Với tư cách là người cho vay: ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dung. Với vai trò này ngân hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng nhu cầu xã hội.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó giữ vai trò điều hòa lượng tiền trong xã hội cho phù hợp, luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
Tuy nhiên khi cho vay, cái mà ngân hàng thu được là lợi nhuận sau khi đã trừ đi tất cả các khoản phí, đồng thời đi kèm với lợi nhuận dự kiến có rủi ro. Rủi ro tín dụng sẽ xảy ra khi khách hàng không thực hiện đầy đủ những cam kết trong hợp đồng tín dụng vì vậy ngân hàng phải xem xét mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro để định ra một mức lãi suất phù hợp và có lợi cho cả ngân hàng và khách hàng.
91 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệc chiếm được lòng tin của khách hàng khi đến giao dịch với ngân hàng. Được đánh giá là một trong năm ngân hàng uy tín nhất trong quan hệ giao dịch tín dụng với khách hàng, NHNT có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, đội ngũ cán bộ có tuổi đời bình quân trẻ, được đào tạo bài bản về lĩnh vực tài chính ngân hàng, có kiến thức về kinh tế thị trường tương đối toàn diện, có trình độ ngoại ngữ, có khả năng thích nghi nhạy bén với môi trường kinh doanh hiện đại và mang tính hội nhập cao. Trang thiết bị và điều kiện làm việc tương đối hiện đại với công nghệ cao, địa điểm giao dịch thuận tiện với nhân viên tín dụng nhiệt tình, thân thiện với khách hàng tạo được ấn tượng tốt cho khách hàng đến giao dịch. Năm 2006, NHNT đã triển khai quy trình cấp tín dụng theo chuẩn mực quốc tế, từng bước tập trung hoá hoạt động tác nghiệp, đẩy mạnh phát triển mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch, nâng cấp và mở rộng các kênh và sản phẩm thương mại điện tử, nâng cao hiệu quả hoạt động các công ty thành viên góp phần tạo lòng tin cho khách hàng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Ngoài ra NHNT còn được đánh giá là ngân hàng có chất lượng tín dụng tương đối tốt do ngân hàng áp dụng các chính sách tín dụng và quy trinh tín dụng hợp lý, nhanh gọn với khả năng cung ứng vốn luôn kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng. Bên cạnh đó ngân hàng cũng có nhiều dịch vụ hỗ trợ làm tăng thêm chất lượng hoạt động tín dụng như dịch vụ thanh toán, mở tài khoản, thẻ tín dụng, có bộ phận quản lý rủi ro tín dụng chuyên nghiệp, hoạt động tín dụng luôn tuân theo sự quy định của pháp luật với khả năng hoàn trả theo đúng hạn đã cam kết.
Chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam theo các chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu tổng dư nợ và kết cấu dư nợ
Như trên đã trình bày, tổng dư nợ tín dụng của NHNT liên tục tăng trưởng qua các năm. Mặc dù trong năm 2008 gặp phải nhiều khó khăn do biến động của tình hình kinh tế trong và ngoài nước nhưng hoạt động tín dụng của NHNT vẫn tăng trưởng ổn định và cao hơn so với các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác.
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
Dư nợ tín dụng
53.603
61.044
67.742
97.532
111.642
Trong năm 2008 chỉ tiêu dư nợ tín dụng đã hoàn thành vượt mức kế hoạch điều chỉnh đặc biệt những tháng cuối năm do nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp tăng mạnh trong những tháng cuối năm và một số dự án được giải ngân với số vốn lớn. Vậy ta thấy tổng dư nợ tín dụng của cả khu vực ngân hàng chỉ tăng trưởng khoảng 22% trong năm 2008 nhưng riêng NHNT đạt mức tăng trưởng trên 50% và dữ thị phần chủ chốt trong hoạt động tín dụng tại Việt Nam.
Xét về kết cấu dư nợ của NHNT theo thời hạn cho vay ta cũng thấy sự tăng trưởng ổn định của hoạt động tín dụng. Tỷ lệ cho vay ngắn hạn và trung dài hạn được duy trì ổn định, trong đó cho vay ngắn hạn vẫn chiếm thị phần lớn (khoảng 53%) trong cả hai năm 2007 và 2008, lấy tỷ lệ dư nợ tín dụng ngắn hạn này so sánh với tỷ lệ huy động vốn ngắn hạn ta thấy chúng xấp xỉ bằng nhau (đều chiếm khoảng 53%) vì vậy hoạt động tín dụng như vậy là hợp lý bởi nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng chủ yếu cho vay ngắn hạn. Ngoài ra việc quay vòng vốn nhanh của các ngân hàng thương mại là yếu tố quan trọng vì vậy NHNT cũng không ngoại lệ và luôn duy trì mức cho vay ngắn hạn cao.
Bảng 4: Chỉ tiêu dư nợ tín dụng theo thời hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
Nợ ngắn hạn
29.872
44,1
51.687
53
59.298
53,11
Nợ trung và dài hạn
37.887
55,9
45.854
47
52.344
46.89
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2007 và 2008)
Xét theo loại hình doanh nghiệp và các ngành kinh tế ta cũng có kết quả tương tự về tốc độ tăng trưởng trong hoạt động tín dụng.
Bảng 5: Dư nợ tín dụng theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị: tỷ đồng
Loại hình doanh nghiệp
2007
2008
Giá trị
%
Giá trị
%
Doanh nghiệp nhà nước
47.123
48
52.717
47
Công ty trách nhiệm hữu hạn
14.133
15
15.781
14
Hợp tác xã và công ty tư nhân
2.716
3
2.468
2
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
11.676
12
9.602
9
Cá nhân
9.246
9
10.859
10
Các đối tượng khác
12.637
13
20.205
18
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2007 và 2008)
Hoạt động tín dụng của NHNT xét theo loại hình doanh nghiệp ta thấy dư nợ cho vay vẫn tập trung chủ yếu ở thành phần kinh tế quốc doanh và chiếm tỷ trọng tương đối lớn mặc dù có giảm sau những năm cổ phần hóa nhưng vẫn còn cao. Bên cạnh đó cho vay ở khu vực ngoài quốc doanh rất nhỏ đặc biệt ở công ty tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Qua đây ta thấy doanh nghiệp quốc doanh vẫn là khách hàng chủ chốt của ngân hàng và theo quan điểm của ngân hàng thì các doanh nghiệp quốc doanh vẫn được tin tưởng hơn vì có nhà nước bảo lãnh còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn chưa được tin tưởng, đây là một vấn đề đáng nói vì có thể coi đây là sự bất công giữa các doanh nghiệp, hoạt động tín dụng của NHNT có thể nói còn mang nhiều yếu tố của xã hội cũ chưa xóa được và điều này ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn xã hội nói chung hay các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và nó cũng trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng trong tương lai nếu ngân hàng không thay đổi quan điểm của mình về các công ty ngoài quốc doanh vì trong tương lai các công ty quốc doanh cũng được cổ phần hóa và các doanh nghiệp quốc doanh ngày càng nhiều.
