Cơ cấu đầu tư vào các ngành và các vùng cũng có những chuyển biến quan trọng theo hướng phát huy các tiềm năng của đất nước và theo yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Nếu như năm 1990, vốn đầu tư vào công nghiệp chỉ chiếm 13,2% tổng số vốn thì đến tháng 3 - 1994 tỷ lệ này đạt 42%. Có những ngành như tài chính, ngân hàng những năm đầu chưa có thì đến đầu năm 1994 đã có gần 2% số vốn đầu tư. Một số ngành như kinh doanh dịch vụ, khách sạn, du lịch vẫn duy trì tỷ lệ trên dưới 20% số vốn đầu tư của nước ngoài. Đặc biệt, cơ cấu vốn đầu tư theo vùng lãnh thổ có chuyển biến tương đối mạnh. Từ năm 1988 đến năm 1990 - 1991, trên 70% số dự án đầu tư vào khu vực thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam, chỉ có 15% số dự án đầu tư vào các tỉnh phía Bắc và 5 - 7% số dự án đầu tư vào các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên. Các tỉnh miền núi hầu như chưa có dự án đầu tư nào. Đến năm 1992 - 1993 và đầu năm 1994, đã có 33% số dự án với 44% số vốn đầu tư vào khu vực Hà nội và các tỉnh phía Bắc; có 35 dự án với số vốn là 175 triệu USD đầu tư vào các tỉnh miền núi Bắc Bộ và Trung Bộ.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Campuchia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một hay toàn bộ cổ phần của Nhà nước.
Sau năm 1975, Singapore còn bổ sung thêm một số ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài như có chương trình tài trợ 100 triệu USD Singapore dưới hình thức mua cổ phần của xí nghiệp cho vay và bảo đảm cho những công ty nước ngoài có kỹ thuật công nghiệp hiện đại và có sẵn thị trường xuất khẩu. Đối với xí nghiệp mũi nhọn phải đầu tư ban đầu số vốn lớn và thời gian hoạt động dài mới sinh laĩ thì thời gian miễn giảm thuế được nâng lên 10 năm thay cho quy định 5 năm trước đây. Đối với xí nghiệp tuy vốn đầu tư thấp hơn 1 triệu USD Singapore, nhưng sản phẩm làm ra thuộc loại chất lượng cao thì vẫn được hưởng ưu đãi miễn thuế.
Ngoài việc có chính sách ưu đãi trong đầu tư Nhà nước Singapore quan tâm đặc biệt đến việc đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở và đào tạo nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tư.
Ngay từ năm 1973, Nhà nước Singapore đã lập ra Uỷ ban đào tạo công nghiệp. Chính phủ Singapore đã cùng với nhiều công ty xuyên quốc gia thành lập những trung tâm đào tạo công nhân và nhân viên chuyên môn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. Nhà nước Singapore đã cùng với nhiều công ty xuyên quốc gia thành lập chương trình hỗn hợp đào tạo chuyên môn công nghiệp, trong đó Nhà nước chịu một phần chi phí và công ty xuyên quốc gia được quyền sử dụng một phần công nhân và nhân viên chuyên môn được đào tạo.
Để làm yên lòng các nhà đầu tư nước ngoài và đảm bảo chế độ lao động và tiền lương có lợi, năm 1968 Nhà nước Singapore đã ban bố luật về lao động và luật bổ sung về quan hệ trong công nghiệp. Theo những luật này, công nhân không có quyền thương lượng tập thể đòi hỏi tăng lương. Cấc quyền đình công, bãi công đều bị cấm, tuyển mộ, di chuyển, xếp loại, giảm thợ... đều thuộc quyền quyết định cuối cùng của chủ. Các tổ chức công đoàn có xu hướng tiến bộ hay chịu ảnh của Đảng cộng sản đều bị giải tán, thay vào đó là các tổ chức nghiệp đoàn chịu sự chi phối của đảng nhân dân hành động hoặc của Nhà nước. Nhà nước Singapore trong một thời gian dài duy trì mức tiền lương tối thiểu hạ (cho đến năm 1975 bằng 1/3 ở Nhật để cạnh tranh với Hồng Kông, Đài loan, Hàn quốc). Việc thực hiện chế độ công nhân rẻ mạt phíi hợp chặt chẽ với những biện pháp trên đây không ngoaì lý do gì khác là nhằm giảm tối đa chi phí sản xuất, giúp cho các công ty độc quyền xuyên quốc gia phát huy cao độ hiệu quả đầu tư và thu hồi lợi nhuận siêu ngạch.
Tóm lại, bài học kinh nghiệm rút ra để tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước là:
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước gọn nhẹ.
- Singapore đã xây dựng được hệ thống pháp lý toàn diện, đề ra những nguyên tắc chỉ đạo cụ thể cho các hoạt động kinh doanh. Hệ thống pháp lý này luôn được điều chỉnh cho phù hợp với thực tế của nền kinh tế. Bao gồm: Luật đất đai, luật tiền tệ, luật ngân hàng, luật chứng khoán, luật về quỹ dự phòng, luật theo kế toán, luật thuế thu nhập, luật khuyến khích mở rộng kinh tế, luật làm thuê, luật quan hệ công nghiệp...
- Lấy tiêu chuẩn vê vốn đầu tư có giá trị lớn, tiêu chuẩn hướng về xuất khẩu và tiêu chuẩn kỹ thuật cao làm điều kiện để hưởng các ưu đãi.
- Nhà nước dành phần lớn ngân sách cho phát triển hạ tầng cơ sở.
- Coi trọng phát triển nguồn nhân lực, lợi thế lớn nhất của Singapore trong thời kỳ đầu của công cuộc phát triển.
3.2-/ Thái Lan
Từ thời điểm mở cửa kinh tế đất nước cho tới nay nền kinh tế của Thái Lan phát triển theo 3 giai đoạn, và phù hợp với từng giai đoạn Thái lan có những chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài khác nhau:
- Thời kỳ 1961 - 1971: đây là thời kỳ nền kinh tế Thái lan thiếu cả vốn lẫn kỹ thuật phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước cho nên thời kỳ này chính sách đầu tư tập trung khuyến khích các liên doanh nước ngoài phát triển.
- Thời kỳ 1972 - 1986: thời kỳ thi hành chính sách giảm nhập khẩu, chỉ cho nhập chủ yếu máy móc nguyên liệu vật liệu chưa sản xuất được, thời kỳ này chính sách đầu tư tập trung khuyến khích các dự án đầu tư tập trung khuyến khích các dự án làm hàng xuất khẩu. Các dự án phải có 80% sản phẩm sản xuất phục vụ xuất khẩu.
- Thời kỳ từ 1987 đến nay, Thái lan khuyến khích mạnh mẽ các dự án làm hàng xuất khẩu, những công ty nào có 50% số sản phẩm làm ra để xuất khẩu, thì các nhà đầu tư nước ngoài có thể chiếm phần lớn cổ phần, còn công ty 100% sản phẩm phục vụ xuất khẩu thì có quyền bỏ 100% vốn để mua cổ phần của công ty đó, các ngành công nghệ kỹ thuật cao cấp, giảm bớt các dự án đầu tư tập trung ở thủ đô Băng Cốc.
Để xây dựng cơ sở pháp lý cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài: năm 1972 chính phủ Thái lan ban hành luật kinh doanh cho người nước ngoài, tiếp theo đó năm 1977 ban hành luật khuyến khích đầu tư, và sau đó luật kinh doanh được sửa đổi bổ sung vào các năm 1986, năm 1989.
Nội dung chính của luật đầu tư hiện hành ở Thái lan:
- Về ngành đầu tư: Theo luật này thì tất cả các ngành kinh tế chia làm 3 nhóm A, B, C:
+ Nhóm A: Bao gồm các ngành trồng lúa, nghề muối (muối mỏ), buôn bán nông sản trong nước, buôn bán bất động sản, xây dựng... Người nước ngoài không được phép đầu tư.
+ Nhóm B, C : Người nước goài được tự do đầu tư.
