Những hạn chế đó cần phải có các giải pháp để khắc phục như đổi mới phương thức đầu tư, đổi mới cơ cấu đầu tư, giải pháp tạo vốn, tăng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn, và không thể thiếu được vai trò quản lý của Nhà nước trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư.
Với những giải pháp đó phần nào giúp nông nghiệp vượt qua những khó khăn, hạn chế, phát huy lợi thế so sánh, mở ra triển vọng mới về tăng trưởng kinh tế nông thôn nước ta những năm tới.
44 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1627 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp năm 1996 (theo giá so sánh) là14,5%, năm 1997 là 12,6%, năm 1998 là 8,3% và năm 1999 là 7,7%, năm 2000 là 10,1%. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp trong 5 năm tương ứng là 4,4%, 4,35%, 3,5%, 5,2%, 4,6%. Công nghiệp nông thôn và ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp tiếp tục phát triển và mở rộng, nhất là ở các vùng nông thôn ngoại ô thành phố, thị xã, khu công nghiệp, khu chế xuất gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ảnh hưởng rõ nhất là vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
Trong ngành nông nghiệp, cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi trong nhiều thập kỷ qua vẫn giữ tỷ lệ 78%/18%, song trong những năm gần đây đã có thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng trồng trọt và tăng tỷ trọng chăn nuôi, trong khi giá trị tuyệt đối của mỗi ngành đều tăng.
Bảng 6: Cơ cấu trồng trọt – chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp 1997- 2002
Đơn vị : %
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Toàn ngành
100
100
100
100
100
100
Trồng trọt
77,9
79,7
79,2
78,2
77,8
77,7
Chăn nuôi
19,4
17,8
18,5
19,3
19,5
19,7
Trong ngành trồng trọt, cơ cấu cây trồng đã có sự chuyển biến theo hướng đa dạng hoá cây trồng, xoá dần tính độc canh cây lương thực để tăng hiệu quả sử dụng đất. Trong ngành chăn nuôi đã có sự thay đổi trong cơ cấu đàn gia súc và gia cầm theo hướng tăng số lượng và tỷ trọng gia súc nuôi lấy thịt, sữa, giảm gia súc cày, kéo. Trong ngành thuỷ sản, chuyển từ đánh bắt sang nuôi trồng.
2. Những hạn chế trong đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn
Bên cạnh những thành tựu to lớn và cơ bản đã đạt được trong thời gian qua, đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam còn nhiều nhược điểm, hạn chế và xuất hiện những mâu thuẫn mới.
2.1. Nông nghiệp chưa phát triển hết tiềm năng và có nguy cơ ngày càng tụt hậu so với công nghiệp.
Nông nghiệp Việt Nam được phát triển trên nền tảng của một xã hội chủ yếu là sản xuất lâu đời, có truyền thống và kinh nghiệm. Nông nghiệp có điều kiện thuận lợi để phát triển: khí hậu nhiệt đới gió mùa, đất đai phì nhiêu màu mỡ, diện tích mặt nước lớn, lao động dồi dào, có kinh nghiệm truyền thống, quỹ thời gian lớn... Với những thuận lợi như vậy nông nghiệp có khả năng tăng trưởng cao. Song với yêu cầu và tiềm năng, cũng như vị trí của nông nghiệp và nông thôn trong nền kinh tế quốc dân, sự tăng lên của nông nghiệp trong thời gian qua chưa đáp ứng được. Nông nghiệp vẫn tăng trưởng chậm và có nguy cơ ngày càng tụt hậu so với khu vực và thế giới.
Bảng 7: Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp và nông nghiệp Việt Nam trong những năm 1996 – 2001 (theo GDP)
Đơn vị tính: %
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Nông, lâm nghiệp
và thuỷ sản
4,4
4,3
3,5
5,2
4,6
2,8
Công nghiêp – Xây dựng
14,5
12,6
8,3
7,6
10,7
10,3
Dịch vụ
8,8
7,1
5,0
4,2
5,2
6,1
Tốc độ phát triển của nông nghiệp khoảng 4 – 5%, năm 1996 là 4,4%; năm 1997 là 2000 là 5,4%; năm 2001 là 2,6%; năm 2002 là 6,1% và năm 2003 là 4,1% là còn thấp so với yêu cầu.
Bảng 8: Cơ cấu GDP của công nghiệp và nông nghiệp Việt Nam thời kỳ
1996 – 2001
Đơn vị tính: %
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Nông, lâm nghiệp
và thuỷ sản
27,8
25,7
25,8
25,4
24,5
23,6
Công nghiêp – Xây dựng
29,7
32,1
32,5
34,5
36,7
37,8
Dịch vụ
42,5
42,2
41,7
40,1
38,8
38,6
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm từ 27,8% năm 1996 xuống còn 24,5% năm 2000 và 23,6% năm 2001 nhưng giá trị tuyệt đối (theo giá hiện hành) vẫn tăng lên từ 75,5 nghìn tỷ đồng lên 114,4% năm 2001 là xu hướng tiến bộ, phù hợp với quy luật. Nhưng về tốc độ phát triển giữa công nghiệp và nông nghiệp chênh lệch nhau lớn. Theo kinh nghiệm thế giới, tốc độ phát triển nông nghiệp ở các nước đang phát triển khoảng 4 – 5% và công nghiệp tăng 10%, hệ số chênh lệch khoảng từ 2 đến 2,2% là hợp lý, còn nếu chênh lệch này ở cao hơn sẽ dẫn đến sự tụt hậu của nông nghiệp so với công nghiệp, nông thôn so với thành thị. Trong khi đó hệ số chênh lệch này ở Việt Nam là 3 lần (1997) và 3,6 lần (2001). Khoảng cách khá xa về tốc độ tăng trưởng giữa công nghiệp và nông nghiệp ở Việt Nam những năm qua làm cho nông nghiệp vốn đã lạc hậu lại càng tụt hậu xa hơn so với công nghiệp và dịch vụ.
2.2. Sản phẩm nông sản hàng hoá:
Chất lượng thấp, chi phí cao, vệ sinh an toàn thực phẩm thấp, quy cách mẫu mã không phù hợp thị hiếu người tiêu dùng... Do vậy mà sức cạnh tranh còn hạn chế trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Nhược điểm này thể hiện rõ trên tất cả các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi, trong đó rõ nét nhất là: chất lượng còn thấp, chi phí cao, chủng loại đơn điệu, vệ sinh an toàn thực phẩm thấp, quy cách và mẫu mã không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Ví dụ cụ thể: lúa gạo là nông sản chủ yếu, tốc độ tăng trưởng rất nhanh nhưng chất lượng lại chưa cao. Tỷ trọng các loại gạo chất lượng thấp còn lớn (trên 60%) và không giảm, gạo có chất lượng cao chiếm tỷ lệ bé và tăng chậm. Đối với gạo xuất khẩu, gạo hạt dài, thơm ngon, không bạc bụng vẫn còn chiếm tỷ trọng khiêm tốn, nên giá trị xuất khẩu vân thấp hơn gạo Thái Lan cùng loại. Cà phê cũng trong tình trạng tương tự, chủ yếu là cà phê vối, trong khi thị trường cần cà phê chè. Thêm vào đó, tỷ trọng nông sản qua chế biến công nghiệp lại rất thấp và tăng chậm: chè 55%, rau quả 5%, thịt 1%, tổn thất sau thu hoạch còn lớn, nông sản xuất khẩu chủ yếu vẫn ở dạng sơ chế.
