Thứ nhất: Hệ thống hoá được những vấn đề cơ bản về séc .
Thứ hai: Đánh giá được thực trạng thanh toán bằng séc tai SGDI hiện nay.
Thứ ba: Đưa ra được các giải pháp kiến nghị để mở rộng khả năng thanh toán bằng séc.
89 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm mở rộng khả năng thanh toán séc tại sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của các tổ chức tín dụng , nhờ việc áp dụng công nghệ ngân hàng trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt đã đẩy nhanh tốc độ thanh toán, rút ngắn quy trình luân chuyển chứng từ… Và sự cố gắng của tập thể cán bộ ở SGDI đã không ngừng phấn đấu vươn lên khắc phục khó khăn, học hỏi những tiến bộ mới của công nghệ ngân hàng. Thực hiện đầy đủ đúng đắn các quy trình nghiệp vụ theo các văn bản chế độ quy định, luôn vui vẽ nhiệt tình giao tiếp, hướng dẫn khách hàng.
2. Những tồn tại:
Nếu như hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt đang ngày càng mở rộng và phát triển thì thanh toán bằng séc lại có xu hướng giảm rõ rệt về tỷ trọng trong thanh toán không dùng tiền mặt từ 2,3% trên tổng TTKDTM xuống còn1,7% trên tổng TTKDTM- một con số quá nhỏ. Sở dĩ như vậy là bởi vì xung quanh vấn đề thanh toán bằng séc đang còn rất nhiều bất cập cả về yêu tố chủ quan lẫn yếu tố khách quan.
2.1 Những hạn chế trong các quy định về thanh toán bằng séc:
Việc sử dụng nghị định 30/CP của chính phủ và thông tư 07/TT-NH1 hướng dẫn về quy chế phát hành và sử dụng séc đã có bước tiến bộ lớn loại bỏ những quy định bất hợp lý trước đây trong nghị định 22/QD- NH1 và thông tư 80/TT-NH2 ngày 2/6/1994 về “thanh toán không dùng tiền mặt” và đã phát huy được tác dụng nhất định.
Thứ nhất nghị định 30 là văn bản pháp lý cao nhất quy định về việc phát hành và sử dụng séc từ trước đến nay, điều này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc phát hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc phát triển phương tiện thanh toán séc, góp phần mở rộng thanh toán séc trong dân cư (như việc phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia thanh toán séc: người ký phát, người thụ hưởng, đơn vị thanh toán séc, đơn vị thu hộ séc). Mặt khác nghị định đã có những quy định rất rõ ràng cụ thể về mẫu mã của tờ séc và những vấn đề liên quan đến tờ séc như:
- Việc sử dụng một mẫu séc thống nhất trong các ngân hàng, tổ chức tín dụng và kho bạc đã tạo ra tính thống nhất và nâng cao hiệu lực thanh toán séc trong nền kinh tế quốc dân. Séc có thể dùng trong thanh toán chuyển khoản hoặc lĩnh tiền mặt do đó rất thuận lợi cho việc theo dõi, bảo quản và sử dụng séc của các đơn vị thanh toán, thu hộ và khách hàng.
- Một số quy định của nghị định 30 đã được áp dụng theo thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế và khả năng hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong những năm qua như việc quy định quy chế phát hành và sử dụng séc cho cả pháp nhân và cá nhân, quy định chủ tài khoản được phép uỷ quyền cho người khác ký phát séc thay mình, séc được phép chuyển nhượng, do đó giảm bớt được thời gian của cả đơn vị thanh toán và khách hàng trong việc làm thủ tục phát hành và thanh toán séc, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế nói chung và với khách hàng nói riêng. Đối với những tờ séc quá thời hạn thanh toán vì lý do khách quan vẫn được chấp nhận thanh toán không phải phát hành séc khác, rồi việc nâng cao trách nhiệm cho người ký phát và sử dụng séc…
Tuy nhiên nghị định 30 còn có rất nhiều hạn chế: Nhiều điều khoản chưa hợp lý, chưa bảo vệ được quyền lợi cho người thụ hưởng, làm cho séc chưa đi vào cuộc sống. Cụ thể như sau:
Về mặt pháp lý: nghị định 30 chưa quy định những đối tượng nào đựơc phát hành séc, đối tượng nào không được phát hành séc. Kết cấu các phần của quy chế chưa hợp lý, nội dung dễ trùng lặp. Chưa đảm bảo người thụ hưởng chắc chắn được thanh toán séc trong trường hợp người ký phát séc chết, pháp nhân phát hành séc giải thể hoặc phá sản. Rồi việc quy định thời hạn hiệu lực của séc 15 ngày làm việc theo lịch là quá ngắn để cho séc có thể chuyển nhượng được. Một số quy định về kỷ luật thanh toán chưa chặt chẽ, nghiêm minh để bảo vệ quyền lợi cho người thụ hưởng khi tình trạng phát hành séc giả và phát hành quá số dư vẫn còn diễn ra. Chương 3, thông tư 07/TT-NH1 “quyền hạn và nghĩa vụ của bên thụ hưởng séc” không có Điều khoản nào quy định bên thụ hưởng séc có quyền kiểm tra giấy tờ tuỳ thân của người thanh toán bằng séc. Nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng: Đây là một sơ hở. Nếu bên thanh toán bằng séc có hành vi gian trá, thì rất khó tìm ra tông tích người thanh toán bằng séc. Thông tư 07/TT-NH1 thiết kế mẫu séc không có chổ ghi giấy tờ tuỳ thân của người thanh toán bằng séc, để bên thụ hưởng séc đòi bên thanh toán bằng séc xuất trình giấy tờ tuỳ thân. Bên thụ hưởng séc có quyền đòi hỏi bên thanh toán séc xuất trình giấy tờ tuỳ thân, nếu tờ séc bị gian trá dẫn đến tờ séc đó không thanh toán được, bên thụ hưởng séc phải chịu thiệt hại mà không thể đổ lỗi cho chi nhánh NHTM. Quy định về mẫu séc còn chưa hợp lý có quá nhiều yếu phải ghi vào trong khi đó tờ séc lại quá nhỏ, việc quy định đối với bên phát hành séc phải có cả hai chữ ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng là không phù hợp. Vì nếu như vậy, thì chủ tài khoản và kế toán trưởng cùng đi mua hàng hoặc cùng sử dụng dịch vụ hay sao? quy định này khác xa với thông lệ quốc tế. Phạm vi thanh toán séc còn hẹp chưa ban hành cơ chế phát hành séc ra ngoài địa phương mà séc mới chỉ thanh toán trong phạm vi cùng một địa bàn tỉnh, phố. Quy định việc xác nhận nguyên nhân bất khả kháng tại uỷ ban nhân dân xã phường nơi cư trú của người thụ hưởng khi người thụ hưởng nộp séc chậm và xác nhận nguyên nhân bất khả kháng tại uỷ ban nhân dân xã, phường nơi đơn vị thu hộ đóng trụ sở khi đơn vị thu hộ nộp séc chậm là không thực tế và chỉ là hình thức.
Nghị định 30 đã có quy định về việc mở tài khoản và phát hành séc của cá nhân, pháp nhân nhưng lại chưa có quy định về việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán và phát hành séc của Hợp Tác Xã hay của các doanh nghiệp tư nhân- Đó là một bất cập rất lớn.