- Về vấn đề góp vốn:
+ Lĩnh vực nông nghiệp hoặc dịch vụ thì người Thái phải góp vốn tối thiểu 515 vốn pháp định.
+ Bên phía nước ngoài có thể thành lập công ty 100% vốn nước ngoài trong những trường hợp: Vốn đầu tư trên 40 triệu USD, có dự án có trên 50% sản phẩm xuất khẩu.
- Về đất đai
Nguyên tắc: người nước ngoài không được sở hữu đất đai, trong những trường hợp đặc biệt có thể mua đất và được quyền chuyển nhượng.
- Về mặt thuế:
Một xí nghiệp thường phải chịu các khoản thuế sau đây: thuế lợi tức 30%, thuế trị giá gia tăng 70% (trong những trường hợp đặc biệt là 30%), thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 10%, thuế nhập các nhân từ 5 - 37%.
Các khoản miễn giảm thuế áp dụng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thường nhằm vào vật tư và trang thiết bị nhập khẩu. Để nhằm phân tán đầu tư trên lĩnh thổ, Thái lan chia đất nước ra làm 3 khu vực:
+ Khu vực 1: Thủ đô Băng cốc và các tỉnh phụ cận, miễn 50% thuế nhập khẩu máy móc, nếu xuất khẩu trên 80% thành phẩm. Miễn thuế lợi tức công ty trong 3 năm, nếu xuất khẩu trên 80%. Miễn thuế nhập khẩu vật tư trong 1 năm, nếu xuất khẩu trên 30% sản phẩm.
+ Khu vực 2: Giảm 50% thuế nhập khẩu máy móc miễn thuế lợi tức công ty từ 3 đến 7 năm, nếu thiết lập trong khu công nghiệp. Miễn thuế vật tư trong một năm, nếu xuất khẩu trên 30%.
+ Khu vực 3: Miễn thuế nhập khẩu trang thiết bị. Miễn thuế công ty trong 8 năm. Miễn thuế nhập khẩu vật tư trong 5 năm, nếu xuất khẩu 30% sản phẩm. Giảm 75% thuế nhập khẩu vật tư trong 5 năm, nếu phân phối sản phẩm nội địa.
- Về lao động: có luật quan hệ lao động 1975. áp dụng chung cho cả xí nghiệp Thái lan và xí nghiệp Thái lan và xí nghiệp nước ngoài.
- Về tổ chức: Uỷ ban đầu tư do Thủ tướng làm chủ tịch, việc phát đơn do Uỷ ban đầu tư tiếp nhận. Văn phòng Uỷ ban đầu tư có một cơ quan thông tin về đầu tư. Văn phòmg cũng có 6 chi nhánh ở hải ngoại, để tiếp xúc với các nhà đầu tư nước ngoài ở Tokyo, New york, Sydney, Frankfurt, Pari và Hồng Kông.
Ngoài đặc khoản thuế Nhà nước Thái Lan còn có các bảo đảm: không quốc hữu hoá, không lập xí nghiệp quốc doanh cạnh tranh, chống độc quyền, không kiểm soát giá cả hay hạn chế xuất khẩu, không miễn thuế nhập khẩu cho sản phẩm đã sản xuất trong nước.
Tóm lại, nghiên cứu kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của Thái lan chúng ta có thể rút ra nhưnữg bài học:
+ ổn định môi trường chính trị, kinh tế và tài chính để tạo điều kiện thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế của quốc gia trong từng giai đoạn mà đưa ra những chính sách thu hút vốn thích hợp.
+ Nhà nước phải có những chính sách hỗ trợ để tăng cường thu hút vốn đầu tư vào những vùng kinh tế khó khăn của đất nước.
3.3-/ Malaysia
- Nhìn chung, sự phát triển kinh tế - xã hội của Malaysia đã trải qua ba giai đoạn. Trong những năm 1960, nền kinh tế Malaysia chủ yếu dựa vào xuất khẩu cao su và thiếc. Những năm tiếp theo Malaysia đã có nhiều cố gắng để đa dạng hoá nền kinh tế và củng cố các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu.
Trong những năm 1970, Malaysia thực hiện chính sách kinh tế mới (New Economy Policy - NEP) với tư tưởng chủ đạo là nhằm điều chỉnh vấn đề mất cân bằng trong thu nhập giữa người Malaysia và các dân tộc thiểu số khác.
Trong suốt những năm 1970, giá hàng tiêu dùng cao và việc xuất khẩu các sản phẩm dầu lửa ngày càng tăng đã đem lại thặng dư thương mại cho đất nước này. Xuất khẩu hàng hoá chế tạo trong thời kỳ này tăng một phần là do những chính sách hạn chế các ngành công nghiệp dựa vào nông nghiệp. Một nguyên nhân nữa là các công ty điện tử của Singapore đứng trước tình hình thiếu nhân công lao động, đã bắt đầu xây dựng các nhà máy ở Malaysia, chủ yếu là Penang.
Năm 1982 là thời kỳ có những biến động đối với nền kinh tế Malaysia. Giá hàng tiêu dùng chững lại và môi trường bên ngoài khó khăn đã làm lộ rõ những điểm yếu cơ bản trong nền kinh tế Malaysia. Bên cạnh sự giảm sút của nông nghiệp, các cơ sở công nghiệp cũng bộc lộ những hạn chế. Lúc này, một kế hoạch công nghiệp (IMP) chủ chốt đã được đề xuất để vạch ra chiến lược công nghiệp hoá mới. Chiến lược này được hoàn tất vào năm 1985 dự định tiến hành công nghiệp hoá trong thời gian 15 năm. Kế hoạch công nghiệp (IMP) cũng đề cập vấn đề sử dụng lao động kém hiệu quả của Malaysia. Bản kế hoạch này dự đoán rằng số kỹ sư và kỹ thuật viên sẽ tăng từ 12.000 lên đến 47.000 trong năm 1995. Nhưng kế hoạch đào tạo các kỹ sư và kỹ thuật viên thì lại chưa đáp ứng được mục tiêu này. Kế hoạch này đã chỉ ra rằng ở Malaysia thiếu hẳn lực lượng được đào tạo có khả năng tiếp nhận hay tiếp thu kỹ thuật như Nhật Bản và các nước công nghiệp mới.
Những phát triển hiện nay cùng với cú sốc do cuộc khủng hoảng kinh tế trong năm 1985 - 1986 đã đưa đến những thay đổi trong chính sách kinh tế mới: đó là quyền sở hữu bất động sản. Trước đây, tất cả các dự án đầu tư được thông qua đều phải có 30% sở hữu của những người chủ đất thì nay những dự án do người nước ngoài hoàn toàn sở hữu được phép thực hiện đầu tư nếu như 80% sản phẩm được xuất khẩu. Chính sách này đã đưa đến một kết quả to lớn là đến cuối năm 1990, một khối lượng đầu tư lớn từ Nhật Bản và Đài Loan đã được đưa vào Malaysia. Những ưu tiên này cũng giống như chính sách khuyến khích do Singapore đưa ra.
Trong hai năm 1988 - 1989, khối lượng đầu tư đã tăng lên đến 4 tỷ đôla Malaysia. Năm 1982, khối lượng sản phẩm chế tạo chiếm 23% của GDP, chiếm gần 24% mục tiêu đặt ra của NEP.
Tháng 6 - 1991, chính phủ Malaysia đã đưa ra chính sách phát triển mới (New Development Policy- NDP) nhằm giải quyết những vấn đề còn lại mà NEP chưa làm xong.
Nói chung, đầu tư của các công ty xuyên quốc gia vào ba nước trên đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong các ngành chế tạo hàng xuất khẩu, là nền tảng thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh chóng trong những năm gần đây. Mức tăng trưởng kinh tế của Thái Lan và Malaysia đã vượt cả Singapore. Tuy vậy, đối với Singapore thì mức tăng ổn định là 8%, mà một trong những nguyên nhân cũng là biết thu hút đầu tư của các công ty xuyên quốc gia.