Nguyên nhân của hạn chế trên là do chưa có sự chú trọng đầu tư trong khâu sản xuất theo tiêu chuẩn công nghiệp, nuôi trồng vẫn mang tính chất nhỏ lẻ, cá thể do vậy mà chất lượng không đồng đều, khó thu mua… và điều đáng quan tâm là khâu sử dụng công nghệ sau thu hoạch còn chưa được chú trọng. Vì vậy mà nông sản hàng hoá của nước ta chủ yếu vẫn ở dạng sơ chế, chưa phải là sản phẩm tiêu dùng ngay nên gía bán xuất khẩu thấp, thấp hơn nhiều so với những nước xuất khẩu hàng hoá cùng loại, bị mất thị trường ngay cả thị trường trong nước.
2.3. Cơ sở hạ tầng nông thôn đã được mở rộng nhưng vẫn còn nhiều bất cập đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
Bên cạnh những kết quả khả quan, điện khí hoá nông thôn vẫn còn những vấn đề đáng lưu ý là: miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn là những nơi còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ xã có điện còn thấp: vùng Tây Nguyên 75,5%, Tây Bắc 62,6%, các tỉnh Hà Giang 58,4%, Lào Cai 64,6%, Lai Châu 35,5%, Sơn La 65,1%. Số hộ dùng điện ở một số địa phương còn thấp: Hà Giang 36,5%, Lai Châu 28%, Gia Lai 44,8%, Trà Vinh 40,6%, Sóc Trăng 43,8%, Bạc Liêu, Cà Mau dưới 30%. Nhìn chung giá điện nông thôn còn cao. Đến nay còn nhiều tỉnh có giá điện cao hơn700 đồng 1 kwh: Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, , An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng…
Đường giao thông tiếp tục được xây dựng, nâng cấp và hoàn thiện. Tuy nhiên vẫn còn một số xã vùng cao chưa có đường ô tô đến trung tâm, đi lại khó khăn. Lai Châu có 33 xã (23,4%), Sơn La 28 xã (14,8%), Quảng Nam 29 xã (14,0%). Vùng đồng bằng sông Cửu Long do sông ngòi chằng chịt, nên tỷ lệ xã chưa có đường ô tô còn khá cao: Vĩnh Long 37,2%, Sóc Trăng 33,3%, Đồng Tháp 29,2%, Cần Thơ 26,5%, Cà Mau 69,7%, Bạc Liêu 34,2%.
Hệ thống y tế, số bác sĩ rên một trạm y tế ở các tỉnh miền núi đạt thấp. Tỷ lệ bác sĩ trên một trạm y tế ở Lào Cai 0,08; Lai Châu 0,03; Hà Giang 0,11; Cao Bằng 0,02; Bắc Cạn 0,1; Sơn La 0,12; Kon Tum 0,08.
Số trường học ở miền núi tăng hơn trước nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn: số trường học các cấp bằng thanh tre, nứa lá vẫn còn: cấp tiểu học 5,5%, cấp trung học cơ sở 4,2%, cấp trung học phổ thông chỉ có 1,8%. Số trường học tăng hơn nhưng cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục thì còn nghèo nàn: đèn điện, bàn ghế, bảng…
Công tác thuỷ lợi được chú trọng phát triển trong cả nước, tuy nhiên phong trào thuỷ lợi phát triển không đồng đều, nhiều địa phương diện tích lúa chưa chủ động tưới tiêu và còn chiếm tỷ trọng lớn (Tây Bắc 75,9%; Lai Châu 90,2%; Tây Nguyên 70,4%; Bình Phước 91,7%; Bến Tre 54,4%).
Cơ giới hoá nông nghiệp nông thôn phát triển chưa đều. Máy móc đã được đưa vào sản xuất nông nghiệp ngày càng nhiều: cày, bừa, gặt… Tuy nhiên tốc độ cơ giới hóa nhanh chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, còn ở rất nhiều nơi khác vẫn sử dụng phần nhiều sức người và sức kéo.
Trong những năm qua, Nhà nước đã có nhiều hướng đầu tư chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Tuy nhiên hiệu quả còn thấp nguyên nhân là do vốn đầu tư của Nhà nước còn hạn chế trong khi đó quy hoạch đầu tư còn chưa rõ ràng. Thêm vào đó đầu tư còn mang tính chất dàn trải, thiếu đồng bộ, khâu kiểm tra, giám sát còn yếu để thất thoát một lượng vốn đầu tư lớn của Nhà nước cho cơ sở hạ tầng. Để nông nghiệp nông thôn có thể phát triển thì trong thời gian tới cả nước phải chú trọng hơn nữa trong công tác đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn.
2.4. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hiện nay còn nhiều bất cập
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn đã dịch chuyển theo hướng tiến bộ: giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng lâm nghiệp và thuỷ sản; giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi. Tuy nhiên, những bất cập trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn còn nhiều và rõ nét, đã và đang hạn chế quy mô và tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn:
2.4.1. Cơ cấu kinh tế nông thôn vẫn mang nặng tính thuần nông
Theo kết quả điều tra nông nghiệp nông thôn và thuỷ sản năm 2001 do Tổng cục Thống kế công bố tháng 4/2002 đến nay, khu vực nông thôn cơ 13,2 triệu hộ, trong đó 79,8% số hộ làm việc trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, chỉ có 17% số hộ làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, cơ cấu ngành nghề của hộ nông dân chuyển dịch rất chậm: giảm 0,8% số hộ và lao động khu vực công nghiệp, bình quân 0,11%/năm. Sự bất hợp lý này còn thể hiện ở các chỉ tiêu khác: Cho đến nay 78,6% số hộ nông thôn vẫn lấy nguồn thu nhập chính từ các hoạt động nông nghiệp.
2.4.2. Cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chuyển dịch chậm và không đều
Nhược điểm này thể hiện rõ nét ở cơ cấu sản xuất trong nội bộ khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.
Bảng 9: Cơ cấu GDP khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm
1996 – 2002 (Giá thực tế)
Đơn vị tính
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng GDP khu vực
Tỷ lệ
Tỷ đồng
%
75.510
100,0
80.826
100,0
93.073
100,0
101.723
100,0
108.356
100,0
114.412
100,0
123.268
100,0
GDP nông nghiệp
Tỷ lệ
Tỷ đồng
%
61.048
80,8
65.883
81,5
76.170
81,7
83.335
81,9
87.573
80,8
91.687
80,4
96.428
78,3
GDP lâm nghiệp
Tỷ lệ
Tỷ đồng
%
4.695
6,2
4.813
5,4
5.304
5,7
5.737
5,6
5.913
5,5
6.080
5,3
6.500
5,2
GDP thuỷ sản
Tỷ lệ
Tỷ đồng
%
4.771
13,0
10.130
12,6
11.598
12,6
12.651
12,5
16.906
13,7
16.645
14,6
20.340
16,5
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản vẫn giao động trong khoảng từ 80,5% đến 81%. Tỷ trọng lâm nghiệp giảm dần từ 6,2% năm 1996 đến 4,1% năm 2002. Tỷ trọng ngành thuỷ sản tuy có tăng dần nhưng xu hướng chưa ổn định, tính vững chắc chưa cao; năm 2000=13,7%; năm 2001 = 14,6%; năm 2002 còn 13,9%.
