Trình độ dân trí của số đông đồng bào các dân tộc vùng Tây Bắc hiện nay là rất thấp không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng kể cả trước mắt và lâu dài. Cụ thể là tỷ lệ mù chữ của các dân tộc trong vùng rất cao , trong đó dân tộc mông có số người mù chữ chiếm 89,9%
Nhìn chung ở Tây Bắc , tỷ lệ người đi học so với số dân là rất thấp, chỉ đạt 18,3% trong đó vùng thấp chiếm 20%-25%, còn vùng cao thì có nơi đạt tỷ lệ 8%-10% cụ thể theo số liệu của tổng cục thống kê thì tỷ lệ người đi học so với số dân ở Lai Châu là 13,6%,Sơn La là 17% ,Hoà Bình là13,6%. nếu so với cả nước tỷ lệ này rất thấp.
Số lượng học sinh trong những năm gần đây trên địa bàn vùng Tây Bắc đã cho thấy một tình trạng đáng lo ngại đó là tỷ lệ người đi học so với số dân ngày càng giảm dần. hơn nữa trình độ dân trí trong vùng còn được thể hiện ở trình độ văn hoá của người dân các dân tộc như dân tộc Mông có số lượng người tốt nghiệp cao đẳng và đại học cho đến nay là 123 người, dân tộc Daolà 242 người, còn dân tộc La Ha chỉ có một người tốt nghiệp cao đẳng, một số dân tộc như Mảng. . không có người nào có trình độ cao đẳng trở lên.
97 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1358 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - Xã hội ở vùng Tây Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong đó dân tộc mông có số người mù chữ chiếm 89,9%
Nhìn chung ở Tây Bắc , tỷ lệ người đi học so với số dân là rất thấp, chỉ đạt 18,3% trong đó vùng thấp chiếm 20%-25%, còn vùng cao thì có nơi đạt tỷ lệ 8%-10% cụ thể theo số liệu của tổng cục thống kê thì tỷ lệ người đi học so với số dân ở Lai Châu là 13,6%,Sơn La là 17% ,Hoà Bình là13,6%. nếu so với cả nước tỷ lệ này rất thấp.
Số lượng học sinh trong những năm gần đây trên địa bàn vùng Tây Bắc đã cho thấy một tình trạng đáng lo ngại đó là tỷ lệ người đi học so với số dân ngày càng giảm dần. hơn nữa trình độ dân trí trong vùng còn được thể hiện ở trình độ văn hoá của người dân các dân tộc như dân tộc Mông có số lượng người tốt nghiệp cao đẳng và đại học cho đến nay là 123 người, dân tộc Daolà 242 người, còn dân tộc La Ha chỉ có một người tốt nghiệp cao đẳng, một số dân tộc như Mảng.. . không có người nào có trình độ cao đẳng trở lên.
2. Kinh tế miền núi còn mang nặng tính tự cung,tự cấp, kinh tế hàng hoá kém phát triển.
3. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của các tỉnh miền núi quá yếu kém và khó khăn so với tất cả các vùng khác trong cả nước, đặc biệt là so với các tỉnh phía nam, do vậy không thuận lợi cho việc đầu tư.
Cho đến nay đường đến một số huyện vùng cao chỉ đi được trong mùa khô, đến mùa mưa nước lũ việc đi lại rất khó khăn, toàn vùng có khoảng 64 xã trên tổng số 526 xã chiếm 12% chưa có đường ô tô đi qua trung tâm .
Các tuyến đường đã có hầu hết chất lượng kém, chỉ có 4,5% đường quốc lộ đạt tiêu chuẩn từ cấp 3 đến cấp 5 đồng bằng, 0,8% đường cấp 2 miền núi , 33,1% đường cấp 4 miền núi,47,3% đường cấp 5 và 14,3% đường cấp 6 miền núi .
Các thông số kỹ thuật chưa đúng cấp, các công trình còn mang tính tạm thời trong khi đó nguồn kinh phí cho duy tu, bảo dưỡng thiếu, thời tiết khí hậu lại khắc nghiệt địa hình hiểm trở đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng đường.
Vùng Tây Bắc là nơi sản sinh ra năng lượng cho các nhà máy thuỷ điện và là nguồn điện của cả nước nhưng vùng Tây bắc chỉ nhận lại được nguồn điện thương phẩm bình quân đầu người khoảng 10% - 15% bình quân trung của cả nước. Số xã có điện dùng trong vùng là 25%. Trong khi nhu cầu điện tối thiểu của vùng khoảng 703,8 GWH thì mới đáp ứng được một lượng rất ít, tập trung ở các thị xã, thị trấn với mức tiêu thụ là 82,6 GWH. Như vậy bình quân 4 KWH/người, đây là tỷ lệ rất thấp so với mức bình quân toàn quốc là 45 KWH/người.
Như vậy nhìn chung với địa hình phức tạp mạng lưới điện như hiện nay là hoàn toàn chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân.
Về hệ thống thuỷ lợi thì lại chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc. Hạn hạn vẫn còn diễn ra gay gắt, gây ra mất mùa, thất thu các loại nông lâm sản, gây ra tình trạng đói kém thường xuyên ở một số nơi trong vùng nước sạch để phục vụ cho sinh hoạt của đồng bào các dân tộc chưa giải quyết được nhiều. Hầu hết các vùng núi cao chưa có hệ thống cấp nước mà chủ yếu là sử dụng nước đọng , các thùng chứa...vì vậy, vấn đề cơ sở hạ tầng cấp thoát nước là vô cùng cấp bách đòi hỏi là phải đáp ứng.
4. Trình độ của cán bộ quản lý chưa cao
Nên việc nhận thức và sử dụng nguồn vốn cấp thường kém hiệu quả khả năng chỉ đạo và thực hiện các chủ chương chính sách, chương trình, dự án của Đảng và chính phủ bị hạn chế và chưa tạo ra được động lực thúc đẩy và lan toả.
5. Cơ chế Nhà nước cho sự đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho từng địa phương thì chưa rõ ràng và phối hợp không đồng bộ, giữa các Bộ,sở, ngành và đơn vị việc phân định chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của các đơn vị, cơ quan địa phương còn nhiều bất cấp, chức năng quản lý, trách nhiệm quản lý đầu tư chưa được quy định rõ dàng chính điều này đã dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư không cao, lượng vốn bị thất thoát qua nhiều đầu mối quản lý.
Hơn nữa mục tiêu cho sự phát triển kinh tế- xã hội là rất lớn và đòi hỏi một lượng vốn lớn tương đương. Tuy nhiên nguồn vốn lại rất hạn hẹp và việc đầu tư vào vùng chủ yếu là từ ngân sách trung ương chính vì vậy mà các dự án không đảm bảo được nguồn vốn giảm tiến độ thực hiện, không đảm bảo được chất lượng ảnh hưởng đến công trình.
Công tác kế hoạch hoá đầu tư không tốt và thiếu sự quy hoạch tổng thể phát triển của ngành, của vùng dẫn đến tình trạng đầu tư một cách tràn lan cho nhiều chương trình, nhiều dự án và như vậy nguồn vốn dễ bị phân tán, bị dàn trải.
Chính sách của Nhà nước để khuyến khích đầu tư thường có nhiều nhưng chưa tập trung vào một số chính sách cần thiết kết hợp với những rằng buộc về luật đầu tư chính vì vậy mà việc đầu tư của các tổ chức xã hội, các đoàn thể cho vùng bị hạn chế.
Có thể nói nhìn chung đời sống của đồng bào vùng Tây Bắc còn rất thấp nạn đói giáp hạn vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi hàng năm nhà nước cũng phải huy động lương thực để giải quyết vấn đề này. So với nhiều thành phố lớn thu nhập bình quân đầu người vùng Tây Bắc chỉ bằng khoảng 10%. Hơn nữa các nhu cầu tối thiểu trong sinh hoạt của người dân như nước sinh hoạt, trường học, trạm xá, truyền thanh, truyền hình,....nhiều nơi chưa đáp ứng được trình độ dân trí còn thấp nhiều loại bệnh dịch như sốt rét, bướu cổ...vẫn còn lan truyền.