Bảng 6: Dư nợ tín dụng theo ngành
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
Giá trị
%
Giá trị
%
Xây dựng
6.351
7
7.427
6.6
Sản xuất & phân phối điện, khí đốt và nước
5.122
5
4.723
4.2
Sản xuất chế biến
37.569
38
44.393
39.7
Công nghiệp khai thác mỏ
9.272
10
8.090
7.2
Nông, lâm nghiệp và thủy sản
3.614
4
2.366
2.1
Giao thông
5.923
6
7.238
6.5
Thương mại và dịch vụ
18.560
19
28.525
25.6
Khách sạn, nhà hàng
3.306
3
2.833
2.5
Ngành khác
7.824
8
6.046
5.4
Nhìn chung, cơ cấu tín dụng của NHNT hiện được phân bổ khá hợp lý: dư nợ theo mặt hàng và lĩnh vực đầu tư hợp lý: tổng dư nợ cho vay của 10 mặt hàng/lĩnh vực đầu tư lớn nhất của NHNT chiếm khoảng 40% so với tổng dư nợ và không có mặt hàng/lĩnh vực đầu tư nào có tỷ trọng dư nợ trên 10%; khu vực đầu tư được chỉ đạo tập trung hơn cho các khu vực kinh tế phát triển; mảng tín dụng bán lẻ được mở rộng tại các khu vực đô thị và thành phố đông dân cư Tuy nhiên NHNT nên mở rộng cho vay đối với các ngành kinh tế mũi nhọn nhằm phát triển kinh tế chung của cả nước, mặt hàng có thị trường tiêu thụ ổn định; cho vay thận trọng đối với các mặt hàng có nhiều biến động về thị trường, giá cả. Theo đó ngân hàng nên mở rộng cho vay theo ngành sản xuất, lưu thông, xuất khẩu và nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được như ngành chế biến, điện và khí đốt, khai thác mỏ.
Tóm lại chỉ tiêu dư nợ tín dụng của NHNT đạt kết quả tốt, tăng trưởng đều và ổn định qua các năm nhưng còn tập trung phần lớn trong khu vực kinh tế quốc doanh.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn
Dư nợ tín dụng phản ánh quy mô và một phần chất lượng hoạt động tín dụng. Để đánh giá chính xác chất lượng hoạt động tín dụng chúng ta cần xem xét về quy mô, tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ và diễn biến tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm.
Bảng 7: Tình hình nợ xấu qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Nợ xấu
1.861
3.220
5.207
Tỷ lệ nợ xấu(%)
1,59
3,3
3,48
Qua bảng số liệu trên ta thấy tình hình tín dụng của NHNT phát triển theo đúng định hướng của ngân hàng. Trong năm 2006 ngân hàng đang tập trung do tập trung nguồn lực và thời gian cho việc triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực quản trị rủi ro, nên NHNT thực hiện chủ trương tăng trưởng tín dụng thận trọng hơn. Và cho vay đối với các ngành kinh tế mũi nhọn, mặt hàng có thị trường tiêu thụ ổn định; cho vay thận trọng đối với các mặt hàng có nhiều biến động về thị trường, giá cả. Vì vậy trong năm 2006 nợ xấu của ngân hàng thấp và tỷ lệ nợ xấu cũng thấp, hoạt động tín dụng của ngân hàng được coi là thành công lớn.
Bước sang năm 2007 và năm 2008 thì quy mô và tỷ lệ nợ xấu tăng đồng thời cùng tổng dư nợ tín dụng và tăng rất nhiều so với năm 2006. Tỷ lệ nợ xấu đã tăng lên 3,3% rồi đến 3,48%, điều này cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng trong những năm gần đây có phần giảm sút và nó đòi hỏi sự quan tâm sát sao của toàn hệ thống ngân hàng trong thời gian tới. Nếu dùng chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng tín dụng thì chất lượng tín dụng của NHNT chỉ đạt mức trung bình vì tỷ lệ nợ xấu trong năm 2008 là 3,48% xấp xỉ bằng tỷ lệ nợ xấu của toàn ngành ngân hàng (3,5%). Nguyên nhân của điều này cũng là do sự biến động của tình hình kinh tế thế giới gây ảnh hưởng tới môi trường hoạt động kinh doanh trong nước và tình hình tài chính của các doanh nghiệp dẫn đến hạn chế khả năng trả nợ ngân hàng, nhiều khoản vay của doanh nghiệp bị chuyển quá hạn hoặc phải gia hạn nợ dẫn đến hoạt động tín dụng của ngân hàng bị hạn chế.
Xem xét tỷ lệ nợ quá hạn theo kỳ hạn ta thấy cơ cấu nợ quá hạn theo kỳ hạn chủ yếu là trong ngắn hạn, đây là điều dễ hiểu vì dư nợ tín dụng của ngân hàng cũng chủ yếu tập trung ở cho vay ngắn hạn còn dư nợ trung và dài hạn ít nên tỷ lệ nợ quá hạn cũng ít và dường như không có.
Xét tỷ lệ nợ quá hạn theo thành phần kinh tế ta cũng có được thông tin về hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế, theo đó thành phần kinh tế quốc doanh cũng là nguyên nhân chủ yếu làm tăng khoản nợ xấu cho ngân hàng khi tỷ lệ nợ xấu trong thành phần kinh tế quốc doanh chiếm trên 90%. Lý do của việc này một phần đã được nói ở trên, đó là do NHNT có dư nợ tín dụng tập trung ở thành phần kinh tế quốc doanh, đây là khách hàng truyền thống của ngân hàng vì vậy ngân hàng thường áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi hoặc ngân hàng cho vay theo sự chỉ đạo của nhà nước mà không quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp, không thẩm định dự án trước khi cho vay dẫn đến việc sử dụng đồng vốn không hiệu quả và không trả nợ được ngân hàng. Còn với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì khi cho vay phải có tài sản thế chấp vì vậy nợ quá hạn thường không xảy ra hoặc rất ít.
Để khắc phục thực trạng nêu trên NHNT cần chấn chỉnh hoạt động tín dụng với việc thực hiện phương án kinh doanh lấy mục tiêu hiệu quả kinh doanh gắn liền với an toàn vốn, chỉ đạo và động viên cán bộ công nhân viên hoàn thành các chỉ tiêu kinh doanh do ngân hàng đề ra. Ngoài ra hoạt động tín dụng cần được chú ý cho vay, đầu tư hợp lý hơn. Theo đó nên cho vay ở các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhiều hơn, ưu tiên cho vay ở các công ty cổ phần, công ty TNHH có uy tín, các dự án khả thi hơn là chỉ tập trung cho vay ở các khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp quốc doanh.
Nhìn chung, đối với một ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam thì tỷ lệ nợ xấu của NHNT trong thời gian qua còn cao, tuy đã và đang cổ phần hóa nhưng hoạt động tín dụng của NHNT còn mang nhiều yếu tố của một ngân hàng quốc doanh vì vậy nợ xấu còn tập trung ở thành phần kinh tế quốc doanh, điều này có tác động xấu tới chất lượng hoạt động của NHNT cũng như sự phát triển chung của toàn nền kinh tế, là vấn đề mà ngân hàng cần đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay đặc biệt trong năm 2009 biến động của tình hình kinh tế thế giới còn phức tạp và khó lường.
Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng
Tín dụng là hoạt động quan trọng mà không một ngân hàng thương mại nào không quan tâm, nó mang lại nguồn thu chính cho ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động tín dụng những năm gần đây rất cao, có khi lên tới trên 70% tổng thu nhập của ngân hàng.
