Ngoài những yếu tố như: máy móc công nghệ, lao động, thì việc áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng cũng rất quan trọng vì thế chon được một hệ thông quản lý chất lượng phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là rất quan trọng. Vấn đề này ở Việt Nam còn thực hiện chưa được tốt do đó cần phải lựa chọn một trong số các hệ thống quản lý chất lượng sau để quản lý cho phù hợp:
+ Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, ISO 9001, ISO 9002. Trong đó hệ thống ISO 9000 được hơn 90 quốc gia chấp nhận và trở thành tiêu chuẩn quốc gia trong đó có Việt Nam.
+ Hệ thống TQM (Total Quality Management) là một hệ thống quản lý chất lượng toàn diện .
+ Hệ thống giải thưởng chất lượng Việt Nam: để khuyến khích các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế trong nước, năm 1995 bộ khoa học công nghệ và môi trường đã đặt ra "Giải thưởng chất lượng Việt Nam"
Ngoài các hệ thống trên còn có thể áp dụng các hệ thống khác như: HACCP, GMP, QS 9000.
49 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1424 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trong thị trường trong nước cũng như thị trường Thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất.
Đây là nhân tố tác động trực tiếp, liên tục đến chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Có thể nói dù có đầy đủ các nhân tố trên nhưng nhà quản lý, đặc biệt là quản lý sản xuất không tốt sẽ dẫn đến làm giảm hiệu lực của cả ba nhân tố đã nêu trên, làm gián đoạn sản xuất, giảm chất lượng nguyên vật liệu và làm giảm thấp tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Cũng vì có vai trò như vậy nên tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế đã tập hợp, tổng kết và tiêu chuẩn hoá, định hướng những thành tựu và kinh nghiệm quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp thành bộ ISO 9000. ISO 9000 là bộ các tiêu chuẩn về chất lượng của thế giới trong thập niên cuối thế kỷ 20 với tư tưởng nhất quán là chất lượng sản phẩm do chất lượng quản lý quy định.
Trong thực tiễn quản trị kinh doanh ở các doanh nghiệp nhiều chuyên gia về quản lý chất lượng cho rằng 80% các vấn đề về chất lượng do khâu quản lý gây ra.
4.2. Nhóm nhân tố bên ngoài
a. Nhu cầu và cầu về chất lượng sản phẩm
Nhu cầu và cầu về chất lượng sản phẩm là xuất phát điểm của quản lý chất lượng vì nó là một trong các căn cứ quan trọng để xác định các tiêu thức chất lượng cụ thể. Cầu về chất lượng sản phẩm cụ thể phụ thuộc vào nhiều nhân tố trong đó có nhân tố thu nhập của người tiêu dùng: người tiêu dùng có thu nhập cao thường có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm và ngược lại, khi thu nhập của người tiêu dùng thấp thì họ không mấy nhậy cảm với chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, do tập quán, đặc tính tiêu dùng khác nhau mà người tiêu dùng ở từng địa phương, từng vùng, từng nước có nhu cầu về chất lượng sản phẩm khác nhau. Mặt khác, cầu về chất lượng sản phẩm là phạm trù phát triển theo thời gian.
b. Trình độ phát triển của kỹ thuật công nghệ sản xuất
Nó phản ánh đòi hỏi khách quan về chất lượng sản phẩm. Trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng hội nhập với khu vực và quốc tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt và mang tính "quốc tế hoá". Chất lượng là một trong những nhân tố quan trọng quy định lợi thế cạnh tranh, trình độ chất lượng sản phẩm cũng được "quốc tế hoá" và ngày càng phát triển. Nếu doanh nghiệp không nghiên cứu kỹ và tính toán nhân tố này, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ bị bất lợi về chất lượng và do đó giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp sử dụng kỹ thuật công nghệ lạc hậu hiện nay ở nước ta là ví dụ điển hình về vấn đề này.
c. Cơ chế quản lý kinh tế
Đây là một nhân tố bên ngoài tác động mạnh mẽ đến phạm trù chất lượng sản phẩm. Cơ chế kế hoạch hoá tập chung quy địmh tính thống nhất của chất lượng sản phẩm. Trong điều kiện đó, chất lượng sản phẩm hầu như chỉ phản ánh đặc trưng kinh tế - kỹ thuật của sản xuất mà không chú ý đến cầu và nhu cầu của người tiêu dùng. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, cạnh tranh là nền tảng, chất lượng sản phẩm không còn là phạm trù của riêng nhà sản xuất mà là phạm trù phản ánh cầu của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm không phải là phạm trù bất biến mà thay đổi theo những nhóm người tiêu dùng và thời gian. Với cơ chế đóng, chất lượng sản phẩm là một phạm trù chỉ gắn liền với các điều kiện kinh tế kỹ thuật của một nước, ít và hầu như không chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế - kỹ thuật thuộc phạm vi quốc tế. Do đó, yếu tố sức ỳ của phạm trù chất lượng thường lớn, chất lượng chậm được thay đổi. Cơ chế kinh tế mở, hội nhập chất lượng là một trong những nhân tố quan trọng quy định lợi thế cạnh tranh quốc tế. Vì vậy đòi hỏi chất lượng sản phẩm mang tính "quốc tế hoá" .
d. Vai trò quản lý kinh tế vĩ mô
Trong cơ chế kinh tế thị trường hoạt động quản lý vĩ mô của nhà nước trước hết là hoạt động xác lập các cơ chế phấp lý cần thiết vế chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm. Pháp lệnh chất lượng hàng hoá quy định các vấn đề pháp lý liên quan đến cơ quan quản lý chất lượng ban hành và áp dụng tiêu chuẩn, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân kinh doanh và quyền của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, hoạt động quản lý vĩ mô cũng không kém phần quan trọng là kiểm tra, kiểm soát tính trung thực của người sản xuât trong việc sản xuất các sản phẩm theo tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.Với nhiệm vụ đó quản lý vĩ mô đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo ổn định chất lượng sản phẩm phù hợp hợp với lợi ích người tiêu dùng, của xã hội.
II. Đặc điểm của chất lượng sản phẩm
1. Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế xã hội
cChất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế xã hội, công nghệ tổng hợp luôn thay đổi theo thời gian và khôn gian phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể trong từng thời kỳ.
2. Chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu có thể đo lường
Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất, đặc điểm riêng biệt bên trong của bản thân sản phẩm đó. Những đặc tính đó phản ánh tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn và trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm đó. Mỗi tính chất được biểu thị các chỉ tiêu cơ lý hoá nhất định có thể đo lường đánh giá được. Vì vậy nói đến chất lượng phải đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn cụ thể. Đặc điểm này khẳng định những sai lầm cho rằng chất lượng sản phẩm là các chỉ tiêu không thể đo lường, đánh giá được.
Nói đến chất lượng sản phẩm phải xem xét sản phẩm đó thoả mãn tới mức độ nào nhu cầu của khách hàng. mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thiết kế và những tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra cho mỗi sản phẩm. ở các nước tư bản, qua phân tích thực tế chất lượng sản phẩm trong nhiều năm đi đến kết luận rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp thiết kế, 20% phụ thuộc vào công tác kiểm tra kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả nghiệm thu cuối cùng.