Quy định phân biệt giữa séc chuyển khoản và séc lĩnh tiền mặt bằng hai ghạch chéo song song ở góc bên trái tờ séc là chưa phù hợp với thực tế vì khi đưa vào đóng chứng từ lưu trữ thì bị che khuất, không thuận lợi cho việc tìm chứng từ khi cần thiết. Séc chỉ ghi bằng tiếng Việt Nam nên khó khăn cho người nước ngoài khi sử dụng. Hơn nữa quy định về việc từ chối thanh toán séc của ngân hàng khi tài khoản của người ký phát không có đủ tiền để thanh toán là một thiệt thòi lớn cho người thụ hưởng vì lẽ ra họ vẫn được quyền thanh toán số tiền hiện có trên tài khoản nếu họ muốn. Và séc chỉ được phát hành từ tài khoản tiền gửi thanh toán không được phát hành trực tiếp từ tài khoản tiền vay cũng phần nào làm giảm tính hấp dẫn của việc sử dụng thanh toán bằng séc. Bên cạnh đó Nghị định cũng chưa quy định về séc do chính ngân hàng phát hành, thời hạn xuất trình và thời hạn hiệu lực thanh toán còn chưa phân biệt rõ. Quy định về thủ tục thanh toán rườm rà, luân chuyển chứng từ vòng vèo phức tạp.
Đối với séc bảo chi yêu cầu ký quỹ đảm bảo thanh toán séc mà khách hàng không được hưởng lãi trên số tiền ký quỹ đó.
Cuối cùng đó là việc quy định cơ quan chịu trách nhiệm xử kiện về thanh toán séc: Đối với thông lệ quốc tế, nếu séc có tính chất thương mại thì việc xử được thực hiện tại tòa án thương mại. Các trường hợp khác sẽ được thực hiện tại tòa án Dân sự. Nhưng ở Việt Nam hiện nay chưa có một quy định cụ thể nào về cơ quan chịu trách nhiệm xử kiện. Đều này ít nhiều sẽ gây lúng túng cho khách hàng khi họ gặp rắc rối trong thanh toán séc cần sự giúp đỡ của Luật pháp.
Như vậy có thể nói rằng nghị định 30 cho đến nay nó đã không còn phù hợp với việc mở rộng và sử dụng thanh toán trong toàn quốc theo yêu cầu mới cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế vế ban hành và sử dụng séc.
Để cho hình thức thanh toán séc đi vào cuộc sống thì bản thân các quy định ban hành phải xuất phát từ lợi ích của người sử dụng. phải bảo vệ được lợi ích của người ký phát, người thụ hưởng séc. Phải phù hợp với thông lệ quốc tế và của luật NHNN, luật các TCTD. Đòi hỏi phải có một nghị định mới ban hành thay thế Nghị định 30 và đáp ứng được mong muốn của người sử dụng.
2.2 Nguyên nhân từ bản thân SGDI và khách hàng.
Tại SGDI thanh toán bằng séc tuy đã được cải thiện song vẫn chưa thực sự phù hợp với khách hàng những quy định trong thanh toán vẫn còn phức tạp, vòng vèo. Khi nộp séc vào ngân hàng khách hàng phải lập nhiều liên bảng kê nộp séc trong khi công nghệ kế toán máy không cần thiết phải có nhiều chứng từ, do đó gây nhiều phiền phức cho khách hàng. Một lý do quan trọng có tính quyết định nữa là SGDI chưa thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quảng cáo về những tiện ích của việc sử dụng séc trong thanh toán. Vì vậy mà mặc dù séc là một công cụ thanh toán ra đời gần như sớm nhất và được sử dụng phổ biến ở các nước trên thế giới trong khi đó ở Việt Nam, séc vẫn còn là hình thức thanh toán mới mẻ, phần lớn dân chung chưa hiểu rõ hoặc không hiểu về tiện ích của việc thanh toán séc.
Mặt khác ở Việt Nam người dân rất ưa thích tiêu dùng tiền mặt trong thanh toán, thu nhập của người dân còn thấp nên người ta không thích mà cũng không sử dụng được séc trong thanh toán. Nhiều cơ sở cung cấp hàng hoá dịch vụ không tiếp nhận hình thức thanh toán bằng séc do họ chưa thấy được tiện ích của việc thanh toán bằng séc, họ chỉ tin tưởng vào khả năng thanh toán của khách hàng nếu họ nhận được tiền mặt.
Tất cả những yếu tố đó đã làm cho séc không có sức hấp dẫn ở Việt Nam và cho đến nay séc vẫn chưa đi vào cuộc sống.
chương3: Một số giải pháp nhằm tăng khả năng thanh toán séc tại SGDI
I Phương hướng nhiệm vụ kinh doanh của SGDI năm 2003:
Năm 2003, năm bản lề có vị trí quan trọng trong việc thực hiện nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và kế hoạch 5 năm (2001-2005). Nền kinh tế nước ta đang từng bước ổn định và phát triển, thực hiện các điều kịên của việc gia nhập AFTA, triển khai hiệp định thương mại Việt-Mỹ, tiến tới đàm phán để được gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới. Xu hướng tự do hoá tài chính và mở cửa ngân hàng của nền kinh tế là một thực tế, nhu cầu cạnh tranh ngày càng cao để tiến tới hội nhập quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng là thử thách đối với SGDI nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung. Trước bối cảnh đó ban lãnh đạo SGDI NHNo và PTNT Việt Nam đã đề ra phương hướng nhiệm vụ cho năm 2003 như sau: Năm 2003 SGDI sẽ tiếp tục mở rộng nguồn vốn huy động thông qua nhiều hình thức huy động phong phú đa dạng; Chú trọng huy dộng các nguồn vốn tiết kiệm nhất là ngoại tệ và tăng vốn huy động bằng VND trên nhiều hình thức, sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất, năng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tìm kiếm nguồn tiền gửi từ các dự án. Phấn đấu đến cuối năm 2003 nguồn vốn huy động tăng so với năm 2002 từ 20- 30%.
Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng là mục tiêu hàng đầu của SGDI. Năm 2003 SGD sẽ phấn đấu để mở rộng quy mô cũng như chất lượng tín dụng. Tăng dư nợ từ 30- 40% so với năm 2002 trong đó phải tăng tỷ lệ cho vay trung dài hạn từ 20- 30%/ tổng dư nợ, đồng thời phải giảm tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ xuống còn 3%.
- Công tác thanh toán: Phát huy những kết quả đạt được trong năm qua công tác thanh toán luôn đảm bảo kịp thời, an toàn, chính xác tạo điều kiện cho quá trình luân chuyển vốn của khách hành đựơc diễn ra nhanh chóng. Năm nay SGDI sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt bằng việc áp dụng công nghệ ngân hàng vào trong công tác thanh toán, phấn đấu để tăng nhanh tốc độ thanh toán bù trừ, thanh toán liên hàng so với năm trước.
Triển khai để ứng dụng công nghệ thanh toán thẻ vào trong hoạt động thanh toán của ngân hàng.
Tăng quỹ thu nhập từ 5-10% so với năm 2002 và đảm bảo thu nhập đầy đủ cho các cán bộ công nhân viên cũng như việc trích lập các quỹ.
Như vậy, mặc dù kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là kinh doanh tiền tệ- một công việc rất nhạy cảm, phức tạp và vô cùng khó khăn. Song với sự lãnh đạo tận tình của Ban Giám Đốc và cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên SGDI sẽ thực hiện mục tiêu nhiệm vụ đề ra.
