ.
Bảng 7 Tiền phát hành kỳ phiếu từ năm 1997-2001
(nguồn số liệu lấy từ phòngkinh doanh)
đơn vị:triệu đồng.
Năm
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng vốn huy động
132.110
256.787
333.066
472.050
625.241
Tổng vốn huy động từkỳphiếu
8.621
11.870
760
0
14.496
VND
8.621
4.229
12
0
14.496
USD
0
7.641
748
0
0
Tỷ trọng so với tổng nguồn vốn huy động
6,53%
4,62%
0,23%
0%
2,32%
nhìn vào bảng 7 ta thấy nguồn vốn này không cao,chiếm một tỷ trọng nhỏ so với tổng nguồn vốn,đây là nguồn không thường xuyên
Kỳ phiếu mục đích chỉ được phát hành nhằm vào một mục đích cụ thể nào đó như:phục vụ cho công trình,dự án của nhà nước,khi có nhu cầu phát hành chi nhánh sẽ được chỉ thị từ cấp trên.
Năm 1997 theo chỉ thị của NHCT-Việt Nam chi nhánh đã phát hành 8.621 triệu đồng tiền kỳ phiếu,năm 1998 phát hành thêm đạt 11.870 triệu đồng tiền kỳ phiếu,tăng 3.249 triệu đồng kỳ phiếu so với năm 1997,số kỳ phiếu năm 1999 chỉ là số dư còn lại do chưa đến kỳ hạn thanh toán của năm trước để lại,sang năm 2000 nguồn này đã được thanh toán hết,thì nguồn huy động hộ theo chỉ thị của chi nhánh đã hoàn thành và chuyển giao.
Năm 2001 theo chỉ thị của NHCT _ Việt Nam,chi nhánh lại tiếp tục phát hành kuỳ phiếu và huy động được 14.498 triệu đồng làm cho nguồn này tăng song so với tổng nguồn vốn huy động không đáng kể chỉ chiếm 2,23% tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh.
Nhìn chung hình thức huy động vốn bằng cách phát hành các công cụ nợ trên thị trường của chi nhánh còn hạn chế,mới chỉ dừng lại ở hình thức huy động bằng cách phát hành kỳ phiếu mục đích để thực hiện các mục tiêu của nhà nước,phát hành kỳ phiếu không mang tính chủ động của chi nhánh.
Việc huy động vốn từ tiền gửi dân cư và các tổ chức kinh tế có ưu thế hơn so với việc phát hành công cụ nợ trên thị trường nên được chi nhánh quan tâm ,tuy nhiên việc huy động vốn bằng cách phát hành công cụ nợ sẽ giúp chi nhánh có được những nguồn vốn dài hạn.
3.4/ Huy động từ các nguồn khác.
Bảng 8 Tiền vốn huy động khác từ năm 1997-2001
(nguồn số liệu lấy từ phòngkinh doanh)
đơn vị : triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
200
2001
Tổng vốn huy động
132.110
256.787
333.066
472.050
625.241
huy động từ nguồn khác
1.573
2.551
0
0
5.543
tỷ lệ so với tổng nguồn huy động
1,2%
1%
0%
0%
0,88%
Từ bảng 8 ta có thể thấy đây là nguồn có tỷ trọng nhỏ nhất so với tổng nguồn vốn huy động,biến đổi không ổn định qua các năm:năm 1997 nguồn này đạt 1.573 triệu đồng,chiếm 1,2% tổng nguồn vốn huy động,năm 1998 đạt 2.551 triệu đồng,tăng 978 triệu đồng so với năm 1997,nhưng tỷ trọng vẫn rất nhỏ so với tổng nguồn vốn huy động,chỉ chiếm 1% tổng vốn huy động;năm 1999,2000 chi nhánh không huy động từ các nguồn này,năm 2001 nguồn này đạt 5.543 triệu đồng,chiếm 0,88% so với tổng nguồn vốn huy động.
So với các nguồn huy động khác thì đây là nguồn có chi phí thấp,chi nhánh có thể sử dụng cho vay với thời gian ngắn khi nó chưa đến kỳ thanh toán,góp phần làm tăng lợi nhuận của chi nhánh.
4/Chi phí nguồn.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mọi NHTM,chi phí nguồn luôn gồm có chi phí huy động vốn,chi phí hợp lý,hợp lệ khác.Để đánh giá và lựa chọn được nguồn vốn huy động hợp lý,tối ưu nhất các NHTM đều phải tính đến chi phí huy động vốn,trong chi phí huy động vốn phải kể đến lãi suất huy động và chi phí giao dịch.
Trong chi phí của chi nhánh chi phí trả lãi luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí hoạt động của chi nhánh,biết được điều này để từ đó ban lãnh đạo có những chính sách,biện pháp giảm chi phí làm tăng lợi nhuận của ngân hàng.
Về lãi suất chi nhánh NHCT - Thanh Xuân trả lãi theo biểu lãi suất mà NHCT - Việt Nam ban hành theo từng thời kỳ.
Chi phí trả lãi = tổng nguồn phải trả *lãi suất * thời gian.
Lãi suất đặt ra phải thoả mãn các yêu cầu:
Cạnh tranh được các ngân hàng khác.
Đảm bảo lợi nhuận của ngân hàng và quyền lợi của khách hàng.
Tuân theo biểu lãi suất của ngân hàng công thương-Việt Nam.
Bảng 9 Biến động lãi suất huy động qua các năm từ 1997-2001
(nguồn số liệu lấy từ phòng kế toán - tài chính )
đơn vị:%
Thời gian
Khoản mục
31/12/97
31/12/98
31/12/99
31/12/00
31/12/01
1.Huy động VND
Không kỳ hạn
0,5/T
0,15/T
0,2/T
có kỳ hạn 3 tháng
0,75/T
0,3/T
0,45/T
có kỳ hạn 6 tháng
0,85/T
0,4/T
0,5/T
có kỳ hạn 12 tháng
0,1/T
0,5/T
0,6/T
2.Huy động USD
Không kỳ hạn
2,7/N
2/N
kỳ hạn 6 tháng
5/N
4/N
4/N
kỳ hạn 12 tháng
5,5/N
4,5/N
4,5/N
Qua bảng 9 ta thấy lãi suất có sự biến động qua các năm,lãi suất tiền gửi không kỳ hạn là thấp nhất đây là một lợi thế cho ngân hàng,nhưng nguồn này có thể rút ra bất kỳ lúc nào,do đó cần xác định và dự báo thời gian rút vốn của người gửi để từ đó có kế hoạch cho vay hợp lý,tránh gặp rủi ro.