3. Chất lượng sản phẩm mang tính dân tộc
C
chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc thể hiện ở truyền thống tiêu dùng. Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và mỗi vùng đều có thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Mỗi sản phẩm có thể được xem là tốt ở nơi này nhưng lại được coi là không tốt ở nơi khác. Trong kinh doanh không thể có một chất lượng như nhau ở tất cả các vùng mà phải cần câưăn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để đề ra các phương án về chất lượng cho phù hợp. Chất lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng. Chất lượng biểu thị ở hai cấp độ và phản ánh hai mặt khách quan và chủ quan hay nói cách khác còn gọi là hai loại chất lượng:
+ Chất lượng trong tuân thủ thiết kế: thể hiện ở mức độ sản phẩm đạt được so với tiêu chuẩn thiết kế đề ra. Khi sản phẩm sản xuất ra có những đặc tính kinh tế kỹ thuật càng gần với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượn càng cao, được phản ánh thôn qua các chỉ tiêu như:
*
. Tỷ lệ phế phẩm
*
. Sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế
Loại chất lượng này phản ánh những đặc tính bản chất khách quan cuẩ sản phẩm do đó liên quan chặt chẽ đến khả năng cạnh tanh và chi phí.
+ Chất lượng trong sự phù hợp: nó phản ánh mức phù hợp của sản phẩm với nhu cầu khách hàng.Chất lượng phụ thuộc vào mức độ phù hợp của sản phẩm thiết kế so với nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Mức độ phù hợp càng cao thì chất lượng càng cao. Loại chất lượng này phụ thuộc vào mong muốn và sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng vì vậy nó tác động mạnh mẽ đến khả năng tiêu thụ sản phẩm.
III. Các loại chất lượng sản phẩm
Để hiểu đầy đủ và có những biện pháp không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm chắc các loại chất lượng sản phẩm. Theo hệ thống chất lượng ISO_9000 người ta phân các loại chất lượng sau
- Chất lượng thiết kế: là giá trị riêng của các thuộc tính được phác thảo ra trên cơ sở nghiên cứu trắc nghiệm của sản xuất và tiêu dùng. Đồng thời có so sánh với các hàng tương tự của nhiều nước. Chất lượng thiết kế được hình thành ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành chất lượng sản phẩm.
- Chất lượng tiêu chuẩn: là giá trị riêng của những thuộc tính của sản phẩm được thừa nhận, phê chuẩn trong quản lý chất lượng sản phẩm. Chất lượn sản phẩm là nội dung tiêu chuẩn một loại hàng hoá. Chất lượng tiêu chuẩn có ý nghĩa pháp lệnh buộc phải thực hiên nghiêm chỉnh trong quá trình quản lý chất lượng. Chất lượng tiêu chuẩn có nhiều loại:
+ Tiêu chuẩn quốc tế là những tiêu chuẩn do tổ chức chất lượng quốc tế đề ra được các nước chấp nhận và xem xét áp dụng cho phù hợp với điều kiện từng nước.
+ Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) là tiêu chuẩn nhà nước, được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm tiêu biểu và tiêu chuẩn quốc tế phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam.
+ Tiêu chuẩn nghành (TCN) là các chỉ tiêu về chất lượng do các bộ, các tổng cục xét duyệt và ban hành, có hiệu lực đối với tất cả các đơn vị trong nghành địa phương đó.
+ Tiêu chuẩn doanh nghiệp (TCDN) là các chỉ tiêu về chất lượng do doanh nghiệp tự nghiên cứu và áp dụng trong doanh nghiệp mình cho phù hợp với điều kiện riêng của doanh nghiệp đó.
- Chất lượng thực tế: chỉ mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản phẩm, bao gồm chất lượng thực tế trong sản xuất và chất lượng thực tế trong tiêu dùng.
- Chất lượng cho phép: là dung sai cho phép giữa chất lượng thực tế với chất lượng tiêu chuẩn. Chất lượng cho phép phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật của từng nước, phụ thuộc vào trình độ lành nghề của công nhân. Khi chất lượng thực tế của sản phẩm vượt quá dung sai cho phép thì hàng hoá sẽ trở thành hàng hoá phế phẩm.
- Chất lượng tối ưu: biểu thị khả năng thoả mãn toàn diện nhu cầu của thị trường trong những điều kiện xác định với chi phí xã hội thấp nhất. Thường người ta phải giải quyết mối quan hệ chi phí và chất lượng sao cho chi phí thấp mà chất lượng vẫn đảm bảo có như vậy doanh nghiệp mới có lợi thế cạnh tranh và tăng được sức cạnh tranh.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm (chuyển lên phần 4 của I)
Có hai nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm đó là:
+ Nhóm nhân tố bên trong
+ Nhóm nhân tố bên ngoài
Như chúng ta đã biết có rất nhiều nhân tố cấu thành chất lượng sản phẩm và cũng chính những nhân tố này là nhân tố ảnh hương đến chất lượng sản phẩm và được xếp vào nhóm nhân tố bên trong, ngoài ra cũng còn có nhóm nhân tố bên ngoài ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
4.1. Nhóm nhân tố bên trong
a. Lực lượng lao động
Lực lượng lao động của một doanh nghiệp là nhân tố ảnh hưởng có tính quyết định đến chất lượng sản phẩm. Được thể hiện ở các mặt:
+ Trình độ chuyên môn và ý thức kỷ luật, tinh thần lao động hiệp tác của đội ngũ lao động tác động trực tiếp đến khả năng có thẻ tự mình sáng tạo ra sản phẩm, kỹ thuật công nghệ với chất lượng ngày càng tốt hơn không?
+ Có thể làm chủ được công nghệ ngoại nhập để sản xuất ra sản phẩm với chất lượng mà kỹ thuật công nghệ quy định hay không?
+ Có khả năng ổn định và nâng cao dần chất lượng sản phẩm với chi phí kinh doanh chấp nhận được hay không?
b. Khả năng về kỹ thuật công nghệ
Kỹ thuật công nghệ quy định giới hạn tối đa của chất lượng sản phẩm: kỹ thuật công nghệ nào thì sẽ cho chất lượng sản phẩm tương ứng. Chất lượng và tính đồng bộ của máy móc thiết bị sản xuất ảnh hưởng đến tính ổn định của chất lượng sản phẩm do máy móc thiết bị đó sản xuất ra.
c. Nguyên vật liệu và hệ thống tổ chức nguyên vật liệu.
nguyên vật liệu là nhân tố trực tiếp cấu thành sản phẩm, tính chất của nguyên vật liệu quyết định trực tiếp đến tính chất của sản phẩm. Nên chú ý rằng không phải là từng loại mà là tính đồng bộ về chất lượng của các nguyên vật liệu tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm đều tác động đến tiêu thức chất lượng sản phẩm. Ngày nay, việc nghiên cứu, phát hiện và chế tạo các nguyên vật liệu mới ở từng doanh nghiệp dẫn đến những thay đổi quan trọng về chất lượng sản phẩm.
d. Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất.