Đời sống thấp kém, nhất là 12,4 nghìn người sống du canh ,du cư, phá rừng làm nương rẫy. Có một số dân tộc hiện tại vẫn sống trong tình trạng hoang dã phụ thuộc vào thiên nhiên như người La Hủ ở huyện MườngTè tỉnh Lai Châu.
Tóm lại: Có thể nói rằng kinh tế - xã hội của vùng Tây Bắc đang còn chậm phát triển, nhiều mặt còn rất lạc hậu. Do vậy muốn thay đổi nhanh chóng tình trạng này đòi hỏi phải đổi mới tình hình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho vùng Tây Bắc.
Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc trong những năm tới.
I. Phương hướng phát triển kinh tế- xã hội vùng Tây Bắc từ nay đến năm 2005 và năm 2010.
Tây Bắc là vùng miền núi dân tộc đặc thù và là một vùng kinh tế lãnh thổ có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc cung cấp tài nguyên thiên nhiên, nguồn thuỷ điện và đảm bảo môi trường cho sự phát triển bền vững của đất nước, xuất phát từ vị trí quan trọng của vùng về kinh tế chính trị, xã hội an ninh - quốc phòng và bảo vệ môi trường đối với cả nước. Bộ kế hoạch và đầu tư đã đưa ra phương hưóng phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc từ nay đến năm 2005 và năm 2010 là: “khai thác tận lực mọi tiềm năng thế mạnh và có hiệu quả các nguồn lực phát triển để đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ 1994 - 1998 kết hợp hài hoà giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu xã hội, bảo đảm ổn định vững chắc kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng, chuẩn bị tích cực các tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát triển cao hơn vào những năm tiếp theo” cụ thể là:
1. Tích cực khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh trong vùng nhất là việc khai thác nguồn năng lượng, nếu khai thác tốt Tây Bắc sẽ là trung tâm của các nguồn động lực phát triển kinh tế của tất cả các vùnh, các lĩnh vực, các ngành của cả nước, với nguồn công suất gần 6000MW của thuỷ điện Sơn La và Hoà Bình sẽ là nguồn động lực chủ yếu của đất nước ta trong thập kỷ tới. Nhờ có nguồn năng lượng này mà trong tương lai các ngành, các vùng và lĩnh vực kinh tế của cả nướoc mới có thể thực hiện được những bước nhảy vọt về công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Thu hút các nguồn lực phát triển trong và ngoài nước để phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ 1994 - 1998, ổn định rõ rệt một bước cuộc sống của nhân dân vùng Tây Bắc, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch với miền xuôi. Tăng trưởng cao là yêu cầu cấp thiết đối với mọi địa phương vùng Tây Bắc, không cho phép tình trạng phát triển kinh tế - xã hội chậm chạp, kéo lùi tốc độ tăng trưởng chung của cả nước. ở trong vùng nên tập trung vào các ngành mũi nhọn, những tiểu khu động lực phát triển của vùng để tạo bước nhảy trội hơn nhằm lôi kéo kinh tế - xã hội cả vùng phát triển và góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội của cả nước.
2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển kinh tế hàng hoá hợp lý vừa phát huy được thế mạnh khai thác mọi nguồn lực của từng vùng, từng địa bàn, vừa phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Tuỳ theo tình hình cụ thể của địa phương mà hình thành cơ cấu kinh tế nông thôn công nghiệp và dịch vụ hoặc lâm nông - công nghiệp và dịch vụ đem lại hiệu quả cao tổng hợp và bền vững.
Hình thành các chương trình, dự án phát triển của một số ngành kinh tế chủ yếu của vùng.
* Về lầm nghiệp và định canh, định cư, phấn đấu năm 2005 bảo vệ khoanh nuôi 476.600 ha rừng hiện có, đặc biệt là rừng phòng hộ vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, thực hiện chương trình 327 một cách triệt để trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc 172.295 ha, đưa diện tích che phủ của rừng hiện nay 15,2% lên 90% năm 2005, gắn phát triển và bảo vệ rừng với công tác định canh, định cư củng cố vững chắc số hộ đã định canh, định cư, tập trung cao độ các nguồn vốn hỗ trợ đầu tư, hướng các chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội vào khu vực hiện đang có 12,4 nghìn người sống du canh ,du cư ở những vùng khó khăn nhất, phần đấu đến năm 2005 cơ bản hoàn thành ổn định, định canh, định cư trên địa bàn vùng Tây Bắc.
* Về nông nghiệp: Giải quyết lương thực theo quan điểm hàng hoá mở rộng diện tích lương thực ở những vùng có điều kiện thuỷ lợi, thâm canh tăng năng xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và tiến bộ về kỹ thuật, bảo đảm nâng cao hệ số gieo trồng lúa nước từ 1,36 lần hiện nay nền 1,8 lần năm 2010. Đưa năng xuất lúa nước từ 31 tạ/ha lên 46 tạ/ha bằng các biện pháp kỹ thuật giống và thuỷ lợi. Giảm diện tích lúa nương từ 56,5 nghìn ha hiện nay xuống còn 18,3 nghìn ha vào năm 2010. Giải quyết tốt vấn đề điều hoà lương thực trên địa bàn cả nước để ngăn chặn nạn đói giáp hạt.
Hình thành cho được những vùng cây công nghiệp, cây ăn quả tập trung tạo ra khối lượng hàng hoá lớn, phần đấu tăng diện tích cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày lên 30.000 ha, diện tích cây ăn quả tăng lên 35,4 nghìn ha; cây công nghiệp dài ngày như chè, cà phê lên 38,26 nghìn ha.
Phát triển mạnh ngành chăn nuôi, đối với hệ thống giống có năng xuất cao, chất lượng tốt, kết hợp chăn nuôi truyền thống với chăn nuôi công nghiệp, phát triển chăn nuôi đại gia xúc ở những vùng đồng cỏ lớn như Mộc Châu và phát triển đàn bò sữa Mộc Châu từ 2000 con lên 10000 con vào năm 2010.
Phát triển nghề nuôi hươu, nai, dê và các loại đặc sản quý hiếm khác ở những nơi có điều kiện đưa chăn nuôi trở thành ngành kinh doanh chính, chiếm 30% - 35% giá trị sản lượng nông nghiệp.
* Phát triển mạnh công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ kết hợp đổi mới công nghệ với sắp xếp lại và đầu tư chiều sâu cơ sở chế biến nông lâm sản, khai thác và chế biến khoáng sản.
Cụ thể: Ngành nông nghiệp chế biến từ 1600 tấn lên 24000 tấn vào năm 2010, công nghiệp chế biến bò sữa năm 2010 đạt 2000 tấn (hiện nay cơ sở chế biến Mộc Châu có công suất 10.000 tấn nguyên liệu tương đương với 10 triệu/năm) Đến năm 2010 xây dựng mới cơ sở chế biến bột giấy với công suất 50.000 - 100.000 tấn/năm; nước khoáng 7 triệu lít và năm 2010.
Coi trọng phát triển công nghiệp nhỏ và thủ công nghiệp, khôi phục và mở rộng ngành nghề truyền thống như công cụ, dệt, thổ cẩm, đan lát phát triển đa dạng hoá các loại hình dịch vụ như cung ứng vật tư, chuyển giao công nghệ, vận chuyển, chế biến tiêu thụ sản phẩm, cố gắng đem tổng mức bán lẻ lên 18%.
3. Tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống yếu tố quan trọng hàng đầu là quy hoạch, bố trí xây dựng từng bước một hệ thống kết cấu hạ tầng trong đó bộ khung cơ bản là mạng lưới giao thông đường bộ kết hợp với đường thuỷ, đường không, phân bố hợp lý toả rộng trên các vùng lớn và nối kết với nhau tạo thành mạng lưới giao thông thông suốt cả nước trong đó chú trọng xây dựng cải thiện mạng lưới giao thông. Vùng Tây Bắc, nối mạng với các thành phố lớn. Đồng thời mở rộng đầu mối giao lưu quốc tế.
