Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu so với kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty qua các năm tuy có tăng trưởng nhưng nhìn chung kim ngạch xuất khẩu chưa chiếm được vị trí chủ đạo, vẫn còn thấp so với kim ngạch nhập khẩu. Trung bình trong 5 năm ( 1998 - 2002 ) kim ngạch xuất khẩu chỉ chiếm 32,092% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, chỉ có năm 2001 là đạt 62,20% còn các năm khác đều thấp hơn 46% (trong đó có tới 3 năm nhỏ hơn 21%, xem bảng 1).
Các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận tuy đều lớn hơn 0 và tăng trưởng qua các năm nhưng vẫn còn thấp so với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Cụ thể trung bình trong 3 năm ( 2000 - 2002 ): doanh thu xuất khẩu chỉ chiếm 37,68% tổng doanh thu của Công ty, lợi nhuận sau thuế chỉ chiếm 38,63% từ đó lại càng khẳng định rằng hoạt động nhập khẩu mới chiếm vai trò chủ đạo trong doanh thu của Công ty.
87 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1503 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của Công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g chi phí
--
308.470,66
362.127,41
324.178,6
6
Lợi nhuận ST
--
409,59
617,16
585,07
7
Vòng quay VLĐ (7 =1:3 )
Vòng
2,872
3,315
2,984
8
Vòng quay tổng vốn
(8 =1:4)
Vòng
2,397
2,652
2,365
9
Mức doanh lợi VCĐ
(9 =6: 2)
Trđ/trđ
0,01918
0,02254
0,0205
10
Mức doanh lợi VLĐ
(10 =6 :3)
Trđ/trđ
0,0038
0,0056
0,0054
11
Mức doanh lợi tổng vốn
(11 =6: 4)
--
0,0032
0,0045
0,0043
12
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu (12= 6:1)
--
0,001325
0,0017
0,0018
13
Tỷ suất lợi nhuận theo tổng chi phí
( 13 = 6: 5)
--
0,001328
0,001704
0,001804
Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2000, 2001, 2002
2. Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu ( hiệu quả bộ phận )
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu chỉ là một trong 4 lĩnh vực kinh doanh bộ phận trong cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó mặt hàng nông sản thực phẩm chiếm vị trí lớn, các mặt hàng khác nhỏ lẻ chiếm tỷ trọng nhỏ và không thường xuyên. Để cho việc đánh giá hiệu quả kinh doanh một cách dễ dàng ta coi như Công ty chỉ kinh doanh xuất khẩu mặt hàng nông sản thực phẩm. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của Công ty được thể hiện qua bảng 8:
Nhìn vào bảng 8 ta thấy rằng: các chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận xuất khẩu của Công ty đều lớn hơn 0 và đều tăng theo các năm, điều này chứng tỏ rằng Công ty làm ăn có hiệu quả so với nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản không có lãi ( riêng năm 2002 chỉ số này có giảm là do kinh ngạch xuất khẩu hàng nông sản qua biên giới giảm so với năm trước đó).
Qua bảng 8 ta cũng thấy rằng tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu và theo chi phí xuất khẩu đều tăng tuy rằng tổng chi phí thực hiện xuất khẩu của Công ty qua các năm đều tăng nhưng bù lại thì tổng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu lại tăng nhanh hơn. Nhất là năm 2002 mặc dù hoạt động xuất khẩu của Công ty gặp khó khăn hơn các năm trước đó nhưng bằng những lỗ lực của mình, cán bộ nhân viên Công ty đã làm cho chí phí xuất khẩu giảm nhanh hơn tốc độ giảm của doanh thu từ đó khiến cho tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu và chi phí xuất khẩu của năm này lại có hiệu quả cao nhất.
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh và vốn lưu động cho hoạt động xuất khẩu của Công ty đều có lãi và nhìn chung là đều tăng qua các năm. Riêng năm 2002 giảm do của công tác kiểm tra những hoá đơn hoàn thuế GTGT đối với những mặt hàng xuất khẩu nông sản qua biên giới Trung Quốc năm 2001 khiến cho một số lượng hàng mà Công ty dự kiến xuất khẩu trong năm 2002 gặp khó khăn phải bán với giá thấp hoặc để tồn kho.
Bảng 8: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của Công ty
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1
Doanh thu XK
USD
2.930.579
9.157.368
15.054.705
3.003.884
2
Doanh thu XK
Trđ
35.166,9
119.045,8
210.768,7
45.959,4
3
Vốn kinh doanh
--
113.448
128.951
136.872
137.423
4
Vốn lưu động
--
107.324
107.593
109.498
108.931
5
Vốn cố định
--
6.124
21.358
27.374
28.501
6
Tổng chi phí XK
--
35.082,34
118.758,95
210.260,3
45.838,94
7
Lợi nhuận ST
--
57,5
195,058
345,712
81,9098
8
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu
( 8 =7 : 2)
Trđ/trđ
0,001635
0,0016385
0,0016402
0,0017822
9
Tỷ suất lợi nhuận theo chí phí XK
(9 =7 : 6 )
--
0,001639
0,0016424
0,0016442
0,0017869
10
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn kinh doanh
( 10 = 7 : 3 )
--
0,0005
0,0015126
0,0025258
0,000596
11
Tỷ suất lợi nhuận theo VLĐ
( 11 = 7: 4 )
--
0,000535
0,0018129
0,0031572
0,000752
12
Tỷ xuất lợi nhuận theo VCĐ
( 12 = 7 : 5 )
--
0,00939
0,0091328
0,0126292
0,0028739
13
Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu
( 13 = 6 : 1)
Trđ/USD
0,011971
0,0129687
0,0139664
0,0152599
14
Tỷ lệ lãi (lỗ) xuất khẩu
( 14 = (2- 6): 6 )
Trđ/trđ
0,0024104
0,0024154
0,00241796
0,0026279
Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Công ty năm 1999 - 2002
Còn hiệu quả sử dụng vốn cố định tuy có lãi nhưng lại lên xuống thất thường, năm 2000 giảm do cuối năm 1999 Công ty đầu tư cho dây chuyền sản xuất hạt điều và chế biến dứa nên vốn cố định năm 2000 tăng đột biến nhưng do nguyên liệu đáp ứng cho dây chuyền chế biến không được đáp ứng thường xuyên nên sản phẩm làm ra không đảm bảo đủ thường xuyên tốt cho xuất khẩu. Hàng xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô hoặc có chế biến thì là hàng uỷ thác.
Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu luôn nhỏ hơn tỷ giá của đồng USD qua các năm. Tuy tỷ lệ chênh lệch thấp nhưng điều này vẫn chứng tỏ rằng công tác xuất khẩu của Công ty trong 4 năm qua là luôn có hiệu quả. Trung bình trong 4 năm thông qua hoạt động xuất khẩu của mình cứ 1 triệu đồng vốn bỏ ra Công ty đã thu về 0.0135415 USD vừa góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ cho Công ty và đất nước.
Theo tỷ lệ lãi ( lỗ ) xuất khẩu thì hoạt động xuất khẩu của Công ty trong năm qua đều có lãi và tốc độ tăng của lãi luôn cao hơn tốc độ tăng của chi phí xuất khẩu của Công ty bỏ ra khiến tỷ lệ lãi xuất khẩu luôn tăng theo các năm. Đặc biệt là năm 2002 tăng đột biến 209,94 đồng/ 1triệu đồng bỏ ra so với năm 2001, trong khi các năm khác so với năm trước chỉ tăng khoảng 2,5 đồng/1 triệu đồng bỏ ra.
Nhận xét: Nhìn chung trong 4 năm quả thì Công ty thực hiện hoạt động xuất khẩu là tương đối tốt. Lợi nhuận đem lại trên chi phí bỏ ra luôn tăng tuy nhiên mức độ tăng của các chỉ tiêu hiệu quả vẫn còn thấp so với các doanh nghiệp làm ăn tốt khác. Vì vậy để có thể lấy lại vị thế kinh doanh xuất khẩu của mình như trước kia đòi hỏi Công ty phải có những cố gắng hơn nữa.