II Giải pháp nhằm mở rộng khả năng thanh toán séc tại SGDI
Séc là một trong những phuơng tiện TTKDTM hữu ích, nó không những làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông mà còn làm giảm các chi phí phát sinh do việc phải kiểm soát một khối lượng lớn tiền mặt trong các giao dịch mua bán. Séc đã được sử dụng từ rất lâu đời ở các nước trên thế giới, nhưng ở Việt Nam hiện nay việc sử dụng séc trong thanh toán còn rất ít, nó vẫn còn là vấn đề lớn đặt lên bàn trong các cuộc “toạ đàm” “hội thảo”. Đến nay vẫn còn có rất nhiều ý kiến khác nhau trong vấn đề thanh toán séc. Nhiều người cho rằng séc là một công cụ thanh toán có rất nhiều lợi ích kể cả về quản lý vĩ mô và vi mô, đồng thời đảm bảo an ninh an toàn cao hơn tiền giấy. Một công cụ thuận lợi cho cá nhân khi thanh toán. Chính Phủ đã có văn bản và NHNN đang có kế hoạch triển khai đưa séc vào cuộc sống. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng: với sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin, hệ thống thanh toán điện tử trực tuyến ATM phát triển, thì cần gì phải phát triển séc; Hơn nữa, trên thế giới đã có sự khuyến cáo về sự “ra đi” của séc trong tương lai nên nếu ta thực hiện giải pháp sử dụng séc sẽ lỗi thời, lãng phí…
Vậy ý kiến nào sẽ phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay: Ta biết rằng, theo một số chuyên gia ấn Độ về giải pháp họ thừa nhận có sự khuyến cáo này nhưng trên thực tế thì chưa nơi nào có “dấu hiệu” xoá sổ, mà hàng năm thanh toán bằng séc vẫn tiếp tục tăng trưởng. Vậy đối với chung ta một nước đang phát triển có nên có các giải pháp mở rộng phương thức thanh toán này không? Liệu có những công cụ hữu hiệu khác thay thế trong một tương lai gần hay không? Hay “khuyến cáo” là vậy nhưng thực tế không là vậy bởi khi điều kiện từng gia đình chưa có đủ máy tính để giao dịch trực tuyến thì séc đã là công cụ không thể thiếu của người dân, séc nằm ngay trong ví của họ và chỉ cần cây bút là họ có thể thanh toán khoản tiền lớn (Tất nhiên là còn phụ thuộc vào số dư tài khoản tiền gửi), việc “loại bỏ” séc ra khỏi cuộc sống là điều không dể khi nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, khả năng đầu tư vào hệ thống kỷ thuật mới còn đang là ở mức tiềm năng thì việc đưa séc vào cuộc sống là rất cần cho hôm nay và nhiều thập niên sau, khi chi phí cho nó so với các công cụ khác là nhỏ hơn và lợi ích của nó mang lại nhanh hơn là một biện pháp hay.
Nếu chúng ta tìm được giải pháp tích cực, thực tế (trước mắt có thể theo vùng hay địa bàn, trong hay ngoài hệ thống của TCTD, sau đó rút kinh nghiệm và triển khai thanh toán toàn quốc thì séc sẽ thực sự có chổ đứng xứng đáng trong hệ thống TTKDTM ở Việt Nam.
Qua việc phân tích những tiến bộ cũng như những hạn chế trong hoạt động thanh toán séc ở SGDI, để mở rộng hoạt động này, phát huy vai trò thế mạnh của nó trong nền kinh tế và để ngân hàng thực sự trở thành trung gian thanh toán trong nền kinh tế, tôi xin được đưa ra một số giải pháp như sau:
1. Cần phải mở rộng công tác tuyên truyền về tính tiện lợi của việc sử dụng séc trong thanh toán cho người dân cũng như các tổ chức kinh tế:
Việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán là một thói quen lâu đời của người dân Việt Nam hơn nữa trình độ dân trí còn thấp, sự hiểu biết về TTKDTM nói chung và thanh toán bằng séc nói riêng thông qua ngân hàng còn rất ít ỏi, để thay đổi thói quen đó không phải là điều dể dàng. Hơn nữa, nền kinh tế Việt Nam chưa phát triển, thu nhập bình quân còn thấp nên việc mở tài khoản cá nhân còn ít, nhiều tài khoản mở ra chỉ mang tính hình thức. Vì vậy để giúp cho người dân từ bỏ thói quen này thì sự thay đổi không chỉ đơn thuần là máy móc công nghệ, mà thay đổi cách nghỉ cách làm, thay đổi thói quen đã tồn tại nhiều năm nay mới là quan trọng. Như vậy theo tôi SGDI cần mở rộng hơn nữa các biện pháp marketing để tuyên truyền rộng rãi tiện ích của các công cụ thanh toán một cách hợp lý, tuyên truyền hướng dẫn cụ thể các quy trình thủ tục của các thể thức thanh toán trên các phương tiện thông tin đại chúng, nơi công cộng, các trung tâm thương mại…Để người dân thấy được các lợi ích của các công cụ đó, hiểu rõ và lựa chọn được thể thức thanh toán phù hợp và thuận tiện cho họ, SGDI cần thay đổi cách thức truyên truyền quảng cáo vốn chưa mang lại nhiều hiệu quả trong những năm qua, nên có những sáng tạo mới phù hợp với tâm lý của dân chúng, tăng tiền gửi của dân cư bằng biện pháp hữu hiệu. Từ đó tạo sự chú ý của khách hàng và thu hút các cá nhân tổ chức đến với ngân hàng để mở tài khoản và sử dụng các công cụ TTKDTM.
Muốn vậy các giao dịch viên khi giao tiếp với khách hàng luôn phải có thái độ phục vụ nhẹ nhàng, hoà nhã, tận tình, chu đáo để gây được thiện cảm với khách hàng vì không có biện pháp tuyên truyền nào có hiệu quả hơn khi chính khách hàng nói về ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng cần tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng qui mô hoạt động, phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Việc làm này có tác dụng tạo dựng và khuyếch trương hình ảnh của ngân hàng.
Ngân hàng nên thực hiện tốt chính sách chăm sóc khách hàng, tổ chức các cuộc hội nghị khách hàng để vừa thể hiện sự quan tâm đối với lợi ích của khách hàng đồng thời qua đó ngân hàng có thể biết được cụ thể hơn nhu cầu mong muốn của khách hàng và quảng bá cho khách hàng các dịch vụ của ngân hàng cũng như giới thiệu về các công cụ thanh toán mà ngân hàng đang sử dụng . Ngân hàng cần phải lập các cuốn cẩm nang sử dụng séc với cách trình bày hấp dẫn phát cho khách hàng khi họ đến giao dịch với ngân hàng và lập hòm thư góp ý để nhận các ý kiến đóng góp của khách hàng giúp ngân hàng hoàn thiện hơn nữa các công cụ thanh toán nói chung và thanh toán bằng séc nói riêng.
2 Thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng:
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là một trong những định hướng cơ bản và có tính chất chiến lược trong tiến trình đổi mới toàn diện sâu sắc của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
SGDI đã luôn quan tâm đến yếu tố khoa học công nghệ trong quá trình hoạt động của mình. Trong những năm qua Sở đã đạt nhiều thành tựu quan trọng: Đó là việc hoàn thiện hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử; Mở rộng thanh toán liên ngân hàng ra đến phạm vi 6 tỉnh, hoàn tất hệ thống thông tin báo cáo và giao dịch trực tiếp, lập thêm phòng vi tính để có thể chuyên môn hoá trong công tác ứng dụng các phần mềm tin học vào hoạt động ngân hàng cũng như việc thiết kế các phần mềm cho một số nghiệp vụ chuẩn bị thực hiện thử nghiệm ngân hàng bán lẻ do trung tâm điều hành triển khai. Tuy nhiên thì SGDI cũng như hệ thống ngân hàng nông nghiệp là những ngân hàng chậm đổi mới nhất về công nghệ so với các ngân hàng khác cho đến hiện nay vẫn chưa sử dụng máy rút tiền tự động ATTM, dịch vụ thanh toán thẻ chưa được triển khai sử dụng, chưa có hệ thóng máy tính có khả năng lưu trử thông tin khách hàng kể cả mẫu chữ ký nên loại hình mở tài khoản một nơi rút tiền một nơi vẫn chưa được sử dụng.