Kinh nghiệm của Malaysia đẩy nhanh tốc độ đầu tư là:
+ Xây dựng hệ thống chính trị ổn định và đoàn kết dân tộc.
+ Hệ thống giáo dục vững mạnh.
+ Hạ tầng cơ sở hiện đại.
+ Có kế hoạch phát triển ngắn hạn và dài hạn có mục tiêu rõ ràng.
+ Có chương trình khuyến khích đầu tư tích cực cho người nước ngoài và người trong nước.
+ Thái độ hoan nghênh, hợp tác với các nhà đầu tư không chỉ thể hiện ở các mặt ưu đãi đầu tư, tinh thần trách nhiệm của cán ij phát triển đầu tư mà còn ở cơ quan hải quan, cơ quan thuế vụ, tiếp viên khách sạn, tài xế taxi và cả dân thường.
+ Quốc gia giới thiệu đúng đối tác, đúng ngành nghề và địa điểm thuận lợi khiến các nhà đầu tư không mất thời gian, không chọn nhầm đối tác, từ đó họ đầu tư thoải mái trong môi trường thuận ôựi.
+ Lao động rẻ, kỹ thuật cao.
+ Hệ thống tài chính, tiền tệ mạnh với những quy luật ró ràng, lãi suất thoả đáng.
3.4-/ Indonesia
Indonesia đất nước nằm giữa phần đất liền của khu vực Đông Nam á và Châu úc, là một quần đảo lớn nhất trên thế giới (hơn 13 nghìn hòn đảo), nơi sinh sống của hơn 180 triệu người. Từ thập kỷ 70 trở lại đây, Indonesia trở thành một điểm thu hút khối lượng lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thế giới các nước đang phát triển.
Dưới con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài, Indonesia là đất nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú (đặc biệt là dầu mỏ), nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, một thị trường tiêu thụ rộng lớn, đầy tiềm năng.
Những kinh nghiệm, bài học thành công, thất bại trong chính sách thu hút FDI của chính phủ Indonesia trong hơn hai thập kỷ qua là những bài học quý báu cho các nước đang phát triển, đặc biệt cho những nước có dân số lớn, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu thu nhập quốc dân (GDP) cao, và xuất khẩu dầu mỏ là nguồn thu nhập lớn của đất nước.
Chính sách thu hút FDI của chính phủ Indonesia
Trước năm 1966, dưới thời tổng thống Sukakno, nền kinh tế nước này lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng: lạm phát vượt quá mức 600% /năm, các ngành kinh tế quan trọng hầu như ngừng trệ. Indonesia là một trong những nước nợ nước ngoài nhiều nhất.
Tháng 3 - 1966, tướng Suhakto lên nắm quyền, chấm dứt thời kỳ trật tự cũ (Old order) và mở ra thời kỳ trật tự mới (New order) cho Indonesia. Trong những năm đầu của chính phủ mới, đất nước đã chứng kiến những thay đổi lớn trong chính sách đối với FDI. Sau hàng thập kỷ quốc hữu hoá và thái độ thù địch đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư phương Tây, một trong những quyết định đầu tiên của chính phủ Suhakto là ban bố Luật đầu tư nước ngoài số 1 năm 1967. Để lập lại sự tín nhiệm của Indonesia ở nước ngoài và thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài cho phục hồi nền kinh tế trong nước. Luật đầu tư nước ngoài được coi như là lời mời của chính phủ mới đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Theo luật đó, chính phủ Indonesia đã dành cho các nhà đầu tư nước ngoài những khoản ưu đãi nhất như: cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được tự do đầu tư vào nước này dưới dạng liên doanh với các nhà đầu tư nước sở tại, hoặc 100% vốn của nước ngoài. Các dự án đầu tư được khuyến khích, hưởng chế độ miễn thuế từ 1 đến 5 năm (Tax holiday), hưởng phụ cấp đầu tư (Investment allowances) và các khoản ưu đãi khác về tài chính. Trong cùng thời gian đó, chính phủ mới đã ký các hiệp định bảo hộ đầu tư với Mỹ và các nước Tây âu, trong đó có cả Hà Lan1. Trước kia Indonesia là thuộc địa của Hà Lan. Sau khi giành được độc lập, Indonesia đã có những biện pháp tịch thu tài sản của tư bản Hà Lan.
nhằm đảm bảo các quyền lợi đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động ở Indonesia.
Kỷ nguyên tự do hoá đầu tư nước ngoài đã kéo dài được 5 năm. Đầu thập kỷ 70, chính phủ Suhakto đã bắt đầu đưa ra những chính sách hạn chế và kiểm soát chặt chẽ hơn đối với FDI. Nguyên nhân chính của các hành động trên của chính phủ Indonesia là do nền kinh tế của nước này đã phục hồi và tư tưởng dân tộc trong thời lãnh đạo và thương gia Indonesia lại trỗi dậy. Mặc dù chính sách thu hút FDI từ Mỹ, phương Tây và Nhật Bản của tổng thống Suhakto đã góp phần đáng kể cho sự phục hồi nền kinh tế của nước này, song chính sách này cũng là mục tiêu chỉ trích mạnh mẽ ở trong nước về sự ảnh hưởng của tư bản nước ngoài đối với sự độc lập kinh tế của Indonesia. Đỉnh cao của sự chỉ trích này là vụ bạo động xảy ra nhân chuyến đi thăm Indonesia của thủ tướng Nhật Bản Tanaka tháng 1/1974. Những người biểu tình lên tiếng chống đối mạnh mẽ các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung ở Indonesia. Đứng đằng sau cuộc biểu tình là một số nhà chính trị cao cấp và giới thương gia của nước này. Nhằm xoa dịu những chỉ trích này, tổng thống Suhakto tuyên bố là ông sẽ ban hành các chính sách và các biện pháp cụ thể nhằm hạn chế và kiểm soát chặt chẽ hơn đối với FDI ở Indonesia. Các biện pháp này bao gồm: huỷ bỏ và hạn chế các khuyến khích đầu tư, hàng loạt các ngành và khu vực công nghiệp đóng cửa đối với các dự án đầu tư nước ngoài, mới hạn chế tới mức thấp nhất số nhân viên nước ngoài đuợc phép làm việc ở Indonesia và lần đầu tiên chính phủ Suhakto đã quy định các dự án đầu tư nước ngoài ở Indonesia chỉ được phép dưới dạng liên doanh duy nhất với các nhà đầu tư Indonesia. Chính sách bắt buộc và tỷ lệ cổ phần trong các liên doanh được đưa ra, theo đó tỷ lệ cổ phần của phía Indonesia ít nhất là 51%.
Mặc dù với những hạn chế được đưa ra, các chính sách đầu tư nước ngoài về cơ bản được thi hành một cách rất mềm dẻo. Năm 1977, nhà nước đã tiến hành cải tổ hệ thống hành chính và tháng 2/1977, đã ban hành danh mục ưu tiên đầu tư (List of Investment Priority). Danh mục này nhằm giúp các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng tập trung vào các ngành được chính phủ ưu tiên khuyến khích và họ sẽ được hưởng ưu đãi về tài chính dành cho họ. Tháng 10/1977, cải cách hệ thống hành chính phục vụ FDI được tiến hành nhằm tập trung và đơn giản hoá các thủ tục xin giấy phép đầu tư. Cục điều phối đầu tư (BKPM) trở thành cơ quan duy nhất quản lý đầu tư nước ngoài ở Indonesia.