3. Hiệu quả kinh tế- xã hội
Khi thực hiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu Công ty đã từng bước tạo ra cho xã hội những hiệu quả kinh tế- xã hội sau:
Trực tiếp tạo công ăn việc làm và thu nhập chính đánh cho 1.200 cán bộ công nhân viên trong biên chế và 1.800 khi vào mùa vụ sản xuất. Đồng thời Công ty cũng gián tiếp tạo công ăn việc làm và thu nhập cho các hộ gia đình nhờ cung cấp nguyên liệu đầu vào cho 2 nhà máy hạt điều Vĩnh Hòa và chế biến dứa Bắc Giang.
Do kinh doanh có hiệu quả nên góp phần vào việc tăng trưởng GDP và hàng năm Công ty thực hiện nộp vào ngân sách Nhà nước trên 20 tỷ đồng. Từ đó gián tiếp góp phần cùng với Nhà nước thực hiện các chính sách đầu tư phát triển cho cộng đồng.
Nhờ hoạt động kinh doanh xuất khẩu có lãi nên đã khuyến khích ngành cung cấp đầu vào phát triển theo. Nhất là việc phát triển các loại cây trồng đã tích cực tham gia vào cải tạo môi sinh, phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Qua đó đã giúp nhà nước phần nào trong việc đầu tư trồng rừng.
4. Những biện pháp Công ty áp dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu
Để giảm bớt việc xuất khẩu hàng nông sản thô, tăng khả năng cạnh tranh, tăng doanh thu trong nhưng năm qua Công ty đã đầu tư 3 tỷ đồng cho dây chuyền chế biến hạt điều và 13 tỷ đồng cho dây chuyền chế biến dứa hộp.
Để tăng cường tính năng động của các phòng ban, ban lãnh đạo Công ty đã thực hiện cơ chế khoán kinh doanh xuất nhập khẩu có khen thưởng đối với các phòng ban nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Các phòng nghiệp vụ này tuy hoạt động độc lập nhưng chịu sự giám sát chặt chẽ của ban lãnh đạo để có thể kết hợp với nhau vì mục tiêu chung của cả Công ty.
Ngoài việc ổn định thị trường xuất khẩu truyền thống Asean, Trung Quốc, để giảm bớt rủi ro, tăng doanh thu Công ty đã và đang thực hiện việc tìm kiếm thị trường mới nhất là các nước công nghiệp phát triển.
Để thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm thì Công ty tiếp tục khai thác ổn định các mặt hàng mặt hàng như quế, điều, ý dĩ..v.v.. đồng thời khai thác trở lại các mặt hàng truyền thống trước đây như: lạc nhân, cà phê, hạt tiêu.
Tăng cường công tác quản lý kiểm tra, báo cáo ( nhất là về tài chính ) đối với các đơn vị cơ sở kinh doanh sản xuất để nắm bắt và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh vì tình hình kinh doanh ngày càng khó khăn, sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản luôn biến động.
Để có thể ổn định công tác thu mua nguồn hàng cho hoạt động xuất khẩu Công ty đã và đang phối hợp với các tỉnh thuộc Tây Nguyên, Bắc Giang..v.v... đầu tư quy hoạt vùng nguyên liệu.
Để nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu Công ty cũng tiến hàng đầu phối hợp với các địa phương cho trồng các loại giống mới như ở vùng Bắc Giang, Công ty đã đầu tư trồng 1000 ha giống dứa quả to Cayen.
5. Đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của Công ty
5.1 Thành tích đạt được và nguyên nhân
Thành tích
Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của Công ty trong 4 năm qua là tốt, hoạt động đều có lãi và đều tăng trưởng qua các năm. Tuy doanh thu và chi phí xuất khẩu tăng nhưng Công ty đã thực hiện tốt các biện pháp để tốc độ tăng của doanh thu lớn hơn tốc độ tăng của chi phí khiến cho lợi nhuận và các chỉ tiêu tính theo lợi nhuận luôn tăng.
Sản lượng xuất khẩu hàng nông sản cũng tăng theo các năm nhất là năm 2000 so với năm 1999 tốc độ tăng trưởng lên hơn 200% đạt khoảng 9.150.000 tấn.
Năm 2000 - 2001 tình hình xuất khẩu của công ty là tốt khi mà tốc độ tăng của sản lượng xuất khẩu nhỏ hơn tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu (xem bảng 4).
Tình hình tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty luôn đạt mức cao hơn so với tình hình tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nông sản của cả nước.
Nguyên nhân của những thành tích trên
Do tỷ giá hối đoái của VNĐ tính theo USD liên tục tăng trong các năm qua làm cho khả năng cạnh tranh của những mặt hàng xuất khẩu của nước ta nhìn chung là tăng so với các nước khác từ đó doanh thu sẽ tăng lên nhanh hơn chi phí làm cho lợi nhuận tăng.
Do Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu nói chung và nông sản nói riêng như: hoàn- miễn- giảm thuế đối với hàng xuất khẩu; đầu tư phát triển vùng nguyên liệu nông sản xuất khẩu..v.v..
Duy trì được mối quan hệ làm ăn uy tín chất lượng với các bạn hàng truyền thống cho các mặt hàng như Nhật Bản (ý dĩ ), Trung Quốc ( điều, hoa quả tươi), ấn Độ ( chè, quế, hồi )..v.v...
Công ty cũng thực hiện đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, tập trung xuất khẩu những mặt hàng có giá bán cao như điều, quế, ý dĩ, long nhãn....Đồng thời Công ty cũng tăng cường xuất khẩu hàng chế biến tuy rằng vẫn còn ít.
Thực hiện kinh doanh chế độ khoán cho các phòng ban nghiệp vụ khiến cho các phòng này năng động, tích cực hơn trong việc tìm kiếm nguồn hàng thị trường và đàm phán- kí kết- thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Thực hiện tốt chế độ quản lý và tăng cường tiết kiệm chi phí qua việc tăng cường hoạt động xuất khẩu trực tiếp giảm bớt hoạt động xuất khẩu gián tiếp trung gian.
5.2 Những mặt còn tồn tại và nguyên nhân
Những tồn tại
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu so với kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty qua các năm tuy có tăng trưởng nhưng nhìn chung kim ngạch xuất khẩu chưa chiếm được vị trí chủ đạo, vẫn còn thấp so với kim ngạch nhập khẩu. Trung bình trong 5 năm ( 1998 - 2002 ) kim ngạch xuất khẩu chỉ chiếm 32,092% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, chỉ có năm 2001 là đạt 62,20% còn các năm khác đều thấp hơn 46% (trong đó có tới 3 năm nhỏ hơn 21%, xem bảng 1).
Các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận tuy đều lớn hơn 0 và tăng trưởng qua các năm nhưng vẫn còn thấp so với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Cụ thể trung bình trong 3 năm ( 2000 - 2002 ): doanh thu xuất khẩu chỉ chiếm 37,68% tổng doanh thu của Công ty, lợi nhuận sau thuế chỉ chiếm 38,63% từ đó lại càng khẳng định rằng hoạt động nhập khẩu mới chiếm vai trò chủ đạo trong doanh thu của Công ty.
Qua 4 năm gần đây thì tốc độ tăng trưởng của doanh thu xuất khẩu so với lượng hàng được xuất khẩu có năm cao hơn có năm lại thấp hơn, đặt biệt là năm 2002 tốc độ tăng trưởng của doanh thu và lượng hàng xuất khẩu đều âm nhưng tốc độ tăng của doanh thu lại thấp hơn 1,7 lần so với tốc độ tăng của sản lượng xuất khẩu . Nếu như loại bỏ đi sự giá của đồng USD thì khoảng cách chênh lệch này sẽ càng lớn.