2.4.3. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cung, tự cấp, tự túc, phân tán, quy mô nhỏ
Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành sản xuất chính của nông nghiệp theo nghĩa hẹp. Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất hai ngành này là tăng nhanh tỷ trọng ngành chăn nuôi và giảm tỷ trọng ngành trồng trọt với điều kiện giá trị tuyệt đối mỗi ngành đều tăng dần qua các năm. Nhưng trên thực tế, chăn nuôi vẫn còn là một ngành phụ, tỷ trọng đạt mức dưới 20%. Sự bất cập giữa chăn nuôi và trồng trọt trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã kéo dài nhiều năm và là nhược điểm lớn của nông nghiệp nước ta. Sản phẩm chăn nuôi do các trang trại tạo ra chiếm chưa đến 10% tổng sản phẩm toàn ngành, 90% còn lại do các hộ nông dân cung cấp theo phương pháp chăn nuôi truyền thống với quy mô nhỏ lẻ, tận dụng sản phẩm phụ của trồng trọt là chính, lấy công làm lãi. Do vậy chất lượng và chủng loại sản phẩm chăn nuôi hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, phục vụ nhu cầu tại chỗ là chủ yếu.
Những bất cập trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn có nguyên nhân do cơ cấu đầu tư, phương pháp đầu tư không hợp lý, đầu tư không hiệu quả. Những bất cập đó cần phải được giải quyết để phát triển nông nghiệp đạt kết quả tương xứng với yêu cầu và khả năng thực tế.
Ngoài những bất cập trên, đầu tư trong nông nghiệp nông thôn còn những hạn chế như: Công nghệ trong nông nghiệp còn lạc hậu, vẫn sử dụng nhiều bằng lao động chân tay, sức gia súc: trâu, bò. Số lượng máy móc dùng trong nông nghiệp còn hạn chế. Công nghệ sử dụng trong sản xuất nông nghiệp còn ít đặc biệt là công nghệ dùng cho thu hoạch, sau thu hoạch nhất là công nghệ bảo quản và chế biến nông, lâm, thuỷ sản chưa đáp ứng yêu cầu cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Những hạn chế này cũng có nguyên nhân từ việc đầu tư chưa thoả đáng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
3. Nguyên nhân của những hạn chế về đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta trong thời gian qua
Nhờ có đầu tư mà nông nghiệp nông thôn đã có những bước tiến vượt bậc. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều vấn đề đặt ra cần được giải quyết: sản phẩm nông sản hàng hoá khả năng cạnh tranh trên thị trường kém, công nghệ sử dụng còn lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn hạn chế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm… Nguyên nhân của những hạn chế đó là:
Thứ nhất, vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn còn thấp so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Điều này thể hiện rõ ở tất cả các nguồn vốn.
Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước : tăng về số lượng nhưng giảm về tỷ trọng, mức độ tăng còn hạn chế và chưa đều. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn yêu cầu phát triển nông nghiệp hàng hoá ngày càng cao, trong khi đó tỷ trọng đầu tư vốn ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp lại giảm dần: 11% năm 1997 giảm xuống còn 9,9% năm 2001. Tổng chi ngân sách Nhà nước bình quân khoảng 8 tỷ đồng.
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều Nghị quyết về nông nghiệp, nông thôn trong đó nhấn mạnh: “tăng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn , trước hết tập trung đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn…”“khuyến khích nhân dân và các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư… mở rộng tín dụng và tăng dần vốn vay trung và dài hạn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn”. Nhưng thực tế tỷ trọng đầu tư cho khu vực này giảm liên tục trong những năm qua là một nghịch lý. Đối chiếu với học thuyết kinh tế về mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng 4 – 4,5% giá trị tăng thêm (GDP/ năm) thì tỷ trọng đầu tư không những tăng tương ứng mà còn giảm liên tục. Điều này còn mâu thuẫn với học thuyết trao đổi ngang giá trong tái sản xuất xã hội: tỷ trọng đầu tư cho mỗi ngành phải tương ứng với tỷ trọng đóng góp của ngành đó trong GDP. Theo Tổng cục thống kê, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP theo giá thực tế những năm qua như sau: năm 1996 = 27,8%; năm 1997 = 25,8%; năm 1998 = 25,8%; năm 1999 = 25,4%; năm 2000 = 24,5%; năm 2001 = 23,6%; năm 2002 = 23,8%. Trong khi đó, tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn từ ngân sách Trung ương chưa năm nào đạt 10% kể từ năm 1996 đến nay. Đó cũng là một nguyên nhân quan trọng, nếu không muốn nói là quyết định làm cho tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp còn thấp và không ổn định.
Vốn Nhà nước thiếu, trong khi đó vốn tự có của các doanh nghiệp và hộ gia đình nông thôn tuy có nhiều hơn trước nhưng vẫn còn hạn chế vì nói chung nông dân còn nghèo, thu nhập và tích luỹ thấp. Theo kết quả tổng điều tra của Tổng cục Thống kê năm, bình quân một hộ nông dân tích luỹ 1 năm 3,1 triệu đồng. Với mức tích luỹ đó, khả năng đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn còn rất hạn chế. Tình hình tương tự cũng diễn ra đối với các doanh nghiệp và các chủ trang trại. Thu nhập bình quân của một chủ trang trại 1 năm chỉ có 31,4 triệu đồng, mức tích luỹ khoảng 20 triệu đồng, nên mức đầu tư phát triển sản xuất còn thấp hơn.
Trong khi nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế còn hạn chế, thu hút vốn từ bên ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn lại càng khó khăn. Đến năm 2002 cả nước có 455 dự án với số vốn đăng ký khoảng 2,3 tỷ USD đầu tư vào nông nghiệp, chiếm 6% vốn FDI đang hoạt động ở nước ta. Nhìn chung, các dự án FDI đầu tư vào nông nghiệp vừa ít về số lượng, vừa nhỏ về quy mô và điều quan trọng là hoạt động kém hiệu quả. Đã có 37 dự án đã giải thể với số vốn 146 triệu USD. Những dự án còn hoạt động cũng đã bộc lộ nhiều mặt yếu kém và có nguy cơ thua lỗ. Công ty liên doanh Thanh Sơn, nuôi, lai tạo giống bò sữa và chế biến thức ăn gia súc với tổng số vốn đầu tư 5 triệu USD sau hai năm rưỡi hoạt động đã thua lỗ 3,1 triệu USD, bằng 75,6% vốn pháp định. Theo đánh giá chung của giới chuyên môn, hiện chỉ có 61% dự án trong lĩnh vực này tạm gọi là có hiệu quả ở mức độ thấp, 39% còn lại được coi là có vấn đề hoặc thua lỗ. Chính vì vậy, sức hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn rất thấp, lại có xu hướng giảm dần.