Khi mà khoa học công nghệ thay đổi với tốc độ vũ bảo, nếu như SGDI không nhạy bén và linh hoạt trước những thay đổi của công nghệ thì sẽ bị tụt hậu vì một ngân hàng hiện đại thì không thể thiếu công nghệ nhất là khi trung tâm TTBT séc đi vào hoạt động thì việc đổi mới trang thiết bị và ứng dụng công nghệ là vấn đề cấp thiết.
Để nâng cao hơn nữa khả năng phục vụ khách hàng cũng như để chuẩn bị cho việc tham gia vào trung tâm TTBT điện tử nói chung và séc nói riêng thì SGDI cần phải đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá công nghệ trên các mặt sau:
+ Cần hoàn chỉnh hơn nữa hệ thống thanh toán nội bộ của ngân hàng để có thể kết nối tất cả các chi nhánh của ngân hàng trong phạm vi cả nước và mở rộng thanh toán liên ngân hàng trên toàn quốc, xử lý tức thời tất cả các khoản thanh toán của ngân hàng trong cùng hệ thống.
+ Cũng cố và hoàn thiện hệ thống thanh toán liên hàng vì hệ thống này sẽ xử lý thanh toán bù trừ tất cả các khoản thanh toán điện tử phát sinh trong cả nước giữa các ngân hàng khác hệ thống với nhau. Việc thanh toán bù trừ tự động bằng điện tử và các trung tâm thanh toán bù trừ tự động bằng điện tử sẽ giúp cho quá trình thanh toán được đảm bảo an toàn, chắc chắn, nhanh chóng và kịp thời.
+ Cần tăng cường đầu tư, mua sắm trang thiết bị để nâng cao công nghệ ngân hàng, giúp cho guồng máy hoạt động của ngân hàng được thông suet, hạn chế sự tồn tại của các thủ tục rườm rà mà từ trước đến nay khách hàng luôn phải đối mặt.
Tiến tới xây dựng một hệ thống máy tính, trang thiết bị và cơ sở dữ liệu để dự phòng cho TTBT điện tử nói chung và thanh toán bằng séc nói riêng. Việc thiết lập cơ chế dự phòng là một điều vô cùng quan trọng và cần thiết (vì khi sử dụng nối mạng trong thanh toán và hoạt động ngân hàng có rất nhiều rủi ro có thể xẩy ra làm ảnh hưởng tới toàn hệ thống, gây mất thông tin hoặc ngưng đọng các giao dịch, gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng). Địa diểm này phải đặt tại nơi an toàn, tách rời với hệ thống đang hoạt động chính thức và có phương án sử dụng cụ thể để đảm bảo cho hoạt động thanh toán.
Có thể nói rằng khoa học công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công và là lợi thế cạnh tranh của các ngân hàng trong quá trình cung cấp các dịch vụ thanh toán. Bởi vậy ngân hàng nào sớm nắm bắt tiến bộ của khoa học công nghệ và đổi mới kịp thời sẽ có thể đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng và ngân hàng đó sẽ chiến thắng trong quá trình cạnh tranh và phát triển hơn nữa.
3 Nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ thực hiện công tác thanh toán đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao trong điều kiện hội nhập về hoạt động ngân hàng khu vực và thế giới :
Như ta đã biết, yếu tố con người là đóng vai trò rất quan trọng trong mọi lĩnh vực quyết định đến mọi hoạt động kinh tế xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng- một lĩnh vực rất nhạy cảm và có nhiều biến động. Khi mà việc áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng ngày càng được chú trọng và luôn có sự đổi mới thì yêu cầu đối với các cán bộ ngân hàng cũng ngày càng cao hơn, đòi hỏi những người làm công tác thanh toán phải thực sự đầy đủ năng lực pháp lý, trình độ chuyên môn. Để làm được điều đó đòi hỏi SGDI phải luôn chú trọng phát triển nguồn nhân lực từ khâu tuyển chọn đến khâu sử dụng, bố trí nhân lực hợp lý, khách quan và công bằng.
Khi tuyển chọn nhân lực : Phải ban hành, cụ thể hoá chính sách thu hút nhân tài thực thi các chính sách tuyển chọn nghiêm túc, khoa học và hiệu quả. Chọn người có trình độ chuyên môn cần thiết, có đạo đức sức khoẻ tốt trên cơ sở năng lực thực tế (qua kiểm tra phỏng vấn). Sử dụng đúng người đúng việc bố trí những cán bộ có năng lực thực sự vào những vị trí công tác thích hợp để họ có thể phát huy hết năng lực, khả năng sáng tạo, tính chủ động của mình trong quá trình làm việc để nâng cao hiệu quả hoạt động. Mặt khác sở cần phải có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên của mình nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật kiến thức, qui định mới để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong công tác.
Trên cơ sở bố trí nguồn nhân lực một cách hợp lý, cần phải có sự khen thưởng xứng đáng và kịp thời cả về vật chất (chính sách tiền lương, tiền thưởng phù hợp với kết quả cống hiến của mỗi người ) và tinh thần (tạo cơ hội cho cán bộ phát huy tài năng để thăng tiến, quan tâm đến đời sống văn hoá tinh thần của cán bộ ) đồng thời cũng phải có những hình phạt nghiêm khắc đối với những việc làm sai trái.
Thực hiện tốt chính sách nhân sự sẽ tạo ra một đội ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ cao, hết lòng trong công việc, sáng tạo, linh hoạt và có thái độ làm việc tốt. Điều này chắc chắn sẽ là một sức mạnh để tạo sự tin tưởng, an tâm, thoái mái đối với khách hàng đến ngân hàng giao dịch.
4. Giải pháp cụ thể đối với từng loại séc:
4.1 Thực hiện nghiệp vụ thấu chi đối với séc chuyển khoản:
Việc sử dụng séc chuyển khoản hiện nay phạm vi thanh toán còn bị bó hẹp, nhưng trong tương lai với việc áp dụng trung tâm thanh toán bù trừ séc thì phạm vi thanh toán séc sẽ được mở rộng trong toàn quốc. Điều đó sẽ khuyến khích khách hàng sử dụng séc chuyển khoản nhiều hơn trong thanh toán.
Tuy nhiên séc chuyển khoản còn có nhược điểm lớn đó là có thể phát hành quá số dư. Đối với tờ séc phát hành quá số dư người ký phát sẽ phải chịu phạt theo quy định điều đó là hoàn toàn chính xác. Nhưng cũng có những chủ tài khoản không cố tình làm điều đó, tài khoản của họ chỉ tạm thời thiếu vốn trong thời gian ngắn. Do có những khoản chi đột xuất hoặc tiền chưa được chuyển về tài khoản đúng như kế hoạch vì lý do khách quan. Như vậy sự thiếu vốn này không phải do khách hàng không đủ khả năng chi trả mà chỉ là sự thiếu hụt vốn tạm thời nếu được ngân hàng cho phép thực hiện nghiệp vụ thấu chi đối với tài khoản tiền gửi thì khách hàng sẻ đảm bảo trả nợ đúng hạn cho ngân hàng đồng thời họ sẻ không bị vi phạm trong thanh toán séc. Nhưng trên thực tế hiện nay ở SGDI chưa áp dụng nghiệp vụ thấu chi đối với tài khoản tiền gửi nên tờ séc chuyển khoản qúa số dư về nguyên tắc vẫn chưa được thanh toán ngay mà chờ đến khi chủ tài khoản nộp đủ tiền mới thanh toán và chủ tài khoản phải chịu phạt rất nặng khiến cho séc chuyển khoản còn hạn chế và thường chỉ để thanh toán những món tiền nhỏ.