Nâng cấp các tuyến đường quốc lộ trong vùng, những tuyến tỉnh lộ, đường liên tỉnh, sớm hoàn thành các tuyến đường ô tô đi lại được 4 mùa đến trung tâm các huyện như huyện Mường Tè (Lai Châu) sông mã (Sơn La)...
Hoàn thiện các công trình thuỷ lợi, cải tạo và nâng cấp các công trình sẵn có; phục hồi các trạm thuỷ luân nhằm khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên nước mặn, cần phải kiểm kê đánh giá lại hiện trạng và điều tra kết quả sử dụng các nguồn nước, tiến hành phân công, phân cấp trong quản lý xây dựng cơ bản để nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư, phấn đấu đến năm 2005 có 60% - 80% số hộ nông thôn trong vùng được dùng nước sạch hợp vệ sinh, đảm bảo đủ nước sinh hoạt cho các đồn biên phòng.
Hoàn thiện lưới điện quốc gia đến các tỉnh, huyện lỵ trung tâm cụm xã có điều kiện, cải tạo nâng cấp nhiệt điện và xây dựng thuỷ điện vừa và nhỏ cho các huyện không có điện quốc gia, trang bị thuỷ điện nhỏ, cực nhỏ và nguồn điện bằng năng lượng khác, đảm bảo đến năm 2005 có 55% - 60% số hộ nông dân trong vùng được dùng điện sinh hoạt và sản xuất.
4. Kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội.
Trong thời gian tới từng bước phần đấu tăng nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, giảm bớt sự chênh lệnh GDP bình quân đầu người giữa Tây Bắc với các tỉnh vùng Bắc bộ, đặc biệt là các tỉnh vùng trung du miền núi và mức trung bình cả nước để đến năm 2010 Tây Bắc đạt được các mục tiêu cơ bản sau:
* Nhịp độ tăng trưởng GDP đạt mức bình quân 10,1% năm 2005 và 11,9% vào năm 2010 GDP bình quân đầu người phấn đấu bằng mức trung bình của các tỉnh miền núi khoảng 265 USD vào năm 2005 và 669 USD vào năm 2010.
* Nhịp độ xuất khẩu tăng bình quân 15% năm 2005 và tăng 20% 2010. Để đạt giá trị xuất khẩu 26 triệu USD vào năm 2005 và 190 triệu vào năm 2010.
* Phấn đấu đạt tỷ lệ huy động vốn ngân sách từ GDP đạt 12% vào năm 2005 và 22% vào năm 2010.
* Đạt tỷ lệ tích luỹ đầu tư từ GDP là 4% vào năm 2005 và 12% vào năm 2010.
Bên cạnh mục tiêu kinh tế trong thời gian tới mục tiêu xã hội cũng phải đạt được một số chỉ tiêu sau:
* Phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số xuống dưới 2,5% vào năm 2005 và 2,2% vào năm 2001.
* Thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc trong vùng, có sự ưu tiêu đặc biệt đối với các dân tộc ít người ở vùng sâu, vùng xa và vùng cao còn đang gặp nhiều khó khăn.
* Từng bước nâng cao mức sống của nhân dân trong vùng.
Đảm bảo tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em từ 42% hiện nay xuống 30% năm 2005 và dưới 10% năm 2010 thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách để hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc khó khăn, phấn đấu giảm nhanh tốc độ xoá đói giảm nghèo, chủ động giải quyết thôi vấn đề đói giáp hạt, không để xẩy ra nạn đói triền miên thực hiện xoá đói trước năm 2005, số dân có mức ăn dưới 1.800 calo/ngày còn 10% - 15% và kết thúc vào trước năm 2010.
Đảm bảo 90% số dân được nghe đài tiếng nói Việt Nam, 45% được xem truyền hình quốc gia vào năm 2005 và đạt 100% vào năm 2010.
Phấn đấu phổ cập tiểu học cho người còn tuổi lao động, phổ cập trung học cho người trong độ tuổi lao động ở các thị trấn thị xã các khu vực nông thôn.
Phát triển các trung tâm hướng nghiệp và dạy nghề theo nhiều quy mô và hình thức để đảm bảo nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng kịp thời cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Bảo đảm đủ công ăn việc làm, có thu nhập ổn định ngày càng cao cho mọi tầng lớp lao động.
Tăng cường tuyến y tế cơ sở, từng bước hiện đại hoá các bệnh viện tuyến huyện, thị xã, tỉnh để có đủ khả năng phòng và điều trị bệnh kịp thời cho nhân dân và chăm sóc sức khoẻ cộng động.
Phát triển văn hoá, nghệ thuật hiện đại trên cơ sở kế thừa và phát huy đầy đủ vốn văn hoá truyền thống của các dân tộc vào phát triển kinh tế, xây dựng xã hội lành mạnh văn minh.
5. ổn định chính trị an ninh quốc phòng vùng đồng bào dân tộc Tây Bắc.
Tập trung sức đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ổn định và từng bước cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc tạo niềm tin sắt đá cho đồng bào các dân tộc, vận động đồng bào đổi mới cung cách làm ăn, tăng cường và đảm bảo những điều kiện cần thiết cho các đồn biên phòng, kết hợp kinh tế với quốc phòng giữ vững an ninh, quốc phòng ở nhiều nơi trong vùng.
Để thực hiện được phương hướng trên phải giải quyết nhiều vấn đề song quan trọng hơn cả là phải đổi mới chính sách đầu tư phát triển cho vùng Tây Bắc.
II. Phương hướng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc từ nay đến năm 2005 - 2010.
1.Cần tăng cương mức đầu tư cho vùng trong những năm tới
Mức đầu tư cho vùng trong những năm vừa qua tăng khá nhanh, tuy nhiên nó mới chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu vốn để phát triển của vùng. Do vậy, muốn thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của vùng làm cho vùng Tây Bắc nhanh chóng tiến kịp với các vùng khác trong cả nước thời gian tới cần phải tăng thêm một lượng vốn đầu tư cho vùng Tây Bắc.
Qua tính toán để thực hiện nhiệm vụ mà các nghành kinh tế - xã hội thì từ nay đến năm 2010 Tây Bắc cần khoảng 56.830 tỷ đồng trung bình mỗi năm khoảng 4.372 tỷ đồng với mức tích luỹ đầu tư là 15% - 16% như mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đề ra thì từ nay đến năm 2010 Tây Bắc có khả năng tự đảm bảo được nguồn vốn đầu tư khoảng 37717,78. Để huy động được nguồn vốn đầu tư từ nội bộ nền kinh tế như đã xác định, bên cạnh việc tăng thu ngân sách, tăng tỷ lệ tích luỹ từ ngân sách , còn phải tìm mọi cách khuyến khích các doanh nghiệp và nhân dân tiết kiệm để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Biểu 16. Dự báo nguồn vốn đầu tư có khả năng huy động từ nền kinh tế từ nay đến năm 2010
Chỉ tiêu
2002
2010
Tổng vốn (tỷ đồng)
% so với tổng nhu cầu đầu tư
Tích luỹ từ GDP
Huy động từ quý đất
Huy động các doanh nghiệp
Vốn ngân sách nhà nước
Tiết kiệm của dân
4680,6
45,6
1254
317
471
2340
253
28.626,4
48,429
14.653,415
673,433
1.622,614
11.203,107
425,399
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
Như vậy ,vốn đầu tư đến năm 2010 còn thiếu khoảng 23.523 tỷ đồng sẽ được thu hút từ các vùng khác trong cả nước và nước ngoài đầu tư vào, đồng thời vay vốn ngân sách để thực hiện các dự án phát triển đối với các ngành các lĩnh vực; điều đáng chú ý là nguồn vốn ODA cần được sử dụng một cách có hiệu quả.
