Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ

Hiện nay, Chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ đang phải đối đầu với những thử thách trong hoạt động huy động vốn, mặc dù hoạt động huy động vốn của Ngân hàng trong những năm gần đây đã thu được những kết quả khả quan, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế. Tuy nhiên, qua phân tích tình hình thực tiễn hoạt động huy động vốn của Ngân hàng, em đã mạnh dạn nêu ra một số tồn tại cơ bản của Ngân hàng cùng một số ý kiến đóng góp nhằm giải quyết những tồn tại và nâng cao hiệu quả huy động vốn của nhi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ. Song do Do kiến thức còn hạn hẹp cả về lý luận lẫn thực tiễn nên chuyên đề thực tập này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự hướng dẫn và góp ý của thầy cô để đề tài của em được hoàn thiện hơn.

doc81 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tranh, nâng cao hiệu quả kinh doanh . Bảng 11: Chi phí huy động vốn của Ngân hàng . Đơn vị : triệu đồng. Năm Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Chi phí huy động vốn 121.169 100 191.433 100 193.129 100 Chi phí trả lãi tiền gửi 6.058 5 11.486 6 28.969 15 Chi phí trả lãi TGTK 21.810 18 42.115 22 38.626 20 Chi phí trả lãi kỳ phiếu 69.066 57 102.417 53,5 90.771 47 Chi phí trả lãi tiền vay TCTD, kho bạc 24.234 20 35.415 18.5 34.763 18 ( Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2002, 2003, 2004 ). Qua số liệu của bảng 11, ta có thể nhận thấy chi phí trả lãi phát hành kỳ phiếu luôn chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng chi phí huy động của Ngân hàng, năm 2002, chi phí trả lãi phát hành kỳ phiếu là 69.066 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 57%; năm 2003, chi phí là 102.417 triệu đồng, chiếm 53,5% và đến năm 2004, chi phí trả lãi phát hành kỳ phiếu là 90.771 triệu đồng chiếm 47% tổng chi phí huy động, điều này có thể giải thích là do nguyên nhân trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng thì nguồn huy động qua phát hành kỳ phiếu chiếm tỷ trọng rất lớn (vì hình thức huy động vốn này có lãi suất huy động thường cao hơn các hình thức khác nên thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền) và nguồn vốn này có chi phí khá cao. Ngoài chi phí trả lãi huy động kỳ phiếu thì chi phí trả lãi TGTK của Ngân hàng cũng chiếm tỷ trọng tương đối cao; năm 2002, chi phí trả lãi TGTK là 21.810 triệu đồng, chiếm 18%; năm 2003, chi phí trả lãi TGTK là 42.115 triệu đồng, chiếm 22%, đến năm 2004 là 38.626 triệu đồng, chiếm 20% trong tổng chi phí huy động. Chi phí trả lãi tiền gửi tăng, năm 2002 chi phí trả lãi TG là 6.058 triệu đồng, chiếm 5% tổng chi phí huy động; năm 2003 là 11.486 triệu đồng, chiếm 6% tổng chi phí huy động thì đến năm 2004 chi phí trả lãi TG là 28.969 triệu đồng và chiếm 15% tổng chi phí huy động vốn của Ngân hàng. Chi phí trả lãi TG và TGTK của Ngân hàng tăng là do khối lượng vốn huy động TG và TGTK tăng lên. Chi phí trả lãi tiền vay TCTD, kho bạc Nhà nước xét về quy mô thì tăng lên, tỷ trọng giảm nhưng mức giảm không đáng kể và vẫn chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng chi phí huy động vốn (trung bình > 18%). Nói tóm lại, trong tổng chi phí huy động vốn của Ngân hàng thì chi phí trả lãi tiền vay TCTD và chi phí huy động qua phát hành kỳ phiếu chiếm tỷ trọng khá cao, tuy nhiên tỷ trọng của 2 loại chi phí này có xu hướng giảm và thay vào đó là sự tăng dần của phi phí trả lãi tiền gửi và TGTK, điều này có thể chứng tỏ nguồn vốn tiền gửi, TGTK huy động có xu hướng tăng lên, tuy rằng hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng có xu hướng tăng nhưng việc giảm chi phí huy động vốn cũng phải được quan tâm vì chi phí huy động giảm thì chi phí trên một đồng vốn sinh lời giảm, từ đó tăng hiệu quả hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng, tăng lợi nhuận. Như vậy, chi phí tác động đến hiệu quả huy động vốn