Vẫn còn để nhiều hoạt động không cần thiết làm tăng chi phí kinh doanh và chi phí xuất khẩu như hoạt động đàm phán xây dựng văn phòng cho thuê Opera kéo dài từ năm 2001 đến đầu năm 2003 mới kết thúc, hoạt động thanh tra hoá đơn thuế GTGT ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu..v.v..
Kết quả thu được trên chi phí bỏ ra, đều phản ánh tình hình kinh doanh nói chung và xuất khẩu nói riêng của Công ty là có tăng trưởng nhưng tốc độ tăng còn quá thấp. Đặc biệt hiệu quả sử dụng vốn ( nhất là vốn có định ) của Công ty là thấp.
Thị trường của Công ty phụ thuộc quá nhiều vào thị trường các nước Asean, Trung Quốc ( Năm 2000 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 74%, năm 2001 chiếm 80% ) nên năm 2002 khi Công ty gặp khó khăn trong việc xuất khẩu hàng nông sản qua biên giới Trung Quốc thì kim ngạch xuất khẩu giảm đáng kể.
Nguyên nhân của những tồn tại trên
Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Công ty nói riêng vẫn chưa cao so với các nước khác nên buộc phải bán với giá thấp hơn để cạnh tranh. Hàng xuất khẩu chủ yếu là thô và sơ chế.
Do sự phân tán rộng lớn của các mặt hàng Công ty thực hiện xuất khẩu theo chiều dài của đất nước cộng với những tiêu cực trong quản lý của chính quyền địa phương và nhận thức của người nông dân về kí kết hợp chưa cao nên dẫn tới tình trạng tranh giành thu mua giữa các Công ty thực hiện xuất khẩu với nhau hoặc với tư thương từ đó làm cho nguồn hàng khó được khai thác một cách ổn định phục vụ cho xuất khẩu.
Việc đầu tư vào vùng nguyên liệu cho 2 nhà máy chế biến Vĩnh Hoà và Bắc Giang vẫn chưa đạt được hiệu quả nên 2 nhà máy này vẫn chưa hoạt động hết công suất, thậm chí có năm Công ty phải bù lỗ cho 2 nhà máy này
Vẫn còn tình trạng bị động trong xuất khẩu, tình trạng xuất khẩu “nóng” (có hợp đồng với bắt đầu tìm nguồn hàng thu gom), xuất khẩu uỷ thác vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Công tác nghiên cứu thị trường của Công ty chưa được chú trọng đúng mức, nó được giao trực tiếp cho các phòng nghiệp vụ từ đó dễ dẫn tới nghiên cứu thị trường trùng giữa các phòng này với nhau.
Bộ máy quản lý của Công ty là tương đối lớn và hàng năm thì vẫn tăng số lượng nhân viên quản lý. Sự quản lý và quan tâm chỉ đạo của ban lãnh đạo tới hoạt động của các phòng ban cũng như các chi nhánh chưa cao nên trong năm 2001 một số phòng ban, cán bộ trong công ty vẫn vi phạm pháp luật trong hoạt động xuất khẩu.
Bạn hàng của Công ty chủ yếu là các nước thuộc khu vực châu á và các nước đang phát triển còn các nước công nghiệp phát triển Công ty vẫn chưa thực sự tạo được uy tín. Nên số lượng hợp đồng đặt hàng đặt các nước này không được thường xuyên và lớn.
Trình độ cán bộ nhân viên của Công ty nói chung và trong hoạt động xuất khẩu nói riêng vẫn còn hạn chế nhất là trong khâu kí kết hợp đồng cán bộ không tự tin vào trình độ chuyên môn của mình để quyết định ngay việc nên ký hay không mà thường phải thông qua cấp trên nên nhiều hợp đồng bị mất.
Chương III Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty agrexport hà nội
Xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thu ngoại tệ cho đất nước.
Nâng cao hiệu quả xuất khẩu là mục tiêu của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Song trong điều kiện hiện nay, tình hình xuất khẩu có nhiều biến động, đặc biệt là sự biến động của giá các mặt hàng nông sản lên xuống thất thường trên thị trường thế giới. Điều này đòi hỏi Nhà nước cùng với các doanh nghiệp phối hợp với nhau để đưa ra phương hướng và chiến lược phát triển thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao trong kinh doanh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng nông sản nói riêng.
I. Phương hướng - nhiệm vụ nhằm phát triển kinh doanh của công ty trong thời gian tới
1. Phương hướng nhiệm vụ chung của toàn Công ty
Công ty đăng ký với Tổng công ty nhiệm vụ kinh doanh năm 2003 là
Tổng kim ngạch XNK: 25 triệu USD trong đó nhập khẩu đạt 14 triệu USD, xuất khẩu đạt 11 triệu USD.
Kinh doanh nội địa doanh thu đạt 95 tỷ đồng.
Văn phòng Công ty: Bố trí, sắp xếp lại tổ chức Công ty, các đơn vị, phòng ban để hoạt động tốt hơn phù hợp hơn. Thực hiện chế độ khoán trong kinh doanh, trong các hoạt động khác, có thưởng, phạt rõ ràng. Đảm bảo đời sống tối thiểu cho CBCNV theo mức thu nhập của từng địa phương, đơn vị mà các đơn vị đăng ký.
Đối với chi nhánh TPHCM: Tăng cường xuất khẩu hàng nông sản từ đầu vụ như lạc, đậu đỗ, sắn theo nguyên tắc đảm bảo cân bằng thu chi.
Đối với nhà máy Bắc Giang: Khai thác năng lực và công suất của nhà máy để thực hiện kế hoạch sản xuất chế biến 5,600 tấn dứa có hiệu quả tối đa và các sản phẩm khác như vải, dưa chuột..v.v... Tổ chức và triển khai các kinh doanh phụ như xuất nhập khẩu, chế biến kinh doanh hàng nội địa và gia công cho đơn vị khác. Trực tiếp tổ chức quản lý vùng nguyên liệu cho nhà máy gồm cả dây chuyền 2 ( nước dứa cô đặc) theo Quyết định 80CP. ổn định tổ chức của nhà máy từ sản xuất đến hành chính, kỹ thuật..v.v...
Chi nhánh Hải Phòng: Tổ chức khai thác tốt kho hàng có sẵn, tìm đối tác để sớm tăng hiệu quả của kho hàng.Tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu và các dạng khác.
Liên doanh OPERA: Làm việc với đối tác giải quyết dứt điểm việc liên doanh trong quý 1/2003.
Xí nghiệp Điều Vĩnh Hoà: Đầu tư một số trang thiết bị để có thể đưa công suất lên 2.000 tấn/ năm và giữ được mức lãi bằng và hơn năm 2002. Đặc biệt chú ý khâu nguyên liệu và chế biến.
2. Phương hướng nhiệm vụ kinh doanh xuất khẩu năm 2003:
Sang năm 2003 Công ty dự định sẽ tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu cụ thể: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 25 triệu USD trong đó xuất khẩu 11 triệu USD lợi nhuận tịnh 3 tỷ đồng.
Công ty cũng khẳng định rằng thị trường chính của mình vẫn là các nước Asean, Trung Quốc đồng thời từng bước tìm kiếm thị trường mới để tránh việc phải phụ thuộc quá lớn vào hai thị trường này.
Tiếp tục khai thác và đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản, đồ hộp, đồ khô đi Trung Quốc ( vì theo đánh giá hàng nông, lâm, hải sản, rau quả, cao su..v.v... chưa đáp ứng đủ yêu cầu của bạn). Khai thác phục hồi trở lại mặt hàng xuất khẩu như lạc, cà phê, hạt tiêu..v.v... Đồng thời công ty cũng cố gắng tích cực tìm kiếm mặt hàng mới phục vụ cho xuất khẩu.