Trong thời gian tới nhu cầu đầu tư vào công nghệ theo tính toán sẽ là 33.618,14 tỷ và GDP tăng thêm của ngành là 11.505,5 tỷ, chiếm 46,39 % GDP
Nhu cầu đầu tư vào xây dựng là 6.716 tỷ và dự kiến GDP tăng thêm là 27,08 tỷ, đầu tư vào ngành nông nghiệp là 2.639,76 tỷ và dự kiến GDP tăng thêm là 1295,09 tỷ, cuối cùng đối với ngành dịch vụ 13856,100 tỷ và dự kiến GDP tăng thêm là 4918,77 tỷ
Vậy thì hệ số ICOR các ngành lần lượt là 3,00; 2,85; 2,1; và 2,58
Còn theo tính toán của Bộ kế hoạch đầu tư thì với yêu cầu tốc độ tăng trưởng GDP ít nhất là 8% - 10% /năm trong thời kỳ 2000 - 2005 thì vốn đầu tư cần tốc độ tăng khoảng 15% /năm. Như vậy, vốn đầu tư trên địa bàn các tỉnh Vùng Tây Bắc giai đoạn 2000 - 2005 dự tính cần 11.366 tỷ đồng trong đó:
* Vốn ngân sách đầu tư tập trung là 3.409 tỷ đồng chủ yếu dành cho kết cấu hạ tầng.
* Vốn đầu tư của các ngành sản xuất và dịch vụ trong nước cũng như nước ngoài trên địa bàn Vùng Tây Bắc khoảng 8.085 tỷ đồng.
Biểu 17. Dự án nhu cầu đầu tư trên địa bàn Vùng Tây Bắc giai đoạn 2000 - 2005
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1994 - 1998
2000 - 2005
Riêng 2000
Tổng số
So với năm 1994 - 1998 (%)
Tổng số
So với năm 1998
(%)
Tổng số
3919
11366
209
1562
141
1. Trong đó
+ Vốn ngân sách
1342
3409
254
604
120
+ Đầu tư cho địa phương
529
2466
466
359
153
+ Đầu tư qua cán bộ
813
956,32
117,6
245
92
2. Vốn tín dụng nước ngoài và huy động
2577
8085
313
958,33
158
Nguồn : Bộ kế hoạch đầu tư
Nhu cầu đầu tư để đảm bảo phát triển kinh tế- xã hội các tỉnh vùng Tây Bắc trong thời kỳ 2000-2005 ước tính khoảng 11.366 tỷ đồng, trong đó riêng cho năm 2000 khoảng 1562 tỷ đồng.
Tuy nhiên, các tỉnh vùng Tây Bắc lại là những tỉnh kinh tế chậm phát triển. Do đó khả năng tích luỹ bản thân là rất hạn chế. Theo ước tính của Bộ kế hoạch và đầu tư các tỉnh Vùng Tây Bắc chỉ có thể tích luỹ được khoảng 4.443 tỷ vốn đầu tư trong giai đoạn 2000 - 2005, đạt sấp xỉ 39% tổng số vốn cần có (tỉ lệ huy dộng đầu tư từ GDP là 12,35%, thấp hơn các vùng khác trong cả nước). Như vậy sẽ thiếu hụt là 6.923 tỷ đồng chiếm 61% tổng số vốn đầu tư.
Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang tìm mọi cách để cân đối vốn đầu tư cho các tỉnh Vùng Tây Bắc. Để đảm bảo cho các tỉnh này đạt được kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội như kế hoạch đã đặt ra.
Theo Bộ kế hoạch và đầu tư việc cân đối khoản vốn thiếu hụt của các tỉnh Vùng Tây Bắc giai đoạn 2000 - 2005 sẽ phải thực hiện những chỉ tiêu sau:
* Ngân sách trung ương hỗ trợ cho các tỉnh Vùng Tây Bắc khoảng 3007 tỷ đồng bằng 27,2% tổng lượng vốn yêu cầu, trong đó riêng năm 2000 hỗ trợ 565,6 tỷ đồng.
*Huy động thêm từ nhân dân và các thành phần kinh tế khác trong nước 1239,3 tỷ đồng bằng 10,9 % tổng số vốn cần có.
* Vốn tín dụng đầu tư nước ngoài 2.740,2 tỷ đồng bằng 24,1% tổng lượng vốn yêu cầu.
Như vậy, so với giai đoạn 1994 - 1998, giai đoạn 2000 - 2005 các tỉnh miền núi Vùng Tây Bắc cần một lượng vốn nhiều gấp 2,2 lần, trong đó lượng vốn huy động ( kể cả trong và ngoài nước ) là 3979,5 tỷ đồng chiếm 35% tổng lượng vốn cần có.
Để huy động được một lượng vốn như vậy, rõ ràng nhà nước và địa phương phải có những chính sách thật hợp lý và thật khuyến khích các chủ đầu tư hăng hái bỏ vốn vào một vùng có cơ sở hạ tầng thấp kém như Vùng Tây Bắc.
2. Đổi mới phương thức đầu tư:
Đảng và nhà nước ta đã cho rằng “ Để việc đầu tư cho Vùng Tây Bắc đạt được hiệu quả thiết thực các công trình sớm được đưa vào sử dụng, góp phần làm cho kinh tế Vùng Tây Bắc phát triển nhanh, đời sống của đồng bào sớm được cải thiện. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải có phương thức đầu tư cho vùng một cách hợp lý”.
Việc đầu tư theo các dự án sẽ tập trung được một lượng lớn vốn đầu tư nên hiệu quả sử dụng vốn cao, tiết kiệm được mọi chi phí chính vì vậy mà các nhà quản lý cho rằng “cần phải tính toán kỹ khi hoạch định các dự án đầu tư cho vùng không nên đề ra quá nhiều dự án cần phải chọn lĩnh vực đầu tư trọng điểm cho , tập trung đầu tư cho nó, làm cho lĩnh vực đó có sự biến đổi căn bản trong một thời gian ngắn. Khi một lĩnh vực nào đó được thay đổi về chất, nó sẽ là đòn bẩy các mặt khác của vùng phát triển. Các lĩnh vực đó là: giao thông, thuỷ lợi, lâm nông nghiệp, y tế, giáo dục. Cần phân bổ nguồn vốn cho các lĩnh vực này 1 cách phù hợp”.
Biểu 18: Dự báo vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Vùng Tây Bắc giai đoạn 2000 - 2005
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2000 - 2005
Riêng 2000
Tổng số
% so với tổng số
Tổng số
% so với tổng số
1. Đầu tư vào mạng lưới giao thông
3214
35,225
842
41,6
- Quan trung ương
1928
648,7
- Trực tiếp cho địa phương
1286
194,3
2. Đầu tư cho hệ thống cấp thoát nước
406,5
4,45
81,2
4,01
- Quan trung ương
189,75
37,9
- Trực tiếp cho địa phương
216,74
43,2
3. Đầu tư cho mạng lưới điện
2256
24,73
451,2
22,29
- Quan trung ương
1053
210,6
- Trực tiếp cho địa phương
1203
240,6
4. Đầu tư cho bưu chính viễn thông
724,6
7,94
144,92
7,16
- Quan trung ương
437,2
87,44
- Trực tiếp cho địa phương
287,4
57,48
5. Đầu tư cho giáo dục đào tạo
1955
21,42
391
19,31
- Quan trung ương
578,6
115,7
- Trực tiếp cho địa phương
1376,3
275,2
6. Đầu tư cho y tế
567,9
113,58
- Quan trung ương
- Trực tiếp cho địa phương
567,9
6,22
113,58
5,61
Tổng số
9124
100
2024
100
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Riêng vốn tín dụng và đầu tư ngân sách và vốn ODA ưu tiên dành cho việc đầu tư biến đổi cơ cấu kinh tế Vùng Tây Bắc. Ước tính đến năm 2005 cơ cấu của ngành kinh tế trong GDP của vùng sẽ đạt như sau: công nghiệp xây dựng 22,9%, dịch vụ 13%, nông lâm nghiệp 6.6%.