Để khắc phục hạn chế trên đồng thời khuyến khích những khách hàng tin cậy của mình thì ngân hàng nên cho phép khách hàng được thấu chi trong trường hợp khách hàng tạm thời thiếu hụt vốn. Điều này sẽ có một ý nghĩa hết sức lớn lao thể hiện như sau: Đứng về phía SGDI khi thực hiện nghiệp vụ này đối với những khách hàng truyền thống, có khả năng tài chính tốt, có nguồn thu ổn định, có ý thức chấp hành kỷ luật thanh toán tốt, có uy tín trong quan hệ chi trả vừa là việc mở rộng tín dụng để tăng thu nhập (vì đây là những khoản nợ ngắn hạn chỉ từ 5-7 ngày, được cho vay với lãi suất từ 100-150% lãi suất cho vay ngắn hạn) vừa để tạo lập mối quan hệ khăng khít giữa ngân hàng với khách hàng.
Đứng về phía khách hàng là người thụ hưởng séc: Sẽ được ngân hàng thanh toán ngay trong mọi trường hợp, không làm ảnh hưởng đến các kế hoạch chi tiêu của họ, quyền lợi của họ được đảm bảo vì vậy họ sẵn sàng chấp nhận thanh toán bằng séc chuyển khoản. Nhờ vậy mà phạm vi và quy mô thanh toán séc chuyển khoản sẽ tăng lên.
Đối với khách hàng là người ký phát: Việc thanh toán diễn ra thuận lợi và kịp thời đảm bảo luôn có đủ tiền để chi trả trong trường hợp tạm thời thiếu vốn, vì vậy không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Dù khách hàng phải chịu một mức lãi suất tương đối cao nhưng còn dể chịu hơn so với quy định phạt quy định và còn ảnh hưởng đến uy tín trong kinh doanh của họ.
Nghiệp vụ thấu chi đối với tài khoản tiền gửi của khách hàng sẽ được thực hiện như sau: Trước hết cả khách hàng và ngân hàng sẽ ký một hợp đồng tín dụng, trên đó sẽ quy định đầy đủ các yếu tố như:
- Về hạn mức tín dụng: sẽ căn cứ vào số dư bình quân trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, căn cứ vào nhu cầu của khách hàng và nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng để đặt ra quyết định hạn mức.
- Về thời hạn cho vay: thường là rất ngắn chỉ từ 5-7 ngày
- Lãi suất cho vay nên tính từ khoảng 100-150% lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng.
Sau khi tiến hành cho vay ngân hàng sẽ theo dõi sát sao để thu hồi lại vốn đúng hạn. Nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn thì ngân hàng sẽ áp dụng các biện pháp kỷ luật do NHNN quy định đồng thời tịch thu lại số séc trắng còn lại. Nếu khách hàng ký phát séc vượt quá hạn mức thấu chi cho phép thì ngân hàng sẽ không giải quyết và sẽ xử lý theo quy định của NHNN về việc phát hành quá số dư
Đối với trường hợp khách hàng không đủ tín nhiệm để ngân hàng cho phép thấu chi trên tài khoản thanh toán séc khi xảy ra hiện tượng phát hành quá số dư ngân hàng nên gọi điện cho khách hàng mang tiền nộp vào tài khoản trong ngày để thanh toán cho người thụ hưởng. Nếu không mang tiền nộp để vào tài khoản để thanh toán thì ngân hàng sẽ căn cứ vào số dư hiện tại trên tài khoản để thanh toán cho người thụ hưởng số còn thiếu sẽ theo dõi ở tài khoản ngoại bảng cho đến khi thu đủ tiền cho người thụ hưởng và phạt theo quy định.
4.2 Tính lãi đối với số tiền ký kỹ đảm bảo thanh toán séc bảo chi:
Phạm vi thanh toán của séc bảo chi tuy có rộng hơn séc chuyển khoản nhưng vẫn còn hẹp chưa áp dụng được trong trường hợp khác ngân hàng khác hệ thống, khác địa bàn. Séc bảo chi là loại séc có độ an toàn rất cao, được đảm bảo khả năng thanh toán. Vì vậy việc mở rộng phạm vi thanh toán của séc bảo chi trên toàn quốc là điều nên triển khai thực hiện.
Tuy nhiên hiện nay ở SGDI việc thanh toán bằng séc bảo chi rất ít vì thủ tục rườm rà mà khách hàng lại phải ký quỹ đảm bảo khả năng thanh toán, họ không được sử dụng cũng như hưởng lãi suất trên số tiền ký quỹ này vì vậy thiệt thòi cho họ rất lớn do đó họ không thích sử dụng séc bảo chi trong thanh toán trừ những trường hợp đặc biệt (khi mới tạo lập được quan hệ làm ăn, khi thanh toán những món tiền có giá trị lớn). Vì vậy để cho hình thức thanh toán này được sử dụng nhiều ngân hàng nên tính lãi đối với khoản tiền ký quỹ (có t hể là mức lãi suất thấp hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn)
5. Kiến nghị đối với NHNN và chính phủ:
5.1 Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp quy có hiệu lực cao tạo môi trường hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động thanh toán séc
Hiện nay, thanh toán bằng séc đang thực hiện theo nghị định số 30/CP của Chính Phủ về phát hành và sử dụng séc, thông tư 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 của Thống Đốc NHNN hướng dẫn thực hiện quy chế phát hành và sử dụng séc thay thế những quy định về “thanh toán séc” trong quyết định số 22/QĐ- NH1 ngày 21/02/1994 và thông tư 08/TT-NH2 ngày 2/6/1994, quyết định số 105/QĐ- NH1 ngày 10/4/1995 của Thống Đốc NHNN sửa đổi mẫu séc cá nhân trong “thể lệ TTKDTM”. Nghị định 30 tuy có hoàn thiện hơn nhưng trong bản thân các quy định của nghị định còn có rất nhiều bất cập và chưa phù hợp do đó tính khả thi chưa cao, chưa đảm bảo vững chắc quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng. Do vậy ngay từ bây giờ cần nghiên cứu ban hành bộ luật về sử dụng séc ở Việt Nam để bảo vệ quyền lợi cho người sử dụng séc cũng như giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro. Việc nghiên cứu nâng cấp, bổ sung Nghị định 30/cp về phát hành và sử dụng séc thành luật về séc là một điều hết sức cần thiết trong lúc này. Luật séc mới phải phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam và thông lệ quốc tế khắc phục được những bất hợp lý trong Nghị định 30/CP. Cụ thể: trong nghị định 30 chưa có quy định rõ ràng những đối tượng nào được phát hành séc, những đối tượng nào không được phát hành séc, như vậy là chưa chặt chẽ mà phải quy định một cách rõ ràng cụ thể đối tượng nào được phép phát hành séc đối tượng nào không được phép phát hành séc. Chỉ rõ các pháp nhân, các cá nhân, công ty tư nhân và những người đồng tài khoản sở hữu, và cả ngân hàng đều được phép phát hành séc như vậy thì đối tượng được phát hành séc sẽ được mở rộng hơn sẽ có nhiều người tham gia vào thanh toán séc hơn. Cả những quy định về việc thanh toán tờ séc khi người phát hành là cá nhân bị chết hoặc pháp nhân bị phá sản, giải thể sẽ giải quyết theo quy định của phát luật là không đảm bảo cho quyền lợi của người thụ hưởng do đó người thụ hưởng sẽ không tin tưởng vào khả năng thanh toán của tờ séc dẫn đến hiện tượng họ không muốn tiếp nhận séc khi giao dịch mua bán hàng hoá xảy ra vì vậy cần phải thay đổi quy định này tức là séc vẫn sẽ được thanh toán kể cả khi người phát hành là cá nhân bị chết, pháp nhân bị phá sản, giải thể và quyền lợi của người thụ hưởng được bảo vệ, họ sẽ tin tưởng hơn khi tiếp nhận séc từ tay người mua; Mặt khác nghị định 30 chưa quy định một chế tài xử phạt đối với người ký phát séc quá số dư, cần phải có một quy định rõ ràng về việc xử phạt để có thể hạn chế tối đa hành vi này bảo vệ quyền lợi cho người thụ hưởng.