Lãi suất huy động USD luôn nhỏ hơn lãi suất huy độngVND,đây là yếu tố không khuyến khích được huy động ngoại tệ tuy nhiên tâm lý người dân vẫn an tâm hơn khi sở hữu những đồng tiền có giá,ổn định ít chịu ảnh hưởng của những biến động kinh tế,chính trị của các nước trên thế giới,tỷ giá USD/VND có xu hướng tăng lên,đây là yếu tố làm cho nguồn tiền ngoại tệ gửi vào ngân hàng tăng qua các năm.
Trong năm 2000 trên thị trường tài chính quốc tế lãi suất USD tăng mạnh,trong vòng 6 tháng đầu năm 2000,cục dự trữ liên bang Mỹ đã 4 lần tăng lãi suất để tránh nguy cơ phát triển quá nóng của nền kinh tế Mỹ,như một phản ứng dây truyền hàng loạt các NHTW Châu Âu cũng 3 lần nâng lãi suất tái cấp vốn tới mức 3,25% lên 4.25% trong vòng nửa năm.Lãi suất cho vay liên ngân hàng LIBOR,SIBOR cũng tăng mạnh,không nằm ngoài xu hướng đó hàng loạt lãi suất đồng tiền của các nước cũng được điều chỉnh tăng với các mức độ khác nhau phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi nước và mỗi thời kỳ khác nhau nhằm bảo vệ đồng nội tệ ,tránh việc chuyển đổi nguồn vốn sang USD và tình trạng vốn bị đào thải ra nước ngoài.
Do ảnh hưởng của những biến động phức tạp của lãi suất trên thị trường thế giới,cũng như cácNHTM khác NHCT - Thanh Xuân từng bước nâng lãi suất huy động USD(luôn nhỏ hơn lãi suất huy động VND),trong dân chúng có xu hướng chuyển các khoản tiền tiết kiệm từ VND sang USD do lãi suất USD được điều chỉnh tăng lên.Mặc dù lãi suất USD trong nước được nâng lên nhưng vẫn còn khoảng cách khá lớn đối với lãi suất USD trên thị trường thế giới.
Trong những năm 1997,1998,1999 các ngân hàng thương mại còn thực hiện chế độ trần,sàn lãi suất huy động tiền gửi của NHTW nên có sự thống nhất về lãi suất giữa các ngân hàng.Tháng 8/2000 bắt đầu thực hiện lãi suất cơ bản hiện tượng cạnh tranh về lãi suất giữa các ngân hàng diễn ra,tạo ra nhiều khó khăn cho chi nhánh,đòi hỏi phải có chiến lược linh hoạt trong kinh doanh.
Năm 2001 nhiều khi lãi suất huy động của chi nhánh thấp hơn so với các NHTM khác nhưng nguồn vốn của chi nhánh vẫn tăng trưởng,đáp ứng được nhu cầu đầu tư tín dụng cho các doanh nghiệp,mức tăng trưởng nguồn vốn huy động đã đạt vượt chỉ tiêu mà NHCT - Việt Nam giao cho.
Chi phí trả lãi chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí huy động vốn của chi nhánh,hiện nay giữa các NHTM đang diễn ra hiện tượng cạnh tranh gay gắt,nhiều NHTM giảm lãi suất cho vay,tăng lãi suất huy động,nới lỏng những điều kiện tín dụng nhằm thu hút khách hàng,hiện tượng cạnh tranh này không kéo dài nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các NHTM,nhận biết được điều đó trong những thời kỳ kinh doanh cụ thể chi nhánh đã áp dụng một số biện pháp:thâm nhập thị trường,chiến lược khách hàng,cụ thể trong năm 2001 khi mở thêm 2 quỹ tiết kiệm 78;79 chi nhánh đã xin phép NHCT-Việt Nam cho nâng mức lãi suất huy động lên trong một thời gian để thu hút khách hàng trong khi lãi suất cho vay không đổi,hay đối với khách hàng lớn ,quen thuộc khi gửi tiền vào chi nhánh sẽ được ưu tiên về lãi suất.
Ngoài chi phí trả lãi,chi nhánh còn có chi phí giao dịch cho quá trình huy động vốn và các chi phí khác,để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh bên cạnh việc áp dụng lãi suất linh hoạt theo thời kỳ cụ thể,chi nhánh đã kết hợp với việc giảm các chi phí khác có liên quan.
III/Đánh giá tình hình hoạt động huy động vốn của chi nhánh.
Tuy mới thành lập được 5 năm (1997-2001),nhưng nằm trong khu công nghiệp Cao -Xà - Lá nên thị trường tín dụng của chi nhánh rất nhiều,với những chiến lược khách hàng,đa dạng hoá các hình thức dịch vụ và nhiều biện pháp huy động khác dần dần chi nhánh tạo ra một hình ảnh tốt trong dân nhờ vậy tổng nguồn vốn tăng hàng năm,các hình thức huy động theo tiền gửi dân cư,tiền gửi của các tổ chức kinh tế hay huy động theo nội tệ,ngoại tệ đều tăng qua các năm đáp ứng phần nào nhu cầu về vốn trên địa bàn.
Chi nhánh triển khai kịp thời các văn bản chỉ đạo của cấp trên,đồng thời bám sát mục tiêu,phương hướng phát triển kinh tế của quận,từ đó hoạch định ra các mục tiêu,chiến lược kinh doanh,chiến lược khách hàng và đưa ra các giải pháp thực thi đúng,đồng bộ phù hợp với thực tiễn,vừa đảm bảo tính tập trung,thống nhất cao,vừa phát huy được tính năng động,sáng tạo của một chi nhánh NHCT.
Bảng 10 Khả năng huy động vốn và cho vay của chi nhánh từ 1997-2001
(nguồn số liệu lấy từ phòng kinh doanh)
đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng vốn huy động
132.110
256.787
333.066
472.050
625.241
Tổng cho vay
42.482
218.622
279.909
304.850
562.986
Hệ số sử dụng vốn
32,16%
85,14%
84,04%
64,6%
90,04%
Phần dư
89.628
38.165
53.157
167.200
62.253
Qua bảng 10 ta thấy chênh lệch giữa tổng vốn huy động và tổng cho vay không cao, trừ năm 1997 do mới thành lập các doanh nghiệp,công ty lớn đang có quan hệ tín dụng với các NHTM khác chưa rút về với NHCT-Thanh Xuân,từ năm 1998 trở đi khoảng chênh lệch trên là không cao,hệ số sử dụng nguồn rất cao,trung bình khoảng 71,12%,điều này chứng tỏ khả năng hoạt động của chi nhánh.