Sau những cải cách vào năm 1977, nền kinh tế Indonesia đã đạt được một khoản thu nhập lớn nhờ vào sự tăng giá dầu mỏ trên thị trường thế giới. Kết quả là hàng loạt các đòi hỏi đối với FDI được đưa ra nhằm thắt chặt sự kiểm soát đối với các nhà đầu tư nước ngoài từ năm 1980. Nhiều lĩnh vực công nghiệp quan trọng của nền kinh tế bị đóng cửa đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tháng 12/1983, luật thuế mới đã được quốc hội nước này thông qua. Theo luật này, mặc dù mức thuế thu nhập của công ty cao nhất được giảm từ 45% xuống 35%, nhưng chính phủ đã huỷ bỏ chế độ miễn thuế (Tax holidays), trợ cấp đầu tư và các khoản ưu đãi tài chính khác cho tất cả các dự án FDI. Chính sách thuế thay đổi đã ảnh hưởng mạnh đến luồng FDI chảy vào Indonesia. Các dự án được chấp thuận giảm rõ rệt trong năm 1984. Từ năm 1985 đến năm 1993 do sự cạnh tranh mạnh mẽ của các nước trong khu vực, đặc biệt là một số nước xuất hiện như là địch thủ mới của Indonesia trong thu hút FDI như Trung Quốc, Việt Nam và ấn Độ (các nước này đã thu hút các nhà đầu tư bởi các bộ luật đầu tư thông thoáng và những điều kiện môi trường đầu tư thuận lợi hơn nhất là về tài nguyên, nhân lực...). Cộng thêm vào đó là tình hình suy thoái của nền kinh tế Indonesia đã buộc chính phủ tiến hành hàng loạt các chính sách và biện pháp thay đổi lớn đối với FDI, và chúng được gọi là các cải cách đầu tư trọn gói (Investment Package Reforms). Mục đích chính của các cải cách này nhằm tăng cường hơn các ưu đãi và khuyến khích đối với FDI và cải thiện môi trường thương mại, đầu tư của nước này. Tuy nhiên cho đến nay, nhiều chuyên gia nghiên cứu kinh tế Indonesia cho rằng: chính sách đầu tư nước ngoài của chính phủ Suhakto được xem như là tự do hơn so với thời kỳ của Sukakno (trước năm 1966), nhưng không thể được coi là tự do hoá, thông thoáng và phản ánh thực sự chính sách mở cửa của nước này. Nhà nước Indonesia cố gắng cân bằng những quan điểm tư tưởng của chính mình, tư tưởng dân tộc và những mục tiêu phát triển kinh tế của một đất nước. Sự biến đổi chính sách một cách đột ngột từ tự do hoá đầu tư nước ngoài sang hạn chế kiểm soát chặt chẽ và ngược lại, trong vòng hơn hai thập kỷ qua cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Hiện nay, trong các nước ASEAN, môi trường pháp lý đầu tư nước ngoài của Indonesia được coi là hạn chế nhất, nhất là trong các lĩnh vực như về khía cạnh những đòi hỏi, hạn chế về sở hữu nước ngoài, những ưu đãi tài chính và sự hạn chế nhân viên nước ngoài. Và đây cũng là trở ngại lớn của Indonesia trong việc cạnh tranh thu hút FDI trong khu vực.
Những đặc điểm chính của FDI ở Indonesia
Lĩnh vực và cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài đến hết năm 1992, sau 26 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, Indonesia đã thu được kết quả đáng kể về thu hút FDI: 2.426 dự án đã được cấp giấy phép với tổng số vốn được chấp thuận đạt 63.015,8 triệu USD. Tuy nhiên khi xem xét những số liệu về FDI ở Indonesia cần phải phân biệt giữa giá trị và số dự án được Cục điều phối đầu tư Indonesia (BKPM) chấp thuận và giá trị, số dự án thực tế đã được triển khai thực hiện, bởi vì có chênh lệch lớn giữa hai nhóm số liệu này do 3 nguyên nhân chính giải thích sự chênh lệch lớn giữa đầu tư được chấp thuận và đầu tư thực tế. Nguyên nhân thứ nhất, đơn giản nhất là có nhiều dự án lớn với số vốn đầu tư lớn được chấp thuận, nhưng không thực hiện được thì tỷ lệ vốn đầu tư thực tế giảm mạnh. Thứ hai, do sự thay đổi trong nền kinh tế Indonesia và thế giới. Ví dụ, giữa thập kỷ 70 rất nhiều dự án FDI ở Indonesia đã được chấp thuận, song không thực hiện được do sự suy giảm kinh tế trên thế giới và do sự suy giảm của nền kinh tế Indonesia. Nguyên nhân thứ ba, rất quan trọng, đó là sự nhạy cảm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với những sự thay đổi trong chính sách của chính phủ Suhakto đối với FDI.
Sự phân bổ FDI theo lãnh thổ
Các nhà nghiên cứu đầu tư trực tiếp nước ngoài của Indonesia thường chỉ trích mạnh mẽ về tình trạng phân bổ không đồng đều của FDI trên toàn lãnh thổ. FDI chỉ tập trung vào một số thành phố lớn và một vài tỉnh. Các dự án đầu tư nước ngoài được chấp thuận chủ yếu tập trung ở thủ đô Jakarta, các đảo Java và Sumatra. Ba tỉnh này chiếm tới 76,2% tổng vốn đầu tư nước ngoài được chấp thuận trong suốt giai đoạn 1967 - 1972. Có hai lý do chính để giải thích cho sự tập trung cao về mặt lãnh thổ của FDI ở Indonesia: Một là, do bản chất và động cơ của các nhà đầu tư nước ngoài. Hai là, do chính sách của chính phủ Suhakto đã không có hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu phân bổ đồng đều FDI trên lãnh thổ nước này. Do hệ thống pháp lý không đồng bộ, thiếu nhân lực, do thủ tục xin giấy tờ quan liêu, phức tạp, cộng thêm với tình trạng hối lộ, tham nhũng của các tổ chức nhà nước và các quan chức có liên quan đến dịch vụ đầu tư nước ngoài của nước này đã thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài thành lập công ty của mình gần các trung tâm quyền lực hành chính ở thủ đô Jakarta. Hơn nữa, do cơ cấu hệ thống bảo hộ mậu dịch đã khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, vì vậy các xí nghiệp này phải tập trung ở gần các thị trường tiêu thụ lớn như đảo Java và Sumatra.
Các nguồn FDI ở Indonesia
Nhật Bản, Mỹ và các nước NICS Châu á (Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc và Singapore) là nhóm nước có vốn đầu tư trực tiếp lớn nhất ở Indonesia, trong đó Nhật Bản là nước đứng vị trí thứ nhất kể từ năm 1967, khi Indonesia ban hành luật đầu tư nước ngoài. Đầu tư của Nhật Bản chủ yếu tập trung vào ngành chế tạo. Mỹ là nước đầu tư chủ yếu vào ngành khai thác dầu khí. Nhưng hiện nay đầu tư của Mỹ ở Indonesia giảm so với những năm 80.
Các nước công nghiệp hoá mới (NICS) ở Châu á nổi lên như là một nguồn FDI mới ở Indonesia. Các nước này hiện nay chiếm 22,5% tổng số vốn FDI được chấp thuận. Đầu tư của NICS chủ yếu tập trung vào các ngành xuất khẩu. FDI của Hàn Quốc chủ yếu tập trung vào hai khu vực: chế tạo và lâm nghiệp còn FDI của Đài Loan lại chủ yếu đi vào 3 khu vực: chế tạo, khai thác than và giao thông; Ngược lại, đầu tư của Hồng Kông phân bổ rộng lớn hơn, bao gồm bất động sản, lâm nghiệp, xây dựng, khách sạn, nhà ăn và một phần trong ngành chế tạo và khai thác. Singapore hướng đầu tư vào ngành bất động sản, sau đó là chế tạo và khai thác.
Kết luận
Qua xem xét chính sách đầu tư nước ngoài của chính phủ Indonesia và những đặc điểm FDI, chúng ta thấy có những nét đặc biệt sau:
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài - đó là vấn đề tranh cãi đầy mâu thuẫn ở Indonesia. Mặc dù là một nước ban hành luật đầu tư nước ngoài sớm nhất nhằm thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ và quản lý tiên tiến của nước ngoài. Tuy nhiên cho đến nay có rất nhiều người có tư tưởng dân tộc trong giới lãnh đạo và thương gia còn hoài nghi về tính tích cực của FDI. Họ lo ngại về sự thống trị của tư bản nước ngoài đối với nền kinh tế Indonesia và nguy cơ “mất độc lập kinh tế” của nước này, mặc dù trong hơn hai thập kỷ qua, FDI đã đóng góp không nhỏ trong việc phục hồi nền kinh tế, phát triển khu vực công nghiệp và tạo thêm công ăn việc làm.