Bảng 8: Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng thu nhập
9.089
100
11.389
100
20.303
100
Thu lãi cho vay
5.132
56
7.073
62
12.114
60
Thu lãi tiền gửi
2.242
25
2.063
18
4.632
23
Thu khác
1.715
19
2.253
20
3.557
17
(Nguồn: Báo cáo tài chính qua các năm)
Qua bảng số liệu trên ta thấy thu nhập từ hoạt động tín dụng của NHNT Việt Nam trong những năm qua đã có những cải thiện đáng kể. Theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng tăng liên tục với tốc độ cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của ngân hàng, tính đến hết năm 2008 tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm 60% trong tổng thu nhập của ngân hàng. Điều này cũng dễ hiểu vì NHNT là một ngân hàng lớn có hoạt động tín dụng ngày càng bành trướng trong thị trường ngân hàng với sự mở rộng không ngừng của hoạt động tín dụng và là một ngân hàng quốc doanh, NHNT còn nhận được nhiều dự án lớn của nhà nước và mang lại hiệu quả cho ngân hàng. Mặt khác trong điều kiện và mục tiêu phát triển kinh tế hiện nay NHNT đã mở rộng cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp cùng với sự áp dụng chính sách lãi suất hợp lý, linh hoạt theo sự biến đổi của thị trường và có chính sách lãi suất rõ ràng cho từng loại khách hàng, cho đồng Việt nam và ngoại tệ vì vậy hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng.
Ngoài ra để hiểu rõ tại sao hoạt động tín dụng lại mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng thì chúng ta xem xét thêm chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn bên dưới sẽ thấy phần lớn nguồn vốn được dùng phục vụ hoạt động tín dụng.
Chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn
Chúng ta đã biết về các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng, về dư nợ, quy mô, thu nhập từ hoạt động tín dụng. Tuy nhiên để hiểu được sự an toàn của hoạt động tín dụng ở mức nào ta đi xem xét chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng. Tỷ lệ an toàn này cho biết hoạt động của ngân hàng có hiệu quả không, có cân đối không và có đủ khả năng để phản ứng với trước những biến động và rủi ro bất thường không. Nó cho biết một đồng vốn tự có bảo vệ bao nhiêu đồng tài sản có rủi ro của NHTM.
Bảng 9: Tỷ lệ an toàn vốn của NHNT
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Vốn tự có
11.228
12.936
13.316
Tài sản có rủi ro quy đổi
96.646
137.928
115.195
Tỷ lệ an toàn vốn (%)
11,6
9,3
11,5
(Nguồn: Báo cáo thường niên các năm)
Qua bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ an toàn vốn của NHNT luôn được duy trì ở mức cao và an toàn, cao hơn mức tối thiểu 8%. Điều này cho thấy hoạt động quản lý vốn của NHNT đạt yêu cầu, nó đảm bảo cho ngân hàng hoạt động trong điều kiện an toàn và có thể kịp thời phản ứng trong những điều kiện bất lợi. Nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng liên tục tăng qua các năm và tỷ lệ an toàn vốn cao tạo uy tín và sự tin tưởng cho khách hàng, điều này giải thích tại sự liên tục tăng trưởng tín dụng của NHNT trong những năm qua.
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Nếu ta chỉ nhìn vào tốc độ tăng vốn huy động sẽ không có được cái nhìn toàn diện về chất lượng huy động vốn cũng như chất lượng của hoạt động tín dụng. Vậy để đánh giá được mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn và thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của NHTM thì chúng ta đi vào phân tích hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng. Với NHNT Việt Nam hiệu suất sử dụng vốn được thể hiện như sau:
Bảng 10: Hiệu suất sử dụng vốn của NHNT
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Tổng dư nợ
67.742
97.532
111.642
Tổng vốn huy động
152.000
175.436
220.950
Hiệu suất sử dụng vốn (%)
44,6
55,6
50,5
(Nguồn: Báo cáo tài chính các năm)
Qua bảng số liệu trên ta thấy hiệu suất sử dụng vốn biến động không đều, và duy trì ở mức độ cũng không phải cao. Trong năm 2006 khi ngân hàng đang cải cách và thực hiện chính sách tín dụng an toàn thì hiệu suất sử dụng vốn chỉ đạt 44,6% còn lượng vốn còn lại trong tổng nguồn vốn huy động được sử dụng trong việc gửi các tổ chức khác, mua kỳ phiếu hay mua trái phiếu
Hiệu suất sử dụng vốn đạt đỉnh điểm vào năm 2007 sau đó lại giảm vào năm 2008 chủ yếu là do trong năm 2007 hoạt động kinh tế đang trong thời kỳ hưng thịnh, chưa xuất hiện khủng hoảng hơn nữa đó là năm đánh dấu mốc lịch sử Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, nền kinh tế trong nước chuẩn bị mở cửa và hội nhập hoàn toàn vì vậy nhu cầu vốn trong năm rất lớn dẫn đến dư nợ tín dụng và nguồn vốn huy động cùng tăng trưởng nhưng mức tăng trưởng của dư nợ tín dụng cao hơn nên hiệu suất sử dụng vốn trong năm 2007 tăng cao.
Trái lại trong năm 2008 hiệu suất sử dụng vốn lại có xu hướng giảm trong toàn ngành ngân hàng, với NHNT thì còn 50,5%. So với năm 2007 thì đây cũng là mức giảm nhẹ, nguyên nhân chủ yếu cũng là do nhu cầu vốn của thị trường giảm trong năm 2008 cùng với một số mục tiêu kiềm chế lạm phát của chính phủ vì vậy hạn mức tín dụng của ngân hàng bị giảm đi. Tuy nhiên mức giảm này của NHNT Việt Nam cũng là mức giảm nhẹ có thể chấp nhận so với các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác cùng hoạt động trong thời kỳ suy thoái hiện nay.
Dựa vào chỉ tiêu này đánh giá tổng thể thì hoạt động tín dụng của NHNT trong thời gian qua tuy hiệu suất sử dụng vốn chưa cao nhưng cũng không quá thấp và có thể chấp nhận được. Tuy nhiên việc dựa vào chỉ tiêu này đánh giá chất lượng tín dụng ở các ngân hàng chi nhánh thì có độ hợp lý và thấy rõ ràng hơn, còn đối với Hội Sở Chính của NHNT thì việc sử dụng chỉ tiêu này không được hoàn hảo nắm vì ở Hội Sở Chính của NHNT thì việc quản lý vốn và hoạt động tín dụng còn phải có sự phối hợp, điều hòa và cân đối vốn không chỉ cho Hội Sở Chính mà còn cho toàn bộ các chi nhánh của ngân hàng.
Tóm lại: trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế hiện nay, do nhu cầu vốn của nền kinh tế không cao vì vậy hiệu suất sử dụng vốn của NHNT Việt Nam như vậy là có thể chấp nhận được tuy nhiên không có nhiều ấn tượng do tỷ trọng cho vay chưa phù hợp với khả năng đáp ứng của ngân hàng. Định hướng trong thời gian tới ngân hàng nên quyết định lựa chọn quy mô và tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực hợp lý để có thể đảm bảo an toàn vốn và có lợi nhuận cao đồng thời nâng cao hiệu suất sử dụng vốn, mở rộng hoạt động tín dụng tối đa trong khả năng của ngân hàng.
Đánh giá chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Thành tựu đạt được
Hoạt động trong điều kiện thị trường hết sức khó khăn trong năm 2008 song NHNT vẫn đạt được những thành tựu cơ bản và tiếp tục khẳng định vị trí là ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam. Không chỉ có các chỉ tiêu tổng tích sản và huy động vốn từ nền kinh tế được hoàn thành vượt mức so với kế hoạch mà còn bám sát theo sự chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, NHNT đã thực hiện được mục tiêu kiềm chế tăng trưởng tín dụng trong 3 quý đầu năm.