Vận dụng linh hoạt chính sách lãi suất trong huy động và cho vay,phù hợp với quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường,không tạo ra tình trạng ứ thừa về vốn huy động.
Chi nhánh tập trung củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng,thông qua công tác chấn chỉnh hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo chung của toàn nghành.Đối với những món vay mới thực hiện theo đúng quy trình nghiệp vụ,chú trọng đến hiệu quả vốn đầu tư nhằm hạn chế rủi ro.Thường xuyên phân tích nợ quá hạn,đảm bảo đầy đủ tính pháp lý của hồ sơ vay vốn,xử lý có hiệu quả việc thu hồi nợ quá hạn,do đó đã đưa tỷ lệ nợ quá hạn giảm dần qua các năm tạo ra chất lượng tín dụng tốt, mang lại niềm tin cho khách hàng.
Trong hoạt động huy động vốn đã đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàn,nâng cao khả năng quản lý và tăng năng suất lao động.
Thường xuyên coi trọng công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ,nhằm nâng cao kiến thức nghề nghiệp và trình độn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ.
Cùng với sự nỗ lực của bản thân công tác huy động vốn của chi nhánh còn được sự hỗ trợ và chỉ đaọ sát xao của NHCT-Việt Nam và chính quyền địa phương.
Bên cạnh những thành quả đạt được trong công tác huy động vốn,vẫn còn có những bất cập cần quan tâm.
Mặc dù chi nhánh đã đa dạng hoá hình thức huy động nhưng trên thực tế tiền gửi dân cư và tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm phần lớn trong tổng nguồn vốn huy động còn các nguồn khác không đáng kể mặc dù chi phí của các nguồn này không cao so với huy động tiền gửi dân cư.
Chi nhánh đã đa dạng hoá các loại hình dịch vụ nhằm thu hút khách hàng:phát hành và làm đại lý thẻ, nhưng để sử dụng các loại thẻ(ATM.Credit card...)thì giới bình dân khó lòng mà tìm được chỗ vì hầu hết các nơi chấp nhận các thẻ tín dụng này đều tập trung vào những nơi trung lưu,sang như nhà hàng,khách sạn hoặc những nơi có người ngoại quốc.
Xét về kỳ hạn:nhìn vào cơ cấu nguồn vốn thấy chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn và trung hạn(ít) được huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế ,trong khi đó chi nhánh có thể mở rộng các hình thức huy động từ các nguồn khác với chi phí không cao hơn chi phí cho tiền gửi dân cư như phát hành các công cụ nợ trung và dài hạn,tăng cường khai thác nguồn trên thị trường liên ngân hàng,để khắc phục hạn chế đó đòi hỏi chi nhánh phải có sự đào tạo tốt hơn về trình độ.
Cơ cấu nguồn vốn giữa VND và ngoại tệ chưa hợp lý:huy động USD tăng hàng năm trong khi đó chi nhánh lại chưa tìm thấy nhiều cơ hội đầu tư,cho vay vốn bằng USD đối với các doanh nghiệp và dự án trong nước.Nếu không sinh lời chi nhánh không đảm bảo được hoạt động kinh doanh của mình,tình trạng này sẽ làm hạn chế việc thu hút nguồn vốn bằng ngoại tệ từ dân vào ngân hàng.Điều này cũng có nghĩa làm giảm tỷ lệ tiết kiệm của nềnkinh tế,một nguồn vốn cực kỳ quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế.
Có những hạn chế trên phải kể đến những khó khăn mà chi nhánh gặp phải từ khi thành lập cho đến nay:
Khó khăn khách quan:Đến nay tuy thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh tế trong khu vực,nền kinh tế dần đi vào ổn định,nhưng sự ổn định đó của nền kinh tế vẫn chứa đựng tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn.Trong năm 1999 đầu năm 2000 tình trạng thiểu phát đã diễn ra,gía cả hàng hoá giảm mạnh,xuất khẩu tăng nhưng thua thiệt về giá trị,tốc độ lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế bị chững lại.
Người dân chưa thực sự tin tưởng,an tâm khi gửi tiền vào ngân hàng,mặc dù chi nhánh đã cố gắng tạo được niềm tin cho khách hàng,nhưng những vụ đổ bể,bê bối hàng loạt của một số ngân hàng như vụ (Epco,Minh Phụng...)vẫn ảnh hưởng đến người dân và nỗi lo đồng tiền mất giá.
Do biến động của nền kinh tế thế giới,tỷ gía giữa đồng tiền các nước giao động,các doanh nghiệp khi vay vốn phần lớn là vay bằng VND,không vay bằng ngoại tệ do lo sợ tăng lên của tỷ giá,trong khi đó nguồn vốn huy động của chi nhánh tăng qua các năm,dẫn đến giảm hiệu quả huy động vốn.
Tâm lý người dân Việt Nam vẫn ưa thích dùng tiền mặt,chưa quen với những tiện ích của ngân hàng đem lại,điều đó cản trở việc sử dụng séc cá nhân,thanh toán thẻ...tạo khó khăn,hạn chế khả năng huy động vốn của chi nhánh.
Mặt khác đây là chi nhánh còn non trẻ so với các chi nhánh khác trong cùng hệ thống NHTM,tuy đã cố gắng mọi mặt song không thể tránh được những hạn chế của bản thân:đội ngũ cán bộ được đào tạo thường xuyên nhưng chưa đủ,nhiều cán bộ mới tuyển trình độ nghiệp vụ cao song thiếu kinh nghiệm thực tiễn.
Những hạn chế trên đã ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của chi nhánh,nhưng những kết quả của hoạt động huy động vốn đem lại những năm qua của chi nhánh thể hiện sự cố gắng và nỗ lực hết sức mình,luôn đạt được chỉ tiêu của NHCT- Việt Nam giao,kết quả này cần được duy trì và phát huy trong những năm tiếp theo.
chương iii.
một số giải pháp mở rộng huy động vốn
tại nhct-thanh xuân.
i/định hướng hoạt động của chi nhánh.
Trong nền kinh tế thị trường,các trung gian tài chính đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thu hút vốn phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.Nhu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cho những năm tới sẽ tăng nhiều so với hiện nay.