Đây là nhân tố tác động trực tiếp, liên tục đến chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Có thể nói dù có đầy đủ các nhân tố trên nhưng nhà quản lý, đặc biệt là quản lý sản xuất không tốt sẽ dẫn đến làm giảm hiệu lực của cả ba nhân tố đã nêu trên, làm gián đoạn sản xuất, giảm chất lượng nguyên vật liệu và làm giảm thấp tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Cũng vì có vai trò như vậy nên tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế đã tập hợp, tổng kết và tiêu chuẩn hoá, định hướng những thành tựu và kinh nghiệm quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp thành bộ ISO 9000. ISO 9000 là bộ các tiêu chuẩn về chất lượng của thế giới trong thập niên cuối thế kỷ 20 với tư tưởng nhất quán là chất lượng sản phẩm do chất lượng quản lý quy định.
Trong thực tiễn quản trị kinh doanh ở các doanh nghiệp nhiều chuyên gia về quản lý chất lượng cho rằng 80% các vấn đề về chất lượng do khâu quản lý gây ra.
4.2. Nhóm nhân tố bên ngoài
a. Nhu cầu và cầu về chất lượng sản phẩm
Nhu cầu và cầu về chất lượng sản phẩm là xuất phát điểm của quản lý chất lượng vì nó là một trong các căn cứ quan trọng để xác định các tiêu thức chất lượng cụ thể. Cầu về chất lượng sản phẩm cụ thể phụ thuộc vào nhiều nhân tố trong đó có nhân tố thu nhập của người tiêu dùng: người tiêu dùng có thu nhập cao thường có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm và ngược lại, khi thu nhập của ntd thấp thì họ không mấy nhậy cảm với chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, do tập quán, đặc tính tiêu dùng khác nhau mà người tiêu dùng ở từng địa phương, từng vùng, từng nước có nhu cầu về chất lượng sản phẩm khác nhau. Mặt khác, cầu về chất lượng sản phẩm là phạm trù phát triển theo thời gian.
b. Trình độ phát triển của kỹ thuật công nghệ sản xuất
Nó phản ánh đòi hỏi khách quan về chất lượng sản phẩm. Trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng hội nhập với khu vực và quốc tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt và mang tính "quốc tế hoá". Chất lượng là một trong những nhân tố quan trọng quy định lợi thế cạnh tranh, trình độ chất lượng sản phẩm cũng được "quốc tế hoá" và ngày càng phát triển. Nếu doanh nghiệp không nghiên cứu kỹ và tính toán nhân tố này, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ bị bất lợi về chất lượng và do đó giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp sử dụng kỹ thuật công nghệ lạc hậu hiện nay ở nước ta là ví dụ điển hình về vấn đề này.
c. Cơ chế quản lý kinh tế
Đây là một nhân tố bên ngoài tác động mạnh mẽ đến phạm trù chất lượng sản phẩm. Cơ chế kế hoạch hoá tập chung quy địmh tính thống nhất của chất lượng sản phẩm. Trong điều kiện đó, chất lượng sản phẩm hầu như chỉ phản ánh đặc trưng kinh tế_ kỹ thuật của sản xuất mà không chú ý đến cầu và nhu cầu của người tiêu dùng. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, cạnh tramh là nền tảng, chất lượng sản phẩm không còn là phạm trù của riêng nhà sản xuất mà là phạm trù phản ánh cầu của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm không phải là phạm trù bất biến mà thay đổi theo những nhóm người tiêu dùng và thời gian. Với cơ chế đóng, chất lượng sản phẩm là một phạm trù chỉ gắn liền với các điều kiện kinh tế kỹ thuật của một nước, ít và hầu như không chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế kỹ thuật thuộc phạm vi quốc tế. Do đó, yếu tố sức ỳ của p[hạm trù chất lượng thường lớn, chất lượng chậm được thay đổi. Cơ chế kimh tế mở, hội nhập chất lượng là một trong những nhân tố quan trọng quy định lợi thế cạnh tranh quốc tế. Vì vậy đòi hỏi chất lượng sản phẩm mang tính "quốc tế hoá" .
d. Vai trò quản lý kinh tế vĩ mô
Trong cơ chế kinh tế thị trường hoạt động quản lý vĩ mô của nhà nước trước hết là hoạt động xác lập các cơ chế phấp lý cần thiết vế chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm. Pháp lệnh chất lượng hàng hoá quy định các vấn đề pháp lý liên quan đến cơ quan quản lý chất lượng ban hành và áp dụng tiêu chuẩn, trách nhiệm của các tổ chức , cá nhân kinh doanh và quyền của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm.Bên cạnh đó, hoạt động quản lý vĩ mô cũng không kém phần quan trọng là kiểm tra, kiểm soát tính trung thực của người sản xuât trong việc sản xuất các sản phẩm theo tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.Với nhiệm vụ đó quản lý vĩ mô đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo ổn định chất lượng sản phẩm phù hợp hợp với lợi ích người tiêu dùng, của xã hội.
VI. Tầm quan trọng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng sản phẩm
1. Tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm
Cơ chế thị trường tạo động lực mạnh mẽ và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Đồng thời cũng đặt ra những thách thức đối với các doanh nghiệp. Hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự chi phối của quy luật kinh tế, trong đó quy luật cạnh tranh chi phối một cách mạnh nhất, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm vững nhu cầu thị trường cả về mặt không gian, thời gian, số lượng, chất lượng .
Thế mạnh của kinh tế thị trường là hàng hoá phong phú đa dạng, cạnh tranh gay gắt, người tiêu dùng được các sản phẩm theo nhu cầu, sở thích, khả năng mua của họ. Trong doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm luôn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định khả năng trên thị trường
Chất lượng sản phẩm là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện các chiến lược Marketing, mở rộng thị trường, tạo uy tín, danh tiếng cho sản phẩm của doanh nghiệp, khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường.Từ đó làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu bền của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế, sự thành công của một doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển sản xuất có năng suất, chất lượng mà còn được tạo thành bởi sự tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết bị, lao động trong quá trình sản xuất và không sản xuất ra các phế phẩm. Nâng cao chất lượng chính là điều kiẹn để đạt được sự tiết kiệm đó. Nhờ tăng chất lượng sản phẩm dẫn đế tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế xã hội trên một đơn vị chi phí đầu vào, giảm lượng nguyên vật liệu sử dụng, tiết kiệm tài nguyên, giảm ô nhiễm môi trường. Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm chính là con đường ngắn nhất và tốt nhất đem lại hiệu quả kinh tế .
Chất lượng sản phẩm được nâng cao giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là lợi nhuận. Đây đồng thời là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chất lượng sản phẩm góp phần đẩy mạnh tiến bộ sản xuất, tổ chức lao động trong một doanh nghiệp nóiopí riêng cũng như trên phạm vi quốc gia nói chung. Khi doanh nghiệp đã đạt được lợi nhuận thì có điều kiện để bảo đảm việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho họ và làm cho tin tưởng gắn bó với doanh nghiệp, góp hết công sức để sản xuất những sản phẩm có chất lượng tốt giúp doangh nghiệp kinh doanh hiệu quả hơn.
Chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo hướng dẫn và kích thích tiêu dùng. Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất thì chất lượng sản phẩm tốt sẽ đảm bảo cho việc trang bị kỹ thuật hiên đại cho nền kinh tế quốc dân, tăng năg suất lao động. Chất lượng sản phẩm không những làm nâng cao uy tín hàng hoá của nước ta trên thị trường quốc tế mà còn tạo điều kiện để tăng cường thu nhập ngoại tệ cho đất nước.