và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 2.2.5. Khả năng đáp ứng yêu cầu sử dụng vốn của Ngân hàng . Như đã nói đến ở chương 1, hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng không thể đạt cao nhất khi mà nguồn vốn huy động không đáp ứng được yêu cầu sử dụng vốn của Ngân hàng, không thoả mãn được các nhu cầu của hoạt động tín dụng, đầu tư. Có thể nói về cơ cấu nguồn vốn huy động và hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng có sự hợp lý vì qua nghiên cứu và xây dựng chiến lược sử dụng vốn, Ngân hàng mới tiến hành công tác huy động vốn. Bảng 12 : Khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn (về quy mô). Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm Tổng nguồn vốn huy động Dư nợ tín dụng Dư nợ / Nguồn vốn 2002 3.811.757 1.465.840 38.5% 2003 4.029.998 1.515.047 37.6% 2004 4.469.947 2.200.112 49.2% ( Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2002, 2003, 2004 ). Từ số liệu trên ta thấy về quy mô thì có thể khẳng định tổng nguồn vốn huy động có thể đáp ứng hoàn toàn cho nhu cầu sử dụng vốn của Ngân hàng. Tuy nhiên, trong cơ cấu của tổng nguồn vốn thì nguồn tiền vay của các TCTD chiếm tỷ trọng khá cao, còn nguồn tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm và TG của kho bạc Nhà nước thì có tỷ trọng chưa cao, ngoài ra nguồn vốn huy động qua phát hành kỳ phiếu còn chiếm tỷ trọng lớn, chi phí huy động vốn cao, mức độ ổn định của nguồn tiền vay tổ chức tín dụng không cao, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. 2.3. Đánh giá hiệu quả huy động vốn của chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ. 2.3.1. Những kết quả đạt được . Trong môi trường hoạt động đầy biến động, canh tranh gay gắt, sự tăng trưởng của nền kinh tế chưa ổn định, hoạt động của chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ luôn gặp phải nhiều khó khăn trở ngại. Tuy nhiên trong những năm vừa qua, Ngân hàng cũng đạt được một số kết quả khả quan trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong hoạt động huy động vốn. Quy mô nguồn vốn huy động ngày một tăng: năm 2002 là 3.811.757 triệu đồng; năm 2003: 4.029.998 triệu đồng; năm 2004 tổng nguồn vốn huy động là 4.469.947 triệu đồng. Chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ được coi là một trong những chi nhánh có hiệu quả huy động vốn cao của NHNN&PTNT Hà Nội. Trong tổng nguồn vốn huy động thì nguồn vốn huy động từ dân cư và từ các tổ chức kinh tế đang có xu hướng tăng lên, nguồn vốn huy động tiền gửi tiết kiệm và phát hành kỳ phiếu chiếm tỷ trọng cao chứng tỏ nguồn vốn huy động của Ngân hàng đang ngày càng ổn định hơn. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú: huy động nhiều loại tiền, nhiều kỳ hạn đã được áp dụng trong công tác huy động vốn của Ngân hàng. Chi nhánh đã làm tốt công tác khách hàng và marketing để giữ được các khách hàng truyền thống đồng thời đưa thêm được một số đơn vị có nguồn tiền gửi thanh toán về hoạt động tại chi nhánh. Chi nhánh đã thực hiện tốt công tác đào tạo cán bộ ngay tại chỗ. Các cán bộ của chi nhánh đều được đào tạo và sắp xếp công việc phù hợp. 2.3.2. Những tồn tại và hạn chế . Bên cạnh những kết quả khả quan đã đạt được, chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ còn tồn tại một số bất cập trong hoạt động huy động vốn, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng . Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng chủ yếu là nguồn huy động với kỳ hạn ngắn (<1 năm ), chưa có sự hợp lý trong cơ cấu nguồn vốn về thời gian, không huy động được vốn trung và dài hạn, do đó, tính chất ổn định của nguồn vốn chưa thật sự cao. Tỷ trọng của nguồn vốn hình thành qua phát hành giấy tờ có giá và vay của các tổ chức tín dụng chiếm tỷ trọng cao ( > 30%), qua đó có thể thấy được hình thức huy động tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm của các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế chưa thật sự phát huy hiệu quả cao . Chi phí huy động vốn của Ngân hàng còn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi phí hoạt động, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng . Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng tuy có sự đa dạng, nhưng đó là sự đa dạng của các hình thức truyền thống trong khi sản phẩm dịch vụ, phương thức huy động hiện đại chưa phát triển . 2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại . a. Nguyên nhân khách quan. Là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, cũng như bao doanh nghiệp khác, hoạt động của Ngân hàng phải chịu tác động các quy luật kinh tế thị trường: quy luật cung cầu, giá cả, cạnh tranh, vì trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các Ngân hàng mà còn với các tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng không thể ngồi chờ khách hàng đến gửi tiền mà phải luôn luôn có những phương hướng, giải pháp tiếp cận khách hàng, thu hút khách hàng, tăng quy mô nguồn vốn, tăng hiệu quả huy động vốn. Một số nguyên nhân khách quan có tác động tới công tác huy động vốn của chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ. Do sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng: hiện nay nền kinh tế của nước ta ngày càng phát triển, đi đôi với vấn đề này là sự bùng nổ của hệ thống Ngân hàng, không chỉ các Ngân hàng trong nước mà ngày càng có nhiều Ngân hàng nước ngoài được mở ra, kèm theo đó là hệ thống các chi nhánh, sở giao dịch dày đặc. Các Ngân hàng đều có các chính sách khả thi nhằm thu hút khách hàng. Vì vậy, việc khó tránh khỏi là chi nhánh ngân hàng Láng Hạ phải xan xẻ thị trường cho họ. Do các chính sách của Nhà nước tác động: Các chính sách đầu tư phát triển kinh tế của Nhà nước trên địa bàn chưa thật sự phát triển mạnh, các dự án phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chưa phát huy hiệu quả, do vậy, hoạt động tín dụng của Ngân hàng chưa đạt hiệu quả cao, ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của Ngân hàng. Do tác động của môi trường pháp lý: Các chế định pháp luật liên quan đến hoạt động của Ngân hàng còn chưa đầy đủ, chặt chẽ, các thủ tục còn rườm rà, điểm hình là việc quản lý của Nhà nước về đất đai. Khi người dân hay TCKT vay tiền Ngân hàng thường đem giấy tờ đất thế chấp nhưng việc quản lý đất đai, chứng nhận quyền sở hữu của người dân (cấp sổ đỏ) của chính quyền địa phương quá rườm rà, nhiều thủ tục ảnh hưởng đến việc cấp tín dụng của Ngân hàng, tác động đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Do tâm lý, thói quen tích luỹ và tiêu dùng của người dân: Thói quen tiêu dùng, tích luỹ của người dân cũng ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ. Nằm trên địa bàn mà đại bộ phận người dân có thói quen tiêu dùng, thanh toán bằng tiền mặt và tích trữ tiền mặt hoặc vàng tại nhà, hoạt động của Ngân hàng chưa thật sự gắn chặt với đời sống người dân. Ngoài ra, để có thể huy động vốn của các tầng lớp dân cư trên địa bàn, Ngân hàng phải áp dụng một mức lãi suất tương đối cao (thường huy động thông qua phát hành kỳ phiếu), điều này làm ảnh hưởng đến lợi nhuận và làm hạn chế khả năng huy động vốn của Ngân hàng b. Nguyên nhân chủ quan . Không chỉ những nguyên nhân khách quan bên ngoài tác động mà những nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng cũng ảnh hưởng, làm hạn chế khả năng huy động vốn của Ngân hàng. Do năng lực trình độ quản lý của Ngân hàng: Tuy Ngân hàng đã có nhiều đổi mới trong hoạt động quản lý nhưng do số lượng cán bộ nhân viên còn thấp và phần lớn là những nhân viên trẻ, do vậy, trình độ quản lý chưa theo kịp với sự phát triển chung của nền kinh tế, ảnh hưởng không chỉ đến hoạt động huy động vốn mà còn tới kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Do năng lực tài chính của Ngân hàng: Mọi khoản chi phí để đầu tư cho cơ sở vật chất, máy móc trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đều phải xin ý kiến và trình lên Ngân hàng cấp trên duyệt, do đó, vốn để đầu tư cho công tác huy