+ Trong các nước ASEAN, môi trường đầu tư nước ngoài của Indonesia được coi là hạn chế nhất. Nó được thể hiện trong hai mặt sau:
- Chính sách đầu tư nước ngoài của chính phủ Indonesia là không ổn định. Các chính sách luật lệ FDI thay đổi thường xuyên làm cho các nhà đầu tư nước ngoài không thể đoán được. Indonesia đã đưa ra nhiều yêu cầu hạn chế, kiểm soát chặt chẽ các nhà đầu tư nước ngoài. FDI ở Indonesia bị hạn chế bởi sở hữu, lĩnh vực đầu tư, khuyến khích tài chính và nhân viên nước ngoài. Cho đến nay, Indonesia vẫn chưa có chính sách đúng đắn nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo cán bộ quản lý. Đó là những yếu tố hạn chế thu hút FDI vào Indonesia.
- Do chính sách quá nặng nề về độc quyền và bảo hộ của khu vực nhà nước Indonesia và hệ thống hành chính độc quyền, tham nhũng, quan liêu của nước này đã làm giảm khả năng thực hiện của chính sách đầu tư nước ngoài, gây cản trở cho việc FDI thực hiện, phát huy tính tích cực trong nền kinh tế Indonesia. Điều này phản ánh rất rõ trong suốt hai thập kỷ qua.
3.5-/ Việt Nam
Tháng 12 năm 1987, Nhà nước Việt Nam đã ban hành luật đầu tư nước ngoài nhằm tranh thủ các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để góp phần vào công cuộc cải tạo, xây dựng và phát triển các cơ sở kinh tế, văn hoá trong nước. Việc triển khai luật đầu tư đã đem lại những kết quả quan trọng bước đầu, đồng thời cũng đặt ra một số vấn đề đòi hỏi phải tiếp tục nhận thức và xử lý để vừa tăng cường thu hút các nguồn vốn nước ngoài, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó theo yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Trước hết có thể khẳng định rằng so với một số nước cũng ở giai đoạn đầu ban hành luật đầu tư thì tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam tăng khá nhanh. Nếu như năm 1988 - năm đầu tiên thực hiện luật đầu tư - có 37 dự án với số vốn là 366 triệu USD thì đến đầu năm 1994 đã có tổng số 895 dự án với số vốn đăng ký là 8.500 triệu USD. Quy mô vốn bình quân của dự án cũng tăng lên qua từng năm. Nếu thời kỳ 1988 - 1990 quy mô bình quân là 3,5 triệu USD/ dự án thì thời kỳ 1991- 1994 quy mô bình quân là 9 triệu USD/dự án. Tính từ năm 1988 đến nay, bình quân mỗi năm vốn nước ngoài đã đưa vào Việt Nam trên 1 tỷ USD, góp phần quan trọng vào việc cải tạo, xây dựng và phát triển một số cơ sở kinh tế của đất nước.
Cơ cấu đầu tư vào các ngành và các vùng cũng có những chuyển biến quan trọng theo hướng phát huy các tiềm năng của đất nước và theo yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Nếu như năm 1990, vốn đầu tư vào công nghiệp chỉ chiếm 13,2% tổng số vốn thì đến tháng 3 - 1994 tỷ lệ này đạt 42%. Có những ngành như tài chính, ngân hàng những năm đầu chưa có thì đến đầu năm 1994 đã có gần 2% số vốn đầu tư. Một số ngành như kinh doanh dịch vụ, khách sạn, du lịch vẫn duy trì tỷ lệ trên dưới 20% số vốn đầu tư của nước ngoài. Đặc biệt, cơ cấu vốn đầu tư theo vùng lãnh thổ có chuyển biến tương đối mạnh. Từ năm 1988 đến năm 1990 - 1991, trên 70% số dự án đầu tư vào khu vực thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam, chỉ có 15% số dự án đầu tư vào các tỉnh phía Bắc và 5 - 7% số dự án đầu tư vào các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên. Các tỉnh miền núi hầu như chưa có dự án đầu tư nào. Đến năm 1992 - 1993 và đầu năm 1994, đã có 33% số dự án với 44% số vốn đầu tư vào khu vực Hà nội và các tỉnh phía Bắc; có 35 dự án với số vốn là 175 triệu USD đầu tư vào các tỉnh miền núi Bắc Bộ và Trung Bộ.
Về các đối tác đầu tư cũng ngày càng được mở rộng hơn trong những năm đầu, các đối tác đầu tư thuờng là các công ty nhỏ, trong đó có các loại môi giới, buôn bán hợp đồng. Đến đầu những năm 1990, đã có trên 500 công ty của 42 nước tham gia hợp tác đầu tư, kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Trong số các đối tác đầu tư có một số đối tác có số vốn đầu tư trên 100 triệu USD như: Đài Loan có 77 dự án với 1.115 triệu USD; Hồng Kông có 140 dự án với 807 triệu USD; Pháp có 41 dự án với 487 triệu USD; úc có 32 dự án với trên 400 triệu USD; Nhật Bản có 37 dự án với gần 400 triệu USD; Nam Triều Tiên có 29 dự án với 340 triệu USD; Anh có16 dự án với gần 400 triệu USD v.v....
Nguồn vốn đầu tư của nước ngoài đã góp phần quan trọng đáng kể vào việc tạo ra năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh của các sở, các ngành được đầu tư. Đó là các ngành: dầu khí, công nghiệp chế tạo thiết bị điện; điện tử; vật liệu xây dựng; sản xuất hàng dệt- may, giầy dép, sản xuất gia công; giao thông vận tải, bưu điện. Nói riêng ngành thăm dò, khai thác dầu khí, trong 6 năm từ 1987 đến 1993 có 26 dự án với trên 1,2 tỷ USD, đến nay, hàng năm khai thác trên 6 triệu tấn dầu thô, đạt yêu cầu 50% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Lĩnh vực giao thông vận tải và bưu điện có 20 dự án với số vốn 600 triệu USD đã làm thay đổi hẳn về kỹ thuật và chất lượng thông tin trong nước và quốc tế. Nhờ có vốn và kỹ thuật mới, một số ngành có tốc độ tăng trưởng cao như: khai thác dầu thô tăng 36%, sản xuất thép tăng 21%; phân lân tăng 47%; vận tải biển tăng 33%. Các mặt hàng xuất khẩu của các ngành nông - lâm - ngư nghiệp và công nghiệp nhẹ đã giảm tỷ lệ sản xuất sơ chế và tăng hàm lượng kỹ thuật nên chất lượng và hình thức mẫu mã được cải tiến, ngày càng có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.
Một kết quả quan trọng khác, góp phần vào việc giải quyết vấn đề bức xúc hiện nay của đời sống kinh tế- xã hội Việt Nam là đã tạo thêm công ăn việc làm và thu hút gần 5 vạn lao động trực tiếp, hàng chục vạn lao động có tính thời vụ vào hàng trăm cơ sở sản xuất kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được nói trên, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng đang đặt ra những vấn đề cần được nhận thức đầy đủ hơn và có những biện pháp xử lý cụ thể, kịp thời để tăng cường thu hút, sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn vốn nước ngoài vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam. Có thể khái quát một số vấn đề chủ yếu sau đây:
- Một là: số lượng các dự án và vốn đầu tư đăng ký hàng năm tuy có tăng lên nhanh, song số dự án với số vốn được thực hiện chỉ đạt khoảng 30% (khoảng trên 2000 triệu USD). Quy mô bình quân cho một dự án tuy đạt khoảng 9 triệu USD, nhưng số dự án có quy mô trên 10 triệu USD chỉ chiếm khoảng trên 10% (chủ yếu là các dự án thăm dò, khai thác dầu khí), còn phần lớn số dự án có quy mô dưới 5 triệu USD chiếm trên 70% tổng số dự án. Các đối tác đầu tư chủ yếu là các nước trong khu vực. Các nước Tây âu, có tiềm lực khoa học, kỹ thuật và vốn lớn tham gia chưa mạnh và còn mang tính chất thăm dò, tạo chỗ đứng là chính. Như vậy, so với nhu cầu về vốn để phát triển kinh tế trong giai đoạn 1991 - 1995 cần 15 tỷ USD và 40 tỷ USD đến năm 2000 thì những chỉ tiêu đạt được trong 6 năm qua còn có khoảng cách khá lớn. Hơn nữa, tổng số vốn được thực hiện và quy mô vốn của dự án phần lớn các dự án đi vào nâng cấp, trang thiết bị thêm kỹ thuật, bổ sung vốn lưu động hoặc thuần tuý làm gia công cho nước ngoài, qua đó lợi dụng thị trường Việt Nam để tiêu thụ sản phẩm là chính. Đây là một tồn tại cần được phân tích và có chỉ đạo chặt chẽ trong việc ký kết với nước ngoài.
