Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex

Công ty Cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex là doanh nghiệp kinh doanh thương mại chuyên kinh doanh sản xuất và lắp ráp, lắp đặt các loại vật tư thiết bị chuyên ngành xăng dầu và nhiều loại thiết bị thông dụng khác trên thị trường cả nước . Khai thác mở rộng thị trường kinh doanh trong cả nước, đa dạng hoá ngành hàng kinh doanh phục vụ và đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của các đơn vị trong ngành xăng dầu nói riêng cũng như đáp ứng, phục vụ cho các thành phần kinh tế nói chung. Mặt hàng kinh doanh chính của công ty chủ yếu là: Các loại máy móc thiết bị xăng dầu, ống thép và ống cao su dẫn xăng dầu, bể chứa dầu các loại, van, vải thuỷ tinh, máy móc thiết bị thông dụng Xác định được vị trí và vai trũ của mỡnh là hoạt động trong cơ chế thị trường nên mục tiêu kinh doanh của công ty là kinh doanh có hiệu quả, cụ thể là kinh doanh phải có lợi nhuận, bảo toàn và phát triển được vốn, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, chấp hành nghiêm pháp lệnh kế toán – thống kê, tạo được công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, củng cố xây dựng công ty ngày càng phát triển lớn mạnh.

doc40 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1559 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m đốc tạo điều kiện thuận lợi cho các lãnh đạo công ty đề ra các biện pháp nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, tạo điều kiện để phòng kế hoạch thựch hiện tốt nhiệm vụ của mình. + Phòng kinh doanh XNK: Có chức năng tham mưu giám đốc, chỉ đạo quản lý điều hành hoạt động kinh doanh các mặt hàng trên thị trường trong và ngoài nước. Ngoài ra còn tham mưu cho giám đốc các phương hướng kinh doanh, đảm bảo an toàn trong kinh doanh và có lãi. Tổng hợp kế hoạch (tài chính, lao động, tiền lương, xây dựng cơ bản, bảo quản…) trực tiếp thiết lập các kế hoạch lưu chuyển hàng hoá và kế hoạch sản xuất kinh doanh. + Phòng tổng hợp: có trách nhiệm kiểm tra chất lượng của các sản phẩm xem có phù hợp với tiêu chuẩn và yêu cầu của khách hàng hay không ? Chất lượng sản phẩm, hàng hoá của công ty có đáp ứng tốt về kiểu dáng chất lượng, kỹthuật… + Ngoài ra còn 5 đơn vị trực thuộc: - Xí nghiệp cơ khí và xây lắp xăng dầu. - Cửa hàng bán lẻ số 1 Vĩnh Ngọc. - Cửa hàng bán lẻ số 2 Yên Viên. - Cửa hàng bán lẻ số 6 Ngọc Khánh. - Cửa hàng xăng dầu số 4 Sài Đồng. Mỗi phòng ban nghiệp vụ đều có chức năng nhiệm vụ liên quan song tất cả đều tập trung vào việc tham mưu, giúp việc cho giám đốc điều hành hiệu quả công tác sản xuất kinh doanh tức là hoạt động kinh doanh của công ty phải mang lại được lợi nhuận và hoàn thành nhiệm vụ nộp ngân sách nhà nước. * Nguồn nhân lực và các phương tiện vật chất phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex - Nguồn nhân lực: Số lượng lao động hiện nay của công ty là 127 người, trình độ đại học và trên đại học chiếm 49,3 %, trung học chuyên nghiệp chiếm 17,7% và công nhân kỹ thuật chiếm 33%. Công ty luôn bố trí, sắp xếp lao động hợp lý, từng bước hoàn thiện bộ máy quản lý bằng cách tổ chức lại lao động ở các khâu, giảm biên chế, thực hiện chế độ khoán tiền lương tại các cửa hàng, tổ chức đào tạo cán bộ trong công tác tiếp thị và công nhân kỹ thuật xăng dầu. Hiện nay, công ty đã có một lực lượng lao động trẻ, năng động, có trình độ nghiệp vụ, có trình độ ngoại ngữ, có khả năng thích nghi nhanh chóng với sự thay đổi của thị trường. - Cơ sở vật chất kỹ thuật Công ty có cơ sở vật chất lớn, tạo thành một hệ thống kết cấu hạ tầng cho kinh doanh, được bố trí ở các trung tâm kinh tế, vùng tiêu thụ như ở Giảng Võ, Ngọc Khánh, Yên Viên Gia Lâm, khu công nghiệp Sài Đồng v.v...Hệ thống các cửa hàng bán lẻ được trang bị các phương tiện hiện đại của Nhật, Tiệp, Italia đảm bảo đúng, đủ chất lượng hàng hoá kinh doanh. - Tiền vốn: Trên cơ sở vốn của công ty với mục tiêu tập trung tiềm lực về vốn tại công ty nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh doanh và đầu tư, công ty đã rà xét và nhiều lần xác định lại mức sử dụng vốn trong từng giai đoạn, tránh ứ đọng vốn, tăng năng suất sử dụng vốn. II. Hiệu quả kinh doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của công ty Từ khi thành lập đến nay, công ty đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau của nền kinh tế và gặp rất nhiều khó khăn. Tuy gặp nhiều khó khăn như vậy song công ty đã không ngừng đổi mới cơ sở vật chất cơ cấu tổ chức điều hành phù hợp với sự biến động của nền kinh tế và đặc biệt là sự lãnh đạo của ban lãnh đạo công ty cũng như sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ công nhân viên. Công ty đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tình hình sản xuất kinh doanh nhập khẩu của công ty đã có kết quả theo chiều hướng tốt. Lợi nhuận thu được tương đối cao. Thị phần của công ty ngày càng được mở rộng, không chỉ đơn thuần ở thị trường miền Bắc mà còn xâm nhập vào thị trường ở miền Trung và miền Nam. Chính nhờ vào việc làm ăn có hiệu quả đã tạo điều kiện cho công ty hoàn thành tốt nghĩa vụ với nhà nước. Điều đó chứng tỏ công ty đã tìm được cho mình hướng đi đúng và có hiệu quả biểu hiện lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. CHƯƠNG II TÌNH HÌNH KINH DOANH NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ XĂNG DẦU PETROLIMEX I. Tình hình nhập khẩu xăng dầu của Công ty 1. Thị trường nhập khẩu của Công ty Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu chủ yếu hoạt động kinh trên lĩnh vực các loại vật tư, thiết bị chuyên ngành cho toàn ngành xăng dầu. Trong đó những sản phẩm chính của doanh nghiệp là: Cột bơm xăng, thiết bị an toàn, máy nén khí, máy phát điện, ôtô si téc zil zo, ống cao su các loại… Ngoài ra Công ty còn sửa chữa lắp đặt các loại vật tư thiết bị xăng dầu và khí đốt, còn thi công các công trình xây dựng và kinh doanh (kho, bồn, cửa hàng). Thị trường nhập khẩu của công ty chủ yếu là các nhà sản xuất nước ngoài: Các công ty của Nhật Bản, Trung Quốc, EU, Mỹ, Đông Âu, Ý… ví dụ như: - Tập đoàn Nomura Nhật Bản: gồm có cột bơm điện tử TATSUNO - Cộng hoà Tiệp (Cột bơm điện tử) - Mỹ (các dụng cụ dùng đo cho ngành xăng dầu) Bảng 1: Thị trường nhập khẩu của Công ty (Đơn vị tính: 1000 USD) STT Thị trường Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1 Nhật Bản 6.500 6.975 8.762 2 Đông Âu 5.443 6.005 5.892 3 Mỹ 2.389 3.796 6.027 4 Trung Quốc 2.009 2.334 2.128 5 ASEAN 4.200 4.124 4.932 6 Ý 1.798 1.032 1.457 7 Các thị trường khác 1.308 1.475 1.988 8 Tổng cộng 19.447 25.741 31.186 (Nguồn: Phòng Tài chính Kế toán Công ty) Đối với thị trường Nhật