NHNT cũng đã thực hiện đúng định hướng phát triển tín dụng, hỗ trợ tích cực đối với các ngành, lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ và NHNN. Trong quý IV năm 2008, thực hiện chủ trương của Chính phủ và NHNN trong việc tăng cường tín dụng để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, NHNT đã đẩy mạnh hoạt động cho vay làm dư nợ tín dụng tăng trưởng mạnh. Đó là những thành tựu mà NHNT đã hoàn thành tốt trong năm 2008, ngoài ra NHNT còn đạt được một số thành tựu sau:
Cơ cấu tín dụng của NHNT hiện được phân bổ khá hợp lý, hoạt động tín dụng được áp dụng theo quy trình mới theo tiêu chuẩn quốc tế: tách bạch hoạt động quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro và xử lý tác nghiệp.
Công tác phục vụ khách hàng của NHNT đã được cải thiện thích hợp với nền kinh tế thị trường, với công nghệ và trang thiết bị hiện đại, phong cách phục vụ và giao dịch văn minh lịch sự ngày càng tạo được niềm tin với khách hàng.
Hoạt động tín dụng không ngừng phát triển, dư nợ tín dụng tăng đều qua các năm ở các thành phần kinh tế, các ngành, cơ cấu cho vay không còn hạn chế trong khu vực doanh nghiệp quôc doanh mà đã mở rộng ra các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đặc biệt là sau thời gian cổ phần, điều này phù hợp với xu hướng phát triển hiện nay.
Trong năm 2008 NHNT đã phát huy tốt vai trò đầu mối thanh toán nhập khẩu, cân đối ngoại tệ, luôn đảm bảo thực hiện đúng cam kết thanh toán nhập khẩu đủ xăng dầu và các mặt hàng thiết yếu cho nền kinh tế.
Ngân hàng thường xuyên duy trì hoạt động kiểm tra, kiểm soát nghiệp vụ tín dụng, vì vậy đã phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai sót trong thực thi quy trình nghiệp vụ, sửa chữa chấn chỉnh những mặt hạn chế, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
Công tác xử lý nợ tồn đọng đã được triển khai tích cực, các khoản nợ tồn đọng đều được rà xoát và phân tích những khó khăn, thuận lợi trong việc thu hồi nợ để tìm ra những biện pháp xử lý phù hợp nhất, việc thu nợ quá hạn và nợ khó đòi đã được chú trọng đúng mức, phân loại nợ quá hạn và đối chiếu nợ được tiến hành thường xuyên vì vậy tỷ lệ nợ quá hạn giảm theo từng năm.
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng không ngừng gia tăng qua các năm và luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Do hoạt động tín dụng không ngừng được cải thiện về quy trình và thủ tục tín dụng tạo điều kiện thuận lợi và nhanh chóng cho cả ngân hàng và khách hàng. Với việc thay đổi quy trình và thủ tục tín dụng ngân hàng đã thực hiện phân tích tín dụng, thẩm định dự án, kiểm tra tình hình khách hàng kỹ lưỡng trước khi cho vay vì vậy hoạt động tín dụng luôn tạo ra có hiệu quả.
Một thành tựu của NHNT làm cho khách hàng yên tâm đó là lượng vốn chủ sở hữu của ngân hàng ngày càng gia tăng làm cho hệ số an toàn vốn luôn trong đạt yêu cầu trong mức kiểm soát tạo sự an toàn cho hoạt động của ngân hàng và tâm lý tin tưởg của khách hàng.
Đội ngũ nhân viên ngân hàng nói chung và nhân viên tín dụng nói riêng đã không ngừng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng những yêu cầu về nhân sự của ngân hàng trong thời kỳ hội nhập và tiến tới thành lập một Tập đoàn đầu tư tài chính ngân hàng đa năng. Cán bộ tín dụng hầu hết có trình độ đại học và trên đại học chuyên ngành, có trình độ ngoại ngữ tốt, đội ngũ cán bộ có tuổi đời bình quân trẻ, được đào tạo bài bản về lĩnh vực tài chính ngân hàng, có kiến thức về kinh tế thị trường tương đối toàn diện, có trình độ ngoại ngữ, có khả năng thích nghi nhạy bén với môi trường kinh doanh hiện đại và mang tính hội nhập cao.
Những tồn tại và nguyên nhân
Như ta đã phân tích ở trên, NHNT là một ngân hàng lớn về chất lượng tín dụng và thương hiệu nổi tiếng. Tuy vậy hoạt động tín dụng của ngân hàng còn một số hạn chế nhất định:
Chất lượng phân tích tín dụng và thẩm định các dự án còn thấp, cán bộ tín dụng đôi khi còn chưa đi sâu bám sát khách hàng để tiếp cận và theo dõi sự biến động về tài chính cũng như hoạt động kinh doanh và tình trạng các tài sản bảo đảm nhằm đối phó với những biến động xấu có thể ảnh hưởng tới khả năng thu hồi nợ của NH.
Hoạt động tín dụng vẫn chủ yếu tập trung ở các doanh nghiệp quốc doanh và một số khách hàng truyền thống mà không biết bên cạnh đó còn rất nhiều khách hàng làm ăn có hiệu quả, cho vay với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thấp và quy mô nhỏ. Đây là vấn đề yếu kém của ngân hàng vì nếu ngân hàng mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì sẽ có tác động tốt với nền kinh tế ngoài ra ngân hàng còn mở rộng thị phần, tăng thu nhập và tăng tính năng động hội nhập cao của ngân hàng đặc biệt trong xu thế hiện nay.
Xét về ngành nghề cho vay thì khách hàng của NHNT tập trung chủ yếu trong các ngành chế biến, thương mại và các mặt hàng xuất khẩu vì vậyhoạt động tín dụng của ngân hàng luôn chứa đựng yếu tố rủi ro cao do sự biến động về giá cả, về thị trường và về tỷ giá.
Xét về hiệu suất sử dụng vốn thì hiệu suất sử dụng vốn vẫn chưa phải cao mà cho vay lại chủ yếu tập trung trong khu vực quốc doanh, cho vay bằng VNĐ, cho vay ngắn hạn. Đây cũng là vấn đề mà NHNT cũng nên quan tâm và cải thiện vì đây là vấn đề không phải khó với ngân hàng mà nguyên nhân chủ yếu là do NHNT còn quá thận trọng trong cho vay, chưa tin tưởng vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì vậy hiệu suất sử dụng vốn còn thấp trong khi nhu cầu vốn ngoài xã hội còn cao.
Chất lượng tín dụng giảm sút trong những năm gần đây đặc biệt trong năm 2008. Tỷ lệ nợ xấu tăng cao hơn nhiều so với năm 2007 và tỷ lệ này bằng với tỷ lệ nợ xấu bình quân của toàn hệ thống ngân hàng, điều này là khó chấp nhận đối với một ngân hàng lớn như NHNT.