Những quy định về việc xác nhận của uỷ ban nhân dân xã, phường nơi thụ hưởng cư trú khi người thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng sau thời hạn hiệu lực của tờ séc vì lý do khách quan. Và xác nhận của uỷ ban nhân dân xã, phường là nơi đơn vị thu hộ đóng trụ sở vì lý do bất khả kháng mà không thể chuyển séc đến đơn vị thanh toán ngay là những quy định chỉ mang tính hình thức thủ tục rườm rà không cần thiết nên loại bỏ để tránh phức tạp cho người sử dụng; Nếu như hiện nay séc chỉ được phát hành trực tiếp từ tài khoản tiền gửi sẽ hạn chế việc phát hành và sử dụng nhiều loại séc hiện nay đang được sử dụng phổ biến ở nhiều nước. Vì có loại séc sử dụng để chuyển tiền, khách hàng có thể nộp tiền mặt vào ngân hàng để phát hành séc, cũng có loại séc mà người ký séc và ngân hàng là một, có loại người hưởng phát hành cho chính mình… Những loại séc đó vừa an toàn vừa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người sủ dụng. Để khuyến khích sử dụng séc, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, cần cho phép áp dụng nhiều loại séc.
Trong quy định về việc từ chối thanh toán séc của ngân hàng thanh toán khi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng không đủ số dư như vậy là không hợp lý và người thụ hưởng phải chịu thiệt thòi vì được thanh toán chậm. Theo em trong trường hợp này người thụ hưởng vẫn sẽ được thanh toán nếu họ muốn, chẳng hạn số tiền ghi trên séc là 120 triệu trong khi đó số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng chỉ còn 110 triệu thì khách hàng sẽ đựơc thanh toán bằng số tiền hiện có trên tài khoản trước (chỉ trừ lại 500.000 đồng để duy trì hoạt động của tài khoản) điều đó sẽ giúp cho người thụ hưởng có được vốn kịp thời cho hoạt động kinh doanh trước mắt mà không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất do bị thanh toán chậm. Đối với tờ séc có số tiền bằng số và số tiền bằng chữ không khớp nhau cũng không nên từ chối thanh toán, trả lại cho người thụ hưởng mà nên thanh toán theo số tiền nhỏ hơn ghi trên tờ séc bởi vì khi người thụ hưởng đã chấp nhận cầm tờ séc thì đương nhiên họ đã chấp nhận số tiền nhỏ nhất, và có thể đó cũng chỉ là sơ suất nhỏ của người ký phát nếu trả lại séc sẽ làm cho việc thanh toán càng kéo dài với thủ tục rườm rà phức tạp mà xét đến cùng thì người thụ hưởng lại bị thiệt thòi nhất…
Hơn nữa trong điều kiện hiện nay ở nước ta đang từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế như đã ký hiệp định thương mại Việt- Mỹ, tiến tới đàm phán để gia nhập tổ chức WTO. Do đó, séc của Việt Nam phải được chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế. Điều đó càng thúc đẩy việc sớm ban hành một nghị định mới về cung ứng và sử dụng séc để điều chỉnh các quan hệ về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của những người liên quan đến séc. Quy định rõ ràng các tội danh, các hình phạt khi vi phạm vào các điều cấm như: Gian dối, lừa đảo, giả mạo, sữa chữa séc… có như vậy người sử dụng séc mới thực sự yên tâm và tin tưởng rằng việc sử dụng séc sẽ không có rủi ro xẩy ra như khi sử dụng tiền mặt hay công cụ thanh toán khác.
5.2 Sửa đổi một số quy định trong thanh toán séc
5.2.1 Sửa đổi quy định về mẫu mã của tờ séc:
Nghị định 30/CP của Chính Phủ đã có một ưu điểm rất lớn đó là đã quy định việc sử dụng một mẫu séc thống nhất trong các ngân hàng, tổ chức tín dụng và kho bạc tạo tính thống nhất và nâng cao hiệu lực của thanh toán bằng séc trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên hiện nay, hình thức của tờ séc còn quá phức tạp, mẫu mã của tờ séc quá nhỏ trong khi lại có quá nhiều yếu tố phải ghi vào gây cho khách hàng nhiều khó khăn khi phải ghi đầy đủ các yếu tố trên tờ séc: như tên, địa chỉ, số tài khoản của người ký phát và người thụ hưởng, ngày ký phát, nơi ký phát, số tiền bằng số bằng chữ, chữ ký của chủ tài khoản hoặc người được uỷ quyền, chữ ký của kế toán trưởng… Họ phải viết tắt, không có đủ chổ để đóng dấu. Việc quy định phải có cả chữ ký của Giám Đốc và kế toán trưởng là điều không phù hợp bởi séc chỉ được phép ký phát khi phát sinh nhu cầu mua bán sử dụng dịch vụ như vậy chẳng lẻ cả Giám Đốc và kế toán trưởng cùng đi mua hàng hoặc cùng sử dụng dịch vụ hay sao? Vì vậy theo em việc đòi hỏi cả hai chữ ký đồng thời là không cần thiết; và việc phải ghi đầy đủ địa chỉ của người ký phát, người thụ hưởng cũng không cần, nên loại bỏ bớt đi những yếu tố không cần thiết để giảm thiểu tối đa việc ghi chép của người sử dụng. Một vấn đề bất cập nữa là séc chuyển khoản và séc lĩnh tiền mặt được phân biệt với nhau bằng hai ghạch chéo song song ở góc trên bên trái hoặc có cụm từ “chuyển khoản” vừa gây khó khăn trong việc tìm chứng từ khi cần (do lúc đóng chứng từ để đưa vào lưu trử thì ghạch chéo song song sẽ bị che lấp đi) vừa chưa có quy định rõ ai là người được phép ghi cụm từ “chuyển khoản”
trên séc. Nên quy định lại ghạch chéo song song nên ở phía trên góc phải để thuận tiện cho tra cứu chứng từ khi cần thiết, và chỉ rõ người ký phát hoặc người thụ hưởng chính là người có quyền ghạch hai ghạch chéo song song hoặc ghi cụm từ “chuyển koản” trên séc. Nếu trên tờ séc không có hai ghạch chéo song song hay cụm từ “chuyển khoản” thì vừa có thể dùng để chuyển khoản vừa có thể dùng để lĩnh tiền mặt, điều này sẽ tạo thuận lợi hơn cho người thụ hưởng. Mặt khác trong điều kiện nền kinh tế hội nhập hiện nay quan hệ mua bán, giao dịch với nước ngoài rất lớn nên séc phải được in và ghi bằng tiếng Anh bên dưới tiếng Việt tương ứng với cỡ chữ nhỏ hơn trong trường hợp có yếu tố nước ngoài.
5.2.2 Thay đổi thời hạn hiệu lực của tờ séc:
Theo quy định hiện nay thời hạn hiêu lực thanh toán của tờ séc là 15 ngày kể từ ngày ký phát cho đến ngày séc được nộp vào đơn vị thanh toán hoặc đơn vị thu hộ, thời hạn này bao gồm cả ngày nghỉ hàng tuần và ngày lễ. Nếu ngày kết thúc thời hạn là ngày nghỉ hàng tuần, ngày lễ thì thời hạn được tính lùi vào ngày làm việc tiếp theo. Như vậy sẽ có hai vấn đề xảy ra: Thứ nhất quy định này đã đồng nhất giữa thời hạn xuất trình và thời hạn hiệu lực trong khi đây là hai khái niệm rất khác nhau về bản chất. Thứ hai là việc quy định 15 ngày cho thời hạn hiệu lực của tờ séc là hơi ngắn để séc có thể chuyển nhượng, đặc biệt là người chuyển nhượng sẽ không cảm thấy yên tâm vì e sợ rằng tờ séc sẽ hết hiệu lực thanh toán trước khi làm xong các thủ tục pháp lý để tờ séc có đủ điều kiện thanh toán do đó nó đã hạn chế việc chuyển nhượng séc rất lớn. Mà một trong những đặc tính quan trọng hấp dẫn người sử dụng séc đó séc đó là khả năng có thể chuyển nhượng được của tờ séc.