Nghị quyết đại hội đảng VIII cũng như nghị quyết hội nghị TW4,đã khẳng định quyết tâm thực hiện công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước,đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp vào năm 2020,đồng thời đảng cũng xác định:Sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá phải dựa vào nội lực là chính,phải huy động tối đa nguồn lực trong nước với phương châm"Vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng,vốn đầu tư trong nước là quyết định"
Thời gian qua hệ thống ngân hàng chưa phát huy tối đa vai trò là "kênh dẫn vốn cho đầu tư phát triển"."Dòng chảy"qua ngân hàng không thông suốt,đồng vốn trong nền kinh tế,đặc biệt vốn nhàn rỗi trong dân cư chưa được phát huy tối đa,một số lượng lớn tiền mặt lưu thông ngoài ngân hàng,theo số lượng ước tính về số ngoại tệ và nội tệ nẳm trong xã hội chưa được huy động vào ngân hàng là vài tỷ USD.Phần lớn số vốn nhàn rỗi này đang được cất giữ dưới nhiều dạng khác nhau(vàng,ngoại tệ mạnh...).
Làm thế nào để huy động tối đa nguồn nội lực đó,khai thông,tận dụng tối đa nguồn này để phục vụ cho công nghiệp hoá -hiện đại hoá là việc làm hết sức cần thiết của mỗi NHTM.Với điều kiện,tình hình cụ thể của mình,để khai thông,huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi,chi nhánh NHCT-Thanh Xuân đã đề ra những mục tiêu,chiến lược trong những năm tới:
Tập trung các biện pháp để đẩy mạnh huy động vốn,tích cực đẩy mạnh công tác tiếp thị để khai thác nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế - xã hội,dân cư trên địa bàn,đảm bảo đủ vốn để cho vay các thành phần kinh tế và nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Duy trì,mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp lớn,mở rộng các dịch vụ thanh toán,uỷ thác...qua chi nhánh.
Chủ động nắm diễn biến lãi suất,phí dịch vụ trên thị trường để điều chỉnh kịp thời,đảm bảo cạnh tranh lành mạnh có hiệu quả,nhằm đạt mục tiêu:tăng trưởng huy động vốn và cho vay nền kinh tế.
Đi đôi với chiến lược huy động vốn là chiến lược sử dụng vốn trong tổng thể đồng bộ,thống nhất,mở rộng tăng trưởng tín dụng,tập trung đầu tư vào các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả,có tín nhiệm với ngân hàng.
Thực hiện nghiêm túc việc hạch toán dự thu,dự trả hàng tháng để phản ánh đúng kết quả tài chính,bám sát kế hoạch lợi nhuận được giao,triệt để tận thu và tiết kiệm chi phí đảm bảo hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch lợi nhuận được giao.
Tăng cường kiểm tra,kiểm soát nội bộ,nâng cao ý thức chấp hành cơ chế chính sách cuả nghành và của NHCT,hết sức coi trọng công tác điều hành nguồn vốn,cân đối hợp lý cơ cấu tài sản nợ-có,nhằm tránh rủi ro lãi suất và rủi ro kỳ hạn,tăng trưởng mức dư nợ.
Xây dựng một hình ảnh ngân hàng phục vụ với chất lượng cao nhất thông qua quy mô trụ sở,trình độ áp dụng công nghệ tiên tiến,trình độ quản lý của ban lãnh đạo và phong cách giao dịch của cán bộ chi nhánh.
Mục tiêu,nhiệm vụ đặt ra trong những năm tới của chi nhánh rất nặng nề,bằng biện pháp nào để phát huy những lợi thế,ưu điểm trong hoạt động huy động vốn là vấn đề cần quan tâm của ban lãnh đạo cũng như của toàn cán bộ của chi nhánh NHCT-Thanh Xuân.
II/Giải pháp mở rộng huy động vốn tại chi nhánh NHCT-Thanh Xuân.
1/Chính sách lãi suất.
Lãi suất là công cụ mang tính nhạy cảm,tác động đến quy mô huy động vốn cũng như hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Muốn huy động được nguồn vốn trong nước được nhiều,phải có một chính sách lãi suất hấp dẫn để các tổ chức kinh tế cũng như cá nhân gửi tiền tiết kiệm và các khoản tiền nhàn rỗi vào ngân hàng.
Lãi suất huy động được xác định theo nguyên tắc:lãi suất >tỷ lệ lạm phát;lãi suất huy động vốn trung và dài hạn >lãi suất huy động vốn ngắn hạn,đồng thời chi nhánh cũng chú ý đến mối quan hệ cung -cầu vốn trên thị trường.
Hiện nay thị trường chứng khoán đã được hình thành và đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán và ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với nhau.Mặc dù 8về mặt lý thuyết sự phân nghành giữa thị trường chứng khoán và ngân hàng có sự khác biệt,nhưng đây chỉ là sự phân biệt tương đối,ngân hàng và thị trường chứng khoán có một số điểm giống nhau và cùng mục tiêu hoạt động là điều hoà vốn trong nền kinh tế và các doanh nghiệp.Do vậy các ngân hàng cần chú ý đến mối quan hệ giữa lãi suất huy động và doanh lợi chứng khoán.Một sự biến động nhỏ về lãi suất,khối lượng tiền tệ,tỷ giá hối đoái trong ngân hàng đều có thể gây ra những biến động lớn trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Lãi suất là giá cả trên thị trường vốn theo nghĩa cung tăng thì lãi suất giảm,cầu tăng thì lãi suất tăng,nhưng khi thị trường chứng khoán ra đời và phát trỉên thì hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán bổ sung,tác động qua lại tới nhau.Người phát hành chứng khoán và người đầu tư luôn có sự so sánh giữa lãi suất tiền gửi ngân hàng với lợi tức chứng khoán cũng như khả năng rủi ro của từng loại.Nếu lãi suất tiền gửi ngân hàng cao,người gửi tiết kiệm sẽ thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất cao và rủi ro thấp hơn là mua chứng khoán với lãi suất thấp,rủi ro cao.Khi lãi suất huy động qua ngân hàng tăng nhanh hơn doanh lợi chứng khoán,người ta sẽ bán chứng khoán để gửi tiền vào ngân hàng,mức doanh lợi chứng khoán tuỳ theo sự đánh giá chủ quan và tiên đoán của từng người,phản ánh qua giá cổ phiếu có thể không đúng với thực tế.
Hiện nay chi nhánh đã có những mức lãi suất phân biệt phù hợp với các kỳ hạn huy động vốn.Lãi suất cho tiền gửi không kỳ hạn,kỳ hạn 3 tháng,6 tháng,9 tháng,12 tháng.
Đối với những khoản tiền rút trước thời hạn được chi nhánh áp dụng trả lãi theo mức không kỳ hạn.Cách làm này có lẽ sẽ tạo ra sự thiệt thòi cho người gửi,ngân hàng nên chăng chỉ trừ một phần trăm cố định trên số lãi rút ra tuỳ theo thời gian gửi,hoặc chấp nhận trả lãi đủ nếu có báo trước một thời gian nhất định.