Công ty cùng tỉnh Bắc Giang chủ động phối hợp đầu tư tạo vùng nguyên liệu dứa loại Cayen để sớm đưa dây chuyền 2 chế biến nước dứa cô đặc vào sản xuất, đồng thời lo tìm thị trường đầu ra cho loại hàng này ( Loại hàng mà thế giới đang cần từ đó có thể thu được một khoản lợi nhuận lớn.). Nhằm nâng cao tỷ trọng xuất khẩu hàng nông sản chế biến.
Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng bảo đảm vay đủ vốn cho sản xuất kinh doanh của Công ty và các đơn vị thành viên.
Giải quyết dứt điểm vấn đề VAT từ những năm trước và một số tồn tại lâu trong kinh doanh cần phải giải quyết ngay.
Bảng 9: Kế hoạch thực hiện kim ngạch xuất khẩu của Công ty năm 2003
Đơn vị USD
TT
Mặt hàng
Kế hoạch 2003
Tỷ lệ% so sánh
năm 2002
Lượng (Tấn)
Tiền (USD)
Tổng trị KNXNK
25.000.000
Tăng 16,3%
I.
Xuất khẩu
11.000.000
Tăng 17,88%
1
Lạc nhân
1.700
900.000
2
Hạt điều
100
3.330.000
3
Cao su
1.500
780.000
4
ý dĩ
1.400
800.000
5
Cà phê
800.000
6
Hàng NLS Quế, hồi, chè...
1.000.000
7
Đồ hộp: dưa, dừa
2.000.000
8
Hạt tiêu
300
400.000
9
Hàng khác
1.000.000
Nguồn: Báo cáo công tác năm 2002 của Công ty.
Bảng 10: Thị trường xuất khẩu của Công ty năm 2003
STT
Thị trường
Kế hoạch năm 2003
Tỷ lệ so sánh năm 2002 (%)
Lượng (tấn)
Giá trị (USD)
1
Trung Quốc
830.560,92
4.560.306,4
Tăng 320%
2
Nhật Bản
83.460
962.680,5
Tăng 50%
3
Hồng Công
63.878
845.486,4
Tăng 10%
4
Đài Loan
18.120
243.320
5
ấn Độ
38.676
512.078
6
Asean
4.512.612
7
Tây Âu
2.135.600
Nguồn: Báo cáo công tác năm 2003 của Công ty
Toàn thể cán bộ công nhân viên của Công ty quyết tâm đạt cho được kế hoạch đã đề ra.
Qua hai bảng 9, 10 kế hoạch xuất khẩu của Công ty ta thấy rằng, Công ty đã đặt ra mục tiêu là ngoài việc tiếp tục khai thác các mặt hàng chủ lực của năm 2002 ra, Công ty còn quyết tâm tìm kiếm khai thác thị trường đã mất trước đây của một số mặt hàng như: Lạc nhân, Cà phê, Hạt tiêu và tìm kiếm thị trường mới cho mặt hàng đồ hộp ( dứa, vải, dừa ..v.v...).
Về thị trường thì ngoài việc tiếp tục khai thác các thị trường chính Asean, Trung Quốc, Công ty còn cố gắng cải thiện chất lượng hàng hoá để thâm nhập vào thị trường của các nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Tây Âu và một số thị trường như Hồng Kông, ấn Độ, Đài Loan mà Công ty đã để giảm thị phần năm 2002 so với năm 2000-2001.
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty agrexport Hà Nội
Trong những năm qua, hoạt động xuất khẩu của Công ty đã đạt được những kết quả tương đối tốt, không chỉ đem lại lợi nhuận mà còn đem lại uy tín cho Công ty. Tuy nhiên trong thời gian qua vẫn còn nhiều yếu tố khách quan và chủ quan gây khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Công ty. Nó làm giảm hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của Công ty. Trên cơ sơ thực tế đó, sau một thời gian thực tập tại Công ty và với kiến thức tích luỹ được tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau mong rằng có thể đóng góp phần nào vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh kinh doanh xuất khẩu của cả nước nói chung và của Công ty nói riêng.
1. Giải pháp về phía Công ty
Hoàn thiện công tác tạo nguồn
Có làm tốt công tác này thì Công ty mới biết được trong tay mình đang có loại hàng gì, số lượng, chất lượng, mẫu mã chủng loại ra sao..v.v... từ đó sẽ chủ động hơn trong công tác tìm kiếm, đàm phán và thực hiện hợp đồng với các đối tác kinh doanh. Đồng thời qua đó cũng giảm bớt đi chi phí, thời gian thu mua hàng. Hoàn thiện công tác tạo nguồn đòi hỏi công ty cần nghiên cứu kĩ thị trường tiêu dùng cần mặt hàng như thế nào sau đó mới tiến hàng quy hoạt vùng nguyên liệu sao cho hợp lý.
Trong những năm qua hoạt động xuất khẩu của Công ty vẫn còn bị động, thực hiện xuất khẩu “ nóng” chiếm một vị trí khá lớn. Các hình thức thu mua nguồn hàng phục vụ sản xuất và xuất khẩu của Công ty tuy vẫn được các chi nhánh đặt tại thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Bang, Vĩnh Hoà và Công ty tại Hà Nội thực hiện nhưng nhìn chung là vẫn còn xa so với các vùng nguyên liệu, quan hệ lại không thường xuyên nên khó ký kết được hợp đồng.
Do đó để có thể ký kết được hợp đồng một cách chắc chắn hơn, hoàn thiện công tác tạo nguồn thì Công ty có thể đặt thêm các văn phòng đại diện của mình ở các vùng nguyên liệu (có thể do người dân ở đó làm ) từ đó vừa tạo được mối quan hệ thân mật với nơi cung cấp nguồn hàng, đồng thời để tạo uy tín với người dân, Công ty cũng cần thực hiện nghiêm các hợp đồng bao tiêu sản phẩm đã ký kết dù giá vào thời điểm mua có cao hơn so với giá trong hợp đồng hoặc Công ty cũng nên thành lập một quỹ nhằm phối hợp với chính phủ hạn chế bớt tình trạng thua lỗ trong trồng cây nông nghiệp của nông dân do giá bán hạ một cách đột ngột.
Đồng thời Công ty cũng phối hợp với các địa phương đầu tư vùng nguyên liệu như cung cấp giống, cho vay vốn ( đặt cọc trước 1 phần hợp đồng đã ký kết ) giao cho địa phương quản lý, phối hợp với cán bộ nông nghiệp hướng dẫn quy trình trồng trọt chăn nuôi..v..v ...như đã làm ở Bắc Giang và các tỉnh Tây Nguyên.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng nông sản
Là việc mà Công ty làm cách nào đó khiến cho khách hàng thích tiêu dùng hàng của mình hơn hàng của đối thủ cạnh tranh từ đó giúp cho Công ty dễ dàng bán được hàng hơn nhằm tăng lợi nhuận và nâng cao được uy tín của mình lên. Nâng cao khả năng cạnh tranh chính là nâng cao những lợi thế hàng của Công ty so với hàng của đối thủ cạnh tranh. Để làm được điều này Công ty cần:
Do hiện nay Công ty thực hiện xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản chưa qua chế biến và sơ chế. Vì vậy Công ty cần tiến hành đầu tư cho khâu chế biến hàng nông sản vì hàng nông sản qua chế biến sẽ có được nhiều lợi thế cạnh tranh hơn do Công ty có thể tận dụng được nguồn nguyên liệu và giá nhân công rẻ hơn so với các nước khác; do các nước xuất khẩu nông sản trên thế giới hiện nay chủ yếu là dưới dạng thô và sơ chế trong khi thị trường đang cần nhiều hàng nông sản qua chế biến..v.v... Để làm được điều này thì trước mắt Công ty cần khai thác hết công suất hoạt động của 2 nhà máy chế biến Vĩnh Hoà và Bắc Giang. Hiện nay, hai nhà máy này còn thiếu nguyên liệu đầu vào, vì vậy Công ty cần thành lập quỹ phối hợp với chính quyền địa phương đầu tư, cung cấp cho nông dân ở các vùng lân cận giống cây phù hợp với dây chuyền của nhà máy. Công ty có thể khuyến khích hộ gia đình mở rộng diện tích cây trồng cùng cấp nguyên liệu cho nhà máy, cụ thể: nếu hộ gia đình nào ( theo lựa chọn của nhà máy ) thực hiện trồng, kí hợp đồng cung cấp nguyên liệu theo yêu cầu của nhà máy thì sẽ được nhà máy ký hợp đồng thuê lao động với con em họ ( 1người/ số lượng nguyên liệu nhà máy yêu cầu). Từ đó khuyến khích hộ gia đình này tích cực tăng diện tích cây trồng, cung cấp đầu vào ổn định hơn.