Thực tế cho thấy ở SGDI là hầu hết séc không được chuyển nhượng mặc dù có diều khoản nay dành sẳn ở mặt của tờ séc. Mà nếu séc không được chuyển nhượng thì thời hạn 15 ngày là quá dài: Bởi tổ chức thanh toán ở những vùng xa xôi nếu chậm nhất cũng chỉ mất từ 8-10 ngày, thanh toán trong cùng một ngân hàng cũng chỉ mất một vài ngày. Thậm chí với séc bảo chi chỉ cần 6-8 ngày. Tuy nhiên để được chuyển nhượng dể dàng tạo sự an tâm cho cho người được chuyển nhượng thì thời gian này là ngắn. Từ đó cho thấy việc quy định định lại thời hạn hiệu lực thanh toán của tờ séc là rất cần thiết. Phải có quy định rõ ràng về thời hạn xuất trình và thời hạn hiệu lực thanh toán séc. Bởi vì việc quy định thời hạn xuất trình và thời hạn thanh toán sẽ bảo vệ được quyền lợi cho người ký phát và người thụ hưởng séc. Khi hết thời hạn xuất trình nhưng còn trong thời hạn hiệu lực mà không có yêu cầu huỷ ngang tờ séc của người ký phát thì tờ séc vẫn được thanh toán cho người thụ hưởng. Đồng thời quy định khi hết thời hạn xuất trình thì người ký phát có quyền huỷ ngang tờ séc,điều này rất thuận tiện đối với người ký phát. Bởi vì theo đúng nguyên tắc khi ký phát séc thì người ký phát phải luôn đảm bảo có đủ số dư trên tài khoản của mình để khi tờ séc quay về là có đủ tiền trả ngay. Song không thể bắt anh ta chờ quá lâu được nên anh ta có quyền đến một khoảng nào đó mà tờ séc không quay về thì có thể huỷ ngang tờ séc để được sử dụng vốn của mình cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà không hề bị vi phạm đây là điều rất có lợi cho người ký phát. Tuy tờ séc bị huỷ ngang, tức là tờ séc đó không được người trả tiền thanh toán nữa, song tờ séc đó vẫn là một giấy nhận nợ của người ký phát đối với người thụ hưởng do đó người ký phát vẫn phải thanh toán cho người thụ hưởng. Như vậy là quyền lợi của cả người thụ hưởng và người ký phát séc đều được đảm bảo.
Từ thực tế cho thấy nên quy định thời hạn xuất trình là 30 ngày, thời hạn hiệu lực là 180 ngày.
Đây sẽ là thời gian phù hợp để cho người thụ hưởng dể dàng chuyển nhượng séc trong thanh toán, phát huy hơn nữa tiện ích của công cụ TTKDTM.
5.2.3 Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học trong thanh toán séc xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ điện tử séc mở rộng phạm vi thanh toán, rút ngắn thời gian thanh toán bằng séc:
Một hạn chế rất lớn của thanh toán bằng séc khiến cho việc sử dụng séc trong thanh toán rất ít đó là phạm vi thanh toán của séc quá hẹp chỉ thanh toán khi người mua và người bán cùng mở tài khoản tại một ngân hàng, khác ngân hàng cùng hệ thống, khác ngân hàng khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng một tỉnh, thành phố. Nêú mở rộng phạm vi thanh toán của séc trên toàn quốc thì với điều kiện hiện nay sẽ rất hấp dẵn người sử dụng và điều kiện cũng rất thuận lợi để có thể thực hiện.Thực tế các nước trên thế giới cho thấy rằng để triển khai thanh toán séc trong toàn quốc đòi hỏi phải có cơ sở vật chất trang thiết bị đầy đủ, và đáp ứng được yêu cầu rất cao với việc thành lập trung tâm thanh toán bù trừ điện tử quốc gia và khu vực để các ngân hàng tham gia được nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng.
Hệ thống TTBT séc được thành lập sẽ khắc phục được rất nhiều nhược điểm hiện nay trong thanh toán séc. Đây là một bước ngoặt tạo điều kiện cho séc trở thành một công cụ TTKDTM hữu hiệu nhất.
Hiện nay khi mà hệ thống ngân hàng triển khai thực hiện thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng và với nền tảng pháp lý thuận lợi như: có các quy chế về thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng (ban hành kèm theo quyết định số 1557/2001/QĐ- NHNN ngày 14/12/2001 của Thống Đốc NHNN) Quyết định số 44/2002/ QĐ-Tg ngày 21/3/2002 của Thủ Tướng Chính Phủ về sử dụng chứng từ điện tử để làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn giữa các TCTD cung ứng dịch vụ thanh toán. Cùng với điều kiện cơ sở vật chất kỷ thuật của hệ thống ngân hàng hiện đại hơn trước rất nhiều đã tạo những tiền đề thuận lợi nhất định và cho thấy khả năng xây dựng hệ thống TTBT séc là hoàn toàn có thể thực hiện được.
* Mô hình tổ chức của hệ thống bù trừ séc được cụ thể hoá như sau:
- Các chủ thể tham gia: Các ngân hàng thương mại và chi nhánh của NHTM (ngân hàng thành viên), NHNN( ngân hàng chủ trì), trung tâm xử lý kỷ thuật bù trừ séc.
Trong đó:
+ Ngân hàng chủ trì thanh toán bù trừ: Là đơn vị NHNN chịu trách nhiệm tổ chức TTBT séc và xử lý kết quả TTBT, ngân hàng chủ trì có thể tham gia thanh toán bù trừ séc như là một ngân hàng thành viên.
+ Trung tâm xử lý kỷ thuật bù trừ séc: Là bộ phận có nhiệm vụ xử lý tự động các giao dịch thanh toán bù trừ séc giữa các ngân hàng thành viên và xác định kết quả thanh toán bù trừ séc cho các ngân hàng thành viên. Trung tâm xử lý kỷ thuật bù trừ séc là một đơn vị trực thuộc NHNN hoặc là một đơn vị độc lập trực tiếp thu nhận xử lý số liệu thanh toán và thông báo kết quả thanh toán bù trừ cho ngân hàng chủ trì và các ngân hàng thành viên liên quan.
+ Ngân hàng thành viên trực tiếp : Là ngân hàng được nối mạng trực tiếp với hệ thống máy tính của ngân hàng chủ trì hoặc trung tâm xử kỷ thuật bù trừ séc (trường hợp trung tâm thanh toán xử lý kỷ thuật bù trừ séc là đơn vị độc lập) để thực hiện các giao dịch thanh toán bù trừ séc. Ngân hàng thành viên trực tiếp vừa là đơn vị gửi lệnh thanh toán vừa là ngân hàng nhận lệnh thanh toán.
+ Ngân hàng thành viên được uỷ quyền: là ngân hàng thành viên trực tiếp để thực hiện các giao dịch thanh toán bù trừ séc.
+ Ngân hàng thành viên gián tiếp: là ngân hàng thực hiện các giao dịch thanh toán bù trừ séc nối mạng thông qua một ngân hàng thành viên được uỷ quyền. Ngân hàng thanh viên gián tiếp có thể là chi nhánh trực thuộc ngân hàng thành viên được uỷ quyền hoặc là ngân hàng khác hệ thống nhưng có mở TKTG tại ngân hàng thành viên được uỷ quyền.