3. Một số chính sách khuyến khích việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội Vùng Tây Bắc
Nhìn chung tồn tại lớn nhất trong mọi lĩnh vực để phát triển kinh tế - xã hội của vùng cho đến nay vẫn là:
- Các ngành trung ương và các tỉnh đã quan tâm và phát triển cho vùng Miền núi, nhưng chưa có sự chỉ đạo thống nhất, chưa có một tổ chức nào chịu trách nhiệm đối với phát triển toàn diện Vùng Tây Bắc.
- Nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của vùng là rất lớn từ trước tới nay. Song bản thân các tỉnh Vùng Tây Bắc lại rất nghèo chưa đủ khả năng tích luỹ để tự đầu tư. Chính vì vậy, cần phải huy động mọi nguồn vốn thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Năng lực của các cấp về phát triển nông thôn, Miền núi còn rất hạn chế.
Các chính sách để đẩy mạnh việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
3.1. Chính sách về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Hiện nay, Tây Bắc vẫn là miền núi khó khăn nhất ở nước ta do đó vấn đề đầu tư để giảm bớt sự chênh lệch với các vùng khác là vấn đề cần thiết, nhằm đảm bảo chủ trương công bằng xã hội mà nghị quyết TW lần thứ 8 đã đề ra.
Tuy nhiên, Tây Bắc là một vùng rộng lớn và ngân sách còn hạn chế, thì trọng tâm đầu tư phải được cân nhắc kỹ.
- Trước hết phải đầu tư vào xây dựng kết cấu hạ tầng có tác động tới phát triển kinh tế, phục vụ sản xuất sau đó mới xem xét tới phục vụ dân sinh nâng cao dân trí, ổn định an ninh. Vì vậy, chính sách đầu tư cho các nhóm xã được ưu tiên có thể như sau:
+ Các xã có tiềm năng kinh tế, thu nhập khá, nằm ở phần các điểm kinh tế phát triển, các xã có ảnh hưởng và là đầu mối kinh tế trong vùng. Với các loại xã này, hầu hết như kết cấu hạ tầng thiết yếu đã được xây dựng đầy đủ nên hướng đầu tư chủ yếu là các công trình, mở rộng quy mô nhất là đường liên thôn để xe vận tải vào được, mạng lưới điện ổn định, cấp thoát nước đầy đủ, hệ thống bến bãi , chợ...nhằm tạo điều kiện hấp dẫn cho nhân dân trong và ngoài xã đầu tư vào các cơ sở sản xuất, chế biến, sửa chữa dịch vụ.
Thông thường các xã này tự huy động vốn, nên nhà nước cần hỗ trợ chủ yếu là đầu tư vào các công trình mới, đồng thời có cơ chế thích hợp để khuyến khích xã tự phát triển.
+ Các xã nghèo vùng sâu, vùng xa thu nhập thấp, tiềm năng hạn chế. Do các xã không có khả năng huy động nên nhà nước tập trung đầu tư. Xây dựng đủ các hạng mục kết cấu hạ tầng thiết yếu để đảm bảo nâng cao đời sống nhân dân, phục vụ cho an ninh và ổn định xã hội. Tuy nhiên, khi xác định dự án đầu tư trong xã nghèo, ngoài nhu cầu cấp thiết nhất ra, phải ưu tiên cho các công trình nào có khả năng mang lại sự phát triển nhất xã.
- Đối với mỗi xã, đầu tư chủ yếu để xây dựng đầy đủ kết cấu hạ tầng cho các khu dân cư tập trung, các khu tái định cư, khu quy hoạch nhằm tăng giá trị đất và nhanh chóng nâng cao điều kiện sống ở đây để thu hút người dân sống tập trung, hạn chế và xoá dần các cụm nhà lẻ.
Về cấp công trình và chất lượng công trình phải bền vững hết sức hạn chế làm bằng nhà tạm tranh tre, phải đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật và vệ sinh khi sử dụng, chỉ đầu tư vào những công trình nào mà dân có thể sử dụng, vận hành và bảo quản, do đó ngay khi lập dự án phải trù liệu chi phí vận hành, sửa chữa và giao cho cộng đồng dân cư đảm nhiệm.
3.2. Chính sách về đầu tư đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ đầu tư.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và trình độ dân trí là khâu then chốt giải quyết mọi vấn đề. Là yếu tố quyết định khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Do trong vùng trình độ dân trí còn thấp, tỷ lệ mù chữ vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Chính vì vậy, đòi hỏi nhà nước cần phải có chính sách đầu tư ưu tiên phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo cho đồng bào các dân tộc miền núi. Muốn vậy trước hết nhà nước và địa phương cần phải mở rộng nhiều hình thức đào tạo qua nhiều kênh, nhiều cấp đào tạo, qua các tổ chức Đảng, Đoàn, quần chúng. Đồng thời cần xây dựng kế hoạch tổng thể về đào tạo phù hợp với cơ cấu ngành nghề và kế hoạch của vùng. Đối tượng đào tạo cần tuyển chọn những người có đủ năng lực và phẩm chất thực sự gắn liền với thôn bản, với từng dân tộc. Ngoài ra, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ người dân tộc thiểu số và các chuyên gia, các nhà khoa học, các tri thức trẻ phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Miền núi Vùng Tây Bắc cần được ưu đãi đặc biệt.
3.3. Chính sách khuyến khích các tổ chức đoàn thể xã hội trong việc đầu tư cho miền núi Vùng Tây Bắc.
Muốn làm được điều này đòi hỏi nhà nước và địa phương phải có sự phối hợp nhịp nhàng trong việc kêu gọi, lập và quản lý các trương trình, dự án đầu tư phát triển. Trước hết, tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi để khuyến khích sự đầu tư của các tổ chức, các đoàn thể xã hội; thứ đến, có một chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các tổ chức , đoàn thể có số lượng vốn đầu tư lớn vào Miền núi Vùng Tây Bắc. Tiếp theo, thực hiện các thủ tục về đầu tư cho các chủ đầu tư phải diễn ra một cách nhanh chóng, thuận lợi trên cơ sở hai bên đều có lợi. Và cuối cùng là tạo mọi điều kiện cần thiết để cho các chủ đầu tư có thể tin tưởng hơn và đầu tư một cách có hiệu quả vào nhiều lĩnh vực trong vùng.
3.4. Chính sách thuế.
Để tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế và dân cư đầu tư vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh vào vùng, thì chính sách thuế ở miền núi cần phải được bổ sung hoàn thiện theo hướng giảm tiếp mức thu các loại thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế doanh thu, thuế công thương nghiệp...Điều đó góp phần tích cực thu hút các chủ thể sản xuất kinh doanh bên ngoài đầu tư vào Vùng Tây Bắc, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế của vùng, hạn chế cách biệt giữa Vùng Tây Bắc với các vùng khác trong cả nước.
III - Các giải pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội Vùng Tây Bắc
Thứ nhất. Phải có quan điểm và tầm nhìn chiến lược trong đầu tư cho Vùng Tây Bắc.
Vùng Tây Bắc hiện tại là nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém, kinh tế chậm phát triển, dân trí còn thấp và đời sống của người dân đang hết sức khó khăn. Trước thực trạng đó không ít người cho rằng không nên đầu tư nhiều cho vùng, bởi lẽ hiệu quả đầu tư mang lại rất thấp. Nếu có đầu tư thì chỉ là đầu tư để trợ giúp đồng bào các dân tộc khỏi đói kém mà thôi.
Nhận thấy rằng đây là cách nhìn không đúng. Như ở phần trên đã trình bày, Vùng Tây Bắc là nơi có tiềm năng phát triển to lớn về mọi mặt, sản phẩm xuất khẩu của vùng tuy không được lớn lắm nhưng cũng góp phần không nhỏ vào GDP của vùng cũng như của cả nứơc. Trong tương lai sẽ còn nhiều loại mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao về mặt số lượng và chất lượng. Rồi đây, khi cơ sở hạ tầng phát triển, khoa học kỹ thuật cũng phát triển, đời sống xã hội được nâng cao chắc chắn đây sẽ là nơi cư trú của phần đông dân cư trong nước.