Thứ hai, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý: Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn đã thấp so với yêu cầu, thì cơ cấu đầu tư lại chậm đổi mới theo hướng sản xuất hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Trong khi tập trung 82% vốn ngân sách đầu tư cho nông nghiệp, thuỷ lợi và phát triển nông thôn thì chỉ có 9 – 10% chi cho lâm nghiệp; 4,8% đến 6,2% chi cho thuỷ sản là chưa hợp lý. Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu và lao động nông thôn là giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng lâm nghiệp và thuỷ sản trong cơ cấu nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, xoá bỏ tính thuần nông và độc canh lúa ở nước ta. Thực tế cơ cấu đầu tư lại không phù hợp với yêu cầu đó, chưa tương xứng với lợi thế và tiềm năng rừng, biển nước ta. Điều bất hợp lý nhất là vốn Ngân sách đầu tư cho lâm nghiệp giảm từ 10,1% thời kỳ 1996 – 2000 xuống còn 9,2% năm 2001 đã làm cho cơ sở vật chất, kỹ thuật ngành này vốn đã yếu càng bất cập với yêu cầu phát triển và tái tạo vốn rừng theo hướng bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường đất, nước, điều hoà khí hậu, phòng hộ. Vì thế suất đầu tư cho lâm sinh quá thấp, chưa tạo được động lực tinh thần cho các hộ nhận khoán rừng và đất rừng để khoanh nuôi, bảo vệ và trồng rừng. Hậu quả là sản xuất lâm nghiệp, nhất là lâm sinh trong những năm qua không phát triển theo chiều rộng cũng như chiều sâu. Chủ chương chuyển lao động từ nông nghiệp sang lâm nghiệp trên thực tế đã không đạt được sự hấp dẫn. Số hộ nông dân sống vào nghề rừng, muốn làm giàu từ rừng còn quá ít so với yêu cầu và khả năng. Theo kết quả tổng điều tra, cả nước chỉ có 23.995 hộ lâm nghiệp, chiếm tỷ lệ 0,2% tổng số hộ nông thôn... Số trang trại lâm nghiệp cả nước chỉ có 1.630 cái, chiếm tỷ lệ 2,7% số trang trại cả nước. Thu nhập và lợi nhuận của hộ và trang trại lâm nghiệp còn thấp nên chưa tạo được sức hút cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực này.
Quy luật đầu tư ít, tăng trưởng thấp đã và đang được chứng minh trong đầu tư phát triên làng nghề ở nước ta hiện nay. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách cho làng nghề hơn chục tỷ đồng, chủ yếu dưới dạng đào tạo nghề. Song sự đầu tư đó là quá ít vì phát triển làng nghề trong điều kiện hiện nay có hàng loạt yêu cầu phải đầu tư như: cơ sở hạ tầng, máy móc, thiết bị và công nghệ mới, mặt bằng sản xuất, thông tin thị trường trong và ngoài nước, triển lãm, quảng cáo, hội chợ, sử dụng nghệ nhân, bố trí, sắp xếp việc làm cho lao động sau khi đào tạo nghề, tổ chức quản lý các làng nghề... yêu cầu nào cũng cần có vốn. Do vậy mà các làng nghề vẫn chưa phát huy hết khả năng của mình, giá trị sản xuất của ngành còn hạn chế, sản phẩm kém chất lượng, mẫu mã không đẹp, không đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng.
Sự bất hợp lý trong cơ cấu đầu tư còn thể hiện rõ nét trong các mặt khác: Tỷ lệ đầu tư cho khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn thấp nên chưa khơi dậy tiềm năng chất xám của các nhà khoa học, nhà quản lý và của hộ nông dân trong sản xuất hàng hoá. Đầu tư cho nghiên cứu lai tạo và phổ cập giống cây, con chất lượng cao, chi phí thấp để tăng sức cạnh tranh của nông sản nước ta trên thị trường trong nước và quốc tế có ý nghĩa quyết định đối với tăng trưởng bền vững, nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Tỷ lệ dưới 1% vốn đầu tư cho các hoạt động khuyến lâm, khuyến nông, khuyến ngư và các hoạt động nghiên cứu khoa học có liên quan là chưa hợp lý.
Thứ ba, việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước về thu hút đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn nhiều bất cập
Lấy việc sản xuất trang trại làm ví dụ cụ thể. Mặc dù Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và các bộ ngành có liên quan đã có thông tư hướng dẫn các đơn vị cơ sở và chính quyền địa phương phối hợp để giải quyết nhanh gọn, đơn giản các thủ tục đầu tư, cho vay, hỗ trợ vốn cho các chủ trang trại. Thế nhưng chủ trương và thông tư vẫn dừng lại ở các cơ quan công quyền nhiều hơn là đi vào cuộc sống. Cho đến nay, số tiền các ngân hàng thương mại cho các trang trại vay còn rất khiêm tốn. Theo kết quả điều tra 60.758 trang trại năm 2001 thì tổng số tiền vay ngân hàng của toàn bộ trang trại là 1.096,8 tỷ đồng, chiếm 13,2% tổng số vốn đầu tư của các trang trại, bình quân 18,1 triệu đồng/1 trang trại.
Trong lĩnh vực tài chính, việc ban hành thông tư hướng dẫn tính thuế thu nhập đối với các chủ trang trại có thu nhập cao không những thiếu tính khả thi mà còn gây tâm lý bất ổn đối với hầu hết các chủ trang trại. Hậu quả là nhiều chủ trang trại không dám đầu tư vốn để mở rộng quy mô sản xuất. Bộ Tài chính tuy có Thông tư đề cập đến vấn đề ưu đãi thuế sử dụng đất, về vốn đầu tư, bão lãnh tín dụng, tín dụng đầu tư phát triển, tham gia các chương trình dự án, hợp tác, xây dựng các cơ sở chế biến nông sản tập trung, chuyên canh phát triển trang trại song kết quả cho đến nay vẫn còn rất hạn chế. Nguyên nhân, sau Thông tư, Bộ Tài chính chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể để các ngành, các địa phương và trang trại vận dụng.
Do vậy sự hấp dẫn của các doanh nghiệp, các hộ nông dân đầu tư vốn phát triển trang trại còn quá ít và không đều. Thiếu vốn vẫn là khó khăn lớn của các trang trại thuộc mọi ngành, mọi địa phương nhưng chưa tiếp cận được nguồn vốn của Nhà nước thông qua hệ thống tài chính ngân hàng.
Bên cạnh nguồn vốn trong nước, nông nghiệp, nông thôn nước ta còn được hỗ trợ của nguồn vốn ngoài nước thông qua các chương trình, dự án lớn, nhỏ. Tuy nhiên, vấn đề tồn tại hiện nay là kết quả và hiệu quả sử dụng nguồn vốn đó còn thấp nên chưa thu hút được sự quan tâm đúng mức của các tổ chức quốc tế, các quốc gia có thiện chí viện trợ, cho vay vốn ưu đãi để phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Nhược điểm của vấn đề này là sự yếu kém trong công tác quản lý dẫn đến sự không thống nhất trong quản lý và sử dụng nguồn kinh phí của các dự án quốc tế và quốc gia trong phát triển nông nghiệp, nông thôn những năm qua và hiện nay đã và đang làm cho hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án thấp, làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ cũng như của các hộ nông dân vùng có dự án.