Các chủ thể này phải có đầy đủ các điều kiện tiêu chuẩn của ngân hàng thành viên tham gia thanh toán bù trừ điện tử liên hàng theo quy định, có đơn xin tham gia thanh toán bù trừ séc được ngân hàng chủ trì chấp nhận bằng văn bản.
* Điều kiện để triển khai hệ thống bù trừ séc:
+ Về cơ sở vật chất kỹ thuật:
Trung tâm thanh toán bù trừ cùng các ngân hành thành viên phải trang bị hệ thống máy tính hiện đại và đồng bộ, tất cả hệ thống phải thống nhất cài đặt chương, cài đặt thông số cho máy tính, lắp đặt các phần mềm tiên tiến phục vụ cho việc truyền nhân thông tin và tổng hợp dữ liệu, phải có máy phân loại séc, máy quét scanner để chuyển các yếu tố trên séc thành dữ liệu.
+ Khi áp dụng trung tâm thanh toán bù trừ séc thì yêu cầu phải được cải thiện về mẫu mã séc để cho việc truyền nhận thông tin, số liệu giữa các ngân hàng có thể được thực hiện hoàn toàn trên mạng máy tính. Các yếu tố của tờ séc phải được thể hiện dưới dạng dữ liệu điện tử đã được mã hoá và không có sự thay đổi trong quá trình truyền qua mạng máy tính.
Như vậy, các yếu tố trên tờ séc phải được số hoá đến mức tối đa khi đã vào máy quét, tất cả yếu tố trên đều được chuyển hoá thanh dữ liệu và truyềni các ngân hàng thanh viên với kết quả rất nhanh chóng- thời gian hoàn tất một món thanh toán chỉ còn 10 đến 15 phút so với vài ngày như trước đây.
NH A
NH B
NH C
Máy quét (Scanner)
và các thiết bị tin học
NHNo
NHCT
NHNT
Séc
Séc của NHNo
Máy phân loại séc
Séc của NHCT VN
Séc của NHNT
(1)
(2)
(2)
(2)
(3)
(4)
(4)
Sơ đồ xử lý thanh toán bù trừ như sau:
Chú giải:
1. Khi các ngân hàng A, B, C truyền séc vào trung tâm thanh toán bù trừ, nhờ máy phân loại séc, các tờ séc sẽ đợc phân loại theo ngân hàng phục vụ người phát hành séc (người trả tiền).
2. Thông qua máy quét và các thiết bị tin học, các yếu tố trên séc được chuyển sang dạng dữ liệu (bao gồm cả hình ảnh)
3. Các dữ liệu truyền qua mạng máy tính cho các ngân hàng phục vụ người trả tiền kiểm tra lại và ghi nợ tài khoản người trả tiền.
4. S au khi có xác nhận của ngân hàng phục vụ người trả tiền, trung tâm sẽ xử lý bù trừ số tiền của các tờ séc giữa các ngân hàng thành viên tham gia thanh toán bù trừ
Với điều kiện hiện nay của nước ta thì bước đầu trung tâm thanh toán bù trừ séc nên triển khai thực hiện trong phạm vi thanh toán séc giữa người trả tiền và người thụ hưởng trên địa bàn thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh- là những nơi có đầy đủ các điều kiện để xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ séc. Còn ở các tỉnh thành phố khác cần triển khai chuẩn bị cơ sở vật chất kỷ thuật và các điều kiện cần thiết để sớm có hệ thống thanh toán bù trừ séc trên toán quốc. Khi cả nước có đủ điều kiện để thực hiện thanh toán bù trừ séc toàn quốc thì: Trước hết tại trung tâm thanh toán bù trừ khu vực sẽ tiến hành xử lý séc theo mô hình trên sau đó ngân hàng chủ trì thanh toán bù khu vực chuyển kết quả thanh toán bù trừ của các ngân hàng thành viên khu vực lên trung ương để xử lý (bù trừ một lần nữa).
Việc xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ séc nên kết hợp trong hệ thống thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng để có thể tận dụng tối đa nguồn cơ sở vật chất hiện có.
Trên đây là một số ý kiến đóng góp của tôi với mong muốn phần nào có thể làm giảm bớt những bất cập trong thanh toán bằng séc, để séc có thể phát huy hết những tác dụng vốn có của nó và trở thành một công cụ hữu hiệu trong TTKDTM, hấp dẫn khách hàng sử dụng và phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế hiện nay.
Kết luận
Trong nhiều năm qua công tác thanh toán đã không ngừng được đổi mới hiện đại để hoà chung vào nhịp độ tăng trưởng của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thanh toán không dùng tiền mặt đã khẳng định được thế mạnh của nó trong quá trình sử dụng đặc biệt là séc một trong các hình thức của TTKDTM với rất nhiều tiện ích nổi bật so với các hình thức thanh toán khác nhưng lại chưa được khai thác triển để và chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế nên vẫn chưa là một sản phẩm dịch vụ “hấp dẫn” khách hàng.
Trong thời gian thực tập tại SGDI, tôi đã được tìm hiểu chung về nghiệp vụ TTKDTM trong đó đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán bằng séc. Qua đó thấy được phần nào về thế mạnh cũng như những hạn chế của séc trong quá trình sử dụng ở SGDI. Nghiên cứu về séc không phải là đề tài mới mẻ nhưng trước tình hình thực tiển hiện nay về séc thì đây vẫn là một vấn đề bức xúc cần phải tháo gở để mở đường cho séc đi vào cuộc sống và phổ cập trong dân cư. Tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Một số giải pháp mở rộng khả năng thanh toán bằng séc tại SGDI”. Bài viết đã thực hiện được mục đích chính đề ra đó là:
Thứ nhất: Hệ thống hoá được những vấn đề cơ bản về séc .
Thứ hai: Đánh giá được thực trạng thanh toán bằng séc tai SGDI hiện nay.
Thứ ba: Đưa ra được các giải pháp kiến nghị để mở rộng khả năng thanh toán bằng séc.
Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Một lần nữa em rất mong sự quan tâm chỉ bảo của thầy giáo hướng dẫn cùng toàn thể các thầy cô giáo và tập thể cán bộ ngân hàng để bài viết được hoàn thiện hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Kế toán ngân hàng của NGUT Vũ Thiện Thập.
2.Thanh toán quốc tế trong ngoại thương của Đinh Xuân Trình
3. Các loại báo cáo và tạp chí:
Báo cáo công tác thanh toán không dùng tiền mặt của SGDI năm 2001- 2002
Báo cáo công tác thanh toán của SGDI năm 2001- 2001
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của SGDI trong năm 2002
Tạp chí tin học ngân hàng
Tạp chí ngân hàng
Thời báo ngân hàng
4. Các văn bản, Nghị định:
Quyết định 22/QĐ- NH1 ngày 21/2/1994 về thanh toán không dùng tiền mặt
Thông tư 08/TT-NH2 ngày 2/6/1994 hướng dẫn thực hiện về thanh toán không dùng tiền mặt
Nghị định 30/CP của Chính phủ ngày 9/5/1996 về quy chế ban hành và sử dụng séc
Thông tư 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 hướng dẫn thực hiện nghị định 30/CP
Bảng chữ cái viết tắt
Sở Giao Dịch I NHNo và PTNT : SGDI
Thanh toán không dùng tiền mặt : TTKDTM
Ngân hàng Nhà Nước : NHNN
Thanh toán bù trừ : TTBT
Ngân hàng Thương mại : NHTM
Bảng kê nộp séc : BKNS
Tiền gửi : TG
Uỷ nhiệm chi : UNC
Uỷ nhiệm thu : UNT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0276.doc