2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng sản phẩm
2.1. Do yếu tố cạnh tranh
Hội nhập vào kinh tế thị trường thế giới, nghĩa là chấp nhận sự cạnh tranh, chịu sự tác động của quy luật cạnh tranh. Với chính sách mở cửa, tự do hoá thương mại các nhà sản xuất kinh doanh muốn tồn tại và phát triển thì sản phẩm của họ phải mang tính cạnh tranh cao nghĩa là doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh về nhiều mặt. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì viêc liên tục hạ giá thành sản phẩm và không ngừng hoàn thiện chất lượng là một trong những mục tiêu quan trọng trong các hoạt động của mình.
2.2. Do yêu cầu của người tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng có vai trò quyết định trong việc lựa chọn sản phẩm tiêu dùng. Các sản phẩm muốn thoả mãn yêun cầu người tiêu dùng, được người tiêu dùng tín nhiệm phải phù hợp về kiểu dáng, hiệu suất cao khi sử dụng, giá cả, sự an toàn, dịch vụ sau khi bán hàng... hơn nữa trong buôn bán quốc tế ngày càng được mở rộng, sản phẩm hàng hoá phải tuân thủ những quy định, luật lệ quốc tế, thống nhất về yêu cầu chất lượng. Với sự ra đời của hiệp hội quốc tế người tiêu dùng IOCU (International Organization Consumer Union) vào năm 1962, vai trò của người tiêu dùng trở nên quan trọng trong việc toàn cầu hoá thị trường. Từ đó cho đến nay nhiều nước đã có luật bảo vệ người tiêu dùng, nhằm đấu tranh cho chất lượng và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là bảo sự thông tin kịp thời, sự kiểm tra nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh môi trường.2
2.3. Do yêu cầu tiết kiệm
Hiệu quả kinh tế, sự phồn thịnh của một công ty không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất có năng suất cao, sự hùng hậu của lao động mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự tiết kiệm (cả tầm vĩ mô và vi mô). Kinh nghiệm của Nhật Bản và các con rồng Châu á đã cho thấy một trong những nguyên nhânthành công của họ là nhờ vào sự tiết kiệm.
Tiết kiệm trong kinh tế là tìm các giải pháp sản xuất kinh doanh hợp lý cho phép hạ giá thành sản phẩm mà vẫn đảm bảo chất lượng, đủ sức cạnh tranh với giá cả sản phẩm trong nước cũng như ngoài nước.
2.4. Do đòi hỏi của một hệ thống quản lý kinh tế thống nhất
Thực tế chứng minh rằng ở bất kỳ nền sản xuất nào, dù phát triển đến đâu đi nữa người ta vãn còn thấy có những vấn đề liên quan đế chất lượng cần phải giải quyết nhằm nâng cao hơn nữa tính cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao hiệu quả chung của nền sản xuất xã hội (vấn đề thị trường, nguyên liệu, trao đổi quốc tế, tranh giành ảnh hưởng, vấn đề ô nhiễm môi trường...) vì vậy vấn đề chất lượng luôn được xem xét, cân nhắc trong các chương trình phát triển chung của các doanh nghiệp và các quốc gia.
V. Quá trình hình thành và phát triển của khoa học quản lý chất lượng
1. Khái niệm quản lý chất lượng sản phẩm hiện đại
Cũng như các khái niệm về chất lượng sản phẩm, hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lý (quản trị) chất lượng, nhưng tuy vậy những định nghĩa này có nhiều điểm tương đồng và phản ánh được bản chất của quản lý chất lượng hiện đại
Theo quan điểm của người Nhật: Quản lý chất lượng là hệ thống các biện pháp công nghệ sản xuất tạo điều kiện cho những sản phẩm hoặc dịch vụ có chất lượng thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng với chi phí thấp nhất
Quan điểm phương tây cho rằng: Quản lý chất lượng là một hệ thống hoạt động thống nhất, có hiệu quả của những bộ phận khác nhau trong những tổ chức trên một đơn vị kinh tế chịu trách nhiệm triển khai các thông số chất lượng, duy trì chất lượng đã đạt được và nâng cao mức chất lượng thoả mãn hoàn toàn nhu cầu của người tiêu dùng.
Một quan niệm khác do tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO đưa ra khá toàn diện và được chấp nhận rộng rãi hiện nay: " Quản lý chất lượng là một tập hợp những hoạt động của chức năng quản lý chung nhằm xác định chính sách chất lượng , mục đích trách nhiệm và thực hiện chúng bằng những phương tiện như: lập kế hoạch điều khiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ hệ thống chất lượng".
2. Quá trình hình thành và phát triển của quản lý chất lượng
Quản lý chất lượng được phát triển và hoàn thiện liên tục thể hiện ngày cành đầy đủ hơn bản chất tổng hợp, phức tạp của vấn đề chất lượng và phản ánh sự thích ứng với điều kiện và môi trường kinh doanh mới
Chúng ta có thể tóm tắt các giai đoạn của quản trị chất lượng chất lượng như sau:
Kiểm tra sản xuất
Kiểm soát chất lượng
Đảm bảo chất lượng
Quản lý chất lượng
Quản trị chất lượng đồng bộ (TQM)
Vào những năm đầu thế kỷ 20, chưa có khái niệm quản lý chất lượng đồng bộ mà chỉ có khái niệm kiểm tra chất lượng. Toàn bộ hoạt động quản lý chất lượng được bó hẹp trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát sản phẩm trong quá trình sản xuất của của các phân xưởng. Sự phát triển của thị trường cùng với việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, hàng hoá, tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không ngừng tăng lên
Chuyển sang những năm 1950 cung hàng hoá bắt đầu vượt cầu hàng hoá trên thị trường. Do đó, các doanh nghiệp phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm nhiều hơn, khái niệm quản lý chất lượng bắt đầu hình thành và xuất hiện. Phạm vi, nội dung và chức năng của quản lý chất lượng được mở rộng hơn, nhưng vẫn chỉ tập chung vào giai đoạn sản xuất sản phẩm là chủ yếu.
Vào những năm của thâp kỷ 70, sự cạnh tranh đã tăng lên đột ngột làm các doanh nghiệp phải nhìn nhận lại và thay đổi về quản lý chất lượng. Để thoả mãn khách hàng các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất mà đã quan tâm đến chất lượng sản phẩm ngay cả sau khi sản phẩm đã bán ra thị trường. Quản lý chất lượng đã mở rộng ra tới tất cả các lĩnh vực từ sản xuất đến tiêu dùng trong toàn bộ đời sống của sản phẩm . Những thay đổi trong cách nhìn và phương pháp quản lý chất lượng trong hàng loạt các doanh nghiệp lớn trên thế giới, đặc biệt ở Nhật, Mỹ và các nước Tây Âu phát triển đã tạo ra một cuộc cách mạng về chất lượng sản phẩm trên thế giới. Người ta đẫ biết đến quản lý chất lượng theo phương pháp hiện đại đó là quản lý chất lượng đồng bộ TQM (Total Quality Management). Theo như quan điểm của phương tây: Quản lý chất lượng đồng bộ là một hệ thống có hiệu quả thống nhất của các bộ phận khác nhau chịu trách nhiệm triển khai, duy trì mức chất lượng đạt được, nâng cao mức chất lượng để sử dụng và sản xuất sản phẩm ở mức kinh tế nhất thoả mãn hoàn toàn nhu cầu của người tiêu dùng với vai trò kiểm tra quan trọng của các chuyên gia. Theo như quan điểm của Nhật Bản : quản lý chất lượng đồng bộ là một hoạt động tập thể đòi hỏi sự nỗ lực của các nhóm công nhân, các cá nhân với sự tham gia của các hãng, các công ty và việc quản lý mang tính chất toàn diện.