Thứ tư, trong khi vốn đầu tư còn hạn chế thì hiệu quả sử dụng vốn thấp, lãng phí do đầu tư không trọng điểm, phân tán, dàn đều và thiếu đồng bộ
Tỷ trọng vốn đầu tư cho khoa học, kỹ thuật phục vụ nông nghiệp còn thấp nên chưa khơi dậy những tiềm năng chất xám để tăng trưởng nông nghiệp với nhịp độ ổn định và cao hơn. Trong vấn đề này, đầu tư cho việc nghiên cứu, lai tạo và nhập nội giống cây con, năng suất và chất lượng tốt là rất quan trọng nhưng chưa được đầu tư thoả đáng.
Nhiều chương trình, dự án đầu tư hiệu quả thấp, còn mang tính phong trào, như đầu tư phát triển dâu tằm giai đoạn 1991 –1995, phát triển mía đường, chế biến nước quả cô đặc... giai đoạn 1996 –2000. Đặc biệt là chương trình mía đường lan tràn khắp nơi, địa phương nào cũng xây dựng 1-2 nhà máy đường, ít quan tâm đầu tư xây đựng nguồn nguyên liệu... Hậu quả là người nông dân phá bỏ diện tích trồng dâu, trông mía để trồng các cây khác. Nhà nước phải cấp bù ngân sách cho miễn giảm thuế, bù lỗ và hỗ trợ cho các ngân hàng để khoanh nợ, treo nợ, dãn nợ nhiều nghìn tỷ đồng cho các chương trình dự án có tính phong trào này.
Thứ năm, việc vay vốn tín dụng ngân hàng cho đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Do đặc thù của khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân mà ở rất nhiều nước đều thực thi chính sách tín dụng ưu đãi đối với khu vực này, với mục tiêu trực diện là hỗ trợ một phần vốn để nông dân có điều kiện mở rộng sản xuất và thâm canh. Việc cung cấp tín dụng ưu đãi cho hộ nông dân, đặc biệt là các hộ nông dân nghèo thiếu vốn sản xuất có ý nghĩa to lớn trong việc giúp họ vươn lên thoát nghèo. Có thể nói chính sách cung cấp vốn tín dụng ưu đãi là một chính sách tài chính trợ giúp cho nông nghiệp nông thôn có hiệu quả về kinh tế và xã hội.
Nhưng trên thực tế lượng vốn tín dụng mà nông dân được vay còn rất hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn cho hộ nông dân. Cho đến nay, số tiền các ngân hàng thương mại cho các trang trại vay còn rất khiêm tốn. Theo kết quả điều tra 60.758 trang trại năm 2001 thì tổng số tiền vay ngân hàng của toàn bộ trang trại là 1.096,8 tỷ đồng, chiếm 13,2% tổng số vốn đầu tư của các trang trại, bình quân 18,1 triệu đồng/1 trang trại. Nguyên nhân do thủ tục vay vốn còn nhiêu khê. Thực tế trên đây cho thấy, ngành Ngân hàng chưa thực sự chuyển mình theo sự phát triển của kinh tế trang trại. Giữa ngân hàng và chủ trang trại chưa xây dựng được niềm tin lẫn nhau. Vai trò của Nhà nước trong việc giải toả những khó khăn của ngân hàng và trang trại về thủ tục và vay vốn còn mờ nhạt.
Ngoài những nguyên nhân trên còn rất nhiều nguyên nhân hạn chế sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn ở nước ta như: chú trọng quá nhiều cho đầu tư theo chiều rộng hơn là đầu tư theo chiều sâu...
Những tồn tại đề cập trên đây cần được khẩn trương nghiên cứu khắc phục. Như Thủ tướng Phan Văn Khải đã nói tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kỳ 2002 – 2007: Từ nay trở đi phải soát xét rất kỹ về đầu tư. Chúng ta đã có những bài học đau xót về sự ấu trĩ trong đầu tư, không mang lại hiệu quả kinh tế. Từng bộ ngành phải soát xét lại cách đầu tư, bảo đảm đầu tư tập trung, đúng hướng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh, tạo việc làm cho người lao động. Đây cũng là yêu cầu và định hướng của các giải pháp chủ yếu để khắc phục tồn tại, đổi mới chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời gian tới.
Phần III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra trong đầu tư cho nông nghiệp nông thôn nước ta trong thời gian qua, có thể đưa ra một số giải pháp cho vấn đề này trong thời gian tới như sau:
1. Trước hết, cần nhận thức rõ về vai trò, vị trí của nông nghiệp, nông thôn nước ta trong giai đoạn mới
Quan điểm và nhận thức mới phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nước ta trong thế kỷ XXI do đại hội IX của Đảng đề ra, trong đó khẳng định vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Những chủ trương và giải pháp lớn nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010, đã được khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, với mục tiêu tổng quát là phát triển nông nghiệp hàng hoá lớn, hiệu quả và bền vững, có sức cạnh tranh cao, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý...
Xuất phát từ quan điểm của Đảng, trong những năm tới, các ngành, các cấp, từ Trung ương đến địa phương và cơ sở cần tập trung cao độ sức lực, trí tuệ, cơ sở vật chất – kỹ thuật để tạo ra bước đột biến trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và thế giới. Đây là bước khởi đầu để biến nông nghiệp tự cấp, tự túc, kinh tế nông thôn thuần nông thành nông nghiệp thương phẩm kinh tế nông thôn đa ngành. Thực chất đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Từ đổi mới quan điểm và nhận thức, các ngành chức năng ở Trung ương cần nghiên cứu, hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách vĩ mô nhằm tạo ra động lực tinh thần và tiền đề vật chất cho bước đột phá trong nông nghiệp, nông thôn. Một trong những chính sách cơ bản có ý nghĩa quyết định là đầu tư vốn từ ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực này cần được nghiên cứu và hoàn thiện theo yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quan điểm đầu tư cho nông nghiệp trước đây chỉ giới hạn trong phạm vi thuỷ lợi, khai hoàng, quốc doanh nông nghiệp và một vài lĩnh vực phục vụ sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc. Quan điểm hiện nay đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn với phạm vi rộng hơn: Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản và kinh tế – xã hội nông thôn. Tính chất, phương pháp, mục tiêu cũng khác. Đó là sản xuất hàng hoá và phát triển kinh tế – xã hội nông thôn toàn diện, trong đó, có một số nội dung mới là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn; phương pháp đầu tư chiều sâu là chủ yếu...
2. Đổi mới cơ cấu vốn đầu tư
Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi một mặt làm tăng vốn đầu tư cả về lượng tuyệt đối và tỷ trọng, mặt khác phải đổi mới cơ cấu vốn đầu tư. Nội dung đổi mới là: Tăng số lượng và tỷ trọng vốn đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp (cả lâm nghiệp và thuỷ sản) hàng hoá có chất lượng cao, chi phí thấp, tăng sức cạnh tranh trên thị trường và phát triển kinh tế nông thôn toàn diện có cơ cấu hợp lý: Nông nghiệp – công nghiệp và dịch vụ. Chú trọng ưu tiên cho tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nông thôn.