Một yếu tố cũng đáng quan tâm nữa là về vấn đề nhân sự, tuy đội ngũ nhân sự nói chung và nhân viên tín dụng nói riêng đều là người được đào tạo với trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cao, nhanh nhẹn, nhiệt tình và hăng hái học hỏi, tuy nhiên do đội ngũ cán bộ ngân hàng chủ yếu là nhân viên trẻ nên còn thiếu kinh nghiệm, không lường hết được rủi ro trong hoạt động kinh doanh đặc biệt trong nền kinh tế thị trường đầy biến động như hiện nay.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Định hướng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới
Dự báo các yếu tố tác động tới hoạt động tín dụng trong thời gian tới
Dự báo trong năm 2009 kinh tế thế giới sẽ tiếp tục suy thoái, nhiều nước công nghiệp như Mỹ, Nhật Bản, một số nước EU có thể sẽ tăng trưởng âm. Các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, NIEs không thể duy trì tốc độ tăng trưởng cao như trước. Do vậy mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chinh thế giới đến Việt Nam trong năm 2009 còn nặng nề trên nhiều phương diện như xuất khẩu, kiều hối, du lịch, FDI
Về tình hình kinh tế vĩ mô trong nước, năm 2009 được dự báo tăng trưởng chỉ đạt cao nhất là 6% và lạm phát ở mức 10%. Khối doanh nghiệp có thể gặp khó khăn kéo dải đến hết năm 2009, tỷ lệ doanh nghiệp bị gián đoạn sản xuất, thua lỗ thậm chí phá sản có thể gia tăng, xuất khẩu gặp khó khăn điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu tín dụng và khả năng huy động vốn trong nước.
Trong năm 2009 kinh tế Việt Nam sẽ yếu hơn rất nhiều so với sự tăng trưởng của các năm trước, điều này chủ yếu do các nguyên nhân sau:
Đầu tiên là do xuất khẩu: Việt Nam đã rất thành công trong việc phát triển các ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu, nhưng trong năm nay nhu cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu đã giảm mạnh. Việc xuất khẩu của các nước khu vực châu Á đã rơi xuống mức đáng báo động do người tiêu dùng ở Mỹ, châu Âu và các thị trường khác cắt giảm chi tiêu mạnh, nhập khẩu của các thị trường chính như Mỹ, EU, Nhật Bản dự tính giảm khoảng 52% trong năm nay.
Thứ hai là do tiêu dùng. Với tỷ lệ thất nghiệp gia tăng (vì những vấn đề phát sinh trong các khu vực sản xuất hàng xuất khẩu) và thu nhập bị giảm do lạm phát cao trong năm 2008, tiêu dùng cá nhân sẽ bi cắt giảm.
Thứ ba là vì đầu tư. Đầu tư phát triển mạnh trong những năm qua nhờ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ồ ạt chảy vào Việt Nam. Tuy nhiên với khủng hoảng tín dụng và sự suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, dòng vốn này sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Các công ty nước ngoài có nhiều tiền mặt sẽ hết sức thận trọng, trong khi những công ty thiếu tiền mặt sẽ phải xoay sở để huy động vốn.
Ngoài ra, rất nhiều khoản đầu tư đã được dành vào việc xây dựng các cơ sở mới phục vụ cho xuất khẩu, do vậy ý định xây dựng các nhà máy mới sẽ giảm đi nhiều. Thị trường bất động sản đang đi xuống cũng làm ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư.
Việt Nam sẽ đối mặt với một môi trường kinh tế đầy thách thức và đạt mức tăng trưởng thấp. Tuy nhiên trong trung và dài hạn, Việt Nam thể hiện là một điểm đến hấp dẫn cho nhà đầu tư nước ngoài.
Quá trình công nghiệp hóa đang tiếp diễn mạnh mẽ, việc xây dựng cơ sở hạ tầng, mức lương tăng, đời sống phồn vinh hơn, nền kinh tế tiếp tục được cải tổ, nguồn nhân lực trẻ là những lí do để chúng ta có thể lạc quan.
Tuy nhiên không thể bảo đảm một tương lai tươi sáng, vì điều này phụ thuộc vào việc Chính phủ Việt Nam theo đuổi các chính sách đúng đắn và tạo ra những nền tảng tốt cho việc kinh doanh phát triển một cách vững chắc. Những thách thức lớn nhất bao gồm cải thiện hệ thống giáo dục, phát triển cơ sở hạ tầng, chống tham nhũng và cải cách các doanh nghiệp nhà nước.
Tất cả những điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng của NHNT, cụ thể là nó sẽ có tác động xấu tới hoạt động tín dụng của ngân hàng trong thời gian tới vì vậy NHNT nên có chuẩn bị biện pháp hợp lý để phát triển hoạt động tín dụng cho phù hợp.
Phương hướng nhiệm vụ về chất lượng tín dụng trong thời gian tới
Trong năm 2009 mặc dù có nhiều khó khăn tuy nhiên NHNT cần phải giữ vững hoạt động tín dụng và gia tăng vị thế của mình trên thị trường. Các biện pháp cụ thể để phát triển tín dụng phải theo hướng đón đầu các giải pháp của Chính phủ về thúc đẩy sản xuất, kích cầu cũng như định hướng về chính sách tài khóa tiền tệ
Đối với rủi ro tín dụng cần cụ thể hóa chủ trương quản lý và thu hồi nợ xấu, nợ có vấn đề là công việc thường xuyên và liên tục. Phấn đấu đạt và vượt mức chỉ tiêu khống chế tỷ lệ nợ xấu đã xác định. Phải luôn quán triệt chủ trương của Chính phủ và NHNN là mở rộng nhưng không được hạ chuẩn, hạ thấp các điều kiện tín dụng theo quy định. Cùng với việc hạn chế phát sinh mới cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác thu hồi nợ xấu nhất là các khoản đã được xử lý, xử lý các tài sản bảo đảm để tạo thêm nguồn, tăng thu nhập cho ngân hàng.
Ngoài ra NHNT cần chú ý áp dụng một số biện pháp sau:
Một là , tiếp tục đổi mới tư duy tín dụng theo nguyên tắc thương mại, thị trường, coi trọng hiệu quả bền vững trên cơ sở lợi nhuận có điều chỉnh rủi ro là yêu cầu cơ bản nhất xuyên suốt quá trình hoạt động.
Hai là , xây dựng văn hoá tín dụng, có phát huy tinh hoa truyền thống, kết hợp với những kỹ năng, công nghệ tín dụng hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến, với đặc trưng cơ bản là: Lợi ích của ngân hàng, chính là lợi ích của người lao động; Chủ động lựa chọn khách hàng trên cơ sở đáp ứng tiêu chuẩn tín dụng, khả năng trả nợ đúng hạn để cấp tín dụng; Tự giác tuân thủ cơ chế, chính sách và quy trình.
Ba là, thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng khách hàng, nhu cầu tín dụng. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách tín dụng đảm bảo tính đầy đủ, đồng bộ, nhất quán và tiện lợi người thực thi chính sách tín dụng. Thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, thích ứng với môi trường kinh tế, trên cơ sở cập nhật thông tin, phân tích, đánh giá thực trạng và dự báo triển vọng từng ngành hàng, sản phẩm. Phát triển đa dạng các sản phẩm tín dụng chuyên biệt và cải tiến các sản phẩm hiện có. Xây dựng quy trình phê duyệt nhanh đối với các sản phẩm tín dụng nhỏ lẻ, hoặc các sản phẩm tín dụng ít chịu rủi ro. Thiết lập luân chuyển tài liệu, hồ sơ điện tử để giảm thiểu thời gian giải quyết các khoản tín dụng vượt cấp.