Xuất phát từ kinh nghiệp thực tiễn, người ta đúc kết thành một kỹ thuật hướng dẫn cách thức làm sao để cải tiến trong công việc hàng ngày và cả trong việc thực hiện kế hoạch trung và dài hạn. Khi áp dụng TQM chẳng những lãnh đạo doanh nghiệp phải chủ động đề xuất, theo dõi, động viên và duy trì phong trào liên tục cải tiến và có sự tham gia của mọi người, mọi cấp, mọi bộ phận, phòng ban trong doanh nghiệp.
Nội dung của TQM bao gồm:
(1) áp dụng vòng tròn Deming PDCA (Plan, Do, Check, Action) để cải tiến có hệ thống và liên tục.
(2) Thực thi quy tắc 5sS:
.Seiri = sàng lọc
.Seiton = sắp xếp
.Seiso = sạch sẽ
.Suketsu = săn sóc
.Shitsuke = sẵn sàng
(3) Doanh nghiệp tạo điều kiện và khuyến khích nhân viên tham gia "nhóm chất lượng"
(4) Xây dựng chương trình cải tiến chất lượng
(5) áp dụng "kỹ thuật công nghệ trong sản xuất"
(6) Thực hiện nguyên tắc đúng thời điểm (JIT : Just In Time)
(7) áp dụng bảo dưỡng sản xuất toàn diện
(8) Tính toán năng xuất trong hoạt động
(9) Phấn đấu không ngừng để chất lượng đạt mức chuẩn quốc gia, khu vực và quốc tế
Quản lý chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp trước đây thường được coi là chức năng riêng chỉ của cán bộ phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm. Ngày nay quản lý chất lượng sản phẩm được coi như là nhiệm vụ tráchachd nhiệm của toàn bộ các cá nhân trong công ty. Ngoài rviệc kiểm tra chất lượng sản phẩm còn phải đảm bảo chất lượng sản phẩm trước, trong và sau khi sản xuất, thực hiện khẩu hiệu "Chất lượng ngay từ giây phút đầu". Chúng ta thấy rằng mỗi công ty muốn đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm thì phải thực hiện quản lý chất lượng đồng bộ, đó là việc phát huy trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của mỗi cá nhân bộ phận phòng ban trong công ty thông qua các biện pháp để đạt được mục tiêu sản phẩm thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng với chi phí thấp nhất.
VI. Nâng cao sức cạnh tranh và vai trò của chất lượng sản phẩm với việc tăng sức cạnh tranh
1. Quan niệm về sức cạnh tranh
Trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam và sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Yêu cầu này đặt ra không chỉ đối với khu vực tham gia vào thị trường thế giới, mà ngay cả đối với khu vực chỉ sản xuất hàng hoá cho thị trường nội địa, vì tính chất giao lưu quốc tế hiện nay không còn thuần tuý ở phạm vi ngoài biên giới.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp :
Cho đến nay đã có nhiều tác giả đưa các cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp, của một nền công nghiệp cũng như của một quốc gia :
- Fafchamps cho rằng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn (Peter .. G.H kKhả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, Dartmouch, 1995, trang 343).
- Randall lại cho rằng, khả năng cạnh tranh là khả năng dành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
- Dunning lập luận rằng khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó.
- Một quan niệm khác cho rằng khả năng cạnh tranh là trình độ của công nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường, đồng thời duy trì được mức thu nhập thực tế của mình.
Có thể thấy rằng các quan niệm nêu trên xuất phát từ các góc độ khác nhau, nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh: Chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Theo tôi, khả năng cạnh tranh có thể hiểu là năng lực nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy khả năng cạnh tranh được nâng cao. Quan niệm này có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp một nần công nghiệp cũng như đối với một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới hay khu vực.
2. Các biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh
2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm
Đây là một biện pháp quan trọng hàng đầu mà các doanh nghiệp phải quan tâm đến trước tiên với các nội dung như:
+ Đổi mới thường xuyên cấu trúc sản phẩm
+ Tăng cường chức năng, công dụng của sản phẩm
+ Thường xuyên tạo mẫu mã đẹp, hấp dẫn
2.2. Đa dạng hoá sản phẩm
+ Sản xuất nhiều loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng (hộ có thu nhập cao, thu nhập khá, thu nhập trung bình, thu nhập thấp)
Ví dụ: Quạt điện có các giá 1,5 triệu đồng/chiếc, 1 triệu đồng/chiếc, 500.000 đồng/chiếc, 250.000 đồng/chiếc, thậm chí 20.000 đồng/chiếc.
+ Đa dạng hoá sản phẩm.
2.3. Đẩy mạnh tiếp thị, mở rộng thị trường
+ Tăng cường đào tạo đội ngũ tiếp thị
+ Phát triển mạng lưới chi nhánh tiêu thụ
+ Phát triển mạng lưới tiếp thị nhanh nhạy, rộng khắp
+ Tăng cường các biện pháp khuyến mại (giảm giá, bán trả góp, các tặng phẩm, ...).
2.4. Cải tiến phương thức phục vụ khách hàng
+ Luôn coi khách hàng là đúng
+ Phục vụ qua điện thoại mang hàng đến nơi
+ Phục vụ đến tận nhà, giúp khách hàng tận tình
+ Có bảo hành tốt
+ Có tặng phẩm vào các ngày lễ, tết...