- Hai là: xét về cơ cấu vốn đầu tư theo ngành và vùng- lãnh thổ, tuy có chuyển biến so với vài năm đầu triển khai Luật đầu tư. Nhưng xem xét cụ thể trong từng ngành, từng vùng thì các dự án tập trung chủ yếu vào công nghiệp nhẹ, sản xuất gia công, lắp ráp, khách sạn, du lịch, dịch vụ. Các ngành then chốt, các vùng kinh tế quan trọng, nhất là các ngành ít sinh lời, thu hồi vốn chậm như cơ sở hạ tầng, cơ khí chế tạo nông - lâm - ngư nghiệp, các ngành yêu cầu kỹ thuật cao thì vốn đầu tư còn quá ít (nông - lâm - ngư nghiệp chỉ có 6,9%, giao thông bưu điện là 7,4%).
Miền núi và Tây nguyên của Việt Nam có nhiều tiềm năng cần đầu tư nhiều vốn và kỹ thuật để khai thác, nhưng sau 6 năm thực hiện mới chỉ có 4% số dự án với 2% số vốn được đầu tư.
- Ba là: một trong những mục tiêu của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là tranh thủ kỹ thuật và công nghệ mới để nâng cao trình độ trang thiết bị của nền kinh tế. Nhưng trong khi triển khai chủ trương này về mặt kỹ thuật và công nghệ hiện đại chưa có bước tiến rõ rệt đối với toàn bộ nền kinh tế, trừ ngành dầu khí và bưu chính viễn thông. Nhìn chung do thiếu kinh nghiệm, ít thông tin, trình độ hạn chế nên khá nhiều trường hợp nhập thiết bị quá cũ hoặc thiếu đồng bộ, không tính toán đầy đủ tới phụ tùng, nguyên liệu cho thiết bị hoạt động. Do đó, sản phẩm của không ít xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giá thành đắt, hàm lượng khoa học kỹ thuật trong giá trị gia tăng của hàng hóa chỉ đạt từ 10 - 20%. Nhiều công đoạn trong quy trình sản xuất còn thủ công, công nhân làm việc với cường độ cao, hiệu quả kinh tế còn thấp. 1USD thường chỉ tạo ra được 0,25 USD. Có thể nói, việc chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại còn rất hạn chế, nhất là trong các công nghiệp chế tạo, nông-lâm- ngư nghiệp.
- Bốn là: luật đầu tư của Nhà nước Việt Nam, nhìn chung là hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài: môi trường đầu tư từng bước được hoàn thiện, đặc biệt môi trường chính trị - xã hội là lành mạnh, ổn định và thuận lợi, cho nên chỉ trong khoảng thời gian ngắn, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã đạt được kết quả khả quan về quy mô, về tốc độ và về số lượng các đối tác tham gia đầu tư. Song cũng còn tồn tại những vấn đề về cơ cấu đầu tư, về trình độ kỹ thuật công nghệ, về khai thác các tiềm năng vốn có trong nước, về hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như nhiều vấn đề về tổ chức quản lý và xã hội khác.
Có thể nói, đây là những vấn đề bức xúc, liên quan đến nhiều mặt trong lĩnh vực hợp tác đầu tư, đòi hỏi phải được nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn, cần học hỏi kinh nghiệm của các nước, tổng kết rút kinh nghiệm việc đã làm trong thời gian qua để mở rộng đối tác đầu tư, tăng cường thu hút vốn và kỹ thuật, sử dụng có hiệu quả cao nhân tố quốc tế quan trọng này.
3.6-/ Philippines
Luật đầu tư của Philippines áp dụng cho cả đầu tư trong và ngoài nước được ban hành năm 1987.
Nội dung chính của Luật đầu tư bao gồm những điểm chính:
- Nơi cấp giấy phép đầu tư là ủy ban đầu tư
- Điều kiện được cấp giấy phép đầu tư FDI:
+ Nếu là thể nhân phải là người Philippines.
+ Công ty liên doanh được thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, bên phía Philippines đóng góp ít nhất 60% vốn pháp định và chiếm trên 60% thành viên của hội đồng quản trị.
+ Bên phía nước ngoài có thể lập các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong các trường hợp: đầu tư vào các ngành chưa có ở Philippines và cầu cho đất nước Philippines hoặc các xí nghiệp có trên 70% sản phẩm phục vụ cho xuất khẩu. Tuy nhiên đối với các xí nghiệp này sau 30- 40 năm, các nhà tư bản nước ngoài buộc phải giảm số vốn của mình xuống 40%.
- Các doanh nghiệp có vốn FDI phải thực hiện hệ thống kế toán có thể kiểm soát được về mặt tài chính.
- Đầu tư FDI được bảo đảm: chuyển vốn và lợi nhuận về nước, tài sản của công dân nước ngoài không bị quốc hữu hoá không bị tịch thu. Được miễn giảm một số thuế.
- Các nhà đầu tư nước ngoài khônh được phép sở hữu đất đai, được thuê đất để xây dựng nhà máy.
- Các nhà đầu tư nước ngoài có quyền đầu tư vào thị trường chứng khoán của Philippines, sau đó cho phép chuyển vốn và lãi ra nước ngoài.
Luật đầu tư của Philippines qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung với mục đích khuyến khích phát triển kinh tế đất nước. Nổi bật là năm 1989, Philippines sửa đổi nội dung chính là:
• Miễn thuế doanh thu trong 6 năm cho tất cả những công ty, xí nghiệp mới thành lập, kể cả trong và ngoài nước, nhưng trong lĩnh vực sản xuất ở 3 năm đầu, các xí nghiệp công ty đó phải dùng nguyên liệu trong nước và mỗi năm các xí nghiệp công ty đó phải thu được một số ngoại tệ hay lợi nhuận không dưới 50,000 USD.
• Đơn giản hóa các thu tục đầu tư nước ngoài.
• Cho phép các công ty được điều chỉnh mức thua lỗ năm trước với mức lợi nhuận năm sau để giảm thuế phải đóng theo quy định, giảm chi phí thiết bị bằnh cách hạ thấp tỷ lệ khấu hao.
• Đối với các nhà đầu tư nước ngoài miễn thuế từ 4- 8 năm, miễn thuế nhập khẩu các thiết máy móc. Luật đầu tư còn quy định đảm bảo cho người đầu tư có quyền chuyển ra khỏi Philippines vốn và lợi nhuận bằng ngoại tệ thu được trong lĩnh vực đầu tư.
Đặc biệt trong lần sửa đổi luật vào tháng 6 năm 1991, Chính phủ đã đưa ra thêm một số điểm mới và mở rộng đối với các nhà đầu tư nước ngoài như:
• Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài làm chủ 100% vốn của mình dưới nhiều hình thức hoạt động kinh doanh và 100% các chủ công ty nước ngoài được phép xuất khẩu tới 60% sản phẩm của công ty.
• Hạn chế 40% tiền vốn nước ngoài đầu tư vào các ngân hàng, ngành đóng tàu biển, hàng không nội địa, các nhà máy quốc phòng.