Trong nông nghiệp: ưu tiên vốn đầu tư cho các vùng trọng điểm sản xuất nông sản hàng hoá tập trung có chất lượng cao nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, nâng cao giá trị xuất khẩu gạo, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và xuất khẩu. Khắc phục tình trạng đầu tư dàn đều, phân tán, tự sản, tự tiêu, xu hướng tự túc lương thực bằng mọi giá và tự phát không theo quy hoạch của Nhà nước. Đầu tư thoả đáng cho chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng sản xuất hàng hoá, quy mô lớn, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, chế biến sản phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Dành vốn thoả đáng đầu tư vào khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới, nhất là giống cây, con, thuỷ lợi, phân bón, bảo vệ thực vật, thú y, khuyến nông để đưa nhanh tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp hàng hoá với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Giải pháp khuyến khích đầu tư phải phù hợp với quy hoạch, định hướng của Nhà nước về từng loại ngành, sản phẩm nông nghiệp đã được khẳng định trong Quyết định số 09 của Chính phủ. Đổi mới cơ cấu đầu tư nhất thiết phải phục vụ yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong lâm nghiệp: khắc phục xu hướng giảm sút tỷ trọng vốn đầu tư ngân sách trong những năm qua, đảm bảo đủ vốn để tái tạo và bảo vệ rừng hiện có. Cơ cấu vốn đầu tư cho lâm nghiệp trong những năm tới cần ưu tiên thoả đáng cho chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng. Muốn vậy, vấn đề quan trọng là các ngành có liên quan ở Trung ương cần rà soát và điều chỉnh định mức đầu tư cho trồng rừng, bảo vệ và chăm sóc rừng theo hướng khắc phục những bất hợp lý kéo dài đã được phát hiện ở các địa phương và cơ sở. Việc tăng suất đầu tư trồng mới cây rừng, cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả cũng như chăm sóc, bảo vệ rừng là cần thiết. Đối với đầu tư cho rừng nguyên liệu giấy cần được rà soát và bổ sung phù hợp với quy hoạch các nhà máy giấy trong những năm tới, khắc phục bằng được các mâu thuẫn hiện nay ở một số địa phương.
Trong thuỷ sản: Cơ cấu đầu tư cho ngành này tất yếu phải ưu tiên cho lĩnh vưc nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn, nhất là nuôi tôm theo phương thức tiến bộ, hiệu quả và bền vững môi trường. Nguồn vốn của Nhà nước và cơ chế, chính sách thu hút vốn của doanh nghiệp, hộ ngư dân, nông dân và đầu tư nước ngoài cần hướng vào các ngành, vùng sản phẩm đã qui hoạch của Nhà nước. Hạn chế đầu tư tự phát, không theo quy hoạch của dân cư, nhất là vùng bán đảo Cà Mau. Đối với khai thác thuỷ sản, đầu tư hỗ trợ chương trình đánh bắt xa bờ là cần thiết song cần tính toán lại để nâng cao hiệu quả, thu hồi vốn nhanh và tăng nhanh sản phẩm cho nhu cầu chế biến, xuất khẩu thuỷ sản.
Đối với các hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản nội địa, nhất là hình thức nuôi cá bè, cá lồng, cá ruộng của dân cư, Nhà nước cần đầu tư hỗ trợ vốn để nâng cấp cơ sở hạ tầng, cơ sở chế biến, ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, mở rộng thị trường xuất khẩu (nhất là cá tra, cá basa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long), đào tạo cán bộ, công nhân lành nghề...
Một hướng mới trong đầu tư cho nông thôn là ưu tiên thoả đáng cho xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn: Điện, đường giao thông, hệ thống kênh mương. Các trung tâm cụm xã, điểm bưu điện văn hoá xã, đào tạo cán bộ quản lý hợp tác xã, công nhân kỹ thuật, chủ trang trại, trường học, trạm y tế, nước sạch và chợ nông thôn. Đây là nội dung đầu tư quan trọng để phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nông nghiệp, nông thôn và phân công lại lao động nông thôn theo hướng tiến bộ. Vai trò của kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nông thôn có ý nghĩa nhiều mặt, cả kinh tế – xã hội và môi trường, nên cần được quan tâm đầu tư thoả đáng. Để khuyến khích đầu tư vào khu vực này, trước hết Nhà nước cần bố trí thoả đáng nguồn vốn từ ngân sách cho các chương trình, dự án, mục tiêu trọng điểm, đồng thời có cơ chế, chính sách thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách, nhất là vốn trong dân theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Bài học kinh nghiệm về chương trình “giao thông nông thôn, kiên cố hoá kênh mương, nước sạch nông thôn...” đã chứng minh rằng phương châm trên là đúng đắn và cần được tiếp tục phát huy trong mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Cơ cấu đầu tư cho nông thôn còn có một nội dung mới là quan tâm đúng mức đến khôi phục các làng nghề truyền thống và phát triển các ngành nghề mới ở nông thôn để tạo việc làm, thu hút lao động dôi ra từ nông nghiệp, tăng thu nhập cho nông dân. Đó cũng là một yêu cầu cấp bách để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn nhằm đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn. Hướng đầu tư ở lĩnh vực này là: đào tạo và đào tạo lại lao động ngành nghề, bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghệ nhân, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ mới, nâng cấp cơ sở hạ tầng, miễn giảm thuế và phí, hỗ trợ thông tin thị trường và tổ chức tiêu thụ sản phẩm, nhất là xuất khẩu.
Cùng với đầu tư phát triển sản xuất, Nhà nước cần quan tâm giải quyết vấn đề xã hội và môi trường ở nông thôn theo hướng ưu tiên cho chương trình xóa đói giảm nghèo đi đôi với khuyến khích làm giàu chính đáng, tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn gắn liền với bảo vệ môi trường đất, nước, khí hậu. Đó cũng là một nội dung đầu tư cho nông nghiệp bền vững, kinh tế nông thôn phát triển ổn định, toàn diện và cân đối.