Nhận thấy rằng nếu có sự đầu tư thoả đáng và với đúng nghĩa của nó không có tư tưởng xấu của cán bộ quản lý hoạt động đầu tư, và có sự giám sát, kiểm tra của người có chức có quyền...thì khi ấy Vùng Tây Bắc sẽ bùng lên sự phát triển mạnh mẽ và làm thay đổi hẳn cục diện bộ mặt kinh tế - xã hội không những trong vùng mà của cả đất nước.
Thứ hai. Phải thấy rằng việc đầu tư cho vùng không phải chỉ vì đồng bào Vùng Tây Bắc.
Vùng Tây Bắc có quan hệ hết sức mật thiết với các vùng khác trong cả nước trên mọi phương diện. Miền núi phía Bắc là mái nhà che trở cho đồng bào Sông Hồng. Còn Tây Nguyên là mái nhà của Đồng bằng duyên hải miền trung và đông Nam Bộ. Nếu như môi trường của vùng núi bị phá vỡ, rừng bị tàn phá bừa bãi sẽ không chỉ ảnh hưởng đến điện cho sản xuất, sinh hoạt và đời sống của mọi người dân trong vùng mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến khí hậu, thời tiết đất đai và nguồn nước cho các vùng khác trong cả nước. Hạn hán, lũ lụt, gió bão mấy năm vừa qua xảy ra liên miên dồn dập với cường độ lớn đã làm cho chúng ta thấm thía sâu sắc hơn về điều này.
Do đó, phải thấy rằng việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội Vùng Tây Bắc, bảo vệ môi trường của vùng không phải là dành riêng cho đồng bào sinh sống ở khu vực này mà là cho cả nước.
Thứ ba. Đầu tư tập trung có trọng điểm và hoàn thành dứt điểm từng hạng mục.
Để đảm bảo nhanh chóng tạo cho vùng Tây Bắc có cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như có cơ sở vật chất xã hội tốt sớm đưa kinh tế - xã hội của vùng phát triển kịp với các vùng khác trong cả nước. Rút kinh nghiệm của các giai đoạn đầu tư trước trong giai đoạn 2000 - 2005 cần thực hiện việc tập trung đầu tư có trọng điểm cho vùng Tây Bắc. Tất nhiên để có được sự đầu tư có trọng đIểm này thì nhà nước cần bỏ ra một số kinh phí ban đầu và huy động một số cán bộvà các nhà khoa học giúp các tỉnh trong vùng đIều tra, khảo sát , xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn của tỉnh cũng như các dự án tiền khả thi về phát triển các nghành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở các tỉnh trong vùng.
Khi nhà nước đã duyệt các dự án nào của vùng Tây Bắc rồi thì tập trung kinh phí vào dự án đó, để công trình sớm được hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần làm thay đổi bộ mặt của vùng.
Trong những năm tới muốn cho vùng có thể tiến kịp với các vùng khác trong cả nước thì trước hết cần đầu tư có trọng điểm vào các lĩnh vực sau: cơ sở hạ tầng, giao thông, điện, thuỷ lợi, giáo dục và các ngành sản xuất, lâm nghiệp, nông nghiệp và khai khoáng.
Thứ tư, phải huy động mọi nguồn vốn để đầu tư cho vùng Tây Bắc
Việc phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc cần rất nhiều vốn song bản thân các tỉnh trong vùng thì lại rất nghèo, chưa đủ khả năng tích luỹ để tự đầu tư. Chính vì thế việc huy động mọi nguồn vốn thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong và ngoài nước để đầu tư cho Tây Bắc là hết sức cần thiết.
Nhà nước cần nghiên cứu và ban hành các chính sách nhằm khuyến khích mọi tầng lớp dân cư đầu tư vào Tây Bắc. Đặc biệt là việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trồng rừng, phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Tất nhiên, rất cần thu hút vốn đầu tư của nước ngoài nhưng điều trước hết cần phải làm là ưu tiên khuyến khích những người Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam có vốn bỏ vào đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc.
Chính sách khuyến khích của nhà nước có nhiều loại nhưng để phát huy tốt khả năng của vùng thì đòi hỏi nhà nước cần quan tâm đặc biệt đến chính sách đất đai, chính sách miễn giảm thuế và chính sách nhập khẩu.
Trong việc huy động vốn đầu tư cho vùng Tây Bắc thì nhà nước cần phải nghiên cứu, tính toán để trích một phần lợi nhuận của các công trình được xây dựng trong vùng hoặc lấy nguyên vật liệu có thể có của vùng đó sản xuất, đầu tư trở lại cho vùng. Chẳng hạn lợi nhuận của nghành điện do các nhà máy thuỷ điện mang lại, lợi nhuạn của nhà máy giấy...
Hàng vạn hộ nông dân phải từ bỏ nhà cửa, ruộng vườn để xây dựng các hồ chứa nước cho nhà máy thuỷ điện. Trong khi đó lợi nhuận do các nhà máy làm ra thì người dân trong vùng không được hưởng là điều không hợp lý.
Thứ năm, phải kết hợp hài hoà hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Không ít người cho rằng trong cơ chế thị trường việc đầu tư phải luôn luôn lấy mục tiêu hiệu quả kinh tế làm đầu. Đối với vùng Tây Bắc điều này hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả về kinh tế hiệu quả về xã hội đối với vùng Tây Bắc cũng không kém phần quan trọng. Do vị trí của vùng(biên giới, địa hình cao và phức tạp, dân tộc thiểu số sinh sống là chính...) vùng Tây Bắc có vai trò hết sức quan trọng về mặt an ninh, quốc phòng về chính trị và bảo vệ môi trường của đất nước. Bởi thế việc đầu tư cho miền núi không chỉ đơn thuần đặt vấn đề về hiệu quả kinh tế mà phải gắn chặt giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Thậm chí có một số lĩnh vực đầu tư phải đặt hiệu quả xã hội lên trên.
Thứ sáu, nhà nước nên đầu tư theo từng khu vực cụ thể của Vùng miền núi Tây Bắc.
Vùng Tây Bắc hiện tại vẫn được chia làm ba khu vực.
Khu vực I: gồm các trung tâm đô thị, thị trấn, và các trung tâm công nghiệp, đây là các khu vực phát triển cao của vùng.
Khu vực II: gồm các khu vực là vùng đệm giữa các đô thị, các trung tâm công nghiệp và vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Đây là vùng có điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hoá tập trung quy mô lớn.
Khu vực III: là khu vực vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Đây là khu vực về mọi mặt còn đang gặp nhiều khó khăn.
Việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai phải căn cứ vào tình hình và đặc điểm cụ thể của từng khu vực. Đối với khu vực I cần đầu tư theo chiều sâu để đẩy nhanh sự phát triển cuả nó đảm bảo cho khu vực này có sự tăng trưởng cao hơn bình quân chung cả nước, lấy khu vực I lôi kéo các khu vực khác trong vùng phát triển .
Tuy nhiên, do kinh tế khu vực I phát triển khá, nên vốn đầu tư cho nó chủ yếu là huy động nguồn vốn trong dân, vốn của các doanh nghiệp, vốn liên doanh với các đơn vị trong và ngoài nước và vốn tín dụng, Ngân sách trung ương và tỉnh chỉ hỗ trợ một phần xây dựng hệ thống đường giao thông, đường điện đến huyện, một số bệnh viện, trường học quan trọng.
Khu vực II trong tương lai sẽ là vùng sản xuất hàng hoá lớn, bởi vậy cần phải dành một số lượng lớn vốn đầu tư thoả đáng của ngân sách cho khu vực này để xây dựng kết cấu hạ tầng, một số công trình phúc lợi và thực hiện chính sách xã hội đối với đồng bào các dân tộc trong vùng.
Đối với khu vựcIII, nhà nước cần tập trung vốn ngân sách đầu tư theo các chương trình tổng hợp và cần có sự can thiệp của nhà nước tập trung đầu tư cho giao thông, bưu điện, thương mại, xây dựng trạm xá, trường học, cung cấp nước sạch... để từng bước thay đổi bộ mặt của khu vực này. mặt khác, cũng cần đầu tư giúp đồng bào xoá đói giảm nghèo và phòng trừ bệnh dịch.