Bản. Đây thị trường Công ty đã có quan hệ xuất nhập khẩu từ khá lâu. Hàng nhập khẩu từ thị trường này cột bơm điện tử. Chất lượng hàng nhập từ Nhật Bản luôn rất cao. Tuy nhiên, giá cả của chúng cũng luôn cao hơn hẳn so với các loại hàng cùng loại từ các thị trường khác. Tốc độ tăng giá trị hàng nhập từ Nhật Bản khá đều qua những năm qua. Thị trường Đông Âu cũng là một thị trường lớn mà Công ty có quan hệ làm ăn. Đây cũng là thị trường Công ty nhập khẩu khá nhiều. Các loại mặt hàng mà Công ty nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị có chất lượng cao. Bên cạnh Nhật Bản và Đông Âu, giá trị hàng hoá nhập khẩu từ thị trường Hoa Kỳ tăng rất nhanh trong những năm gần đây. Đây là kết quả của Hiệp định Thương mại được ký kết giữa hai nước. Chắc chắn trong tương lai, đây sẽ là thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Công ty. Tuy nhiên, có rất nhiều khó khăn khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này. Còn đối với nhập khẩu thì mọi việc dường như rất thuận lợi. Ngoài ra, Công ty còn nhập khẩu từ Trung Quốc, ASEAN, và nhiều nước khác trên thế giới. Trong khối ASEAN, Singapore là nước có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất đối với Công ty. 2. Các mặt hàng nhập khẩu của Công ty Bảng 2: Các mặt hàng nhập khẩu của Công ty (Đơn vị: 1000 USD) Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1. Ống cao su các loại 2.200 1.730 6.636 2. Thiết bị an toàn, máy nén khí 2.820 2.950 3.400 2. Xăng 2.947 9.800 7.700 3. Ống thép các loại 4.300 5.150 4.700 4. Cột bơm xăng 5.200 5.300 5.400 5. Hàng hoá khác 1.980 811 3.350 Tổng số 19.447 25.741 31.186 (Nguồn: Phòng Tài chính Kế toán) Cột bơm xăng, ống thép các loại luôn giữ vai trò chủ chốt trong cơ cấu hàng nhập của Công ty. II. Tình hình phân phối hàng hoá nhập khẩu của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex Công ty phân phối hàng hoá chủ yếu là bán cho các công ty thuộc ngành xăng dầu như: Công ty xăng dầu B12 Quảng Ninh; Công ty xăng dầu Hải Dương… ngoài ra còn một số ngành, công ty ngoài ngành xăng dầu là: ngành than, Công ty thương mại An Khê để bán cột bơm… Hệ thống các cửa hàng của Công ty chiếm một phần lớn trong hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả kinh doanh của Công ty. Các cửa hàng này chủ động tổ chức xây dựng và vật tư thiết bị thông dụng khác, giới thiệu sản phẩm với sự chỉ đạo theo tuyến dọc từ trên xuống dưới: từ Ban giám đốc trực tiếp đến các cửa hàng nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, đúng pháp luật của Nhà nước quy định của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex. Hình thức bán hàng tại phòng kinh doanh của Công ty luôn chiếm tỷ trọng hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hình thức này chủ yếu là bán với số lượng lớn. Khi mua hàng khách hàng sẽ được người bán hàng hướng dẫn tỉ mỉ về kỹ năng, kỹ thuật, cách sử dụng vận hành, hình thức thanh toán, phương thức và địa điểm nhận hàng. Khách sau khi trả tiền và nhận được hoá đơn lấy hàng thì phòng kinh doanh sẽ báo cho kỹ thuật phối hợp với kho để chuẩn bị hàng, đảm bảo cho khách lấy đủ hàng với chất lượng tốt. Công ty thực hiện việc lên kế hoạch cung cấp khối lượng hàng hoá nhất định cho các cửa hàng với mức giá nhất định. Các cửa hàng có nhiệm vụ giao nộp cho Công ty khoản tiền tính theo khối lượng hàng cung cấp cho mình với mức giá trên. Các nhân viên cửa hàng vẫn chịu sự quản lý của Công ty và nhận mức lương theo cấp bậc của Công ty. Ngoài các khoản nộp của Công ty, nhân viên còn được phần hoa hồng do Công ty thưởng khi làm đại lý xăng dầu cho ngành. III. Phân tích hiệu quả kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex 1. Phân tích đánh giá hiệu quả nhập khẩu của Công ty Hiệu quả là tiêu chuẩn quan trọng (có thể là nguồn quan trọng nhất) để đánh giá kết quả kinh doanh ngoại thương. Trong những năm qua, cùng với sự cố gắng nỗ lực thực hiện kế hoạch đề ra, Công ty có quan tâm đến các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, Công ty chưa cân nhắc đánh giá về kết quả thực hiện từng chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh (cả chỉ tiêu phản ánh về số lượng, cả chỉ tiêu về chất lượng) để xác định chỉ tiêu nào đảm bảo hiệu quả kinh doanh, chỉ tiêu nào chưa đảm bảo được yêu cầu. Trên cơ sở đó có các biện pháp thích hợp. Là một công ty kinh doanh xuất nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Vì vậy, để đánh giá hiệu quả nhập khẩu cần phải tiến hành phân tích đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả nhập khẩu của Công ty. 1.1. Chỉ tiêu lợi nhuận nhập khẩu và tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu của Công ty được tính bằng cách lấy lợi nhuận nhập khẩu chia cho chi phí nhập khẩu. Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu dùng để đánh giá hiệu quả kinh doanh thông qua việc một đồng chi phí bỏ ra mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu lợi nhuận theo chi phí của hoạt động nhập khẩu của công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex được phản ánh ở bảng sau: Bảng 3: Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu của Công ty (Đơn vị tính: 1000 USD) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Doanh thu nhập khẩu 19822,3 21105,9 27345,7 33179,2 Chi phí nhập khẩu 19.765 21.037 27.231 32.987 Lợi nhuận nhập khẩu 57,3 68,9 114,7 192,2 Tỷ suất lợi nhuận (%) 0,29 0,33 0,42 0,58 (Nguồn: Phòng Kế toán Tài chính) Qua bảng trên ta thấy doanh lợi nhập khẩu của Công ty liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2003 đạt 192.200 USD tăng so với năm 2002 là 77.500 USD. Tỷ suất lợi nhuận của Công ty tăng qua từng năm, năm sau cao hơn năm trước. Điều đó có nghĩa là tốc độ tăng lợi nhuận cao hơn tốc độ tăng chi phí. Năm 2003, tỷ suất lợi nhuận của Công ty là 0,58, gấp 2 lần tỷ suất lợi nhuận năm 2000. Đây là một tỷ suất tương đối cao so với những công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Cùng với thời gian, các hình thức kinh doanh nhập khẩu của Công ty thay đổi theo hướng tích cực khiến cho tỷ suất lợi nhuận tăng nhanh. Hình thức kinh doanh nhập khẩu uỷ thác giảm dần trong cơ cấu hàng nhập khẩu và điều đó làm tăng tỷ suất nhập khẩu. Mặt khác, sự biến động về giá cước phí (chi phí vận chuyển hàng hoá) theo hướng tích cực cũng khiến cho lơị nhuận của Công ty thu được nhiều hơn. Công ty đã biết tận dụng thế mạnh về vốn, lao động và kinh nghiệm kinh doanh để khắc phục khó khăn, tạo ra các mối quan hệ tốt đẹp với các bạn hàng, tạo uy tín trên trường quốc tế. 2.2. Chỉ tiêu doanh lợi doanh thu nhập khẩu của Công ty. Tỷ suất doanh lợi doanh thu được