Đối vơi loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Định kỳ nếu khách hàng không đến lĩnh thì đến hết kỳ hạn gửi lãi sẽ được chi nhánh nhập vào gốc và được chuyển sang kỳ hạn mới tương ứng.
Trường hợp không có kỳ hạn tương ứng thì lãi được nhập gỗc và chuyển sang kỳ hạn mới thấp hơn với hình thức lĩnh lãi sau.
Với cách tính lãi trên chi nhánh phần nào đã đảm bảo quyền lợi cho người gửi.
2/Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ.
Khi có sự cạnh tranh trong nội bộ hệ thống NHTM diễn ra,các ngân hàng muốn tồn tại và phát triển nhiều khi đã áp dụng những hình thức cạnh tranh rất mạo hiểm.Trong những năm vừa qua cạnh tranh giữa các NHTM bằng công cụ lãi suất đã diễn ra,hình thức này chỉ mang tính ngắn hạn khi chiến lược kinh doanh của các ngân hàng đặt ra là tìm kiếm thêm khách hàng và thâm nhập thị trường mới,còn lâu dài áp dụng hình thức này không tốt đôi khi làm hoạt động kinh doanh của các ngân hàng kém hiệu quả.Để khắc phục tình trạng cạnh tranh qua lãi suất,hiệp hội ngân hàng đã can thiệp để đi đến thống nhất lãi suất huy động và cho vay giữa các NHTM.
Khi mức lãi suất huy động của các NHTM đã ngang bằng nhau,thì vấn đề cạnh tranh chủ yếu giữa các ngân hàng sẽ là chất lượng dịch vụ và công nghệ ngân hàng.
Chi nhánh cần đa dạng hoá các hình thức dịch vụ,từng bước triển khai ,nhân rộng việc mở tài khoản cá nhân và sử dụng séc,tổ chức tốt các hình thức thanh toán qua ngân hàng.
Theo quyết định của thống đốc NHTW,séc cá nhân được chính thức đi vào sử dụng tại thành phố Hồ Chí Minh (Hà Nội,Hải Phòn) kể từ ngày 1/1/1994.Cùng với những phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác,séc cá nhân sẽ giúp ngân hàng huy động thêm nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân vào ngân hàng.
Để séc cá nhân thực sự đi vào đời sống xã hội,các NHTM nói chung cũng như chi nhánh NHCT-Thanh Xuân nói riêng nên có những chính sách khuyến khích,biện pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán séc,tạo thêm niềm tin của người thụ hưởng đối với séc cá nhân,góp phần đảm bảo việc thanh toán séc cá nhân được thông xuốt.
Phát hành cácloại mẫu séc cá nhân thuận tiện cho việc sử dụng và có mức độ an toàn cao.
Thực hiện các biện pháp nghiệp vụ có liên quan như nhượng séc trắng,thanh toán séc,bảo chi séc...một cách nhanh chóng,thuận tiện,chính xác,an toàn.
Giảm nhẹ các thủ tục có thể để không vì sự thanh toán séc mà làm ảnh hưởng đến thời gian và vốn của người sản xuất kinh doanh.
Tuỳ theo từng giai đoạn,từng khách hàng có thể quy định séc không được chuyển nhượng hoặc chuyển nhượng.
Đối với các khách hàng có uy tín ,có biện pháp đảm bảo phù hợp ngân hàng có thể thực hiện áp dụng trường hợp thấu chi.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân tại ngân hàng,ngân hàng có thể quy định trả lãi cho số dư tiền gửi trên tài khoản này với mức lãi suất bằng bao nhiêu phần trăm của lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Khuyến khích thanh toán qua ngân hàng,khi không thực hiện thanh toán qua ngân hàng thì không có dịp tiếp xúc với ngân hàng.Do vậy chỉ qua thanh toán qua ngân hàng mọi người dân mới có điều kiện tiếp xúc với ngân hàng,hình thành nên thói quen gửi tiền vào ngân hàng.Khi mọi thanh toán được tập trung qua ngân hàng thì chắc chắn người dân sẽ suy nghĩ đến tiện ích của dịch vụ ngân hàng,từ đó nảy sinh ý định dể dành tiền trong ngân hàng,cho dù không phải là gửi tiền theo dạng tiết kiệm thì với sự tập trung cao độ đồng tiền của xã hôị vào ngân hàng cũng là điều kiện tốt cho việc huy động vốn của ngân hàng.
Triển khai thẻ tín dụng và máy rút tiền tự động ATM.
Đối vơi tài khoản gửi vào ngân hang để thanh toán,đây là nguồn không kỳ hạn quan trọng để hình thành nên vốn đầu tư của ngân hàng với giá rẻ,để thu hút nguồn này cần có chính sách:Không hạn chế một doanh nghiệp mở nhiều tài khoản tiền gửi thanh toán tại nhiều ngân hàng,tại nhiều địa phương khác nhau mà không đòi hỏi có một điều kiện nào cả.Các doanh nghiệp hạch toán độc lập,phụ thuộc chi nhánh đều, có thể tự do mở tài khoản thanh toán miễn là họ chấp hành kỷ luật thanh toán .Làm được như vậy doanh nghiệp sẽ có điều kiện thanh toán qua ngân hàng một cách nhanh chóng,chính xác,vốn của ngân hàng sẽ tăng lên.
Nghiên cứu cho khách hàng sản xuất kinh doanh sử dụng tài khoản vãng lai để huy động nguồn vốn nhàn rỗi vào ngân hàng.
Thực hiện dịch vụ chi trả lương cán bộ công nhân viên qua ngân hàng.Hiện nay tại một số doanh nghiệp trả lương cao cho cán bộ công nhân viên có xuất hiện nhu cầu doanh nghiệp nhờ ngân hàng trích tài khoản tiền gửi trả lương hộ cho cán bộ công nhân viên theo danh sách,công nhân viên có nhu cầu để dành một phần tiền lương sẽ gửi ngay tại ngân hàng,làm cho nguồn vốn tại ngân hàng tăng lên.Do vậy chi nhánh cần tiếp cận với các doanh nghiệp để thực hiện nghiệp vụ này,tạo thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng.
Chi nhánh nên áp dụng và phát triển việc nhận và trả tiền gửi tiết kiệm tại nhà theo yêu cầu của khách hàng qua điện thoại(có thu dịch vụ phí thấp),để những người cao tuổi có nhu cầu gửi tiền song muốn tránh những rủi ro khi mang tiền đi trên đường.