2.5. Đổi mới hệ thống quản lý trong các doanh nghiệp
+ Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp
+ Sắp xếp lại các phòng ban, giảm các khâu trung gian, giảm chi phí sản xuất
+ Đầu tư con người, vốn, phương tiện nhiều hơn cho bộ phận tiêu thụ và tiếp thị
+ Ban giám đốc các doanh nghiệp phải nâng cao trình độ quản lý
2.6. Kiên quyết tiết kiệm
+ Tiết kiệm trong chi phí văn phòng, tiệc, quà tặng
+ Tiết kiệm các chuyến đi xa không cần thiết
+ Dồn vốn lưu động cho sản xuất kinh doanh
2.7. Đẩy mạnh tích tụ và tập chung vốn trong các doanh nghiệp
+ Tích tụ vốn qua tính lợi nhuận
+ Tích tụ vốn qua khấu hao
+ Tích tụ vốn qua vay vốn cổ phần từ công nhân
+ Tập chung vốn qua liên kết với các doanh nghiệp khác
3. Vai trò của chất lượng sản phẩm trong việc nâng cao sức cạnh tranh
Có thể nói chất lượng sản phẩm đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nó là một trong những yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt thì chất lượng chính là một nhân tố chính, cơ bản giúp cho các doanh nghiệp tăng được sức cạnh tranh của mình, tạo được lợi thế cạnh tranh và khác biệt hoá sản phẩm nhờ chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ. Cùng với sự phát triển cao trong ngành kỹ thuật hiện đại, những yêu cầu chất lượng đã trở nên đồng bộ hơn và cao hơn. Vì thế để nâng cao sức cạnh tranh các doanh nghiệp phải tập chung vào các biện pháp nâng cao sức cạnh tranh như đã trình bày ở trên và đặc biệt tập chung vào nâng cao chất lượng sản phẩm vì đây là yếu tố quan trọng hàng đầu
Phần II
Thực trạng về chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
I. Doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường kinh doanh hiện nay
1. Tình hình chung các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam
1.1. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp
Giá trị tổng sản lượng công nghiệp toàn ngành ước đạt 166.965 tỷ đồng, tăng 10,41% so với năm 1998. Khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng 43,48% toàn ngành, tăng 4.52%. Khu vực ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 21,77% tăng 8.8%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng 34.75% tăng khoảng 20%. Khu vực doanh nghiệp nhà nước, công nghiệp trung ương có mức tăng 5,06% nhờ nhiều ngành có tỷ trọng lớn và sản phẩm quan trọng vẫn tăng
Công nghiệp quốc doanh địa phương có mức tăng 3,5% trong đó các địa phương có giá tị công nghiệp tăng khá là :
Địa phương
Mức tăng
(%)
Địa phương
Mức tăng
(%)
1. Đà Nẵng
56,3
5. Quảng Ninh
11,9
2. Phú Thọ
20,1
6. Hải Dương
7,6
3. Đồng Nai
14,59
7. Hà Nội
7,1
4. Cần Thơ
14,2
8. Tp Hồ Chí Minh
5,0
(vẽ biểu 1)
Khu vực ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 21,77% với đặc điểm là phần lớn các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ nhưng hầu hết các cơ sở mới được xây dựng trong những năm gần đây đều được đầu tư trang thiết bị và công nghệ hiện đại nên sản phẩm không những dễ dàng thay đổi mẫu mã mà còn có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Năm 1999, khu vực này đã có mức tăng khá đạt 8,8%, chỉ đứng sau khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Một số địa phương có công nghiệp ngoài quốc doanh tăng khá là:
Địa phương
Mức tăng
(%)
Địa phương
Mức tăng
(%)
1. Hải Phòng
41,3
4. Hà Nội
14,3
2. Bình Dương
32,4
5. Tp Hồ Chí Minh
10,8
3. Đồng Nai
7,2
6. Cần Thơ
6,4
(vẽ biểu 2)
Khu vực đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng khá nhất trong các thành phần kinh tế (19,98%). Tuy nhiên, do ảnh hưởng chung của nền kinh tế cho nên cũng có một số doanh nghiệp thu hẹp sản xuất hoặc tiến hành các giải pháp khác (giãn tiến độ, thay đổi chủ đầu tư, chuyển đổi sản phẩm...). Vì vậy năm 1999, tốc độ tăng trưởng tốc độ tăng trưởng của khối này đạt thấp nhất trong các năm gần đây
Công nghiệp trên địa bàn một số tỉnh, thành phố có giá tị trên 1.000 tỷ đồng, tăng khá như:
Địa phương
Mức tăng
(%)
Địa phương
Mức tăng
(%)
1. Tp Hồ Chí Minh
7,9
6. Bình Dương
28,8
2. Bà Rịa – Vũng Tàu
20,3
7. Cần Thơ
11,9
3. Hà Nội
7,6
8. Phú Thọ
14,7
4. Đồng Nai
14,9
9. Đà Nẵng
28,8
5. Hải Phòng
16,9
10. Vĩnh Phúc
16,4
(vẽ biểu 3)
Mặc dù là lĩnh vực đầu tàầu trong nền kinh tế, nhưng giá trị tăng thêm của công nghiệp trong năm 1999 cũng chỉ đạt 7-8%, khối doanh nghiệp nhà nước tăng trưởng thấp, một số ngành có xu hướng giảm dần, số doanh nghiệp làm ăn khá còn ít. Đặc biệt ở khu vực doanh nghiệp nhà nước, số làm ăn có lãi chỉ hơn 10%, hơn 60% số doanh nghiệp không có lãi và trên 20% là thua lỗ. Quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước tiến hành còn chậm. Trừ một số doanh nghiệp mà đa phần là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có côn nghệ khá chất lượng sản phẩm tương đối cao, còn phần lớn doanh nghiệp vẫn có trang thiết bị và công nghệ lạc hậu so với các nước trong khu vực, tỷ lệ đổi mới trang thiết bị và công nghệ còn chưa đáng kể, chưa tương sxứng với yêu cầu trong thời kỳ cạnh tranh.
Cơ cấu, đầu tư chưa hợp lý, chưa theo một quy hoạch phát triển tập chung thống nhất, còn nặng về thay thế nhập khẩu, dự báo không sát nhu cầu trong nước và không gắn với quan hệ cung cầu ở trong khu vực, dẫn tới một số ngành và sản phẩm đầu tư quá nhiều, vượt quá nhu cầu và khả năng thanh toán như: ô tô, xe máy lắp ráp, sắt thép, đường, xi măng...
Cơ cấu sản phẩm chưa có sự chuyển biến đáng kể, lợi thế so sánh của nước ta chưa được phát huy, khả năng hội nhập yếu.
Nhân tố con người vẫn chưa được đặc biệt coi trọng, trình độ của một số cán bộ quản lý còn rất yếu, không đảm đương nổi trách nhiệm được giao đã chẳng những không góp phần làm giảm bớt khó khăn cào làm tăng thêm sự trì trệ trong hệ thống quản lý nói chung.
2. Các sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
2.1. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá
Các công ty siêu quốc gia mà nòng cốt là các công ty mẹ ở các nước phát triển tìm cách chi phối thị trường thế giới. Các nước nhỏ và đang phát triển, với một nền công nghiệp nhỏ bé đi sau lại không thể đóng cửa thị trường trong nước, sẽ gặp rất mnhièều khó khăn trong việc cạnh tranh để có chỗ đứng trên thị trường thế giới và duy trì một thị phần nhỏ bé của mình.
2.2. Xu thế tự do hoá thương mại
Hai khối mậu dịch tự do lớn nhất trên thế giới đó là NAFTA (Bắc Mỹ: 8000 tỷ USD) và EU (Tây Âu: 7500 tỷ USD) đã chiếm 50% tổng sản phẩm của thế giới. Tiếp đó là các khối MERCOSUR (Nam Mỹ: 750 tỷ USD) AFTA (Đông Nam á: 500 tỷ USD)... Một ssóố nước có nền kinh tế chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế thế giới như Nhật Bản (3500 tỷ USD) và Trubng Quốc (gần 3000 tỷ USD)... Công nghiệp hoá không thể tính không đến xu thế đó vì không thể phát triển được những ngành công nghiệp mà không đủ sức cạnh tranh trên thiị trường thế giới hoặc khu vực.