Đầu tư cho công tác bảo quản vận chuyển từ đó mới giữ được chất lượng hàng hoá được lâu. Cụ thể: Công ty cần đầu tư đóng, nhập khẩu các phương tiện vận chuyển chuyên dùng phương tiện kho lạnh, nâng cấp thiết bị vận chuyển để đảm bảo hàng không bị hư hao, mất mát, đổ vỡ và suy giảm chất lượng trên đường vận chuyển; khôi phục hệ thống vận tải đông lạnh bằng đường biển trên một số luồng quan trọng. Vì hiện nay các thiết bị này trong Công ty hầu như đều có từ trước những năm 80 đã quá cũ kĩ, lạc hậu, kém hiệu quả, tăng chi phí.
áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000 và các tiêu chuẩn kĩ thuật của các nước công nghiệp phát triển có vậy mới mong hàng hoá qua được cửa khẩu kiểm tra các nước này và được người tiêu dùng chấp nhận, muốn vậy Công ty cần có chính sách đầu tư cho các khâu: nghiên cứu thị trường, thu mua nguồn hàng, sản xuất, đóng gói, quá trình cung ứng thiết kế, triển khai sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng .v.v... cho tốt. Điều cần nhất là Công ty phải phối hợp với các cán bộ khoa học địa phương các vùng nguyên liệu tổ chức các chương trình hướng dẫn quy trình trồng trọt, chăn nuôi cho bà con nông dân theo đúng kĩ thuật tiêu chuẩn chất lượng mà các thị trường yêu cầu.
Công ty cũng cần phải thực hiện đa dạng hoá các mặt hàng nông sản vừa tránh được rủi ro vừa tăng khả năng lựa chọn loại cho khách hàng từ đó tăng khả năng cạnh tranh. Bởi vì hiện nay Công ty chỉ thực hiện xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng nông sản có nguồn gốc từ cây trồng còn thị trường nông sản là sản phẩm từ chăn nuôi thì công ty thực hiện rất ít ( có thể nói là không có ). Để khắc phục điều này, trước mắt Công ty có thể nhận xuất khẩu uỷ thác cho một số đơn vị chế biến hàng nông sản là sản phẩm từ chăn nuôi và sau khi đã tìm kiếm được thị trường đầu ra chắc chắn cho nguồn hàng này thì công ty có thể tự mình thực hiện xuất khẩu từ khâu đầu tới cuối.
Công ty cũng phải đầu tư xây dựng những vùng sản xuất hàng nông sản sạch từng bước đáp ứng những tiêu chuẩn ngày càng khắt khe của các nước trên thế giới, đồng thời Công ty cũng phải đầu tư mua thêm những máy móc thiết bị nhằm kiểm tra độ an toàn của các loại mặt hàng khi tiến hàng thu mua.
Tăng cường khả năng huy động vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Vốn là yếu tố quyết định rất lớn tới thành công trong hoạt động kinh doanh của các công ty Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nó giúp cho Công ty có sự chủ động vốn cho hoạt động kinh doanh lúc cần thiết từ đó có thể tận dụng tốt những cơ hội kinh doanh. Mặt khác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp cho Công ty hạn chế khả năng bỏ vốn vào những chi phí không cần thiết mà vẫn có thể thu được kết quả như ý.
Hiện nay, vốn vay của Công ty chiếm tới 82% vốn kinh doanh, vì vậy mà hàng năm Công ty phải giành một khoản tiền khá lớn cho công việc trả lãi.
Công ty có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút nguồn vốn từ bên ngoài Công ty.
Có thể chuyển thành Công ty cổ phần với sự đóng góp mua cổ phần của công nhân viên trong Công ty từ đó vừa giúp cho Công ty tăng khả năng huy động vốn, vừa làm cho cán bộ công nhân viên trong Công ty hoạt động tích cực hơn trên đồng vốn mình bỏ ra. Từ đó giảm được chi phí kinh doanh do giảm vốn vay.
Tăng cường các mối quan hệ với các ngân hàng để khi cần ta có thể huy động vốn vay một cách nhanh nhất đồng thời cũng tạo điều kiện cho công tác thanh toán. Công ty có thể mở tài khoản và thực hiện thanh toán ở nhiều ngân hàng khác nhau, từ đó tạo được nhiều mối quan hệ hơn với các ngân hàng, đồng thời tránh rủi ro cho khoản tiền khi được thực hiện tại một ngân hàng nhất định.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức
Thực hiện tốt điều này sẽ khiến cho bộ máy của doanh nghiệp hoạt động một các thống nhất, trơn tru không trùng lặp, đặt người và việc vào đúng nơi đúng chỗ sao cho có thể phát huy hết khả năng sức mạnh của cả tập thể và của từng cá nhân từ đó làm cho Công ty có thể hoạt động có hiệu quả cao trong các hoạt động khác nói chung và hoạt động kinh doanh xuất khẩu nói riêng.
Hiện nay thì máy của Công ty khá công kềnh, số lượng lao động gián tiếp còn lớn (chiếm 40% số lao động). Đồng thời các phòng nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu còn có những hoạt động trùng trồng chéo lên nhau trong khâu tìm kiếm, tiếp thị thị trường xuất khẩu. Để hạn chế được điều này Công ty cần:
Công ty có thể thực hiện tinh giảm số lao động trong bộ máy quản lý hoặc có thể chuyển đổi một số nhân viên sang thành lập phòng Marketing vì hiện nay công tác liên quan đến thị trường của Công ty hầu như đều do các phòng nghiệp vụ của Công ty đảm nhận. Do vậy việc nghiên cứu thị trường cũng như cách thức tiếp cận thị trường còn nhiều hạn chế. Để có sự thống nhất hơn trong việc nghiên cứu và đưa ra các chính sách về thị trường, Công ty cần cho ra đời một phòng Marketing với chức năng chuyên biệt sau đó phối hợp với phòng nghiệp vụ để thực hiện xuất khẩu.
Đồng thời Công ty vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế khoán kinh doanh có khen thưởng đối với các phòng nghiệp vụ ( trên cơ sở họ tự tìm kiếm kí kết được hợp đồng xuất khẩu ). Nhưng Công ty cần phải có sự quan tâm kiểm tra chặt chẽ hơn nữa tránh để tình trạng vi phạm pháp luật của một số cán bộ làm ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh chung của cả Công ty.
Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên: Công ty khuyến khích các cán bộ công nhân viên tự nâng cao trình độ chuyên môn của mình, hàng năm Công ty có thể trích một khoản tiền từ lợi nhuận ra để dành cho đầu tư đào tạo cho cán bộ nhân viên trẻ, có năng lực, nếu có tuyển chọn nhân viên mới thì phải có thi cử nghiêm ngặt.