Đưa ra hình thức dịch vụ nhận và trả tiền ngoài giờ của chi nhánh(ngoài giờ hành chính,các ngày lễ,ngày nghỉ),áp dụng công nghệ tiên tiến cho ngân hàng hoạt động 24/24 giờ trên ngày để thu hút tiền gửi của dân chúng bất cứ lúc nào trong ngày.
3/Đa dạng hoá các hình thức huy động.
Ngoài những hình thức huy động truyền thống,cần áp dụng những hình thức huy động mới:
Huy động bằng vàng,ở Việt Nam người dân có thói quen giữ vàng,nguồn vốn này rất lớn nên chi nhánh cần mở rộng hình thức huy động này để mở rộng nguồn vốn của ngân hàng.
Huy động bằng ngoại tệ:Một trong những nguồn vốn chưa được khai thác huy động vào ngân hàng hiện nay đó là nguồn vốn của những người dân Việt Nam đang làm ăn sinh sống ở nước ngoài.Hàng năm một lượng tiền không nhỏ được gửi về nước thông qua các NHTM tạo ra sự chu chuyển tư bản có lợi đối với nền kinh tế trong nước.Các ngân hàng cần thu hút nguồn này thông qua việc điều chỉnh lại,đơn giản hoá các thủ tục trong việc chuyển tiền kiều hối.
Huy động tiền gửi tiết kiệm xây dựng nhà ở:ở nước ta hình thức này chưa phát triển.Với hình thức này sau khi gửi tiền liên tục từ 5 năm trở đi,người gửi được vay của ngân hàng để bổ sung đủ tiền mua nhà(nếu số tiền gốc và lãi tích luỹ đến thời điểm đó cộng với các nguồn tự có khác đạt 50% giá trị căn nhà),sau khi kiểm tra,thẩm định ngân hàng sẽ căn cứ vào khả năng,thực lực tích luỹ và hoàn trả của khách hàng để quyết định cho vay theo các điều kiện đặt ra,lãi suất cho vay được tính trên cơ sở lãi suất tiền gửi + phí quản lý.Ngân hàng sẽ nắm giấy tờ sở hữu ngôi nhà cho đến khi khách hàng trả hết gốc và lãi theo định kỳ thanh toán thoả thuận giữa hai bên.Khi có dấu hiệu khó đòi,ngân hàng có thể lấy lại tiền.
Tiết kiệm gửi góp:Một số đối tượng có những khoản để dành đều đặn hàng kỳ với số lượng không lớn,ngân hàng có thể áp dụng hình thức này,cho phép người gửi nhập đều đặn số tiền gửi nói trên vào tài khoản theo từng tháng,quý....ở các nước trên thế giới đã áp dụng hình thức này và có thể áp dụng đối với các NHTM ở nước ta.Hình thức này thích hợp với những đối tượng viên chức,người lao động có thu nhập không cao nhưng vẫn có nhu cầu gửi tiền để sử dụng trong tương lai.
Chi nhánh đẩy mạnh hơn nữa huy động vốn bằng các công cụ nợ trên thị trường:trái phiếu,kỳ phiếu.
áp dụng thể thức tiết kiệm dài hạn,trả lãi hàng tháng.Thể thức này phù hợp với những người già không tham gia kinh doanh,có khoản tiền lớn muốn gửi ngân hàng lĩnh lãi hàng tháng để đảm bảo cuộc sống.
4/Mở rộng mạng lưới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Muốn đẩy mạnh việc huy động vốn và đầu tư có hiệu quả,các NHTM cần từng bước phát triển các dạng đơn vị nhỏ,chuyên doanh,mở rộng chân rết hoạt động ở khắp nơi.
Hiện nay chi nhánh NHCT -Thanh Xuân đã có 10 quỹ tiết kiệm,các quỹ này được đặt rải rác ở những địa điểm thuận lợi,tiện cho khách hàng đến giao dịch.Hoạt động huy động vốn có hiệu quả chi nhánh cần quan tâm tới hiệu quả sử dụng vốn,do đó cần mở rộng mạng lưới tín dụng đến nhiều đối tượng khách hàng,đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh,doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các NHTM khẩn trương ứng dụng rộng rãi dịch vụ ngân hàng điện tử,hiện đại hoá công nghệ ngân hàng,để đứng vững trong cạnh tranh.Qua thực tế ta thấy một số NHTM đã thu được kết quả cao trong việc cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử.Thực chất của dịch vụ ngân hàng điện tử là nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và thay đổi phương thức quản lý tài chính đạt tới trình độ cao,tự động hoá,giúp các nhà quản lý hiểu rõ yêu cầu của thời đại là phải luôn tiếp cận và đổi mới phương thức quản lý cho phù hợp với yêu cầu phát triển và hiện đại hoá của hệ thống ngân hàng.Khi đồng vốn được sử dụng hiệu quả sẽ giúp các ngân hàng huy động vốn có hiệu quả hơn.
5/Hoạt động Marketing trong ngân hàng.
Là chi nhánh mới thành lập được 5 năm (1997-2002)để huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân,chi nhánh đã chú trọng công tác tiếp thị trong hoạt động ngân hàng.
Trước hết phải hiểu rõ nhu cầu của những khách hàng truyền thống,tổ chức tốt công tác tư vấn về dự án đầu tư,thanh toán qua ngân hàng...cho khách hàng cũng như thường xuyên lắng nghe,tìm hiểu những đề nghị,phản ánh của khách hàng.
Cần có sự phối hợp với các nghành phát thanh,truyền hình,báo chí xây dựng một chương trình thông tin về tiền tệ -ngân hàng đến mọi người dân,chương trình truyền hình,phát thanh với thời lượng thích hợp về tình hình hoạt động tài chính của chi nhán,cũng như uy tín của chi nhánh,những quy định chung của hệ thống NHCT-Việt Nam liên quan đến việc thu hút tiền gửi .
Cán bộ công nhân viên của chi nhánh thường xuyên giải thích cho người dân thấy được những tiện ích và an toàn khi gửi tiền vào chi nhánh.
Thường xuyên nghiên cứu thị trường và tâm lý khách hàng để có chính sách sản phẩm và lãi suất phù hợp,từng bước thực hiện chính sách khách hàng:Đối với nhóm khách hàng có uy tín,giao dịch thường xuyên là khách hàng truyền thống với các giao dịch vay mượn,thanh toán,mua bán ngoại tệ,gửi tiền tại ngân hàng có gía trị lớn...sẽ được hưởng những ưu đãi khuyến khích của chi nhánh như giảm phí dịch vụ,ưu tiên trong việc mua bán,chuyển đổi ngoại tệ...để khai thác nguồn vốn từ nội lực nền kinh tế.