3. Đổi mới và hoàn thiện phương pháp đầu tư
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi những điều kiện vật chất và kỹ thuật cao hơn nhiều so với nông nghiệp tự cấp, tự túc. Để đáp ứng được những đòi hỏi đó, cùng với tăng số lượng và đổi mới cơ cấu đầu tư cần phải đổi mới phương pháp đầu tư. Hướng đổi mới và hoàn thiện những năm tới tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
- Giảm mạnh tỷ trọng đầu tư theo chiều rộng (khai hoang mở rộng diện tích, tăng năng suất số lượng nông sản thuần tuý với chất lượng thấp, ít quan tâm đến chất lượng, tự phát; phân tán theo qui mô nhỏ từng hộ gia đình; tự cấp, tự túc…), tăng nhanh số lượng và tỷ trọng vốn đầu tư chiều sâu để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá và kinh tế nông thôn đa ngành. (Thâm canh cao trên từng đơn vị diện tích, đầu gia súc bằng biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật mới vào sản xuất để tăng năng suất, tăng chất lượng, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế). Cùng với đầu tư cho sản xuất nông sản hàng hoá, cần gắn với công nghệ sau thu hoạch: Vận chuyển, bảo quản, phơi sấy, chế biến, tiêu thụ. Theo hướng này, Nhà nước cần khuyến khích các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp và hộ gia đình đầu tư vốn vào mua sắm máy móc, thiết bị và ứng dụng công nghệ mới phục vụ các hoạt động sau thu hoạch. Nội dung ưu tiên hàng đầu là xây dựng các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản có thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến ở những vùng sản xuất hàng hóa tập trung (lúa gạo ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng; cà phê, cao su ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ; thuỷ sản ven biển; giấy sợi ở miền núi phía Bắc, đường ở Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ…). Ưu tiên vốn và công nghệ để hiện đại hoá các cơ sở công nghiệp chế biến nông lâm, thuỷ sản ở khu vực thành thị để nâng cao chất lượng nông sản hàng hoá, nhất là hàng xuất khẩu như gạo, cà phê, chè, cao su, thuỷ sản Việt Nam.
- Đi đôi với việc tăng tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, Trung ương cần đổi mới phương pháp đầu tư theo hướng: Giảm dần tỷ trọng đầu tư trực tiếp, tăng dần tỷ trọng đầu tư gián tiếp. Vốn ngân sách đầu tư trực tiếp chỉ tập trung vào các công trình trọng điểm và cơ sở hạ tầng nông thôn, cần tăng cả về số lượng tuyệt đối và tỷ trọng, phần còn lại cần đầu tư gián tiếp qua tín dụng nông nghiệp và phát triển nông thôn và các ngân hàng thương mại khác. Phương pháp đầu tư gián tiếp là nhằm tăng hiệu quả vốn đầu tư đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, các hộ gia đình huy động vốn tự có một cách tối đa để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá và xây dựng nông thôn mới. Đó cũng là một hướng đầu tư rất phù hợp với tâm lý, nguyện vọng và khả năng thực tế của các hộ nông dân nước ta hiện nay. Sử dụng vốn vay bao giờ cũng hiệu quả hơn vốn cho không. Thực tế phương thức đầu tư qua các chương trình và dự án lớn, nhỏ trong nông nghiệp và nông thôn những năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn và hiệu quả của phương thức này.
4. Tăng cường đầu tư cho con người và đạo tạo cán bộ nông nghiệp, nông thôn
Đổi mới mạnh mẽ chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ quản lý, kỹ thuật và công nhân lành nghề để thu hút và tăng cường chất xám cho nông thôn, nông nghiệp; quan tâm nhiều hơn đầu tư cho dân trí ở nông thôn.
Đây là giải pháp quan trọng về đầu tư trực tiếp cho con người nhằm đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Sản xuất nông nghiệp hàng hoá và phát triển kinh tế nông thôn đa ngành với cơ cấu tiến bộ, nhất thiết phải có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Đội ngũ này có vai trò quyết định đến kết quả và hiệu quả của vốn đầu tư trong nông thôn và nông nghiệp. Đó cũng là một điều kiện không thể thiếu để khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực này bởi vì đầu tư vào đâu, trước hết phải biết ai là người sử dụng đồng vốn đó để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Đối với nông dân, hướng đầu tư chủ yếu là đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp, kiến thức thị trường qua các chương trình khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và khuyến thương. Đối với Nhà nước, nội dung giải pháp này nên thực hiện theo các hướng:
- Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới, cán bộ chủ chốt của xã, chủ trang trại, công nhân lành nghề kể cả trong các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại.
- Xây dựng và mở rộng hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công và khuyến thương ở các vùng nông thôn để nhanh chóng chuyển giao tiến bộ khoa học – kỹ thuật tiên tiến đến đồng ruộng, đến hộ nông dân. Thông qua hệ thống này để bồi dưỡng kiến thức kinh tế thị trường cho hộ nông dân, giúp họ vừa tiếp thu kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, vừa tiếp cận với thị trường.
- Nhà nước cần có chính sách đào tạo và thu hút trí thức trẻ tốt nghiệp các trường đại học và làm việc lâu dài ở nông thôn. Kinh nghiệm các nước đã công nghiệp hóa và thực tế ở nước ta những năm qua cho thấy: Muốn công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nhất thiết phải có lực lượng trí thức trẻ có năng lực và thực sự gắn bó với các bà con nông dân, các trang trại, các làng nghề. Vấn đề đặt ra là chính sách đãi ngộ của Nhà nước về tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, điều kiện học tập, nghiên cứu cần có tác động khuyến khích họ yên tâm làm việc lâu dài ở nông thôn. Đó cũng là một giải pháp đảm bảo tính khả thi của các giải pháp khuyến khích đầu tư trong nông nghiệp và nông thôn nước ta.
5. Giải pháp về tạo vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cần rất nhiều vốn. Trong khi đó nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển rất hạn chế. vì vậy cần phải có các biện pháp nhằm tăng nguồn vốn trong nước cũng như vốn đầu tư nước ngoài phục vụ trực tiếp và gián tiếp cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Một số giải pháp như sau:
- Tăng tỷ lệ vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn. Giải pháp này rất quan trọng vì nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước vừa là yếu tố vật chất để tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng, vừa là để xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn nhằm thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng tiến bộ. Đối với toàn xã hội, đầu tư từ ngân sách còn tạo ra động lực tinh thần, thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác trong nước và nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010: GDP của nông nghiệp (gồm lâm nghiệp và thuỷ sản) tăng bình quân từ 4 – 4,5%/năm giá trị xuất khẩu 9 – 10 tỷ USD, phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp xuống còn 50%, tăng tỷ lệ che phủ đất rừng lên 43%. Muốn đạt được những mục tiêu đó thì nhất thiết phải tăng vốn đầu tư. Thông qua hệ số ICOR thì tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp nông thôn đến năm 2010 phải đạt trên 20%. Riêng nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước phải tăng lên mức 15% đến 17%. Nghĩa là từ năm 2003 trở đi, vốn ngân sách Nhà nước từ Trung ương giành cho đầu tư nông nghiệp, nông thôn cần tăng gấp rưỡi so với năm 2001.
Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp nông thôn trong những năm tới có khó khăn, vì vậy các địa phương phải bổ sung vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Nguồn vốn trong dân cư ở khu vực nông thôn tuy không nhiều nhưng nếu có cơ chế chính sách hợp lý vẫn có thể huy động để đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp trong nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn nhiều tiềm năng và có thể khuyến khích họ đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn bằng cơ chế chính sách thông thoáng của Nhà nước. Vì có khả năng thu hút vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn như vậy nên khả năng vốn đầu tư xã hội cho nông nghiệp, nông thôn tăng lên 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội là có cơ sở thực tế có tính khả thi.