Tăng cường công tác tìm kiếm thị trường xúc tiến bán hàng hơn nữa
Một mặt nhằm tìm hiểu xem thị trường các nước cần mặt hàng như thế nào để Công ty có chiến lược quy hoạch vùng nguyên liệu cho hợp lý ( thực hiện theo phương châm bán cái khách hàng cần chứ không bán cái mà doanh nghiệp có thì mới thu được lợi nhuận tối đa) từ đó giúp cho Công ty thực hiện đa dạng hóa và đa phương hoá thị trường xuất khẩu hàng nông sản theo hướng tập trung cho phép tăng khối lượng nông sản xuất khẩu. Mặt khác thực hiện tốt công tác xúc tiến bán hàng vừa giúp Công ty đưa hàng tới nhiều người tiêu dùng hơn vừa có thể nắm bắt được nhu cầu, thông tin phản hồi của khác hàng khi trực tiếp thực hiện buôn bán những người này.
Hiện nay, Công ty quá phụ thuộc vào thị trường các nước trong khu vực đều là các nước hầu như có cùng mặt hàng nông sản, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang các nước Asean 21,3%, Trung Quốc 38,3%. Để có thể tăng kim ngạch xuất khẩu Công ty cần phải tìm kiếm thị trường ( ngoài thị trường truyền thống ), Công ty phải tích cực phát triển thị trường sang các nước công nghiệp phát triển, nơi mà hàng nông sản của ta có lợi thế. Công ty nên tạo lập một mối quan hệ thân thiết với thị trường các nước công nghiệp phát triển thông qua đối tác lâu năm.
Công ty cần phải thành lập 1 quỹ dùng cho hoạt động xúc tiến bán hàng, quảng bá thương hiệu của mình ( hiện nay Công ty không có quỹ này). Hầu như trong những năm qua Công ty không tiến hành quảng bá thương hiệu của mình mà chỉ kí hợp động dựa vào những bạn hàng từ trước hoặc do cán bộ tự tìm, khách hàng tìm đến từ hoạt động quảng bá còn ít. Vì là Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu lên công tác quảng cáo của Công ty nên chủ yếu thực hiện qua các phương tiện thông tin ở nước ngoài và một số báo chính ở Việt nam, nhất là Công ty cần phải mở trở lại ngay trang WEB của mình ( đây là phương tiện thông tin quan trọng trong thời đại ngày nay). Quỹ này nên giao cho phòng Marketing của Công ty quản lý, có thểhàng năm dựa vào báo cáo của từng phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu mà chi cho họ.
2. Kiến nghị đối với Nhà nước
Đối với Việt Nam trong tương lai, xuất khẩu nông sản là hoạt động quan trọng nhằm tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế đất nước, nó xứng đáng được đặt lên vị trí ưu tiên trong chính sách và chiến lược kinh tế của Nhà nước ta. Nhằm đưa quy mô hoạt động xuất khẩu lên ngang tầm với tiềm năng của đất nước. Điều đó cần có sự lỗ lực lớn từ phía Nhà nước và các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu nông sản. Để cho các doanh nghiệp có thể đạt hiệu quả cao trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản, sau đây tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước trong việc quản lý hoạt động này.
Đa dạng hoá, ổn định công tác tạo nguồn hàng cho các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu
Nhằm tạo được đủ số lượng, nhiều loại mặt hàng nông sản cho xuất khẩu giảm bớt tình trạng tranh mua bán hàng.
Để thực hiện giải pháp này, chính phủ cần phải có quy hoạch tổng thể, lâu dài về phát triển các vùng nông nghiệp hàng hoá phù hợp với yêu cầu phát triển với từng vùng khác, đặc biệt là phù hợp với triển vọng buôn bán của sản phẩm trên thị trường thế giới. Đa dạng hoá sản phẩm phải kết hợp chặt chẽ với nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tìm tòi các loại giống mới cho năng suất và chất lượng cao. Điều này đòi hỏi nhà nước phải thành lập ra một cơ quan tập hợp đông đủ các nhà khoa học chuyên nghiên cứu tìm tòi, bảo tồn những loại giống mới và quý; thành lập một quỹ dành cho đầu tư tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, các phòng thí nghiệm hiện đại, đáp ứng các nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tham gia vào sản xuất nông nghiệp nước ta. Lựa chọn để thực hiện tốt một số nghiên cứu cơ bản phát triển nông nghiệp trong tương lai; Khuyến khích và tài trợ thoả đáng việc nhập nội và nhân các giống mới có nhiều đặc tính tốt ( năng suất cao, chất lượng sản phẩm cao, tính chống chịu cao..v.v...) vào sản xuất.
Để ổn định công tác tạo nguồn hàng thì nhà nước nên ban hành một cơ chế quản lý các vật tư cung cấp đầu vào cho hoạt động sản xuất nông nghiệp cụ thể: đối với các loại vật tư đầu vào được sản xuất trong nước đáp ứng đủ nhu cầu thì Nhà nước nên cho cơ quan chủ quản hướng dẫn giá bán buôn tối đa tại nơi sản xuất theo nguyên tắc không được cao hơn giá nhập cùng loại tại cảng, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh của các loại hàng vật tư này, hạn chế độc quyền nâng giá bán cao, đảm bảo ổn định giá bán và lợi ích của người dân.
Đối với các loại vật tư nhập khẩu chủ yếu ( phân urê, thuốc trừ sâu..v.v..) thì Nhà nước cần bảo đảm nghiêm túc kế hoạch nhập khẩu cả về số lượng, giá cả, thời gian, không gian thông qua việc giao cho các cơ quan chủ quản quản lý công tác nhập khẩu. Nhà nước cũng lên lập quỹ bình ổn giá dựa trên cơ sở xem xét báo cáo hàng năm của cơ quan chức năng để có thể can thiệp kịp thời khi cần thiết.
Đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa tiếp tục thực hiện chính sách cấp không giống cây trồng để giúp bà con định canh định cư hoặc thay thế cây thuốc phiện, giống cây lâm nghiệp phục vụ cho mục tiêu phủ xanh đất trống đồi núi trọc hay rừng bị chặt phá nhiều.
Chính sách thị trường, tiếp thị
Nhằm cung cấp các thông tin về thị trường đầu vào, đầu ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Nhà nước tăng cường các biện pháp chỉ đạo các doanh nghiệp quốc doanh thực sự trở thành lực lượng lòng cốt trong thu mua, chế biến, vận chuyển và kinh doanh nông sản, điều hoà và bình ổn giá cả thị trường trong nước, trước mắt đối với các thành phố, các khu công nghiệp, vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Tiến hành thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại ở các vùng, trước mắt tiến hành ở hai vùng là Đồng bằng Sông Cửu Long và Đồng Bằng Sông Hồng để cung cấp các thông tin và tổ chức nghiên cứu thị trường, nghiên cứu các hoạt động nghiệp vụ thương mại về nông sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán cho nông dân và các cơ sở kinh doanh nông sản.
Thường xuyên tổ chức các hội trợ thương mại ở trong và ngoài nước cho mặt hàng nông sản. Nhà nước cũng lên nghiên cứu thành lập một trang WEB chuyên cung cấp thông tin (nhu cầu, giá cả, hàng hoá..v.v...) và thực hiện các giao dịch mua bán qua mạng về mặt hàng nông sản, trước tiên lên thử nghiệm một số mặt hàng như điều, cà phê, chè, tiêu..v.v... Nhà nước cũng cần quy định những doanh nghiệp nào có nguồn hàng mới được giao bán trên mạng
Nhà nước cũng cần nghiên cứu để có chính sách hợp tác liên kết với các nước trong khu vực có cơ cấu xuất khẩu mặt hàng nông sản tương tự như ta để hạn chế tình trạng cạnh tranh bán và sức ép từ phía người mua dẫn tới thua thiệt về giá cả.
Nhà nước có thể thành lập các trung tâm thông tin thường trực có nhiệm vụ tư vấn và tăng cường năng lực cho công tác nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nông sản, thực phẩm trên địa bàn các tỉnh, huyện trong cả nước và trên thế giới. Hàng ngày, tất cả các chủ trương, chính sách, dự báo và các thông tin về giá cả các mặt hàng nông sản, thực phẩm trong nước và quốc tế đều được cập nhật. Những thông tin này sẽ được gửi đến một số địa phương và các doanh nghiệp xuất khẩu qua hệ thống mạng để giúp họ nắm bắt kịp thời điễn biến của thị trường.