Mở các đợt khuyến mại trong việc mở tài khoản cá nhân tại chi nhánh,đơn giản về thủ tục,nhanh chóng,hiệu quả,đảm bảo bí mật về số dư với những cam kết cụ thể với khách hàng.
6/Đảm bảo an toàn vốn và giá trị đồng vốn đối với người gửi.
Đồng tiền của ta dù đã ổn định nhưng vẫn còn trượt giá nhất định,biểu hiện bằng sự tăng lên của giá cả hàng hóa,hay sự sụt giảm giá so với USD.Sự trượt giá đó tuy thấp hơn tiền lãi thu được,nhưng điều này làm ảnh hưởng đến tâm lý người dân,họ sẽ dè dặt khi gửi tiền vào ngân hàng.Khi đó những nguồn tiền nhàn rỗi không được gửi vào ngân hàng mà sẽ được chuyển thành những thứ có giá trị bền vững như vàng,USD,nữ trang quý...có vẻ như an toàn hơn.
Để khắc phục tình trạng trên,chi nhánh đã tham gia bảo hiểm vốn tiền gửi,khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng.
Chi nhánh cần nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng tiền vốn đã huy động,tiền vốn được đầu tư vào những dự án kinh tế có hiệu quả,đúng mục đích,đảm bảo khả năng thu hồi,có như vậy mới đảm bảo an toàn cho người gửi tiền.
7/Phát triển nguồn nhân lực.
Trong chế độ cũ,nền kinh tế Việt Nam chưa được giao lưu nhiều với kinh tế thế giới,chưa có nhạy cảm với kinh tế thị trường,cán bộ ngân hàng chưa được tiếp thu nền công nghệ ngân hàng hiện đại của thế giới.Song chúng ta vẫn đảm đương được các công việc đó là nhờ vào các kinh nghiệm.
Khi đổi mới cán bộ ngân hàng cũng dần quen với kinh tế thị trường,sự biến động thường xuyên và nhạy cảm của giá cả,của quan hệ cung- cầu,các kinh nghiệm trên cần phải được phát huy,bên cạnh đó cần có kế hoạch nâng cao trình độ nhận thức khoa học công nghệ hiện đại.
Hiện nay cán bộ của chi nhánh ngày càng được tuyển chọn theo yêu cầu sử dụng,theo tiêu chuẩn chức danh và bình đẳng cho tất cả các đối tượng,sử dụng lao động đúng năng lực,sở trường và có thù lao thích đáng theo kết quả kinh doanh và sự cống hiến của mỗi người.
Với yêu cầu nâng cao khả năng vạch chiến lược kinh doanh,phát triển nghiệp vụ và công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại hoá nhằm thích ứng với môi trường cạnh tranh,công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ là vấn đề bức xúc thường xuyên được chi nhánh quan tâm.Trong năm 2001 chi nhánh đã xây dựng kế hoạch đào tạo,bồi dưỡng cán bộ được 89 lượt người,trong đó đã tổ chức lớp tập huấn nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại tại cơ quan được 34 người,cử đi đào tạo tại học viện ngân hàng và đại học kinh tế quốc dân 26 người.
Đối tượng đào tạo của chi nhánh là:
Đào tạo lại và đào tạo nâng cao đội ngũ cán bộ từ cơ chế cũ chuyển sang.
Đào tạo bổ sung kiến thức cho cán bộ mới tuyển vào.
Đào tạo cơ bản theo nhiều loại bằng cấp:đại học,trên đại học tuỳ theo yêu cầu và cơ cấu của chi nhánh.
Bồi dưỡng thường xuyên nhằm cập nhập kiến thức cho đội ngũ cán bộ công nhân viên.
Hàng năm chi nhánh NHCT-Thanh Xuân để dành một tỷ lệ đáng kể trong chi tiêu của mình cho sự nghiệp đào tạo,bồi dưỡng cán bộ.Nhờ vậy tạo cho cán bộ của chi nhánh một phong cách,diện mạo mới:thành thạo,hiện đại,văn minh,lịch sự trong giao tiếp và phục vụ.
Trên đây là một số biện pháp đã được thực hiện trong hệ thống NHTM nói chung và một số đã áp dụng tại chi nhánh NHCT-Thanh Xuân nói riêng.Tuỳ thuộc vào mục tiêu và chiến lược kinh doanh của mình,chi nhánh nên lựa chọn và vận dụng có hiệu quả các chính sách trên,để khắc phục những yếu kém còn tồn tại trong hoạt động huy động vốn,đưa chi nhánh trở thành một tổ chức tài chính vững mạnh,không chỉ có uy tín trong địa bàn quận Thanh Xuân mà còn có uy tín trong nền kinh tế,góp phần giải quyết các vấn đề về vốn của nền kinh tế.
Để thực hiện có hiệu quả các biện pháp trên không chỉ có sự nỗ lực của bản thân chi nhánh mà cần có sự giúp đỡ tích cực từ nhiều phía:NHTW,chính phủ....
III/Một số kiến nghị.
1/Đối với NHCT-Việt Nam.
Cần có chính sách,biện pháp khuyến khích các chi nhánh ngân hàng trong cùng hệ thống tăng tỷ trọng sử dụng vốn vào các hình thức tín dụng,tăng tỷ trọng huy động vốn,cho phép các chi nhánh kinh doanh các loại dịch vụ nhằm đổi mới cấu trúc tài sản nợ-có theo hướng phân tán rủi ro.
NHCT-Việt Nam cần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động cung cấp,trao đổi thông tin trong hệ thống,giúp các chi nhánh tiếp cận nhanh chóng với những thông tin mới nhất về thị trường,tình hình biến động lãi suất,tỷ giá trên thế giơí.
Tăng cường vai trò là người hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật,quy định,quy chế của NHTW và của chính phủ đối với các chi nhánh NHCT.
2/Đối với NHTW.
Kinh tế thị trường ở nước ta còn ở mức độ thấp,trong điều kiện đó NHTW duy trì công cụ quản lý trực tiếp thông qua hạn mức tín dụng,nhằm khống chế tổng phương tiện thanh toán qua ngân hàng theo mục tiêu của chính sách tiền tệ và kiểm soát được dư nợ của các NHTM,nhưng công cụ này không nên quá cứng nhắc mà phải được điều chỉnh linh hoạt,phù hợp với diễn biến thị trường và chất lượng tín dụng của từng NHTM.