tính bằng cách lấy lợi nhuận nhập khẩu chia cho doanh thu nhập khẩu. Điều đó có nghĩa là với một đồng doanh thu nhập khẩu thì sẽ tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận nhập khẩu. Có thể thấy khái quát về chỉ tiêu này của Công ty qua bảng sau. Doanh thu nhập khẩu của Công ty nhìn chung tăng liên tục trong vài năm vừa qua thể hiện khả năng kinh doanh ngày càng tăng, doanh thu tăng thể hiện sự mở rộng thị trường, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, mặt hàng. Doanh thu nhập khẩu năm 2003 là 33.179.200 USD tăng 5.833.500 USD. Tỷ suất doanh lợi doanh thu nhập khẩu đều tăng đều trong các năm 2001, 2002, 2003 thể hiện khả năng kinh doanh của Công ty rất tốt. Cả doanh thu và tỷ suất lợi nhuận doanh thu tăng làm cho lợi nhuận của Công ty tăng rất cao. Năm 2001, tỷ suất doanh lợi doanh thu của Công ty là 0,289% nhưng năm 2003, tỷ suất này tăng đến con số 0,62%. Đây là một tỷ suất rất cao. Bảng 4: Tỷ suất doanh lợi doanh thu nhập khẩu của Công ty (Đơn vị tính: 1000 USD) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Doanh thu nhập khẩu 19822,3 21105,9 27345,7 33179,2 Lợi nhuận nhập khẩu 57,3 68,9 114,7 192,2 Tỷ suất doanh lợi doanh thu 0,289 0,326 0,42 0,62 (Nguồn: Phòng Tài chính Kế toán) 1.3. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nhập khẩu. Chỉ tiêu tổng hợp của Công ty là sự tổng hợp từ hai nguồn vốn cơ bản là vốn lưu động và vốn cố định. Vốn lưu động giành cho nhập khẩu được phân định rõ ràng. Vốn cố định ngoài việc phục vụ hoạt động nhập khẩu còn phục vụ hoạt động xuất khẩu. Chỉ tiêu doanh thu nhập khẩu/Vốn kinh doanh là vòng luân chuyển vốn kinh doanh của Công ty rong năm. Số vòng luân chuyển của Công ty đạt mức cao và có sự biến đổi không đều ở các năm. Năm 2000 đạt 3,87 vòng, năm 2001 đạt 3,96 vòng, tăng 2,3% so với năm 2000. Các năm 2002 và 2003 số vòng quay vốn kinh doanh của Công ty đều tăng. Tuy nhiên, so với nhiều công ty thương mại khác, số vòng luân chuyển vốn kinh doanh của Công ty là chưa cao. Điều này chứng tỏ trong hoạt động kinh doanh vẫn còn những trở ngại, sự chậm trễ, sự thiếu thống nhất giữa các bộ phận kinh doanh. Bảng 5: Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nhập khẩu của Công ty (Đơn vị: 1000USD) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Vốn kinh doanh nhập khẩu 5.122 5.324 5.988 7.233 Doanh thu nhập khẩu 19822,3 21105,9 27345,7 33179,2 Lợi nhuận nhập khẩu 57,3 68,9 114,7 192,2 Lợi nhuận nhập khẩu/Vốn kinh doanh nhập khẩu 1,12% 1,3% 1,92% 2,66% Doanh thu nhập khẩu/Vốn kinh doanh nhập khẩu 3,87 3,96 4,567 4,58 (Nguồn: Phòng Tài chính Kế toán) Chỉ tiêu lợi nhuận/Vốn kinh doanh cũng có tốc độ tăng khá cao trong các năm trở lại đây. Năm 2002, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh cao gấp hơn 2 lần so với năm 2000. Nguyên nhân là do lợi nhuận tăng rất nhanh trong khi vốn kinh doanh tăng không nhiều trong suốt quá trình 4 năm liên tiếp. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty có thể được phản ánh qua bảng sau: Bảng 6: Hiệu quả sử dụng Vốn lưu động của Công ty (Đơn vị: 1000 USD) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Vốn lưu động 2.845 2.907 3.179 3.908 Doanh thu nhập khẩu 19822,3 21105,9 27345,7 33179,2 Lợi nhuận nhập khẩu 57,3 68,9 114,7 192,2 Lợi nhuận nhập khẩu/Vốn lưu động 2% 2,4% 3,6% 4,9% Doanh thu nhập khẩu/Vốn lưu động 6,967 7,26 8,602 8,49 (Nguồn: Phòng Tổ chức hàng chính) Nhìn vào bảng trên có thể thấy rõ sự tiến bộ nhanh chóng trong hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty thời gian gần đây. Năm 2000 mức doanh lợi trên vốn lưu động chỉ đạt mức 2% thì đến năm 2003, mức doanh lợi đã tăng lên 4,9%. Đây là chỉ tiêu tương đối cao so với nhiều công ty hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu. Kết quả này có được là do Công ty đã có những thay đổi cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vốn kinh doanh cũng được bổ sung từ lợi nhuận thu được và những khoản khác làm cho khả năng về vốn của Công ty là tương đối vững mạnh. Cũng với sự phát triển chung của cả nước, Công ty đang ngày càng chứng tỏ được khả năng của mình, đóng góp rất nhiều cho sự tăng trưởng chung của cả nước. Số vòng luân chuyển vốn lưu động cũng được cải thiện rất nhiều. Sự trì trệ trong kinh doanh giảm xuống đồng nghĩa với việc vốn lưu động luân chuyển nhiều vòng hơn trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Năm 2003, vốn lưu động luân chuyển 8,49 vòng trong một năm, tăng 1,523 vòng/năm. Năm 2003, Công ty đầu tư thêm nhiều vốn hơn cho hoạt động kinh doanh. Sự chậm trễ trong một vài khâu khi vốn tăng lên đột ngột khiến số vòng luân chuyển giảm sút hơn so với năm 2002. 1.4. Hiệu quả sử dụng lao động Hiệu quả sử dụng lao động luôn là một chỉ tiêu quan trọng khi đánh giá về hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, nó cũng chỉ là một khía cạnh để đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Khi xem xét đánh giá chỉ tiêu này, cần phải đặt nó trong hoàn mối tương quan với các chỉ tiêu về vốn, về lợi nhuận, về doanh thu... để có cái nhìn chính xác. Hiệu quả sử dụng lao động của Công ty có thể được biểu hiện bằng bảng dưới đây: Bảng 7: Hiệu quả sử dụng lao động của Công ty Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Doanh thu nhập khẩu tr.USD 19822,3 21105,9 27345,7 33179,2 Lợi nhuận nhập khẩu tr.USD 57,3 68,9 114,7 192,2 Số lao động người 99 105 113 117 Doanh thu bình quân một lao động USD 66,295 73,540 89,953 104,666 Lợi nhuận bình quân một lao động 0,192 0,24 0,377 0,606 (Nguồn: Phòng Kế Hoạch) Nhìn vào bảng trên, có thể thấy rõ tình hình tiến triển rõ rệt qua các năm. Cả hai chỉ tiêu đều thể hiện sự tăng trưởng nhanh chóng. Điều này chứng tỏ người lao động trong Công ty đang hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu so sánh với nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cũng lĩnh vực cũng như trong những lĩnh vực khác thì có thể thấy rằng doanh thu bình quân một lao động hay lợi nhuận bình quân một lao động này là khá thấp. Trong rất nhiều năm qua, Công ty là một doanh nghiệp có số lao động cao. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng lao động vẫn đang là vấn đề đối với Ban Giám đốc của Công ty. Trong những năm gần đây, cùng với sự cải tổ toàn Công ty, vấn đề sử dụng nhân lực đúng người, đúng việc đã làm cho hiệu quả sử dụng lao động tăng lên nhanh chóng. Năm 2003 so với năm 2000 có sự thay đổi rõ ràng. Doanh thu bình quân một lao động tăng gấp 1,579 lần. Còn chỉ tiêu lợi nhuận bình quân một lao động còn tăng hơn nữa, tăng 3,156 lần. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho những nỗ lực mà Công ty đã bỏ ra nhằm hoàn thiện hiệu quả nhập khẩu hàng hoá của mình. 2. Đánh giá chung về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty 2.1. Những kết quả đạt được. Trong những năm gần nhìn chung hiệu quả nhập khẩu hàng hoá của Công ty đã được cải thiện một cách đáng kể, dẫn đến những kết quả đáng ghi nhận. Kim ngạch nhập khẩu tăng đều qua các năm và luôn tăng với tốc độ cao, chủng loại hàng hoá kinh doanh ổn định và luôn được chú tâm thay đổi cơ cấu sao cho phù hợp với thị trường, đáp ứng được yêu cầu của đường lối chính sách Nhà nước. Có được những kết quả này là do sự phấn đấu không ngừng của toàn thể cán bộ, Ban giám đốc, công đoàn các đơn vị trong Công ty, đặc biệt có sự đóng góp lớn của Phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời đó là sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng, sự nhạy bén kịp thời của Ban giám đốc. Hiệu quả sử dụng vốn đã được nâng cao rõ rệt. Nguồn vốn được sử dụng hiệu quả hơn thể hiện ở lợi nhuận trên tổng nguồn vốn và ở vòng quay vốn. Hiệu quả sử dụng con người cũng đựoc cải thiện một cách đáng kể. Như một tất yếu, khi mà trình độ người lao động được nâng cao và họ có nhiều cơ hội để chứng tỏ khả năng của mình hơn thì hiệu quả kinh doanh sẽ được nâng cao. Trong thời gian qua Công ty đã nhập khẩu được những mặt hàng đáp ứng tốt về chất lượng, mẫu mã đối với các bạn hàng trong nước. Điều này chứng tỏ công tác nghiên cứu bạn hàng của Công ty là khá tốt. Công ty cũng đã chú trọng tăng cường các mối quan hệ với khách hàng không ngừng nâng cao trách nhiệm của mình trong hoạt động kinh doanh, do đó kim ngạch nhập khẩu, doanh số bán hàng nhập khẩu và khả năng tiêu thụ hàng nhập khẩu của Công ty trên thị trường trong nước ngày càng được nâng cao. Việc thực hiện những hợp đồng: Công ty đã tiến hành thực hiện các hợp đồng theo đúng các điều khoản đã được ký kết, hạn chế tối đa những sai sót về nghiệp vụ giao và nhận hàng, đảm bảo giải phóng hàng sớm, không để lưu kho lưu bãi lâu làm tăng chi phí ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Công ty. Trong thời gian qua Công ty đã không ngừng tìm mọi biện pháp đẩy mạnh kinh doanh, cố gắng tạo ưu thế trên thị trường, ngày càng mở rộng thêm thị trường nhập khẩu, thị trường tiêu thụ, phát triển thêm cả những bạn hàng cả trong nước và quốc tế. Nếu như trước đây thị trường nhập khẩu chủ yếu của Công ty là các nước Đông Âu, châu Á thì những năm gần đây Công ty đã mở rộng sang nhập khẩu ở những thị trường có nền công nghiệp phát triển cao như Nhật Bản, Hoa Kỳ,.... Trong thời gian qua Công ty đã tiến hành nhập khẩu được hàng hoá, máy móc thiết bị vật tư của nhiều nước, tạo được mối quan hệ bạn hàng lâu dài với nhiều hãng nổi tiếng trên thế giới, từ đó đã được hưởng ưu đãi của bạn hàng trong quá trình thanh toán, đồng thời trong quá trình hoạt động Công ty không ngừng tích luỹ kinh nghiệm nâng cao uy tín của mình cũng như nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. Công ty đã chứng tỏ khả năng phát triển của mình thông qua chỉ tiêu lợi nhuận không ngừng tăng. Điều này chứng tỏ Công ty đã tạo cho mình hướng đi đúng đắn, áp dụng các biện pháp tích cực, có hiệu quả trong kinh doanh, đặc biệt kinh doanh xuất nhập khẩu. Sự linh hoạt và nhạy bén trong quản lý kinh doanh: Công ty luôn nhận thức một cách sâu sắc về sự khác biệt về cơ chế quản lý quan liêu bao cấp và cơ chế thị trường, chấp nhận sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường trong nước và quốc tế, đồng thời xác định đúng đắn mặt mạnh và mặt yếu của mình để xây dựng mục tiêu, phương hướng kinh doanh hợp lý. Đội ngũ cán bộ kinh doanh của Công ty luôn coi trọng công tác marketing nhằm đáp ứng được hai mục tiêu: Kinh doanh để mang lại hiệu quả cao và tự học tập để nâng cao khả năng nhận thức, trình độ quản lý phù hợp với công việc, xây dựng ý thức dân chủ tập trung thực hiện tốt mọi hoạt động của Công ty. Tóm lại hiệu quả nhập khẩu hàng hoá của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex đã và đang được củng cố. Mặc dù kinh nghiệm thương trường của Công ty được tích luỹ qua từng năm. Cùng với sự lãnh đạo, quản lý giám sát của Ban giám đốc Công ty, với đội ngũ cán bộ kinh doanh trẻ nắm vững kiến thức về nghiệp vụ ngoại thương hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại Công ty chắc chắn sẽ ngày càng lớn mạnh, các mối quan hệ với khách hàng trong và ngoài nước sẽ ngày càng đựoc tạo lập và củng cố. 2.2. Những tồn tại và hạn chế. Để đánh giá đúng đắn về hiệu quả nhập khẩu hàng hoá của Công ty trong thời gian vừa qua, bên cạnh việc chỉ ra được những thành tựu của Công ty đã đạt được, chúng ta không thể không đề cập đến những khó khăn vẫn còn tồn tại để từ đó tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra các biện pháp khắc phục. Từng bước hoàn thiện hơn nữa hiệu quả nhập khẩu của Công ty để thúc đẩy Công ty ngày càng phát triển mạnh mẽ trong sự cạnh tranh đầy khốc liệt của cơ chế thị trường. Chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh còn khá cao. Nhiều phương án kinh doanh chi phí (trừ vận tải) lên đến gấp 3-4 lần lãi ròng. Thời gian thực hiện một hợp đồng là khá dài thường phải từ 3 đến 6 tháng. Điều này làm ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Một số mặt hàng khi nhập về được đến trong nước thì nhu cầu đã bị hạ xuống rất thấp, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của Công ty cũng như gây mất uy tín của Công ty với các bạn hàng trong nước, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến việc theo dõi, quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu. Một số cán bộ kinh doanh đang công tác trong lĩnh vực nhập khẩu thiếu kinh nghiệm về nghiệp vụ, thiếu nhạy bén trên thương trường gây ảnh hưởng không tốt trong buôn bán và quản lý hàng hoá. Giá hàng nhập khẩu mà Công ty mua từ nước ngoài về không phải là mức giá thấp nhất ngoài thực tế. Đồng tiền tính toán thường là tiền của nước đối tác do đó Công ty không thể dự đoán trước được sự biến động về đồng tiền ấy trên thị trường ra sao, nên nhiều khi Công ty đã phải chịu những khoản chi phí khá lớn cho sự biến động về tỷ giá giữa đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán. Điều đó dẫn đến lợi nhuận kinh doanh không phù hợp với lợi nhuận đáng ra phải có. Một tồn tại nữa mà Công ty cũng cần phải quan tâm và tìm cách giải quyết là giá mua hàng của Công ty thường là giá CIF cảng đến, tức là quyền thuê tàu thuộc về bạn hàng nước ngoài (Mà trong kinh doanh ngoại thương, người giành được quyền thuê tàu là người có ưu thế, luôn chủ động trong kinh doanh) do đó Công ty luôn ở thế thụ động phụ thuộc vào bạn hàng. 3. Nguyên nhân của những tồn tại. Thị trường thông tin Việt nam chưa phát triển, đặc biệt là thông tin về thị trường nước ngoài còn bị nhiều hạn chế, các dự báo thiếu chính xác,... do đó các doanh nghiệp không có đủ thông tin cho hoạt động xuất nhập khẩu. Điều này đã làm cho việc mua bán kém hiệu quả, đây là nguyên nhân dẫn đến việc doanh nghiệp bị mua hàng hoá ở nước ngoài với giá cao hơn giá thực tế. Các hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, thanh toán quốc tế và cả những công đoạn như chuyên chở bốc dỡ, giao nhận hàng hoá ở Việt nam còn nhiều hạn chế gây không ít khó khăn cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu của tất cả các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và công ty sản xuất kinh doanh nhập khẩu nói riêng. Hệ thống kho tàng, bến bãi, vận chuyển trong nội địa của nước ta còn yếu kém,... gây nhiều tổn thất, làm tăng chi phí cho hàng nhập khẩu, dẫn tới giảm bớt khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Sự thiếu đồng bộ trong các chính sách pháp luật, quy chế, quy định của Nhà nước về quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như sự thiếu đồng bộ của các quy định hải quan, thuế vụ, quản lý xuất nhập khẩu gây ra những khó khăn không nhỏ cho Công ty trong quá trình nhập khẩu hàng hoá. Những cán bộ trẻ trong Công ty đã phần được đào tạo chính quy nhưng lại chưa có đủ bề dày kinh nghiệm nên dễ bị sơ hở trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng,... Công tác khắc phục nhược điểm phát huy thế mạnh ở từng cán bộ trong quá trình chuyển đổi thế hệ này là một khó khăn khá lớn. Cơ chế thị trường là tất yếu khách quan, nó khuyến khích lao động thực sự, song không phải không có những điểm tiêu cực, gây khó khăn đối với việc đào tạo, gìn giữ và phát triển đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Công ty. Mặt khác các yếu tố cạnh tranh quyết liệt trên thị trường như vấn đề quản lý hàng hoá nhập khẩu kinh doanh trái pháp luật, thiếu sự quản lý của các cơ quan chức năng nhà nước, cũng như vấn đề khác liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, đã gây khó khăn không nhỏ đối với Công ty trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Tóm lại, có thể nói rằng trong những năm qua Công ty đã đạt được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực nhập khẩu hàng hoá, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Nhưng bên cạnh đó Công ty vẫn còn một số khó khăn tồn tại cần phải được khắc phục. Nhiệm vụ của Công ty trong những năm tới là làm sao phát huy được thế mạnh của mình, khắc phục khó khăn, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó, đồng thời Công ty phải linh hoạt, năng động trong kinh doanh để đảm bảo cho sự phát triển bền vững cũng như việc cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ XĂNG DẦU PETROLIMEX I. Phương hướng và mục tiêu phát triển của Công ty trong thời gian tới. 1. Định hướng chiến lược phát triển của Công ty Sự phát triển của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động XNK nói riêng, gắn việc sản xuất kinh doanh của Công ty với chủ trương chung của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu chung trong giai đoạn từ năm 2000-2005 là đa phương hoá, đa dạng hoá, duy trì tỷ lệ tăng trưởng về XNK hàng năm là 20%. Trong những năm tới Công ty với quyết tâm đưa Công ty phát triển toàn diện, vững chắc, thực hiện thành công các kế hoạch đã và đang thực hiện. Đề ra chính sách giữ vững và mở rộng thị trường mà công ty đã có, khôi phục lại các mối quan hệ để khai thác mở rộng thêm các thị trường mới. Tăng cường các mối quan hệ với các cộng tác viên, liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước để phát triển đa dạng các loại hàng xuất nhập khẩu. Để đạt được các mục tiêu trên Công ty đã tiến hành khảo sát thị trường, đánh giá khả năng nhập khẩu hàng hoá và nhu cầu vốn để thực hiện. Kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty giai đoạn 2004-2006. (Đơn vị tính: 1000 USD) Các khoản mục Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Nhập khẩu, trong đó: 30,500.00 33,800.00 37,000.00 1. Ống cao su các loại 1,000.00 2,500.00 3,7000.00 2. Thiết bị an toàn, máy nén khí 1,500.00 4,700.00 6,300.00 3. Cột bơm xăng 23,600.00 24,500.00 21,000.00 4. Ống thép các loại 3,000.00 3,500.00 4,000.00 5. Xăng 1,400.00 1,500.00 2,000.00 (Nguồn: Phòng kinh doanh XNK) Để thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh Công ty đã đưa ra các giải pháp về thị trường: - Tổ chức tốt việc cung cấp, thu thập xử lý thông tin kịp thời, chính xác. Tăng cường đầu tư và đưa công tác thông tin phát triển để thị trường đi trước một bước so với yêu cầu của nhiệm vụ kinh doanh. - Thông qua cơ quan đại diện Thương mại Việt Nam ở nước ngoài, cũng như các đại diện Thương mại nước ngoài tại Việt Nam để khai thác và thu thập thông tin. - Thiết lập các văn phòng và chi nhánh tại nước ngoài. - Tổ chức tốt hệ thống cộng tác viên. - Với các thị trường mới có thể thông qua các Công ty môi giới. - Tăng cường các thông tin quảng cáo. - Tổ chức và tham gia các triển lãm và hội chợ Thương mại Quốc tế. - Đảm bảo hàng hoá xuất khẩu đúng tiêu chuẩn, thực hiện nghiêm túc các hợp đồng mua bán, dịch vụ xây dựng và củng cố uy tín của mình trên thị trường Quốc tế. Trong những năm tới Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex sẽ tập trung vào những thị trường đã và đang có quan hệ với Công ty, đặc biệt là thị trường Mỹ và thị trường các nước ASEAN. Tuy nhiên, để xác định đúng hướng đi và tìm đúng đối tác ta cũng cần phải tập trung nghiên cứu một số khả năng, nhu cầu thị hiếu và nhu cầu kinh doanh của từng thị trường và từng khu vực thị trường. II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex 1. Đẩy mạnh nghiên cứu thị trường nhập khẩu và thị trường xuất bán trong nước 1.1. Đối với thị trường nhập khẩu: Trong cơ chế thị trường bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng cần phải gắn với thị trường. Sự tồn tại của doanh nghiệp gắn liền với sự nắm vững thị trường. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì công tác nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước là rất cần thiết và phải được quan tâm thoả đáng. Trong kinh doanh phải nắm vững được các yếu tố của thị trường, hiểu biết được các quy luật vận động của chúng để ứng xử kịp thời, mỗi chủ thể kinh doanh nhất thiết phải tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường vì nó rất có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả, nhất là trong công tác kinh doanh nhập khẩu của Công ty. Qua quá trình quan sát và nghiên cứu ở công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex cho thấy Công ty đã thực sự coi trọng vấn đề nghiên cứu thị trường như là một động lực, tiền đề để phát triển kinh doanh. Trên thực tế cho thấy mọi hoạt động giao dịch, tìm kiếm bạn hàng Công ty đã thực sự quan tâm thích đáng đến công tác kế hoạch, marketing quốc tế, tìm kiếm nguồn hàng từ các thị trường trên thế giới. Trong nghiên cứu thị trường xác định mặt hàng nhập khẩu, một nhân tố rất quan trọng cần phải xem xét đó là tỷ suất ngoại tệ các mặt hàng nhập khẩu. Tỷ suất ngoại tệ sẽ được so sánh với tỷ giá hối đoái để quyết định xem có nên nhập khẩu hay không. Như vậy, yêu cầu mới đặt ra là Công ty phải luôn bám sát giá cả thị trường, xu hướng vận động của giá cả cũng như việc tiếp cận với nhiều nguồn hàng. Công ty cần phải xác định được nhu cầu và nguồn hàng một cách thực tế, kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động trong từng thời điểm, từng vùng, từng khu vực. Cùng với việc xác định nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm: Việc xem xét đặc điểm tính chất, khả năng của sản xuất hàng hoá thay thế, khả năng lựa chọn mua bán. Kết hợp với việc nghiên cứu dung lượng thị trường, các điều kiện chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán quốc tế để có thể hoà nhập với thị trường một cách nhanh chóng và có hiệu quả. Thị trường nhập khẩu là một mảng không thể thiếu của Công ty gắn liền với thị trường trong nước, thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu của Công ty 1.2. Đối với thị trường xuất bán trong nước Việc nắm bắt tình hình kinh tế xã hội cũng như cơ sở luật pháp hay tìm hiểu bạn hàng trong nước phải được cán bộ kinh doanh tiến hành rất kỹ lưỡng, đầy đủ và có hiệu quả. Tuy nhiên về hàng hoá mới chỉ quan tâm đến giá cả mà chưa chú ý đến dung lượng thị trường hay chu kỳ biến động của việc tiêu thụ hàng hoá, do đó hầu như chưa thể có dự đoán chính thức của giá cả. Nếu như không có các nhân tố ảnh hưởng đột biến tới dung lượng thị trường như bão lụt, hạn hán,... thì quan sát thị trường thực tế có thể thấy dung lượng thị trường biến đổi có tính chu kỳ và tương đối ổn định. Mặt khác do là người nhập khẩu trực tiếp nên cán bộ có thể nắm bắt được giá gốc (giá thấp nhất có thể bán) từ đó biết được giới hạn của giá lên xuống. Nắm vững chu kỳ trên, cán bộ kinh doanh tính toán thời gian nhập hàng đúng lúc để tiêu thụ hàng hoá có thể bán với giá thấp với thời gian nhanh. Để làm được điều này thì đợi giá đang xuống thấp vẫn lập phương án nhập hàng, khi hàng về là vừa khi giá lên. Để có khả năng nghiên cứu thâm nhập và mở rộng thị trường xuất bán, bộ phận nghiên cứu thị trường cần hoạt động một cách có hiệu quả hơn. Việc thu thập thông tin chính xác, kịp thời là vô cùng quan trọng trong việc kinh doanh hàng hoá nói chung và hàng nhập khẩu nói riêng. Trên cơ sở thu thập và xử lý những thông tin thị trường, Công ty sẽ xác định được chính xác thị trường mục tiêu, đưa ra các quyết định như kế hoạch sản phẩm, kế hoạch marketing,.... Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thị trường mà xem xét điều chỉnh giá bán cho phù hợp hoặc có những biện pháp cụ thể để tăng giảm giá bán, trả lời được những câu hỏi như: - Khi nào khách hàng mua hàng của Công ty, khối lượng là bao nhiêu, quy cách chất lượng mẫu mã như thế nào? - Giá cả mà khách hàng có thể chấp nhận được. - Địa điểm thời gian mà người mua cần đến hàng hoá của Công ty. Để hoàn thành được nhiệm vụ nặng nề và khó khăn trên bộ phận nghiên cứu thị trường phải có những thông tin cần thiết một cách kịp thời, đầy đủ và phản ánh chính xác tình hình thực tế. Để đạt được điều này Công ty cần dự báo được tình hình thị trường thông qua dự báo kinh tế, thông qua dự báo xu hướng nhu cầu... Đồng thời Công ty cũng cần tiếp cận thị trường, đi sâu đi sát thị trường, luôn coi trọng thị trường và vũ đài cạnh tranh đối với các đối thủ. Công ty phải có hệ thống thông tin hữu hiệu, mọi thông tin đối với Công ty đều quan trọng, giúp Công ty phân tích tình hình thực trạng thị trường, tình hình các đối thủ cạnh tranh, nhu cầu của thị trường để có kế hoạch mở rộng thị trường đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường. Mở rộng thị trường là một mục tiêu lâu dài và khó khăn, nhưng chỉ có mở rộng thị trường thì Công ty mới có thể tồn tại và phát triển vững chắc. Đối với Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu hiện nay mục tiêu mở rộng thị trường trong nước để nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu là một trong những mục tiêu chính, Công ty cần có những biện pháp cụ thể để thực hiện. 2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh nhập khẩu 2.1. Giải quyết tốt mối quan hệ với ngân hàng Trong kinh doanh nói chung và kinh doanh hàng nhập khẩu nói riêng, yêu cầu về vốn kinh doanh là rất lớn và phải huy động trong thời gian ngắn, nên việc vay vốn các tổ chức tín dụng là điều tất yếu. Quan hệ của Công ty với các ngân hàng là một bộ phận quan trọng trong chiến lược huy động và sử dụng vốn của Công ty. Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu là một doanh nghiệp cổ phần cũng khó khăn về vốn. Để thực hiện những chiến lược cho cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu thì nhu cầu về vốn lớn. Do vậy mối quan hệ vưói các ngân hàng càng vững chắc thì khả năng đảm bảo an toàn về tài chính trong những trường hợp đột biến càng được đảm bảo. Hơn nữa, một khi mối quan hệ với các ngân hàng đã vững chắc, thủ tục vay vốn cũng sẽ bớt rườm rà. 2.2. Tăng cường liên kết liên doanh trong hoạt động xuất nhập khẩu Đây là một giải pháp cũng rất hữu ích trong việc huy động nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh. Hình thức này là nhiều bên cùng góp vốn để kinh doanh. Trong thời gian tới, Công ty cần tập trung vào liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này cũng phù hợp với chiến lược đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của Công ty trên cơ sở nắm bắt được nhu cầu thị trường. Hình thức này tạo điều kiện cho Công ty có khả năng thực hiện được những hợp đồng lớn, nhờ đó uy tín của Công ty với các bạn hàng được nâng cao, đặc biệt là các bạn hàng lớn. Ngoài ra, liên doanh liên kết cũng mang lại nhiều cơ hội để Công ty tiếp xúc với các nguồn vốn của nước ngoài, việc sử dụng vốn bằng các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi cao sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhờ ưu điểm về lãi suất thấp và khả năng thanh toán cao đơn giản hoá thủ tục và các khâu trung gian thanh quyết toán. 3. Nhóm giải pháp tín dụng thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu Vì hoạt động diễn ra trên phạm vị toàn thế giới. Công ty nhập khẩu hàng từ nhiều nước khác nhau, do đó việc thanh toán cũng khá phức tạp. Việc sử dụng các công cụ tín dụng trong thanh toán là một giải pháp cho Công ty, nhờ đó mà Công ty giảm bớt được chi phí (hoa hồng) khi thanh toán. Hiện nay trong thanh toán nhập khẩu tại Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimexx chủ yếu là thông qua hình thức L/C (thư tín dụng), TT điện chuyển tiền, CAD (thanh toán khi xuất trình chứng từ), trong khi đó L/C chiếm 80% lượng thanh toán cho các hợp đồng nhập khẩu công tác thanh toán cho các hợp đồng nhập khẩu tại Công ty đã được hệ thống hoá từ các phòng kinh doanh, đơn vị trực thuộc gắn kết với phòng tài chính kế toán, đảm bảo quá trình thanh toán được thông suốt và nhanh chóng. Vấn đề đặt ra là thanh toán bằng phương thức nào cho hợp đồng cụ thể. Trên thực tế thanh toán cho hình thức CAD có ưu điểm là nhận được tiền ngay khi xuất trình bộ chứng từ. Còn thanh toán bằng L/C, TT điện chuyển tiền thì Công ty phải mất một khoản phí cho ngân hàng (thường là 0,15% giá trị hợp đồng). Việc đa dạng các hình thức thanh toán là hết sức cần thiết và là nhu cầu khách quan trong kinh doanh, việc sử dụng linh hoạt các hình thức tín dụng trong thanh toán quốc tế cũng làm giảm áp lực và vốn kinh doanh, đặc biệt là nguồn ngoại tệ mạnh. 4. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện kinh doanh nhập khẩu và hợp lý hoá cơ cấu mặt hàng nhập khẩu 4.1. Lựa chọn phương án kinh doanh hợp lý Hoạt động trong cơ chế thị trường với mức độ ngày càng cạnh tranh khốc liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng một chiến lược kinh doanh đúng đắn phù hợp, kết hợp chặt chẽ cả mục tiêu trung, ngắn hạn và dài hạn, giảm sự phụ thuộc vào sự biến động của thị trường đồng thời thích ứng nhanh với sự biến động của môi trường kinh doanh. Bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào trên thương trường đều phải được tính toán trên nhiều phương diện để đạt được hiệu quả cao nhất hay mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường ngày càng khốc liệt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tận dụng hết thời cơ mà thị trường tạo ra trong khả năng cụ thể của mình. Do vậy để kinh doanh đạt đựoc hiệu quả cần phải lựa chọn phương án kinh doanh sao cho phù hợp. 4.2. Hợp lý hoá cơ cấu mặt hàng nhập khẩu Hiện nay nền sản xuất trong nước đã phát triển khá mạnh mẽ, công ty, xí nghiệp sản xuất trong nước đã từng bước đổi mới quy mô kỹ thuật, nâng cao năng suất chất lượng hàng hoá của mình. Hàng tiêu dùng sản xuất trong nước ngày càng tốt hơn với mẫu mã đẹp và khá phong phú. Xu thế người tiêu dùng đã chuyển dần hướng sang sử dụng hàng nội địa, trào lưu chuộng hàng ngoại dần dần giảm xuống. Xu thế này chắc chắn sẽ còn tiến triển hơn nữa trong những năm tới. 4.3. Chú trọng nghệ thuật đàm phán trong kinh doanh Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm, một doanh nghiệp hoạt động thương mại sẽ phải tiến hành đàm phán, ký kết rất nhiều hợp đồng. Để đàm phán thành công Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex phải nắm vững 3 yếu tố cơ bản của đàm phán: bối cảnh, thời gian và quyền lực sao cho đàm phán có lợi nhất. Bên cạnh đó Công ty cần phát huy tốt hơn nữa các nguyên tắc trong đàm phán, đó là “hiểu rõ đối tác, biết người biết ta, bách chiến bách thắng”, “tạo sự cạnh tranh”, “từng bước tiến tới mục tiêu”, “bình đẳng cùng có lợi”. 4.4. Quy định chặt chẽ các điều khoản trong hợp đồng Hợp đồng là cơ sở pháp lý để các bên thực hiện nghĩa vụ của mình trong thương vụ mua bán. Khi ký kết hợp đồng Công ty cần chú trọng đến các điều khoản về giá cả, chất lượng, số lượng, cơ sở điều kiện giao hàng.... một cách chặt chẽ, tránh thua thiệt và sai sót sau này. Các điều khoản của hợp đồng khi soạn thảo phải được cân nhắc kỹ và nên theo những mẫu đã được ban hành và sử dụng rộng rãi để tránh tình trạng hiểu nhầm gây tranh chấp. 5. Nhóm biện pháp về tổ chức cán bộ Hoạt động này là cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động cũng như năng suất lao động. Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ luôn là mục tiêu lâu dài của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex. Đội ngũ chuyên môn của Công ty phải là người có trình độ uyên thâm, biết sáng tạo và tạo lập môi trường làm việc thoải mái, tạo cảm giác hăng say cho người lao động. Tạo được bản sắc riêng cho Công ty là điều không đơn giản. Để làm được điều đó công ty cần triển khai một số hoạt động sau: - Công ty nên có kế hoạch chon nhân viên có trình độ chuyên môn tốt, phù hợp với vị trí mà họ được làm. Có như vậy, công ty mới đạt được hiệu quả sử dụng lao động cao. - Công ty cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn nhằm bồi dưỡng thêm nghiệp vụ chuyên môn cho nhân viên trong công ty. - Công ty cần phân định rõ nhiệm vụ của từng người trong các phòng ban. Công việc này nên giao cho trưởng phòng là thích hợp nhất bởi vì họ là người nắm rõ nhất năng lực của các nhân viên mà họ quản lý. Có như vậy mọi hoạt động của công ty mới đạt hiệu quả cao được. - Công ty nên sử dụng các hình thức khuyến khích vật chất và tinh thần để động viên người lao động như: tiền lương, tiền thưởng, nghỉ phép, tham quan dã ngoại, hoạt động ngoại khoá, ca nhạc biểu diễn, mỗi phòng ban có thể đề ra quy định sinh hoạt riêng cho mình, thoát ra khỏi các hoạt động của công ty như: thiết lập quỹ khen thưởng của phòng, tổ chức thi đấu thể thao giữa các phòng ban trong công ty. Các hoạt động này sẽ có tác động tích cực đối với người lao động giúp cho họ lấy lại được sự cân bằng, gây hứng thú say mê trong công việc cũng như tái tạo sức lao động. Ngược lại, công ty cũng cần có biện pháp quản lý chặt chẽ lao động như siết chặt kỷ luật lao động, thực hiện phê bình nghiêm khắc những trường hợp vi phạm quy định kỷ luật chung. - Công ty nên tăng cường hơn nữa các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, trợ cấp cho người về hưu để người lao động trong công ty có hướng làm việc lâu dài cho công ty, cống hiến hết mình cho công ty, tránh hiện tượng chảy máu chất xám. II. Một số kiến nghị đối với Nhà nước Trong cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp đều toàn quyền hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh của mình và tuân theo pháp luật. Vai trò của nhà nước là định hướng và tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát huy được khả năng kinh doanh của mình, đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế kinh doanh nhập khẩu cũng phát sinh không ít những khó khăn cần tới sự điều chỉnh vĩ mô từ phía Nhà nước để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và đóng góp chung cho hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Xuất phát từ thực tế đó, tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước như sau: 1. Tăng cường và mở rộng quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế Nhà nước cần duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá. Trên cơ sở đó các định đúng đắn các khu vực thị trường trọng điểm, có lợi cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Nhà nước phải là người dẫn dắt cho các đơn vị xuất nhập khẩu, trực tiếp làm ăn với các doanh nghiệp trong khu vực thị trường đó. 2. Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động nhập khẩu Cho đến nay, mặc dù các cơ quan quản lý Nhà nước đã cố gắng nhiều để dần dần hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động nhập khẩu nhưng vẫn còn một số tồn tại do nguyên nhân khách quan và chủ quan, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp nhập khẩu nói chung cũng như của Công ty nói riêng. Do vậy, để tạo thuận lợi cho hoạt động này, trong thời gian tới Nhà nước cần tiến hành những công việc sau: + Đơn giản hoá, bỏ bớt một số khâu không cần thiết gây phiền hà trong thủ tục nhập khẩu. Hiện tại có quá nhiều công ty quan tham gia vào hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp, ngoài Hải quan còn có các cơ quan quản lý của ngành, cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý địa phương.... Đôi khi giữa những bộ phận này có sự chồng chéo lẫn nhau trong việc quản lý và hoạt động theo những nguyên tắc không nhất quán gây nhiều khó khăn cho các đơn vị thương mại. Nên chăng, Nhà nước cần xây dựng một mô hình quản lý thống nhất để giảm bớt gánh nặng thủ tục cho doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp tận dụng được cơ hội kinh doanh. + Về thuế nhập khẩu: Nhà nước cần điều chỉnh lại thuế nhập khẩu như giảm dần mức thuế, hoàn thiện biểu thuế cụ thể, chính xác cho từng loại mặt hàng nhập khẩu để công ty có thể xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình một cách chủ động. 3. Tăng cường công tác quản lý ngoại tệ để đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động nhập khẩu Một khó khăn cho Công ty hiện nay là nguồn vốn ngoại tệ còn rất hạn chế, để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Công ty cũng như các doanh nghiệp nhập khẩu khác, Nhà nước có thể tiến hành: + Nhà nước có thể nới lỏng quan hệ trao đổi ngoại tệ giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Điều này giúp họ tận dụng được ngoại tệ nhàn rỗi của nhau, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. + Bên cạnh đó, Nhà nước cần giữ cho tỷ giá hối đoái ổn định ở một mức hợp lý, tránh những xáo động bất thường và không kiểm soát được của tỷ giá. Việc bình ổn tỷ giá của Nhà nước sẽ tạo tâm lý yên tâm cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. 4. Nhà nước nên hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp nhập khẩu + Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhập khẩu như: cho vay vốn với lãi suất thấp, trong thời gian dài Nhà nước có thể chỉ đạo để các Ngân hàng bảo lãnh cho các đơn vị nhập khẩu có thể vay được những khoản lớn từ các hãng sản xuất nước ngoài dưới hình thức trả chậm. Điều này đặc biệt quan trọng khi các đơn vị phải tiến hành những kế hoạch phân bổ quá lớn với khả năng của mình. Nhờ vậy, các đơn vị nhập khẩu như Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex có thể hoạt động dễ dàng và an toàn hơn. 5. Nhà nước nên tổ chức thông tin kinh tế cho các doanh nghiệp Thông tin ngày nay có vai trò hết sức quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp. Tuy nhiên việc nắm bắt thông tin của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh .Chính vì thế Nhà nước cần thường xuyên tổ chức các diễn đàn thông tin kinh tế cho các doanh nghiệp về tình hình kinh tế trong và ngoài nước, những biến động của thị trường, những dự đoán về tình hình biến động đó.... để các doanh nghiệp nhập khẩu có thể đưa ra kế hoạch kinh doanh nhập khẩu hợp lý ,tránh rủi ro. Nhà nước có thể thành lập các tổ chức thông tin kinh tế ở các đại sứ quán để doanh nghiệp có thể thu thập thông tin cần thiết về thị trường, sản phẩm, giá cả ở các quốc gia mà doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá. Đồng thời Nhà nước có thể xuất bản các ấn phẩm giới thiệu về những hàng hoá sản phẩm chuyên ngành. KẾT LUẬN Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong thực tế rất đa dạng, phức tạp chuyển biến không ngừng. Vì vậy nó đòi hỏi phải được bổ sung và hoàn thiện theo thời gian. Vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu hàng hoá nói riêng và kinh doanh nói chung là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp và của toàn xã hội. Đây thực sự là đề tài rộng lớn và phức tạp mà để giải quyết nó không những phải có trình độ hiểu biết, năng lực, kiến thức rộng lớn mà còn đòi hỏi có nhiều kinh nghiệm thực tế cọ xát trên thương trường. Để tài đã xây dựng trên cơ sở tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex thời cơ chế thị trường, từ đó phân tích rút ra những kết luận có ý nghĩa thiết thực đối với không chỉ hoạt động nhập khẩu của Công ty mà với cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung hiện nay. Bằng những kiến thức tích luỹ được trong quá trình học tập tại trường. Cộng với thời gian vừa qua trực tiếp khảo sát thực tế tại Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex, kết hợp với việc tham khảo một số sách vở, tài liệu, em đã hoàn thiện đề tài "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex" với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn. Với thời gian thực tập có hạn và trình độ bản thân còn nhiều hạn chế. Cho nên bản chuyên đề này còn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp bổ sung ý kiến của các thầy cô giáo. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. GS. PTS. Tô Xuân Dân - Giáo trình kinh tế học quốc tế - NXB Thống kê năm 1999 2. PGS. PTS. Đặng Đình Đào - Giáo trình kinh tế thương mại và dịch vụ - NXB Thống kê năm 1997 3. TS. Nguyễn Thị Hường - Giáo trình Kinh doanh quốc tế - NXB Thông kê năm 2000 4. TS. Nguyễn Thị Hường - Giáo trình quản trị dự án đầu tư nước ngoài - NXB Thông kê năm 2001 5. Quản trị Kinh doanh tổng hợp trong các doanh nghiệp – Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật năm 1997 6. Báo cáo tài chính của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex. 7. Một số số liệu về Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0508.doc
Tài liệu liên quan