Bốn là, hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro tín dụng theo thông lệ tốt nhất, phù hợp với bản chất, quy mô và mức độ phức tạp của hoạt động tín dụng, để:
Đo lường rủi ro đối với các khoản tín dụng cũng như của toàn bộ danh mục tín dụng, trong mọi hoạt động tín dụng nội bảng và ngoại bảng.
Hoàn thiện và nâng cấp hệ thống thông tin quản lý cung cấp đầy đủ thông tin về cơ cấu và chất lượng danh mục tín dụng, bao gồm xác định sự tập trung rủi ro và kiểm định các giới hạn rủi ro.
Thực hiện giám sát hiệu quả, liên tục diễn biến các khoản tín dụng trong những điều kiện kinh tế bình thường, cũng như các tình huống xấu nhất để phát hiện sớm và xử lý các khoản nợ có vấn đề.
Năm là, xây dựng hệ thống định giá tín dụng có điều chỉnh rủi ro trên cơ sở đánh giá chính xác chi phí sử dụng vốn, chi phí hoạt động, chi phí vốn chủ sở hữu, chi phí rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng.
Sáu là, đổi mới mô hình tổ chức bộ máy quản lý tín dụng theo thông lệ quốc tế, theo đó thành lập bộ phận quản lý nợ để thực hiện giải ngân, thu nợ và quản lý dữ liệu trên hệ thống phần mềm. Để đạt được thành tựu như ngày hôm nay, có sự chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời của Chính Phủ, NHNN, nhưng cơ bản vẫn là sự nỗ lực phát huy nội lực của NHNT. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, chính sách tín dụng chỉ thực sự có hiệu quả nếu phù hợp với xu thế của nền kinh tế, môi trường pháp luật và thực trạng của chính mình. Đổi mới chính sách tín dụng là quá trình liên tục và lâu dài, có kế thừa và phát triển theo thông lệ quốc tế tốt nhất về quản lý khách hàng, quản trị rủi ro để tạo ra những bước đột phá của hoạt động tín dụng, không những tăng trưởng về quy mô, đảm bảo an toàn mà còn nâng cao khả năng sinh lời đã được điều chỉnh rủi ro trên mỗi đồng vốn, đẩy nhanh sự phát triển của các dịch vụ khác, đưa NHNT hội nhập sâu, rộng vào cộng đồng tài chính khu vực và quốc tế.
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chính sách tín dụng
Việc áp dụng chính sách hợp lý có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động của ngân hàng, thông qua chính sách tín dụng, ngân hàng có thể có được một danh mục tín dụng đa mục đích như : làm tăng khả năng sinh lời, kiểm soát được rủi ro tiềm ẩn, đồng thời đáp ứng được các đòi hỏi từ phía bộ chủ quản.
Chính sách tín dụng hợp lý là cơ sở để quản lý chất lượng tín dụng có hiệu quả. Chính sách tín dụng cần quy định rõ ràng cụ thể cho từng loại khách hàng như: thể thưc cho vay, giới hạn kỳ hạn nợ, lãi suất cho vay, thẩm quyền ra quyết định, thủ tục thanh lý thu hồi nợ. Chính sách tín dụng phải linh hoạt, được xây dựng trên cơ sở đánh giá xếp loại khách hàng.
Trong giai đoạn hiện nay khi kinh tế thế giới đang trong thời kỳ suy thoái và có tác động tiêu cực đến nền kinh tế trong nước thì chính sách tín dụng được lựa chọn theo hướng thận trọng. Với NHNT trong giai đoạn này nên áp dụng các chính sách sau:
Tiếp tục phát triển quy trình tín dụng mới theo tiêu chuẩn quốc tế: tách bạch hoạt động quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro và xử lý tác nghiệp. Xây dựng và phát triển bộ phận quản lý rủi ro chuyên nghiệp, trước mắt cần hoàn thiện cơ cấu quản trị rủi ro thị trường (đặc biệt lưu ý quản trị rủi ro của tài sản gửi ở nước ngoài) và hình thành cơ cấu quản trị rủi ro hoạt động. Nhanh chóng đưa vào áp dụng các công cụ và mô hình tiên tiến về quản trị rủi ro nhất là các biện pháp phòng chống rủi ro lãi suất, tỷ giá, ngoại hối cho cả NHNT và khách hàng.
Mở rộng cho vay với các nhóm khách hàng mà hoạt động kinh doanh có độ an toàn cao; hạn chế cho vay đối với nhóm khách hàng hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, kém hiệu quả.
Tận dụng cơ hội phát triển tín dụng tại các khu vực có môi trường kinh tế thuận lợi; áp dụng chính sách cho vay thận trọng tại các khu vực kinh tế chưa phát triển đồng đều, ổn định.
Mở rộng cho vay đối với các ngành kinh tế mũi nhọn, mặt hàng có thị trường tiêu thụ ổn định; cho vay thận trọng đối với các mặt hàng có nhiều biến động về thị trường, giá cả.
Quy trình tín dụng
Để hạn chế tối đa các yếu tố chủ quan và các biểu hiện tiêu cực trong thẩm đinh xét duyệt cho vay và đảm bảo tính kách quan, kịp thời phát hiện khách hàng kém hiệu quả, dự án kém khả thi thì NHNT cần áp dụng quy chế tín dụng theo quy trình nhất định và khoa học đảm bảo thuận tiện cho cả ngân hàng và khách hàng. Thông thường quy trình tín dụng thường gồm 5 bước chính: Lập hồ sơ cấp tín dụng; phân tích tín dụng; quyết định tín dụng; giải ngân; giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng.
Đối với khách hàng họ cần nhất là sự nhanh gọn của thủ tục hành chính. Một quy trình tín dụng có quá nhiều bước chi tiết, yêu cầu khách hàng khai báo vô số giấy tờ và làm nhiều thủ tục sẽ khiến cho khách hàng trở nên ngại ngần, giảm sức hút của ngân hàng so với các đối thủ khác.
Đối với ngân hàng quy trình tín dụng phải diễn ra 1 cách thống nhất, khoa học, hạn chế phòng ngừa rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng góp phần đáp ứng tốt nhu cầu vốn của khách hàng.
Vì thế để đảm bảo lợi ích của ngân hàng và khách hàng : ngân hàng nên thường xuyên thu thập ý kiến của khách hàng và cán bộ trực tiếp cho vay để cập nhật ,sửa đổi quy trình cho phù hợp, đảm bảo an toàn cho ngân hàng và thuận tiện cho khách hàng.
Ngân hàng phải chọn lọc, xác định những khâu bắt buộc, những khâu có thể tinh giản được để cả ngân hàng và khách hàng đều thấy hài lòng. Trong quá trình cho vay, cán bộ tín dụng cần tùy theo trình độ của khách hàng và khả năng tiếp cận với những giấy tờ, thủ tục tài chính để hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ một cách nhanh chóng tránh phiền toái. Đối với những khoản vay nhỏ nên tiến hành phân tích, thẩm định đơn giản.
Cải tiến quy trình thủ tục cấp tín dụng mục đích hướng đến khách hàng, mong muốn có được sự hài lòng và tin tưởng của khách hàng .
Nâng cao trình độ cán bộ và công nhân viên, định hướng phát triển nguồn nhân lực
Trình độ cán bộ công nhân viên ngân hàng là yếu tố có tác động trực tiếp tới chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng vì vậy nâng cao chất lượng cán bộ là rất cần thiết, để nâng cao chất lượng cán bộ chúng ta làm theo hướng sau: Đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại; tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ ngân hàng gắn liền với thu nhập; tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ, có trình độ cao, có chính sách sử dụng và khuyến khích thoả đáng nguồn nhân lực có trình độ về làm việc tại các ngân hàng.
Ngân hàng cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực lâu dài, có kế hoạch đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo cán bộ ngân hàng có nghiệp vụ chuyên môn giỏi, đáp ứng được yêu cầu hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và mang tính hội nhập cao. Có chính sách hợp lý và xây dựng môi trường văn hoá làm việc phù hợp để ổn định và khai thác được các ưu thế tối đa của nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có tính dài hạn thông qua hình thức đào tạo tại nước ngoài. Tham gia các chương trình đào tạo do các tổ chức quốc tế tổ chức tại Việt Nam, học tập kinh nghiệm quản lý điều hành thông qua các cổ đông nước ngoài.
Tranh thủ sự trợ giúp thông qua hợp tác quốc tế. Chú ý thực hiện tốt các khóa đào tạo trong khuôn khổ các Dự án hỗ trợ cải cách hệ thống Ngân hàng Việt Nam của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như WB, ADB, IMF,Đồng thời cần tìm kiếm hợp tác và trợ giúp về đào tạo nguồn nhân lực thông qua các Ngân hàng nước ngoài có chi nhánh đang hoạt động tại Việt Nam.
Áp dụng các chính sách ưu đãi, khen thưởng khuyến khích và động viên cán bộ công nhân viên hoạt động và cống hiến hết sức cho ngân hàng, tạo được đội ngũ cán bộ tín nhiêm, trung thành, có năng lực cho ngân hàng. Chế độ thưởng phạt phân minh tạo động lực cho cán bộ nhân viên cống hiến hết mình cho ngân hàng.
Các biện pháp khác
Ngoài các biện pháp ở trên chúng ta có thể áp dụng các biện pháp sau nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của hoạt động tín dụng.
Nâng cao năng lực quản trị, dự báo, phân tích xử lý tình huống trong quản trị, điều hành hoạt động ngân hàng. Hội đồng quản trị và Ban điều hành của NHNT cần có kế hoạch và tầm nhìn chiến lược dài hạn, phù hợp với diễn biến kinh tế - xã hội.
Chủ động nắm bắt định hướng và dự báo kinh tế của Nhà nước, khả năng thanh khoản và nguồn vốn, sớm khắc phục việc sử dụng vốn bất hợp lý, để đảm bảo an toàn và nâng cao hiệu quả kinh doanh; nâng cao chất lượng và đa dạng hoá hoạt động, trong đó đặc biệt quan tâm đến chất lượng tín dụng; phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng.
Tiếp tục tăng vốn điều lệ để tăng cường năng lực tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh, đi đôi với việc đảm bảo khả năng quản lý hiệu quả của vốn điều lệ tăng lên. NHNT cần nghiên cứu kỹ, xác định cổ đông chiến lược phù hợp để đảm bảo việc tham gia góp vốn thực sự hỗ trợ, hợp tác với ngân hàng khi ngân hàng đang trong thời kỳ cổ phần.
Cần thường xuyên rà soát để bổ sung, chỉnh sửa kịp thời hệ thống quy chế, quy trình nội bộ, quản lý rủi ro tất cả các mặt hoạt động.
Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cung cấp trên thị trường theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống, phát triển các dịch vụ mới.
Xây dựng thêm và hoàn thiện chiến lược phát triển công nghệ ngân hàng phục vụ cho công tác điều hành kinh doanh, quản lý nguồn vốn, quản lý rủi ro, hệ thống thanh toán liên hàng, hệ thống giao dịch điện tử Đảm bảo dịch vụ được cung cấp nhanh chóng, chính xác, an toàn, đem lại lợi ích cho cả ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.
Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, mặc dù hiện nay NHNT cũng đang ứng dụng các chương trình phần mềm tiên tiến nhất trong hệ thống các NHTM, nhưng để xứng tầm với một ngân hàng quốc tế thì NHNT cần phải nâng cấp và trang bị những phần mềm hiện đại hơn để đem đến sự thuận lợi, nhanh chóng trong hoạt động giao dịch.
Trong công tác tín dụng, thông tin là yếu tố đóng vai trò quyết định giúp cho Ngân hàng ra quyết định có đầu tư hay không. Các thông tin từ phía khách hàng cung cấp nhiều khi lại thiếu đầy đủ, chính xác, do vậy cán bộ tín dụng không thể chỉ dựa vào các luồng thông tin do khách hàng cung cấp trong dự án mà cần phải nắm bắt, xử lý các thông tin về mọi vấn đề liên quan đến phương án, dự án từ nhiều nguồn khác nhau. Mặt khác, tổ chức lưu trữ, thu thập các thông tin về khách hàng, thông tin thị trường, thông tin công nghệ, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng, dựa trên việc sử dụng các phần mềm tin học. Đây sẽ là căn cứ để đánh giá chính xác hơn về khách hàng vay vốn và nâng cao khả năng, tốc độ xử lý, ra quyết định cho vay và đầu tư. Vì vậy phải nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin tín dụng
Tăng tỷ trọng cho vay kinh tế tư nhân, tăng tỷ trọng cho vay các lĩnh vực ngành và các sản phẩm được đánh giá là có lợi thế so sánh và sức cạnh tranh cao trên cơ sở phối hợp với các sở, ngành hữu trách để xác định rõ danh mục ngành, nghề, sản phẩm cần ưu tiên đầu tư. Song song đó thực hiện tốt việc cung cấp thông tin, tư vấn giúp người dân và doanh nghiệp vay vốn xây dựng, hoàn thiện các dự án vay vốn có tính khả thi và thực hiện đạt hiệu quả. Trong quá trình giám sát sau khi cho vay, giúp các doanh nghiệp vay vốn hoàn thiện quản trị, điều hành, thực hiện tiết kiện, ngăn ngừa lãng phí vốn.
Một số kiến nghị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Kiến nghị với Chính phủ
Trong thời gian tới tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu còn chưa chấm dứt và có tác động xấu tới hoạt động kinh tế trong nước vì vậy vai trò của Chính phủ rất quang trọng. Trước tình hình đó Chính phủ cần có nhiều biện pháp nhằm phát triển và ổn định kinh tế cụ thể như:
Trước tiên cần phát triển hệ thống dự báo và phân tích tình hình biến động thị trường trong và ngoài nước nhằm cung cấp thông tin chính xác và kịp thời tạo điều kiện cho phát triển ngành ngân hàng và các lĩnh vực khác đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng toàn cầu hiện nay.
Trong việc hoạch định chính sách, cần cân đối một cách thích hợp giữa các mục tiêu đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ và sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại, tránh tình trạng thắt chặt hoặc thả lỏng quá mức, thay đổi định hướng quá đột ngột làm các ngân hàng không kịp phản ứng gây ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng thương mại cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng là một đòi hỏi cấp bách. Nhà nước phải tiếp tục hoan thiện để tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh khuyến khích sản xuất kinh doanh, tạo hành lang pháp lý vững chắc để các thành phần kinh tế yên tâm bỏ vốn ra đầu tư và các ngân hàng công bằng hơn trong cho vay giữa các thành phần kinh tế. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện, đổi mới môi trường kinh tế, coi đó là giải pháp tổng thể và cơ bản nhất trong quá trình đổi mới mọi lĩnh vực kinh doanh nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng, chẳng hạn như:
Trong việc ban hành và thực hiện các cơ chế chính sách pháp luật cần nắm bắt nhanh và kịp thời mọi sự phát triển của nền kinh tế xã hội, cần phải thu thập ý kiến đầy đủ, khách quan từ các cơ quan ban ngành, doanh nghiệp để đảm bảo việc thực thi được chính xác, hiệu quả, công bằng và phù hợp với điều kiện thực tế.
Hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý liên quan đến đảm bảo tiền vay theo hướng có lợi cho ngân hàng trong việc quản lý và thu hồi nợ xấu, đảm bảo hoạt động ngâng hàng phát triển ổn định tạo điều kiện cho các ngành nghề kinh doanh khác cùng phát triển.
Thúc đẩy thị trường tài chính, trước hết là thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ nhằm xác định khuôn khổ hoạt động của các ngân hàng, tạo thêm nhiều cơ hội đầu tư nhằm phân tán rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đa dạng hóa các công cụ thanh toán nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật như hệ thống thông tin, kiểm toán, kế toán theo chuẩn mực quốc tế để thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng phát triển an toàn, bền vững và hội nhập quốc tế.
Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Với NHNN trong thời gian tới cần nâng cao chất lượng quản lý điều hành cụ thể là:
Nâng cao vai trò định hướng trong quản lý và tư vấn cho các ngân hàng thương mại thông qua việc thường xuyên tổng hợp, phân tích thông tin thị trường, đưa ra các nhận định và dự báo khách quan, mang tính khoa học, đặc biệt là liên quan đến hoạt động tín dụng để các ngân hàng thương mại có cơ sở tham khảo, định hướng trong việc hoạch định chính sách tín dụng của mình sao cho vừa đảm bảo phát triển hợp lý vừa phòng ngừa được rủi ro. Tiếp tục hoàn thiện quy chế cho vay, đảm bảo tiền vay trên cơ sở bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các ngân hàng thương mại, quy định chặt chẽ về trách nhiệm của các ngân hàng thương mại về việc tuân thủ quy chế cho vay và bảo đảm tiền vay, hạn chế bớt các thủ tục pháp lý phức tạp gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại.
Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các bộ ngành có liên quan trong quá trình xử lý nợ xấu, tập trung tháo gở những khó khăn vướng mắc trong thủ tục phát mãi tài sản. Nên có những hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của Tổ chức Tín dụng, nhằm tăng chất lượng tín dụng và giảm nợ xấu cho các NHTM.
Nghiên cứu, ban hành các quy định cụ thể để các ngân hàng thương mại áp dụng chuẩn xác, kịp thời các công cụ bảo hiểm cho hoạt động tín dụng như: bảo hiểm tiền vay, quyền chọn và các công cụ tài chính phái sinh khác. Đồng thời, tổ chức đào tạo, hướng dẫn các nghiệp vụ trên để giúp các ngân hàng thương mại vừa đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng, vừa phòng ngừa và phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát, thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm soát dưới nhiều hình thức để kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm tiêu cực trong hoạt động tín dụng nhằm đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng vào đúng quỹ đạo luật pháp. Chương trình thanh tra cần được xây dựng chi tiết, khoa học, thông tin được thu thập cần phân tích kỹ lưỡng, tránh mang tính hình thức, nội dung thanh tra nên được cải tiến sao cho chương trình thanh tra đảm bảo kiểm soát được ngân hàng thương mại, thể hiện được vai trò của mình là cảnh báo, ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và không gây ảnh hưởng đến các hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Cần xây dựng phương án bổ sung hoặc hoán đổi cán bộ thanh tra giữa các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo tính khách quan và tạo môi trường hoạt động đa dạng cho cán bộ thanh tra, kiểm tra trau dồi nghiệp vụ.
Cần phải xây dựng đội ngũ thanh tra, giám sát chuẩn về nghiệp vụ ngân hàng, nghiệp vụ kiểm tra, có phẩm chất đạo đức tốt, được cập nhật thông tin về chính sách, pháp luật, thị trường để một mặt thực hiện công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại, mặt khác có thể đưa ra các nhận định, kết luận giúp ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt động.
Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi chặt chẽ việc sửa đổi, bổ sung những kiến nghị của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của công tác thanh tra. Hiện nay hoạt động thanh tra ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu là kiểm tra tính tuân thủ pháp luật trong hoạt động của ngân hàng và đánh giá về sự an toàn của ngân hàng thương mại. Về việc đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro của các ngân hàng thương mại thì Thanh tra Ngân hàng Nhà nước chưa thực hiện việc này một cách có hệ thống, chưa có tiêu chí để thực hiện việc đánh giá này và chưa thực sự đánh giá toàn diện, kiến nghị cụ thể về hệ thống kiểm soát rủi ro của các ngân hàng thương mại qua các cuộc thanh tra. Vì vậy, để thanh tra Ngân hàng Nhà nước thực hiện được vai trò đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro của ngân hàng thương mại, cần phải xây dựng tiêu chí cụ thể về đánh giá rủi ro khi thực hiện thanh tra, nội dung hoạt động ngoài thanh tra tuân thủ cần có sự giám sát, theo dõi rủi ro và tiến tới xây dựng hệ thống giám sát từ xa của Thanh tra ngân hàng thông qua mạng thông tin trực tuyến với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi công nghệ cao và quy chế nghiêm ngặt về bảo mật thông tin để bảo vệ bí mật kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
KẾT LUẬN
Chuyên đề thực tập của em đã trình bày những nội dung cơ bản về hoạt động tín dụng, thực trạng hoạt động tín dụng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Từ đó đưa ra những nguyên nhân cũng như những hạn chế trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, đưa ra một số giải pháp nhămg nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hoạt động tín dụng của NHNT trong thời gian qua tuy chất lượng tín dụng có giảm chút ít do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới nhưng trong thời gian tới chất lượng tín dụng của NHNT nhất định sẽ được cải thiện và khẳng định vị trí một trong các ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam.
Mặc dù em đã cố gắng để bản chuyên đề của mình được hoàn thiện nhất nhưng cũng khó tránh khỏi những sai sót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, các cán bộ nhân viên trong ngân hàng và những người quan tâm đến đề tài để bản chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo thường niên của NHNT Việt Nam các năm 2004 – 2008.
Báo cáo tổng kết họat động kinh doanh năm 2008 và phương hướng họat động năm 2009 của NHNT Việt Nam
Bảng công bố thông tin của NHNT Việt Nam năm 2006, 2007.
Điều lệ tổ chức và hoạt động của NHNT Việt Nam.
Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm đổi mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế - Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng, NXB Thống kê Hà Nội -2003
Lịch sử Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 1963-2003 – Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Viện Kinh tế học, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2003
Giáo trình tín dụng ngân hàng – NXB thống kê – TS. Hồ Diệu ( chủ biên )
Giáo trình ngân hàng thương mại – NXB thành phố Hồ Chí Minh
Các website chính:
www.vietcombank.com.vn Ngân hàng Ngoại Thương Việt
www.gso.gov.vn Tổng Cục Thống Kê
www.vneconomy.com.vn Thời báo Kinh tế Việt Nam
www.vietbao.com Việt Báo
XÁC NHẬN CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
Hà nội, ngày . tháng .. năm 2009
Trưởng Phòng Vốn
c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2511.doc