Thứ bẩy: cần thay đổi cơ bản phưong thức quản lý hoạt động đầu tư theo hướng áp dụng cách quản lý đặc thù đối với vùng miền núi tây bắc về tất cả các chương trình đầu tư trừ một số lĩnh vực đầu tư(giao thông, bưu điện) tất cả các nguồn đầu tư của nhà nước đều do một cơ quan mạnh được tổ chức thống nhất đặt tại cấp huyện triển khai thực hiện, các cơ quan trung ương xây dựng kế hoạch đầu tư từng chương trình thông qua kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội chung của từng tỉnh. Chủ tịch tỉnh trên cơ sở nguồn lực có được(bao gồm cả nguồn lực phân bổ từ trung ương và nguồn lực tại chỗ) thực hiện việc đầu tư trên địa bàn thông qua cơ quan đặt tại cấp huyện, đồng thời cùng cơ quan trung ương kiểm tra giám sát quá trình thực hiện, cơ quan triển khai thực hiện các trương trình ở cấp huyện lấy nhóm cán bộ kế hoạch-tài chính làm nòng cốt có bổ sung cán bộ tăng cường từ cấp tỉnh và trung ương, làm cho cơ quan đủ mạnh, đủ quyền lực, tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư.
Thứ tám: Đối với vấn đề giải ngân
nguồn vốn đầu tư cho vùng được chuyển qua ngân hàng đầu tư và ngân hàng nông nghiệp từ đó tiến hành giải ngân cho các dự án, không nên phân tán ở quá nhiều đầu mối như hiện nay, càng nhiều đầu mối thì thất thoát càng lớn
Thứ chín: Nhà nước cần phải có chính sách giúp các tỉnh làm nhanh việc quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội cũng như việc xây dựng các dự án phát triển cụ thể.
Thứ mười: Hình thành các thị trấn ,thị tứ
Để đảm bảo cho các vùng xâu, vùng xa, phải hình thành các mạng lưới thị trấn, thị tứ và các trung tâm cụm xã nhằm gắn các xã với mạng lưới đô thị quốc gia. các thị trấn ,thị tứ , trung tâm cụm xã là các trung tâm công nghiệp của tiểu vùng, thương nghiệp dịch vụ, khoa học kỹ thuật, y tế, giáo dục,văn hóa có tác dụng như hạt nhân thúc đẩy sự phát triển của vùng.
Việc phát triển thị trấn, thị tứ là quá trình đô thị hoá các khu cụm dân cư,là biện pháp quan trọng để dân không chuyển về các thành phố lớn đồng thời giảm dần khoảng cách giữa vùng trung tâm, các thị xã với các vùng khác của vùng tây bắc.
Để phát triển thị trấn, thị tứ trước hết đòi hỏi phải có quy hoạch mạng lưới thị trấn, thị tứ của vùng, có quy hoạch phát triển tổng thể, có chính sách đất đai chuẩn bị mặt bằng cho việc đô thị hoá các trung tâm này cũng như có chính sách huy động vốn cho đầu tư về cơ sở hạ tầng của vùng.
Việc hình thành các thị trấn, thị tứ sẽ giúp cho việc đầu tư phát triển kinh tế- xã hội ở vùng này diễn ra một cách dễ ràng, nguồn vốn tập trung vào khu vực này có hiệu quả cao hơn tạo điều kiện cần thiết cho các tổ chức trong và ngoài nước làm cơ sở để đưa ra các hướng đầu tư phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm, quy mô của vùng.
Thứ mười một: tăng cường các hoạt động về đầu tư khoa học, kỹ thuật phục vụ cho phát triển vùng tây bắc.
trong tình hình kinh tế - xã hội Tây Bắc hiện nay, hoạt động khoa học kỹ thuật phục vụ xây dựng nông thôn thực sự chưa được chú ý vì hầu như công nghệ dùng cho xây dựng nông thôn miền núi hiện nay nhình chung là công nghệ kỹ thuật thấp, rẻ tiền và dùng nhiều lao động phổ thông...không đòi hỏi đầu tư nghiên cứu lâu dài. Tuy nhiên do khối lượng kết cấu hạ tầng miền núi là rất lớn, phục vụ cho số đông dân cư với địa hình phức tạp, việc nâng cao chất lượng vật liệu cổ truyền, hạ giá thành sản phẩm và sử dụng hợp lý vật liệu xây dựng địa phương có ý nghĩa kinh tế rất lớn.
Đối với việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng, hoạt động khoa học kỹ thuật cần nhấn mạnh vào các hướng:
Nghiên cứu để ứng dụng công nghệ thích hợp vào sản suất vật liệu xây dựng và thiết kế thi công công trình, công nghệ thích hợp phải được hiểu là loại công nhgệ khai thác được tối đa tiềm năng của địa phương như: sử dụng vật liệu xây dựng địa phương, nhân công địa phương , nâng cấp và hiện đại hoá các công nghệ truyền thống mang lại thu nhập cho dân nông thôn.
ở những nơi có điều kiện, khuyến khích sử dụng công nghệ hiện đại hoặc tạo được sản phẩm chất lượng cao, áp dụng thử nghiệm để xác định hiệu quả kinh tế xã hội của công nghệ mới trường hợp thực sự mang lại hiệu quả thì phải có biện pháp khuyến khích áp dụng, vì công nghệ mới bao giờ cũng mang tính năng động cao và nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp cho khu vực.
Chuẩn hoá các công nghệ thông tin truyền thống và các công nghệ đã phổ biến trong dân để đảm bảo chất lượng công trình.
Thứ mười hai: Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý.
Đào tạo là biện pháp nâng cao năng lực cán bộ địa phương và nâng cao chất lượng nguồn lực cho vùng. Việc phát triển kinh tế -xã hội là công việc không riêng một tổ chức, cá nhân nào có thể đảm nhiệm mà thực chất là công việc của chính quyền và nhân dân địa phương.
Tuy nhiên để tổ chức công việc từ trung ương đến các cấp địa phương lại đòi hỏi một khả năng tổng hợp và những kỹ năng về tổ chức quản lý và phát triển cộng đồng. Chính vì vậy, việc đào tạo là một nội dung quan trọng để nâng cao kết quả đầu tư phát triển, giúp cho đội ngũ cán bộ trong việc chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình,dự án của Đảng và chính phủ một cách dễ dàng có khoa học. Muốn vậy đòi hỏi Nhà nước phải dành một khoản kinh phí để nghiên cứu soạn thảo nội dung trương trình đào tạo nâng cao kiến thức quản lý cho đội ngũ cán bộ từ cấp xã đến cấp huyện đồng thời mở những lớp ngắn hạn, đào tạo cán bộ quản lý ngay từ địa phương, tạo điều kiện cho cán bộ đương chức có điều kiện tham gia học tập đầy đủ.
Đưa nội dung đào tạo cán bộ công tác ở vùng dân tộc,vùng sâu, vùng xa về các lĩnh vực quản lý nhà nước, vận động quần chúng phát triển kinh tế-xã hội... vào các trường Đảng và các trường hành chính cấp tỉnh.
Coi trọng và tiến hành chính sách khuyến khích đào tạo con em các dân tộc thiểu số từ trung cấp đến đại học rồi trở về công tác tại địa phương.
Tất cả các dự án về đầu tư phát triến sản xuất của vùng Tây Bắc và đồng bào dân tộc đều phải có kinh phí dành cho đào tạo, tập huấn về chuyên môn và kỹ thuật cho các hộ tham gia dự án.
Cần nghiên cứu chế độ đãi ngộ cho cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số cho phù hợp để động viên cán bộ giỏi tham gia vào việc đẩy mạnh phát triển kinh tế -xã hội miền núi.
Cần chú trọng đào tạo về tổ chức huy động vốn và quản lý tài chính trong các dự án đầu tư phát triển kinh tế- xã hội của vùng cho các cấp tuỳ theo trách nhiệm của mình.