• Các công ty có vốn nước ngoài dưới 500,000 USD được miễn thuế hoàn toàn.
Năm 1993, luật cho thuê đất đầu tư kéo dài thời gian cho thuê đất lên tới 75 năm đối với đất tư dành cho đầu tư nước ngoài đồng thời có luật bảo hiểm rủi ro chính trị.
Tháng 5 - 1994, luật tổng quát về BOT được ban hành với nhiều hình thức: xây dựng - chuyển giao; xây dựng - điều hành - chuyển giao; xây dựng - thuê - chuyển giao; xây dựng - chuyển giao - điều hành; phát triển - điều hành - chuyển giao; tu bổ - điều hành - chuyển giao; tu bổ - điều hành.
Thời hạn tối đa cho một hợp đồng BOT là 50 năm. Nếu công trình liên quan tới lợi ích công cộng thì Philippines phải sở hữu ít nhất 60% vốn công trình.
Tóm lại, để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Chính phủ Philippines đã áp dụng các biện pháp:
- Cải tiến và bổ sung luật đầu tư để tạo cơ sở pháp lý tăng cường thu hút vốn.
- Đa dạng hóa các loại hình thu hút vốn đầu tư kể cả cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khóan.
3.7-/ Bruney
Ngân sách của Bruney luôn có thặng dư thu lớn về ngoại tệ, số tiền này được nhà nước Bruney đầu tư cả nước ngoài (khoảng 20 tỷ USD) lấy lãi để đầu tư phát triển kinh tế trong nước. Tuy nhiên Chính phủ Bruney vẫn coi trọng thu hut vốn đầ tư nước ngoài.
Luật khuyến khích đầu tư ban hành năm 1975.
Trong chính sách tài chính tiền tệ của mình, Bruney không đặt ra bất kỳ điều khoản nào nghiêm cấm việc đưa vốn từ nước ngoài vào cũng như đưa tiền ra khỏi Bruney.
Cơ quan phụ trách về đầu tư là Bộ công nghiệp và tài nguyên sơ khai. Hội đồng phát triển kinh tế (Economic Development Board- EDB), phụ trách chung cho đầu tư trong và ngoài nước.
Ngành đầu tư
Bruney chia các hoạt động kinh tế ra làm 4 loại: ngành lương thực, ngành tài nguyên địa phương, ngành thị trường nội địa và ngành xuất khẩu. Hai ngành trên bắt buộc phải liên doanh, hai ngành dưới có thể là vốn 100% nước ngoài.
Về đất đai
Nước ngoài không được mua đất, nhưng được quyền thuê với thời hạn từ 5 đến 30 năm, có thể gia hạn thêm 30 năm nữa.
Thuế khóa
Nguồn thu chính của Bruney là dầu hỏa, nên các khoản thuế của Bruney rất ít. Không có thuế lợi tức cá nhân, thuế xuất khẩu, thuế doanh thu, thuế lương bổng sản xuất. Doanh nghiệp nhà nước, cá nhân hay công ty hợp doanh được miễn thuế; chỉ có công ty thường mới chịu thuế lợi tức, thuế suất 30%.
Thuế nhập khẩu: thuế nhập khẩu trung bình 20%, xa xí phẩm thuế 30%.
Thu đãi thuế khóa. Nếu là ngành đầu tư tiên phong, sẽ được miễn thuế lợi tức công ty tuỳ theo mức đầu tư tài sản cố định:
. Dưới 250,000 đô la Bruney: 2 năm.
. Đến 500,000 đô la Bruney: 3 năm.
. Đến1,000,000 đô la Bruney: 1 năm.
. Trên1,000,000 đô la Bruney: 5 năm.
Miễn thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị và nguyên liệu không sản xuất được ở trong nước.
Về khấu hao tài sản cố định
Nếu là kiến trúc ngay năm đầu được khấu hao 10%, sau đó mỗi năm 2%. Nếu là trang thiết bị ngay năm đầu được khấu hao 20%, sau đó mỗi năm được khấu hao từ 3 đến 25% tuỳ loại thiết bị.
Về vấn đề lao động
Bruney thiếu nhân công tại chỗ, nên rất dễ dàng nhận lao động nước ngoài. Khoảng 1/3 lao động ở Bruney là lao động nước ngoài. Nhân công nước ngoài phải có giấy phép của Bộ lao động, thời hạn lao động hai năm, phải đóng ký quỹ và tiền vé máy bay về nước.
3.8-/ Hàn Quốc
Do việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu các loại hàng hoá chế tạo truyền thống, do đó Hàn Quốc không phụ thuộc vào vốn và kỹ thuật của nước ngoài. Cho đến năm 1971, chính phủ Hàn Quốc đã nhận thấy tầm quan trọng của FDI để cung ứng vốn cho các dự án phát triển. FDI tăng mạnh từ 45 triệu USD năm 1971 lên 110 triệu USD năm 1972 và 265 triệu USD năm 1975. Năm 1973, chính phủ đã ban hành Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài với mục tiêu khuyến khích FDI phù hợp với mục tiêu phát triển của đất nước, đồng thời hạn chế sự tham gia của nước ngoài vào các xí nghiệp mới. Cùng lúc đó chính phủ cũng thiết lập một bộ máy hành chính có hiệu quả để thúc đẩy FDI và để đạt được mục tiêu đề ra. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng tăng trong khu vực với các nước đang phát triển ở Châu á về hàng hoá sử dụng nhiều lao động và những đòi hỏi của nền kinh tế đối với phát triển khoa học kỹ thuật năm 1981 chính phủ Hàn Quốc đã cho ra đời một chính sách hỗ trợ cho đạo luật khuyến khích FDI. Chính sách này có một số nội dung chính sau:
- Cho phép FDI tham gia vào một nửa số các ngành công nghiệp của Hàn Quốc, trong đó khu vực chế biến chiếm khoảng 75% số các ngành công nghiệp mà nhà nước cho phép đầu tư.
- Các ngành nhà nước dự định đầu tư thì cho phép đầu tư 100% vốn nước ngoài còn các ngành khác cao nhất là 50%.
- Các công ty tuân thủ theo luật khuyến khích đầu tư nước ngoài sẽ được nhà nước đảm bảo chuyển toàn bộ gốc và lợi nhuận về nước.
Những hướng dẫn về đầu tư này phản ánh tiêu chuẩn, lợi ích của quốc gia: đầu tư chỉ được chấp nhận nếu như nó củng cố lợi ích của Hàn Quốc trong lĩnh vực thu ngoại hối hay chuyển giao kỹ thuật.
Khía cạnh lý thú trong việc quản lý đầu tư nước ngoài của Hàn Quốc là chính phủ đã có một nền tảng hành chính rộng lớn để kiểm soát đầu tư của nước ngoài: các nguyên tắc đã được áp dụng một cách linh hoạt nên chính phủ đã có quyền quyết định theo ý mình nội dung các dự án. Ví dụ, nếu như các dự án nào được coi là gắn liền với các vấn đề của quốc gia như: phát triển kinh tế, phúc lợi xã hội hay tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế. Bộ tài chính có quyền thông qua các dự án này ngay cả khi dự án đó không được đề cập trong hướng dẫn chung. Đồng thời, chính phủ Hàn Quốc cũng khuyến khích đầu tư vào liên doanh có tầm quan trọng đặc biệt. Ví dụ, nếu một dự án nào đó được coi là nhằm chuyển giao công nghệ thì việc thông qua dự án sẽ được áp dụng linh hoạt mà không tính đến tiền nộp tuỳ thuộc vào tài sản của đối tác trong nước. Các công ty nước ngoài liên doanh với các công ty cỡ vừa và nhỏ của Hàn Quốc đã có lợi từ những ưu tiên này.