Theo dõi thường xuyên,liên tục diễn biến lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ lạm phát trên thị trường hàng hoá để điêù chỉnh kịp thời sao cho lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát và lãi suất huy động vốn danh nghĩa > tỷ lệ lạm phát.NHTW không nên can thiệp quá sâu vào lãi suất của các NHTM.Mục tiêu của các NHTM là lợi nhuận do đó tuỳvào tình hình kinh doanh và khả năng cạnh tranh của mình trên thị trườn,bản thân các NHTM sẽ đưa ra được lãi suất huy động phù hợp,một mặt vẫn đạt được mục tiêu lợi nhuận của mình,một mặt vẫn khuyến khích thu hút tiền nhàn rỗi vào ngân hàng.
Việc đảm bảo an toàn cho tiền gửi của dân cũng cần được NHTW quan tâm,NHTW cần đẩy mạnh quỹ bảo hiểm tiền gửi,tạo điều kiện cho quỹ này hoạt động có hiệu quả,đây là yếu tố khiến cho người gửi tiền yên tâm hơn khi gửi tiền vào ngân hàng.
NHTW cần có chính sách hỗ trợ cho các công ty bảo hiểm tiền gửi,bắt buộc cácNHTM phải gửi các báo cáo tài chính,báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm của ngân hàng mình để công ty bảo hiểm tiền gửi có thể hiểu rõ được tình hình hoạt động của ngân hàng và có biện pháp cứu trợ kịp thời khi ngân hàng gặp khó khăn trong kinh doanh.NHTW giám sát hoạt động đóng phí bảo hiểm của cácNHTM và các tổ chức tín dụng khác có thực hiện nhiệm vụ nhận giữ tiền gửi.
NHTW cần ban hành các thể lệ chiết khấu thương phiếu,cầm cố trái phiếu,và các giấy tờ có giá khác,tạo cơ sở cho các NHTM đa dạng hóa nghiệp vụ của mình.
3/Đối với chính phủ.
Tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả,khi đó tài khoản cá nhân sẽ tăng nhiều.Các cá nhân,tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi vừa có mục đích kiếm lời vừa có mục đích thực hiện các giao dịch thanh toán,khi thị trường chứng khoán phát triển,ngân hàng có thể sử dụng một phần tiền này mua bán chứng khoán cho mình.Đối với khách hàng khi chưa sử dụng tiền cho các giao dịch thì mua chứng khoán,khi cần tiền để chi trả thì bán chứng khoán.Việc mua bán chứng khoán có thể thông qua ngân hàng thanh toán.Như vậy tiền trên tài khoản tiền gửi của họ sử dụng linh hoạt hơn,tạo ra lời nhiều hơn.
Thông qua thị trường chứng khoán các ngân hàng từ việc quản lý các tài khoản tiền gửi của các chủ thể và doanh nghiệp sẽ giúp ngân hàng đa dạng hóa,mở rộng các dịch vụ chứng khoán:mua-bán và thanh toán hộ chứng khoán,thực hiện mua bán chứng khoán cho chính ngân hàng,phát hành hộ cổ phiếu,trái phiếu...hưởng hoa hồng.
Hiện nay cả nước mới có một sở giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh,chính phủ cần có biện pháp tạo điều kiện hình thành và đi vào hoạt động sở giao dịch tại Hà Nội.
Hiện nay trong lĩnh vực ngân hàng được điều chỉnh bởi 2 luật:luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng,với nhiều quy đình và hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.Tuy nhiên trong luật vẫn còn những quy định chưa rõ ràngvà thiếu chặt chẽ,hoạt động ngân hàng rất nhạy cảmvới những biến động của thị trường,từ khi 2 luật đó ra đời cho đến nay,nền kinh tế có nhiều thay đổi,cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch đòi hỏi luật phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp.
Các văn bản luật và dưới luật cần được ban hành một cách có hệ thống,chính xác bảo đảm mọi hoạt động tài chính,tiền tệ,tín dụng thực sự được điều chỉnh của luật pháp,tạo nên một môi trường ổn định về pháp lý và chế độ chính sách của nhà nước.
Chính phủ cần đảm bảo,duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định,kiềm chế lạm phát.Những yếu tố này tác động đến tâm lý và niềm tin của người dân vào ngân hàng,do đó ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của cácNHTM.
Kết luận
ở nước ta hiện nay thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động,tạo ra một mắt xích quan trọng trong tổng thể các vấn đề đổi mới cơ chế kinh tế.Thị trường chứng khoán đóng một vai trò quan trọng trong thị trường vốn dài hạn,tạo thêm một kênh huy động vốn và phân bổ vốn trên nguyên tắc của kinh tế thị trường đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng.
Nhưng thị trường chứng khoán có phát triển như thế nào đi chăng nữa cũng không thể đáp ứng được nhu cầu vốn ngày càng cao của nền kinh tế nếu không có kênh huy động vốn từ ngân hàng.Cho dù các dịch vụ ngân hàng trên thế giới ngày một đa dạng,phong phú,tinh vi nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng cũng như yêu cầu của nền kinh tế thì nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng không bao giờ mất đi.
Trong thời gian thực tập tại NHCT-Thanh Xuân,kết hợp với những lý thuyết đã được học tại trường em đã hoàn thành song đề tài luận văn "Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động huy động vốn tại chi nhánhNHCT-Thanh Xuân".Qua đó giúp em có thêm một số kiến thức thực tế về hoạt động huy động vốn tại các NHTM hiện nay.
Để hoàn thành được bài luận văn này,em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ,chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa ngân hàng - tài chính,đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn Văn Định trong suốt thời gian em thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ban lãnh đạo cùng tập thể cán bộ công nhân viên của chi nhánh NHCT-Thanh Xuân,đặc biệt là các cô,chú,anh,chị phòng nguồn vốn đã giúp em hoàn thành luận văn này.
Do trình độ thực tế và lý luận còn hạn chế nên trongluận văn không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự giúp đỡ của các thầy cô.
Hà nội ngày 12/5/2002.
Sinh viên thực tập.
Phạm Thị Vân Hà.
tài liệu tham khảo.
1.Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. David-Cox.
2.Tiền tệ - ngân hàng. PTS:Đỗ Linh Hiệp.
3.Tiền và hoạt động ngân hàng Lê Vinh Danh.
4.Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính. Biskin.
5.Thời báo kinh tế Việt Nam.
6.Tạp chí ngân hàng.
7.Thời báo thị trường tài chính.
8.Thời báo kinh tế phát triển.
9.Báo cáo kinh doanh và các tài liệu khác của chi nhánh NHCT-Thanh Xuân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0267.doc