Thứ mười ba: Nhà nước kết hợp với địa phương để tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi khuyến khích vốn đầu tư của các tổ chức và tư nhân nước ngoài để sản xuất kinh doanh nông, lâm nghiệp, khai khoáng, công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp, kết cấu hạ tầng, thương nghiệp dịch vụ và du lịch ở miền núi theo luật đầu tư nước ngoài của nhà nước,có ưu đãi đặc biệt đối với tổ chức và tư nhân nước ngoài có lượng vốn đầu tư lớn vào vùng.
Cán bộ và cơ quan quản lý dành ưu tiên quỹ viện trợ của các tổ chức quốc tế, các chương trình hợp tác quốc tế của mình cho miền núi và giúp đỡ các địa phương sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này.
chỉ có thể phát triển một nền kinh tế -xã hội cho vùng. Chính vì vậy, đòi hỏi Nhà nước cần phải có chính sách cụ thể hợp lý để khuyến khích sự đầu tư phát triển kinh tế -xã hội cho vùng.
Thứ mười bốn: quy hoạch và bố trí dân cư,định canh ,định cư, xoá đói giảm nghèo.
quy hoạch và bố trú dân cư phải dựa vào quy hoạch phát triển hệ thống giao thông và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ 2000-2005 của địa phương, đối với vùng biên giới phải kết hợp phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng để hình thành , bố trí các cụm dân cư ,các thị trấn, thị tứ, các trung tâm cụm xã, các vùng kinh tế hàng hoá cho phù hợp.
Đối với những nơi đã hình thành cụm dân cư, đã có đường giao thông, trường học, trạm xá thì tiếp tục hỗ trợ để ổn định lâu dài.
ở những nơi đồng bào còn đang sống rải rác, phân tán thì vận động đồng bào tự nguyện di chuyển vào các làng, bản gần đường giao thông và vùng đã được quy hoạch có điều kiện phát triển sản xuất nhất là dọc đường giao thông biên giới.
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng các tỉnh miền núi phải xác định số hộ còn du canh ,du cư trên địa bàn từng tỉnh, tổng kết công tác định canh đinh cư và kinh tế mới thời gian qua để có giải pháp cụ thể có hiệu quả theo hướng:
Quy hoạch lại đất đai gắn liền với quy hoạch và phát triển giao thông, nguồn nước nhất là những vùng còn nhiều đất đai, vùng biên giới để định canh, định cư trên địa bàn, lập dự án kinh tế mới lấy điều chỉnh nội bộ và tại chỗ là chính.
Bộ lao động thương binh và xã hội cùng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và các địa phương phải trên cơ sở điều tra phân loại các hộ nghèo, nguyên nhân nghèo đói tạo điều kiện để các hộ tự vươn lên khắc phục khó khăn, theo hướng:
Đối với những hộ nghèo đói vì thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm sản xuất, uỷ ban nhân dân các cấp cần tạo điều kiện giúp các hộ được vay vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo bằng các hình thức vay vốn tự nguyện, tín chấp ... gắn việc vay vốn với hướng dẫn các biện pháp khuyến nông, khuyến lâm có hiệu quả.
Đối với những hộ nghèo vì thiếu sản xuất phải đi phá rừng làm rẫy trồng lương thực. Uỷ ban nhân dân các cấp cần có ngay biện pháp để các hộ có đất để sản xuất theo hưóng nông, lâm kết hợp, đồng thời hỗ trợ lương thực trong thời gian một vài năm đầu để các hộ có điều kiện tự sản xuất và ổn định đời sống.
Ngân hàng nhà nước việt nam phải dành đủ nguồn ngắn hạn và trung hạn tiến tới tăng nguồn vốn dài hạn bảo đảm nhu cầu vay vốn của dân cho phát triển sản xuất và phục vụ đời sống.
Đối với các hộ nghèo thuộc diện chính sách do không có sức lao động,Uỷ ban nhân dân các cấp cần có thống kê thật cụ thể đưa vào diện đối tượng trợ cấp xã hội hàng năm để có chính sách hỗ trợ lương thực cho các hộ này.
KếT LUậN
Trong xu thế phát triển hiện nay trong khu vực cũng như trên thế giới. nước Việt Nam của chúng ta cũng đang lỗ lực vươn lên hoà mình chung vào tiến trình phát triển đó thông qua con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá, xây dựng một nền kinh tế mở hướng ra bên ngoài, điều này thể hiện rất rõ qua các văn kiện đại hội đảng lần thứVII,VIII vừa qua. Trong đó Đảng ta đã xác định muốn đi lên thành một nước có nền kinh tế phát triển thì trước hết cần phải đảm bảo điều kiện về đời sống kinh tế -xã hội của người dân, phải đảm bảo phát triển cân đối các cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ,phát triển cần phải dựa trên các cơ sở đồng đều và một nền tảng vững chắc. Dựa trên quan điểm này của Đảng và Nhà nước ta đã tích cực chú trọng tới việc phát triển và cải thiện đời sống kinh tế- xã hội của người dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc miền núi và tạo điều kiện để phát triển kinh tế các vùng miền núi thông qua hỗ trợ và khuyến khích đầu tư ở các vùng này...Tây bắc là một vùng miền núi trong những năm qua đã được sự hỗ trợ của Đảng và nhà nước và cùng với sự nỗ lực của chính mình đã thực hiện tốt cải cách kinh tế tăng cường đầu tư phát triển kinh tế-xã hội của vùng và đã đạt được những thành tựu đáng kể ,rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa vùng Tây Bắc với các vùng kinh tế khác trong cả nước. Nhằm đảm bảo tính công bằng xã hội theo tinh thần của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Với tinh thần đó, bài viết này chủ yếu tập trung vào việc xem xét tình hình đầu tư phát triển kinh tế-xã hội vùng Tây Bắc trong những năm qua với những kết quả đạt được do đầu tư mang lại và những hạn chế cơ bản của đầu tư cho vùng từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả trong công tác đầu tư phát triển kinh tế- xã hội vùng Tây Bắc.
TàI LIệU THAM KHảO
I. sách tham khảo
1. văn kiện đại hôi đảng toàn quốc lần thứ VIII .
NXB. chính trị quốc gia. Hà nội năm 1996.
2. kinh tế đầu tư
3. chương trình đầu tư công cộng 5 năm 1999-2005 .
bộ kế hoạch và đầu tư .hà nội năm 1998
4. chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng tây bắc .
năm(1996-2000) của uỷ ban dân tộc và miền núi
5. định hướng phát triển kinh tế xã hội đến năm 2005-2010 của vùng núi phía bắc.
tổ chiến lược kinh tế xã hội miền núi phía bắc
6 quyết định của thủ tướng chính phủ về định hướng dài hạn kế hoạch 5 năm 1996-2000 phát triển kinh tế xã hội các tỉnh miền núi phía bắc .
7 nghị quyết 22 của bộ chính trị (khoá 6 ngày 27/11/89)
8. một số vấn đề phát triển nông nghiệp ở miền núi -xây dựng nông thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số đến năm 2000 của uỷ ban dân tộc và miền núi.
9 định hướng giải quyết vấn đề công bằng xã hội trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 bộ kế hoạch và đầu tư, hà nội năm 1998
10. tổng hợp các phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội việt nam thời kỳ 1998-2010 bộ kế hoạch và đầu tư.
II. TạP CHí THAM KHảO.
11. tạp chí con số và sự kiện năm 1997 và tháng 1+2+3 năm 1998.
12. tạp chí kinh tế phát triển, năm 1997 và tháng1+2+3+4 năm 1998.
13. tạp chí nghiên cứu kinh tế năm 1997 và tháng1+2+3+4 năm 1998.
14. những vấn đề kinh tế thế giới.
15. tạp chí kinh tế dự báo năm 1997 và tháng1+2+3 năm 1998
16. tạp chí đông nam á ngày nay, năm 1998.
17. tạp chí ngân hàng năm 1998.
18. tạp chí công nghiệp nặng, năm 1998.
19. tạp chí cộng sản năm 1998.
20. tạp chí xây dựng năm1998.
21. tạp chí ngoại thương năm1998.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0048.doc