- Mở rộng, khơi thông vốn tín dụng ngân hàng phát triển nông nghiệp nông thôn. Vốn tín dụng từ ngân hàng là nguồn vốn có vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Qua nguồn vốn này, các hộ nông dân được hỗ trợ một phần vốn để mở rộng sản xuất, thâm canh, giúp nông nghiệp nông thôn có hiệu quả cả về kinh tế và xã hội. Nhưng trên thực tế số hộ được vay tín dụng ngân hàng rất ít, trong khi đó thủ tục vay lại rất rườm rà, tốn kém thời gian và đi lại cho người đi vay. Vì vậy để vốn tín dụng thực sự đến tay bà con nông dân thì cần cải tiến quy trình, thủ tục cho vay vốn ở nông thôn.
- Tăng cường nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài: Trong điều kiện vốn trong nước còn hạn chế thì thu hút đầu tư ngoài nước có ý nghĩa rất quan trọng. Để thu hút mạnh mẽ nguồn vốn nước ngoài cần:
Trước hết và chủ yếu phải tạo lập được môi trường pháp lý ổn định lâu dài về luật pháp, cơ chế, chính sách và nhất là ổn định chính trị – xã hội nói chung và khu vực nông thôn nói riêng. Môi trường đó hiện nay ở nước ta khá tốt, song một số cơ chế, chính sách có liên quan đến nông nghiệp, nông thôn cần được bổ sung, hoàn thiện để tăng sức hấp dẫn với các nhà đầu tư, các tổ chức, các tổ chức quốc tế và các quốc gia yên tâm đầu tư, viện trợ cho vay với các dự án lớn. Luật đầu tư nước ngoài, các Luật Thuế, Luật Hải quan và các chính sách, cơ chế dưới luật cần thông thoáng và ổn định. Đó là điều kiện tiên quyết để làm yên lòng các nhà đầu tư cũng như các tổ chức, cá nhân, kể cả Việt kiều muốn làm ăn, hợp tác giúp đỡ phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta.
- Thứ hai là Nhà nước cần có cơ chế, chính sách “trải thảm đỏ” mời các nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế đầu tư, hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn thiết thực, có tính khả thi.
- Thứ ba là nâng cấp hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn phải được theo tiêu chuẩn quốc tế và yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nước ta. Để giải quyết yêu cầu này, Nhà nước có tính cần có cơ chế chính sách thu hút vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn và nguồn vốn đầu tư từ ngân sách được ưu tiên thoả đáng. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp hoàn thiện sẽ là một yếu tố quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.
- Thứ tư là cần có lực lượng lao động có trình độ, tay nghề phù hợp với yêu cầu triển khai các dự án, chương trình với nguồn vốn ngoài nước. Vì vậy, đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công nhân lành nghề và bồi dưỡng kiến thức sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường cho các loại lao động (trí óc và chân tay) ở khu vực nông thôn, càng trở lên cấp bách. Bài học xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta đã cho chúng ta thấy sự bất cập giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với yếu tố con người là rất lớn, cần phải khắc phục càng sớm càng tốt. Bởi vậy chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý hợp tác xã ở xã, thôn và cả đào tạo nghề cho nông dân cần được quan tâm hơn nữa.
- Thứ tư là công tác qui hoạch, kế hoạch, quảng bá, kêu gọi vốn đầu tư, vốn viện trợ, vốn vay nước ngoài cần làm nhiều hơn, đa dạng hơn, sâu rộng hơn, kể cả ở trong nước và các diễn đàn quốc tế. Để thực hiện chủ trương này, các bộ ngành có liên quan: Kế hoạch đầu tư, Tài chính, Khoa học – Công nghệ, Công nghiệp, Bộ Thuỷ sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Thương mại và nhất là Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, cần phối hợp chặt chẽ với nhau để tham mưu cho Chính phủ hình thành tổ chức xúc tiến đầu tư trong nông nghiệp và nông thôn.
6. Tăng cường công tác quản lý của Nhà nước đối với đầu tư phát triển, nông thôn
Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước hàng năm cho nông nghiệp, nông thôn hàng năm chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn để phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nhưng thực tế trong những năm qua nguồn vốn này còn đang trong tình trạng sử dụng không hiệu quả, lãng phí. Vì vậy nhà nước cần tăng cường công tác quản lý việc phân bổ cũng như sử dụng nguồn vốn này.
Đối với các dự án viện trợ của các tổ chức quốc tế quốc gia trong nông nghiệp, nông thôn Nhà nước cần nghiên cứu đổi mới công tác tiếp nhận, quản lý và sử dụng theo nguyên tắc: Thống nhất, thuận lợi và hiệu quả. Khắc phục và hạn chế tình trạng tự phát, chồng chéo, quá nhiều cấp trung gian, gây lãng phí và hiệu quả sử dụng vốn chưa cao như hiện nay.
Tất cả các giải pháp trên có tính khả thi thì không thể thiếu vai trò quản lý của Nhà nước và sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương và cơ sở trong quá trình thực hiện. Tổ chức chỉ đạo tốt, chắc chắn chúng ta sẽ tạo được động lực tinh thần và sức mạnh vật chất khuyến khích đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn tạo ra bước đột phá của nông nghiệp, nông thôn theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ hiện đại và văn minh” trong thế kỷ 21.
Kết luận
Đầu tư cho nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn là vấn đề lớn, phức tạp có liên quan đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân của mỗi nước, mỗi thời kỳ.
Lý thuyết kinh tế và thực nghiệm các nước và thực tế ở Việt Nam trong những năm qua đều đã chứng minh ảnh hưởng có tính chất quyết định của đầu tư đối với tăng trưởng nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của hộ nông thôn, phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, còn khá nhiều vướng mắc trong phát triển nông nghiệp, nông thôn như: vốn đầu tư ít, đầu tư dàn trải, lãng phí, không hiệu quả; cơ cấu đầu tư chưa hợp lý tạo ra mất cân đối giữa nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, và trong nội bộ giữa các ngành; nông nghiệp chưa phát triển hết tiềm năng… Những hạn chế đó cần phải có các giải pháp để khắc phục như đổi mới phương thức đầu tư, đổi mới cơ cấu đầu tư, giải pháp tạo vốn, tăng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn, và không thể thiếu được vai trò quản lý của Nhà nước trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư.
Với những giải pháp đó phần nào giúp nông nghiệp vượt qua những khó khăn, hạn chế, phát huy lợi thế so sánh, mở ra triển vọng mới về tăng trưởng kinh tế nông thôn nước ta những năm tới.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình nông nghiệp và kinh tế nông thôn, NXB giáo dục
Giáo trình kinh tế đầu tư, NXB giáo dục
Đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, thực trạng và triển vọng
Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam bước vào thế kỷ XXI
Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 – 2002)
Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản
năm 2001, Tổng cục thống kê năm 2002
Niên giám thống kê 2002, NXB thống kê 2003
Niên giám thống kê 2003, NXB thống kế 2004
Một số tạp chí:
Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn
Tạp chí kinh tế và phát triển
Tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán
Tạp chí phát triển kinh tế
Và một số Website:
Website Bộ kế hoạch và đầu tư: www.mpi.gov.vn
Website Tổng cục thống kê: www.gso.org.vn
Website Bộ nông nghiệp và PTNT: www.mard.gov.vn
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0068.doc