Đầu những năm 1980, để thu hút mạnh hơn nữa nguồn vốn, chính phủ Hàn Quốc đã xem xét lại đạo luật khuyến khích đầu tư của nước ngoài (The Foreign Capital Inducement Act - FCIA), trong đó có những ưu đãi thực sự cho đầu tư nước ngoài trực tiếp, đặc biệt là trong hình thức liên doanh. Các điều khoản cơ bản đã nới rộng các cơ hội đầu tư cho các công ty nước ngoài vào Hàn Quốc. Lần đầu tiên danh mục về dự án “tiêu cực” được đưa ra, theo đó những ngành công nghiệp không nằm trong danh sách này sẽ nhanh chóng được phép đầu tư. Những dự án không được phép thường là những dự án gây hậu quả xấu cho lĩnh vực y tế, môi trường, trật tự công cộng, hay đạo đức xã hội. Còn có dự án sẽ mặc nhiên được công nhận nếu theo đúng các mức tiêu chuẩn sau:
1) Vốn của nước ngoài chiếm cao nhất là 50%.
2) Một khi vốn đó vượt 50%, một tỷ lệ hàng hóa nhất định (thường dự định là 70%) phải dành cho xuất khẩu.
3) Không tìm cách có các nhân nhượng về thuế.
Do có ấn tượng tốt đối với khả năng phát triển kinh tế của Hàn Quốc và cơ sở hạ tầng thích hợp, với hệ thống luật cởi mở đối với đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài đã coi Hàn Quốc là một nơi có sức lôi cuốn.
Tuy vậy, sự phụ thuộc quá nhiều vào các công ty xuyên quốc gia cũng không đảm bảo lợi ích lâu dài của Hàn Quốc. Cần thấy rằng, những chính sách theo hướng tự do hoá cũng chỉ là một phần trong cố gắng của chính phủ nhằm làm dịu bớt những cảm nghĩ về chủ nghĩa bảo hộ đang tăng lên ở nước ngoài.
Một đặc điểm của việc khuyến khích đầu tư nước ngoài là chính phủ đã cố gắng để kiểm soát việc đầu tư thông qua bộ máy hành chính có hiệu quả của mình và chính phủ được quyền quyết định nội dung của dự án theo ý của mình gắn liền với mục tiêu phát triển và lợi ích quốc gia trong lĩnh vực thu hút ngoại hối hay chuyển giao công nghệ. Nói chung, trong quan hệ với chính phủ Hàn Quốc, các nhà đầu tư nước ngoài đã phải công nhận rằng họ đang phải đương đầu với một hệ thống hành chính “cứng rắn” và đang hoạt động có hiệu quả. Chính phủ Hàn Quốc đã đảm nhận một vai trò lớn hơn, áp đặt hơn và quyết đoán hơn trong quan hệ với các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ chỉ chấp nhận các dự án đầu tư khi nào những khả năng thắng lợi tương đối chắc chắn rõ ràng. Các hoạt động của nước ngoài tiếp tục bị kiểm soát và điều tiết theo cách thức phù hợp với lợi ích quốc gia. Những điều khoản rộng rãi trong kinh doanh cũng như những khả năng to lớn cho phép sử dụng các biện pháp quyền lực cần thiết trong việc quản lý đầu tư nước ngoài thể hiện sự can thiệp của cơ cấu hành chính luôn theo ý muốn của chính phủ. Chính phủ Hàn Quốc khá thực tế và linh hoạt trong khi thực hiện các chính sách của mình. Đối với các nhà hoạch định chính sách, vốn nước ngoài và kỹ thuật được coi là những yếu tố sống còn đối với sự phát triển lâu bền của đất nước và chính phủ sẵn sàng thương lượng với các nhà đầu tư nước ngoài để đạt được giải pháp cho những lĩnh vực đó. Hơn thế nữa, phạm vi quyền lực và biện pháp mà chính phủ Hàn Quốc thi hành cho thấy nhiều lỗi lầm và xung đột giữa nước chủ nhà với các công ty xuyên quốc gia có thể được loại bỏ bởi những cố gắng tăng cường trao đổi thông tin một cách cởi mở và trong quan hệ bình đẳng, thẳng thắn và tin cậy.
Kết luận
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho phép khẳng định được vai trò quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự tăng trưởng kinh tế. Có thể nói rằng ở đâu và ở nước nào thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và thực hiện hợp lý việc đầu tư thì ở nước đó nền kinh tế đạt tốc độ phát triển nhanh chóng vững chắc; vì vậy, mà trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh gay gắt nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Muốn đạt được mục đích thu hút nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, kinh nghiệm quý báu của nhiều nước cho thấy cần phải tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn, phải tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định chính trị và thực hiện cải cách nền kinh tế để từng bước hội nhập vào quỹ đạo phát triển kinh tế thế giơí. Khai thác và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài đang là một mục tiêu được ưu tiên hàng đầu ở nhiều nước trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển, nơi có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư phát triển kinh tế. Để thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước đã thực hiện các biện pháp lớn là:
- Cải tổ cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Khi một quốc gia tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, thì quốc gia đó đã trở thành một bộ phận của cơ cấu kinh tế quốc tế. Theo sự phân công lao động quốc tế thì mỗi nước nên chuyên môn hoá sản xuất ở một hay một số ngành mà họ có lợi thế so sánh cao hơn. Ngành đó sẽ trở thành ngành mũi nhọn của họ. Sau đó, thông qua trao đổi và hợp tác với nhau, mỗi nước sẽ phát huy được thế mạnh của mình và đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Khi đã hình thành mối quan hệ liên kết, hợp tác và phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia trên thế giới, các nước có thể bố trí cơ cấu kinh tế “không cân đối”, tức là chỉ tập trung vào phát triển các ngành mũi nhọn, có nhiều tiềm năng và có thể đẩy nhanh nền kinh tế đi vào quỹ đạo phát triển. Một cơ cấu kinh tế được coi là có hiệu quả xét trên quan điểm của nền kinh tế mở là phải có khả năng chuyển dịch cơ cấu nhanh và thoả mãn các đòi hỏi của mô thức cạnh tranh hiện đại;
- Lựa chọn thời cơ để công bố Luật Đầu tư và các biện pháp thích hợp để thu hút đầu tư nước ngoài. Các văn bản, sắc lệnh, chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không cứng nhắc, luôn được bổ sung, sửa đổi phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Các đạo luật đầu tư hấp dẫn, giành nhiều ưu đãi hợp lý đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, xây dựng một môi trường mặt pháp lý và môi trường cạnh tranh lành mạnh; Để tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn mang tính cạnh tranh hầu hết trong luật đầu tư của các nước đều tạo cho các nhà đầu tư tâm lý an toàn, mức độ tự chủ trong kinh doanh của các xí nghiệp ngày càng tăng thêm, hạn chế những lĩnh vực cấm đầu tư; miễn nhiều loại thuế đối với những ngành Nhà nước khuyến khích và xí nghiệp có nhiều sản phẩm phục vụ xuất khẩu.
- Phát triển nền kinh tế mở, khuyến khích phát triển mạnh các thành phần kinh tế, kể cả kinh tế tư nhân và cần được giúp đỡ phát triển, không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô, thực hiện việc điều chỉnh nền kinh tế quốc dân thông qua các chương trình, kế hoạch có tính hướng dẫn và hệ thống chính sách kinh tế điều chỉnh gián tiếp theo các chương trình đó;
- Đổi mới và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, đa dạng hoá nền sản xuất xã hội như phát triển và xây dựng mới các công trình giao thông, hệ thống thông tin liên lạc và hiện đại hoá các hoạt động tài chính ngân hàng, hoạt động dịch vụ...;
- ổn định chính trị và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, kiềm chế lạm phát và nâng hiệu quả của sản xuất kinh doanh; duy trì chế độ tiền lương thấp để tạo lợi thế cạnh tranh; Nhà nước đầu tư mạnh vào hạ tầng cơ sở, tham gia đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ giúp các doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn đối tác và hình thức đầu tư.
Bằng các biện pháp và chính sách thích hợp, nhiều nước đang phát triển đã thu được những thành công to lớn trong việc khai thác và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu những kinh nghiệm thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trên thế giới thật sự có nghĩa đối với Vương Quốc Campuchia hiện nay.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0008.doc