Chính sách tiêu thụ sản phẩm
Giúp cho người nông dân cũng như doanh nghiệp có thể bán và thu mua hàng với giá hợp lý đảm bảo hạn chế tối đa những thua lỗ.
Tuỳ theo từng mức độ quan trọng của từng loại sản phẩm, Nhà nước uỷ quyền cho các cơ quan quản lý hoặc UBND các tỉnh hướng dẫn giá mua theo nguyên tắc theo sát thị trường thế giới. Mức giá mua hướng dẫn nói trên chính là giá mua tối thiểu và mức giá này cần phải được công bố sớm, rộng rãi để cho cả người sản xuất và người kinh doanh được biết trước để họ lựa chọn được cho mình phương án tối ưu trong đầu tư, sản xuất cũng như thoả thuận ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Mức giá tối thiểu ở đây được xem là mức giá mang tính định hướng (nó bảo hộ người sản xuất, hạn chế tình trạng ép giá), trong thực tế việc mua bán vẫn được thực hiện theo cơ chế thị trường.
Đồng thời để tạo niềm tin cho bà con nông dân khiến cho họ chú tâm vào sản xuất loại cây trồng theo chiến lược quy hoạch phát triển thì Nhà nước nên có một khung xử phạt đối với các doanh nghiệp đã kí kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm nhưng thời gian sau vì một lý do nào đó có lợi cho mình mà huỷ bỏ việc thực hiện hợp đồng.
Nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu
Những năm vừa qua thì mặt hàng nông sản của Việt Nam được xuất khẩu sang các nước công nghiệp phát triển rất ít, điều này là do hàng nông sản có chất lượng thấp không đạt tiêu chuẩn để có thể vào được thị trường các nước này hoặc là không đủ khả năng cạnh tranh đối với các mặt hàng nông sản của nước khác. Để khắc phục tình trạng này nhà nước cần:
Đầu tư cho nông dân từng bước tiến tới sản xuất những mặt hàng nông sản sạch theo từ vùng, từng mặt hàng. Những mặt hàng này sẽ được Nhà nước đảm bảo đầu ra cho khi đến mùa vụ thu hoạch. Để làm được điều này Nhà nước cần phải thành lập những trung tâm có nhiệm vụ tư vấn -hướng dẫn sản xuất cho bà con nông dân nhưng mặt hàng nông sản ở từng địa phương và trước khi mặt hàng này được bán phải có giấy chứng nhận là nông sản sạch của trung tâm này thì mới được nhà nước ưu tiên hỗ trợ như chính sách đã được ban hành.
Đầu tư, cho các doanh nghiệp vay vốn để mua sắm các thiết bị kiểm tra mức độ an toàn của sản phẩm trong khi thu mua nguồn hàng.
Khuyến khích những doanh nghiệp nào đầu tư vào dây chuyên chế biến hàng nông sản thì sẽ được nhà nước quan tâm xem xét như: cấp vốn, gia hạn thời gian trả lãi, giảm lãi suất vay cho đầu tư vào dây chuyền, sẽ được Nhà nước hỗ trợ một phần nếu xuất khẩu bị thua lỗ, ưu tiên cho thực hiện những hợp đồng mà nhà nước đã kí kết (từ đầu vào cho tới đầu ra....)..v.v... Để thực hiện tốt chính sách này, Nhà nước không nên phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, miễn là doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
áp dụng nghiêm ngặt chế độ đăng kiểm và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng nông sản xuất khẩu
Xuất khẩu hàng nông sản của chúng ta có chất lượng là tương đối thấp vì vậy để thực hiện biện pháp nâng cao chất lượng hàng nông sản Nhà nước cần xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hóa dịch vụ xuất khẩu phù hợp với đòi hỏi của thị trường về các loại cây nông sản, mọi nông sản hàng hóa trước khi xuất khẩu phải được kiểm tra chất lượng chặt chẽ theo những chỉ tiêu quy định.
Nhà nước phải tăng cường kiểm tra từ hàng xuất nhập khẩu gốc: cục quản lý thị trường và bộ sẽ phối hợp với tổng cục hải quan quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu, ngăn chặn việc thẩm lậu vào nước ta các loại kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật. Đưa các mặt hàng này vào diện kinh doanh có điều kiện hoặc chỉ giao cho một số doanh nghiệp tin cậy nhập khẩu.
Đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng hàng nông sản theo tiêu chuẩn của HACCP (Hazard Analysis Critical Contronl Point- phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu) và ISO là một trong những giải pháp hàng đầu nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hoá nông sản xuất khẩu. Thực hiện cấp chứng chỉ tiêu chuẩn chất lượng cho từng mặt hàng của Công ty, nếu Công ty nào có chứng chỉ sẽ được hưởng những điều kiện ưu tiên trong xuất khẩu. Còn nếu vi phạm những tiêu chuẩn trong chứng chỉ đã được cấp thì sẽ bị sử phạt nghiêm, cụ thể: bắt Công ty hoàn nộp lại khoản tiền đã được ưu tiên từ khi có chứng chỉ đến khi phát hiện vi phạm đồng thời phạt thêm một khoản tiền tuỳ theo mức độ vi phạm. Nếu sau Công ty vi phạm ba lần không những bị xử phạt nặng hơn mấy lần trước mà sẽ bị tịch thu chứng chỉ .
Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Nhà nước cần đầu tư cơ sở hạn tầng ( điện, nước, thuỷ lợi, mạng lưới giao thông..v.v...) từ đó giúp cho nông dân hạn chế được những thiên tai, tạo thuận lợi trong việc sản xuất, nâng cao năng suất lao động, thuận tiện cho giao thông đi lại từ đó các doanh nghiệp có điều kiện tới tận chân nguồn hàng để có thể thu mua hàng xuất khẩu vừa tránh việc nông dân ứ đọng dư thừa hàng khi đến mùa thu hoạch từ đó bị tư thương ép giá, lại vừa giúp cho doanh nghiệp giảm giá thành xuất khẩu do đó đảm bảo kích thích sản xuất phát triển.
Cùng với việc trích từ ngân sách ra dùng cho đầu tư cơ sở hạ tầng thì để có thêm vốn đầu tư cho hoạt động này thì chính phủ nên có những chính sách khuyến khích kêu gọi đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nước ngoài hay kêu gọi vốn ODA của các chính phủ và tổ chức quốc tế. Muốn vậy, chính phủ cần có quy hoạch cụ thể phát triển từng vùng đồng thời có thực hiện nghiêm hoạt động kiểm tra công tác giải ngân.
Đầu tư cần được tiến hành đồng bộ, nhằm đáp ứng yêu cầu của thâm canh, nâng cao trình độ kỹ thuật- canh tác của cán bộ nông dân để nhanh chóng đạt được đồng đều về năng xuất cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao.
Chính sách tài chính
Nhà nước đảm bảo đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu vốn kinh doanh cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu dùng vốn vào việc thu mua, chế biến, vận chuyển và kinh doanh nông sản, đặc biệt là vốn mua tạm trừ để nông dân đỡ bị thiệt thòi về giá lúc thu hoạch và để chủ động bán khi có lợi về giá xuất khẩu.
Muốn vậy nhà nước cần thông qua ngân hàng thực hiện cơ chế bảo lãnh tiền vay chứng từ thương mại, tiền mua và bán hàng trả chậm bảo lãnh nộp thuế, đảm bảo hợp đồng đối với các đơn vị tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất khẩu.
Thực hiện chính sách “ có thời gian ân hạn” không trả lãi tín dụng đầu tư trong thời gian công trình xây dựng chưa xong, chưa đi vào hoạt động đầy đủ. Để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy chế biến nông sản.