2.3. Tình trạng các nước lớn chèn ép các nước nhỏ
Bằng quy chế Tối huệ quốc (MFN), hiệp định Thương mại ... các nước lớn ép các nước lớn ép các nước nhỏ phải tuân theo một số quy định khắt khe về thương mại, bảo hiểm, bảo hộ hàng hoá... thì mới mở của thiị trường và cho hưởng quyền ưu đãi mà thực chất là quyền buôn bán bình thường. Nếu không tuân thủ điều đó thì các nước nhỏ và đang phát triển phải chịu những hàng rào thuế quan và phi thuế quan rất lớn và thực tế là không thể vượt qua được.
Qua đánh giá những nét chung và cơ bản nhất của thiị trường thế giới và chúng ta thấy rằng Việt nam là một nước nhỏ, đang phát triển, phải chịu những sức ép rất lớn từ thị trường bên ngoài.
3. Thực trạng chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm tại các doanh nghiệp Việt Nam
3.1. Về chất lượng sản phẩm
Từ sau đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những sự phát triển rất lớn đặc biệt là với chính sách mở cửa nền kinh tế và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng cho các doanh nghiệp. Đã có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, một số doanh nghiệp đã có sản phẩm xuất sang nước ngoài. Việc áp dụng bộ tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000 đã được triển khai và một số doanh nghiệp đã đạt được chứng nhận tiêu chuẩn này. Rất nhiều doanh nghiệp đã sản xuất được sản phẩm có chất lượng cao không kém hàng ngoại nhập có dah tiếng trong nước và ngoài nước, khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập cao. Rất nhiều đơn đặt hàng đã được ký kết với các doanh nghiệp nước ta để sản xuất hàng xuất khẩu. Tuy vậy, đó chỉ là những thành tựu còn khiêm tốn và bên cạnh đó còn nhiều hạn chế làm cho các sản phẩm do các doanh nghiệp ta sản xuất chưa có sức cạnh cao, chất lượng sản phẩm còn kém, giá thành cao mà có thể nói là do các nguyên nhân như: máy móc, công nghệ thiết bị, trình độ tay nghề của công nhân, trình độ quản lý, chất lượng nguyên vật liệu...
Máy móc, công nghệ thiết bị còn lạc hậu (bình quân lạc hậu khoảng 15-20 năm), việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới rất tốn kém và đang là một lĩnh vực mà sự "không bình đẳng" ngày một gia tăng. Những ưu thế vượt trội của lao động Việt Nam là tính cần cù, kỷ luật và đặc biệt là khả năng nắm bắt nhanh nhạy kỹ thuật, công nghệ mới. Tuy nhiên tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chuyên môn của Việt Nam còn thấp. Năm 1996 tỷ lệ này là 12,3% năm 1998 là 13,3%. Trình độ quản lý còn chưa cao, còn để tình trạng lãng phí, thất thoát nhiều, sản xuất kinh doanh không hiệu quả, chi phí sản xuất cao, chất lượng sản phẩm kém.
Chúng ta hãy cùng xem xét cụ thể hơn về tình hình chất lượng sản phẩm ở công ty May 20
Khi chuyển sang cơ chế thị trường khối lượng hàng hoá làm theo chỉ tiêu ngày càng giảm bắt buộc công ty phải tự tìm kiếm thị trường cho mình. Để bắt kịp những đòi hỏi về chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng trên thị trường, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm của công ty đã thay đổi cho phù hợp. Máy móc, thiết bị được nâng cấp nhiều dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến đã thay thế những dây chuyền lạc hậu, mở rộng dần danh mục những mặt hàng mới, củng cố thị trường nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất bằng cách ký các hợp đồng với mhiều bạn hàng để đảm bảo cung đúng, đủ loại nguyên liệu theo yêu cầu của sản xuất. Nhờ làm tốt công tác giám sát nên các sản phẩm loại B ổn định ở mức dưới 3% còn lại thuộc loại A. Các mạặt hàng may mặc do công ty sản xuất nhìn chung đều có chất lượng cao và ổn định.
Tuy nhiên trong một số sản phẩm vẫn còn có những lỗi như đường máy không cân, đều. Các sản phẩm để xâm nhập thị trường trong nước còn ít phong phú khoông có ấn tượng cho người tiêu dùng. Sở dĩ có tình trang trên là do thiết bị, phụ tùng thay thế chưa sẵn có, nguyên liệu cung ứng còn chậm, không đúng yêu cầu kỹ thuật của sản xuất, công nhân một số chưa đạt trình độ theo yêu cầu, một số chưa có ý thức kỷ luật và tác phong công nghiệp trong sản xuất...
3.2. Về quản lý chất lượng sản phẩm
Quản lý chất lượng sản phẩm tại các doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung thực hiện tốt vì trước sự phát triển rất mạnh mẽ của kinh tế thị trường và sức ép cạnh tranh từ nhiều phía nên các doanh nghiệp không thể buông lỏng khâu then chốt này đặc biệt là việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO.
* Ưu điểm:
Xác định được tầm quan trọng của bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là phương tiện giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng ở cơ sở mình, giúp bên mua có thể kiểm tra quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm trước khi ký hợp đồng, khắc phục cung cách làm ăn tuỳ tiện kém hiệu quả trước kia, do vậy mặc dù bộ tiêu chuẩn chất lượng ISO mới được áp dụng ở Việt Nam chưa được 2 năm, đã có 75 doanh nghiệp thực hiện thành công bộ tiêu chuẩn này. Trên thực tế rất nhiều doanh nghiệp sau khi được cấp chứng nhận ISO đèều công nhận ISO giúp doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Cụ thể công ty Alpha Nam, sau khi được nhận chứng chỉ ISO 9000 sản phảm của công ty được theo dõi tốt đến tận khách hàng, thông tin trao đổi giữa các phòng ban không bị sai lệch, đem lại uy tín cho doanh nghiệp. Sau khi được chứng nhận chứng chỉ ISO doanh thu của công ty 10 tháng đầu năm 1999 đạt 30 tỷ, nhiều hơn cả năm trước 11 tỷ, khiếu nại của khách hàng giảm 50-70%. Đặc biệt nhiệm vụ xây lắp của công ty được khẳng định. Trước khi nhận chứng chỉ ISO doanh thu của lĩnh vực này gần như không đáng kể nhưng đến nay doanh số đã đạt 4-5 tỷ/1999.
* Nhược điểm và hạn chế:
Mặc dù ISO đang là vấn đề cấp bách như vậy, nhưng đối với hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam, nó như chiếc chìa khoá vàng khó lấy được. Vì đẻể lấy được nó phải có tiền, có trình độ và hiểu biết. Một doanh nghiệp có 500-1000 công nhân muốn đạt được chứng chỉ ISO phải mất 150-200 triệu đồng phí tư vấn, đấy là còn chưa kể phí đào tạo, phí cho công việc phục vụ cho ISO... Trong khi đó 90% doanh nghiệp Việt Nam được xếp là doanh nghiệp vừa và nhỏ có đủ vốn hoạt động còn khó khăn lấy đâu ra tiền để thực hiện ISO. Một nguyên nhân khách quan nữa khiến không tạo được tâm lý động viên khuyến: Chiến lược kinh doanh không rõ ràng, vấn đè pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh còn chưa nhất quán, đặc biệt là chế độ mậu dịch quốc tế, chế độ ưu đãi đầu tư... Trong khi đó bản thân doanh nghiệp phải từng ngày từng giờ phải đối mặt với rủi ro, bất chắc về nạn hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng trốn thuế, nên không còn tâm chí đâu đẻể đầu tư thời gian và tiền của cho việc xây dựng chiến lược lâu dài.
Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam
Phần III
Một số phương hướng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh ở Việt Nam
Qua phân tích thực trạng chúng ta thấy để có sức cạnh tranh tốt trên thị trường trong nước, khu vực và trên thế giới chúng ta thấy các doanh nghiệp còn rất nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần phải:
I. Hiện đại hoá công nghệ
Như chúng ta đã thấy chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào công nghệ sử dụng vì thế công nghệ hiện đại sẽ giải quyết tốt điều này, để thực hiện điều đó có thể:
+ Nhập các thiết bị nước ngoài học tập nguyên tắc thiết kế, tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với diều kiện sản xuất và chế tạo tại Việt Nam. Một số bộ phận chưa đủ sức chế tạo thì nhập của nước ngoài.
+ Khuyến khích đầu tư nước ngoài có sử dụng công nghệ tiên tiến.
+ Mua thiết bị có công nghệ tương đối hiện đại, song mức độ tự động hoá còn thấp (do đó tiết kiệm hơn). Ta tự nâng cấp trình độ tự động hoá bằng thiết kế của người Việt Nam.
+ Tận dụng khăả năng đóng góp của các chuyên gia khoa học công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài muốn góp sức xây dựng quê hương.
II. Nâng cao trình độ lao động
Hiện nay, nguồn lao động của nước ta rất dồi dào nhưng trình độ tay nghề còn thấp đa số là lao động phổ thông chưa được qua đào tạo do đó ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Do đó, để có được nguồn lao động đủ trình độ để sản xuất kinh doanh có hiệu quả nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cần phải cải cách mạnh mẽ hệ thống đào tạo nghề và các tổ chức xúc tiến việc làm. Định hướng cải cách hệ thống dạy nhghề ở Việt Nam mới được các cơ quan quản lý lao động đưa ra gồm các công việc:
+ Người sử dụng lao động tham gia chương trình đào tạo nghề sao cho các chương trình này đấp ứng được nhu cầu của thị trường lao động
+ Các chương trình giảng dạy trong hệ thống đào tạo nghề sẽ được xây dựng thống nhất và hợp lý trong toàn quốc nhằm đáp ứng mọi nhu cầu đào tạo, tránh chồng chéo, trùng lặp.
+ Nội dung giảng dạy được thiết kế dựa trên sự phân tích công việc, nhiệm vụ và kỹ năng.
+ Các lao động lành nghề sẽ tham gia vào việc đưa ra các nội dung giảng dạy sau khi đã tham khảo ý kiến của chuyên gia nước ngoài
+ Giáo án dạy nghề sẽ đưọợc tổ chức thành nhiều học phần, tronhg đó một số học phần sẽ quy định năng lực phải đạt của mỗi học viên
+ Ưu tiên phát triển phần thực hành, trình độ học viên được đánh giá căn cứ vào trình độ ứng dụng và kiểm tra viết, xây dựng quy trình giám sát nhằm thông báo cho học viên và cơ quan chủ quản biết tiêu chuẩn đáp ứng cho mỗi chương trình và mỗi cơ quan. Sẽ có quy trình cấp bầưng đáng tin cậy và có giá trị nhằm đánh giá đúng trình độ của mỗi học viên khi đã thành nghề.
Sớm cải cách hệ thống dạy nghề là điều kiện tiên quyết để nguồn nhân lực Việt Nam có thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sản xuất và nền kinh tế hội nhập.
III. Lựa chọn hệ thống chất lượng để áp dụng
Ngoài những yếu tố như: máy móc công nghệ, lao động, thì việc áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng cũng rất quan trọng vì thế chon được một hệ thông quản lý chất lượng phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là rất quan trọng. Vấn đề này ở Việt Nam còn thực hiện chưa được tốt do đó cần phải lựa chọn một trong số các hệ thống quản lý chất lượng sau để quản lý cho phù hợp:
+ Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, ISO 9001, ISO 9002. Trong đó hệ thống ISO 9000 được hơn 90 quốc gia chấp nhận và trở thành tiêu chuẩn quốc gia trong đó có Việt Nam.
+ Hệ thống TQM (Total Quality Management) là một hệ thống quản lý chất lượng toàn diện .
+ Hệ thống giải thưởng chất lượng Việt Nam: để khuyến khích các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế trong nước, năm 1995 bộ khoa học công nghệ và môi trường đã đặt ra "Giải thưởng chất lượng Việt Nam"
Ngoài các hệ thống trên còn có thể áp dụng các hệ thống khác như: HACCP, GMP, QS 9000...
IV. Nâng cao trình độ của đội ngũ làm công tác quản lý
Hiện nay, trước sức ép của nhu cầu đổi mới những người làm công tác quản lý đã thực hiện khá tốt chức năng của mình song vẫn còn một số chưa thực hiện tốt điều này do đó cần phải có những biện pháp như sau:
+ Tổ chức đánh giá bình chọn, thanh lọc những người không thực hiện tốt công việc hoặc không đủ khả năng, năng lực công tác.
+ Lựa chọn những người có năng lực đưa đi đào tạo nâng cao trình độ.
+ Tuyển chọn ngay từ đầu những người có năng lực trình độ cao.
Kết luận
Chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu quan trọng hàng đầu quyết định khả năng của sản phẩm trên thị trường. Chính vì vậy nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh có ý nghĩa to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chỉ có nâng cao chất lượng sản phẩm mới có đủ sức cạnh tranh, từ đó mới có thể đứng vững và phát triển trên thị trường.
Nâng cao chất lượng sản phẩm đã giúp cho sản phẩm của các doanh nghiệp được khách hàng trong nước thừa nhận và cả khách hàng quốc tế cũng chấp nhận. Tuy nhiên vẫn còn một số mặt hạn chế về chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nỗ lực phấn đáu giải quyết.
Do thời gian và trình độ có hạn, tuy đã cố gắng hết sức xong đề án này cũng không tránh khỏi những thiếu xót em rất mong được sự đóng góp ý giúp đỡ của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Thạc sỹ Nguyễn thu Thuỷ đã giúp đỡ em hoàn thành cuốn đề án này.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Quản trị kinh doanh tổng hợp trong các doanh nghiệp Trung tâm quản trị kinh doanh tổng hợp
2. Tạp chí Công nghiệp số 1+2/2000.
3. Tạp chí công nghiệp số 9,19,15,18/2000,19/1999.
4. Quản lý chất lượng đồng bộ John.S.Oakard NXB Thống kê 1994.
5. Quản lý chất lượng theo phương pháp Nhật Kaoru Ixikaoa.
6. Quản trị chất lượng GS Nguyễn Quang Toản NXB Thống Kê 1995.
7. Quản trị chất lượng trong doanh nghiệp theo TCVN ISO 9000 PTS Nguyễn Thị Định NXB Thống kê 1994.
8. Tạp chí Thương Mại số 12/2000.
9. Báo Diễn đàn doanh nghiệp số 1+2/2000.
10. Tạp chí Phát triển kinh tế.
11. Peter .G.H Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, Dartmouch, 1995.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29304.doc