Có chính sách ưu tiên cung ứng ngoại tệ đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Điều chỉnh lãi xuất tiền vay, thời gian phù hợp cho từng loại cây trồng, vật nuôi theo chế độ vay: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đảm bảo đúng chu kỳ sản xuất cho từng từng cây, từng con sát với thực tế mùa vụ.
Điều chỉnh kịp thời tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam với ngoại tệ phù hợp với từng thời kỳ để khuyến khích xuất khẩu, đồng thời đảm bảo thực hiện chính sách tiền tệ Nhà nước.
Nhà nước thực hiện tài trợ không hoàn lại đối với một số cây trồng vật nuôi thay thế cây thuốc phiện.
Đề nghị điều chỉnh thời gian thu thuế và nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp hợp lý, không để nông dân chịu thiệt thòi về giá do phải bán nông sản ngay sau vụ thu hoạch để nộp thuế.
Tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu bằng cách miễn giảm thuế cho các mặt hàng nông sản theo từng thời kỳ, có thể lựa chọn mặt hàng ưu tiên, tiến tới thực hiện khu vực thương mại tự do.
Chính sách bảo hiểm
Nhằm phần nào hạn chế bớt những thua lỗ do giá bán hàng lên xuống đột ngột không thể kiểm soát được.
Nghiên cứu từng bước hình thành quỹ bảo hiểm của từng ngành sản xuất, trước mắt thành lập quỹ bảo hiểm của từng ngành sản xuất, trước mắt thành lập quỹ bảo hiểm các nông sản chủ yếu như: lúa gạo, cà phê, cao su, tiêu, điều..v.v... Quỹ này dùng để can thiệp thị trường khi giá thị trường đột biến thấp dưới giá bán định hướng. Quỹ được trích từ phần thuế xuất khẩu và các khoản thu khác đối với từng loại nông sản.
Chính sách đào tạo cán bộ
Nhà nước thành lập quỹ đào tạo cán bộ kinh doanh cho các đơn vị tham gia kinh doanh xuất khẩu. Quỹ được huy động từ các nguồn:
Hàng năm, Nhà nước trích một phần ngân sách để hỗ trợ;
Thu từ đóng góp của các đơn vị tham gia xuất khẩu;
Thu từ học viên tham dự các lớp học đóng góp.
Tổ chức và quy mô đào tạo trên cơ sở dựa vào yêu cầu phát triển và dựa vào nguồn thu hàng năm của quỹ.
Hình thức đào tạo: mở lớp đào tạo trong nước, gửi đi du học nước ngoài, đào tạo ngắn hạn là chủ yếu, một phần dành học bổng cho đào tạo chính quy phát triển nhân tài.
Kết luận
Nhìn lại quá trình đổi mới của đất nước ta cho thấy Đảng và Nhà nước đã sớm nhận ra tầm quan trọng của sản xuất và xuất khẩu mặt hàng nông sản. Thông qua xuất khẩu các quốc gia có được nguồn ngoại tệ nhằm trang trải các nhu cầu nhập khẩu góp phần duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế- xã hội đất nước trong quá trình hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Công ty AGREXPORT Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước tham gia vào lĩnh vực XNK ngay từ những ngày đầu Nhà nước ta có chủ trương thúc đẩy xuất khẩu tranh thủ nhập nhằm phục vụ cho quá trình đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Cho tới nay thì Công ty đã tạo lập được một vị trí của mình tương đối vững vàng trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước ( Đặc biệt là hoạt động xuất khẩu hàng nông sản ). Trên cơ sở định hướng của Đảng và Nhà nước trong những năm qua Công ty luôn coi nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược và trong thời gian tới Công ty sẽ cố gắng để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh xuất khẩu mặt hàng nông sản của mình.
Nhận thức được điều này, cộng với sự quan tâm, lòng mong muốn được đóng góp ý kiến vào sự nghiệp chung của Công ty, của Đất nước, sau quá trình học tập nghiên cứu tại trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân và thực tập tại Công ty AGREXPORT Hà Nội tôi chọn đề tài: nâng cao hiệu quả xuất khẩu mặt hàng nông sản tại Công ty AGREXPORT Hà Nội trong thời gian tới. Đề tài gồm có 3 chương, chương I tổng hợp những lý luận về xuất khẩu và hiệu quả kinh doanh từ đó làm tiền đề, cơ sở cho chương II đưa ra những phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của Công ty AGREXPORT Hà Nội trong thời gian qua và qua đó chương III đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục nhược điểm tồn tại giúp cho Công ty nâng cao được hiệu quả kinh doanh xuất khẩu trong thời gian tới. Những giải pháp này chỉ mang tính chất định hướng tham khảo, do còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn, bởi vậy rất mong sẽ nhận được sự góp ý, bổ sung từ phía thầy cô giáo và cán bộ trong Công ty.
Tài liệu tham khảo
1.
Bùi Gia Anh, “ Bảo Hiểm hàng hoá ở VN ”, Tạp chí Kinh tế phát triển, Số 46 năm 2001.
2.
Báo cáo XNK tổng hợp năm 1998- 2002 của Công ty AGREXPORT Hà Nội.
3.
Báo cáo tổng kết công tác năm 2002 của Công ty AGREXPORT Hà Nội.
4.
Phạm Thị Hồng Điệp, “ảnh hưởng của AFTA đến XNK NS và quy mô tích luỹ vốn ở VN”, Tạp chí giáo dục lý luận, Số 7 - năm 2000.
5.
Nguyễn Thị Hường ( chủ biên), Giáo trình kinh doanh quốc tế tập 1, Nhà xuất bản thống kê - Hà Nội 2001.
6.
Nguyễn Thị Hường, “ Một số giải pháp tạo bước đột phá trong xuất khẩu nông sản ở Việt Nam ”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 4 - năm 2000.
7.
Trịnh ái Hoa, “ Một số vấn đề đặt ra đối với xuất khẩu nông sản VN trong xu thế hội nhập quốc tế và tự do hoá thương mại”, Tạp chí thương mại, Số 12 năm 2000.
8.
Nguyễn Thị Hường, “ Nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu của nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Tạp chí lý luận chính trị, Số 11 - năm 2001
9.
Nguyễn Thị Hường, “ Làm gì để nâng cao sức cạnh tranh của hàng NS Việt Nam xuất khẩu”, tạp chí kinh tế và dự báo, Số 01- năm 2001.
10.
Jan Ramberg, Hướng dẫn sử dụng Incoterms 2000 của ICC - Nhà xuất bản VCCI & FTU - Hà Nội 2000.
11.
Thăng Long, “ Những yếu tố ảnh hưởng đến khă năng xuất khẩu của VN ”, Tạp chí TNTTVN, Số 6 – năm 2000.
12.
Nguyễn Thế Nhã, “ Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển sản xuất rau quả ở VN ”, Tạp chí Kinh tế và Dự Báo, Số 7- năm 2002.
13.
Vũ Hữu Tửu, Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, Nhà xuất bản giáo dục - Hà Nội - 1998.
14.
Trần Chí Thành, “ Một số vấn đề về phát triển thị trường xuất nhập khẩu ở VN ”, Tạp chí Kinh tế phát triển, Số 34 - năm 2000
15.
Điêu Chí Tới, “ Ai quản lý hiệp hội ngành hàng xuất khẩu, nhập khẩu? ”, Tạp chí thương mại, Số 15 - năm 2003.
16.
Nguyễn Cao Văn, Giáo trình marketing quốc tế, Nhà xuất bản giáo dục - Hà Nội 1999.
17.
Hồng Vân, “ Cục XTTM với việc hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu ”, Tạp chí thương mại, Số 33 - năm 2002.
18.
Phạm Thế Vỹ, “Nâng cao hàm lượng “chất xám” trong nông sản xuất khẩu”, Tạp chí thương mại, Số 19 - năm 2002.
19.
Xuất nhập khẩu năm 2000, thành tựu và triển vọng -
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0435.doc