động vốn bị hạn chế, làm giảm khả năng huy động vốn của Ngân hàng. Do vị trí trụ sở giao dịch, quy mô hoạt động của Ngân hàng: Quy mô hoạt động của Ngân hàng nhỏ hẹp nên không thể thoả mãn tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng đến với Ngân hàng, khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh giảm, hiệu quả của công tác huy động vốn chưa cao. Do sản phẩm dịch vụ và phương thức huy động của Ngân hàng chủ yếu là hình thức truyền thống, chưa phát triển hệ thống các hình thức huy động hiện đại. Mạng lưới huy động của chi nhánh còn nhỏ hẹp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ Ngân hàng chưa cao. Nền kinh tế càng phát triển thì các hình thức huy động hiện đại với mạng lưới chi nhánh rộng khắp sẽ tạo hình ảnh và uy tín cho Ngân hàng trên thị trường, tăng khả năng cạnh tranh, trình độ cán bộ nhân viên của Ngân hàng cao thì quá trình thực hiện nghiệp vụ diễn ra nhanh chóng, chính xác, an toàn và có hiệu quả giúp Ngân hàng giảm thấp chi phí, mở rộng hoạt động, thu hút khách hàng, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Với hình thức huy động truyền thống, mạng lưới nhỏ, trình độ cán bộ nhân viên chưa cao thì khả năng tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trong nền kinh tế của chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ sẽ gặp nhiều khó khăn. Ngân hàng cần đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới các phương thức huy động, mở rộng mạng lưới, có chính sách đào tạo và đào tạo lại trình độ cán bộ nhân viên Ngân hàng, xây dựng phòng ban chuyên về nghiên cứu thị trường (marketing Ngân hàng), tạo hình ảnh và nâng cao uy tín, vị thế, hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Chương 3 một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh NHNN&PTNT láng Hạ. 3.1. Định hướng và mục tiêu hoạt động huy động vốn của Ngân hàng trong năm tới . - Tiếp tục mở rộng mạng lưới phù hợp với điều kiện cụ thể. Trong năm 2005 dự kiến mở thêm 02 phòng giao dịch và nâng cấp 01 phòng giao dịch lên chi nhánh trực thuộc với các điều kiện: bố trí mạng lưới thích hợp rải đều trên các địa bàn hoạt động, địa điểm đẹp, rộng rãi, gần khu dân cư và nơi có màng lưới của Ngân hàng nông nghiệp. - Thường xuyên theo dõi biến động lãi suất để đề ra các mức lãi suất huy động phù hợp với biến động của thị trường. Tuyên truyền quảng bá và làm tốt tiết kiệm dự thưởng do Ngân hàng nông nghiệp trung ương chỉ đạo, chính sách ưu đãi khuyến mại nhằm thu hút các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế có nguồn tiền nhàn rỗi và ổn định. - Nghiên cứu một số sản phẩm mới như chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm gửi góp, trái phiếu Ngân hàng bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ với kỳ hạn dài để trình TW đưa ra sản phẩm mới nhằm tăng cường nguồn vốn trung và dài hạn. - Phối kết hợp các phòng trong chi nhánh thường xuyên quan tâm tới công tác chăm sóc khách hàng đạt hiệu quả nhằm tăng trưởng nguồn tiền gửi của các đơn vị, từ các dự án xuất nhập khẩu, dự án của ADB,WB, của bộ tài chính, và các dự án giải toả của chính phủ nhằm tăng cường thêm nguồn vốn không kỳ hạn với lãi suất thấp. - Tăng tổng nguồn vốn huy động lên 5.450 tỷ đồng (tăng 22% so với năm 2004). Trong đó nâng tỷ trọng tiền gửi dân cư từ 35% năm 2004 lên 45% năm 2005, tăng nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế lên khoảng 30%, giảm dần nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng nhằm tăng tính ổn định, giảm chi phí huy động vốn . 3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn đối với chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ . Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng luôn phải chịu tác động của thị trường, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan mà trong hoạt động kinh doanh, Ngân hàng luôn luôn có những tồn tại nhất định, huy động vốn cũng không nằm ngoài sự tác động đó. Do vậy, để nâng cao hiệu quả huy động vốn, Ngân hàng luôn phải tìm kiếm những giải pháp nhằm hạn chế sự tác động, dự đoán những tác động trong tương lai, nắm bắt thời cơ. Như vậy, để nâng cao hiệu quả huy động vốn, Ngân hàng cần nghiên cứu một số giải pháp sau: 3.2.1. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn: Trong thời gian qua, chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trên thực tế còn bộc lộ nhiều hạn chế cần được khắc phục. Trước tình hình mới này, việc đa dạng hoá hình thức huy động vốn là một trong những biện pháp để chi nhánh có thể huy động với lượng vốn lớn, cụ thể chi nhánh nên tiến hành đa dạng theo một số quan điểm sau: Ngân hàng cần tiếp tục phát huy các hình thức huy động truyền thống như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, các hình thức kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng, các công cụ thanh toán và các giấy tờ có giá do Ngân hàng phát hành, đa dạng hoá thời hạn gửi cụ thể ngoài loại 3, 6, 9, 12 tháng nên thêm loại dài hạn như 2, 3 hay 5 năm cùng với việc đưa thêm các yếu tố chuyển nhượng để thuận tiện cho việc bán lại của các cá nhân, doanh nghiệp hay các NHTM trước ngày đến hạn. Bên cạnh đó cần đưa ra nhiều hình thức huy động vốn mới như tiền gửi tiết kiệm xây nhà, tiền gửi tiết kiệm có thưởng…, và tiến tới trong điều kiện tiềm ẩn nguy cơ tái lạm phát nên thực hiện "Bảo tiền gửi" phát hành trái phiếu bên ngoài để vay vốn nước ngoài đồng thời mở rộng quan hệ với các Ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính nước ngoài… Ngân hàng cũng cần quan tâm hơn nữa đến việc huy động tiền gửi qua tài khoản thanh toán, điều này cũng có nghĩa là khuyến khích dân cư làm quen với việc mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng. Thực tế cho thấy nếu thực hiện tốt công tác này sẽ tạo ra được một nguồn vốn lớn cho Ngân hàng với chi phí huy động rẻ nhất. Để làm được điều này, trong điều kiện hiện nay cần quy định các tổ chức hành chính sự nghiệp kể cả kho bạc Nhà nước mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng tạo điều kiện cho Ngân hàng sử dụng khối lượng tiền mặt tạm thời nhàn rỗi của các đơn vị này vào quá trình tài trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Sự tách bạch về việc thanh toán và mở tài khoản của hệ thống các cơ quan thuộc Ngân sách Nhà nước và thanh toán qua Kho bạc đã làm cho nền kinh tế thiếu vốn lại càng thiếu vốn hơn trong lúc đó tiền tạm thời nhàn rỗi trong hệ thống ngân sách lại không được tận dụng, tất nhiên trong trường hợp Kho bạc là thành viên của thị trường liên Ngân hàng thì số tiền tạm thời nhàn rỗi đó vẫn được tận dụng đem lại hiệu quả cao. Hiện nay còn có nhiều doanh nghiệp có nguồn tiền lớn như bưu điện, điện lực, cấp nước… nên cần tổ chức thu qua hệ thống Ngân hàng bằng cách yêu cầu người thanh toán mở tài khoản tại Ngân hàng và thực hiện chuyển khoản, không cần đến cơ quan thu tiền của các tổ chức nói trên hay phải trực ở nhà để trả tiền trực tiếp qua người thu. Đơn vị thụ hưởng cũng tiết kiệm được chi phí khi phải đi thu qua từng hộ gia đình, từng đơn vị, còn các Ngân hàng quản lý tài khoản của các đơn vị và cá nhân nói trên có thể sử dụng số tiền gửi của họ để tăng cường nguồn vốn huy động của mình. NHNN&PTNT Láng Hạ nên có phương án để tiếp cận và triển khai theo hình thức này. Trong thời gian tới, Ngân hàng nên tiến hành hình thức mở tài khoản tiền gửi cá nhân để trả lương đối với cán bộ công nhân viên, đây là hình thức đang được sử dụng phổ biến ở các nước phát triển nhưng hình thức này khá mới mẻ với các Ngân hàng ở Việt Nam do nền kinh tế nước ta chưa phát triển, thu nhập của người dân chưa cao. Khi Ngân hàng áp dụng hình thức mở tài khoản tiền gửi cá nhân để trả lương đối với cán bộ công nhân viên sẽ huy động thêm nguồn vốn kinh doanh trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi cá nhân và doanh nghiệp. Như vậy từ số dư tài khoản của doanh nghiệp tại Ngân hàng, Ngân hàng sẽ thực hiện việc chi trả lương cho nhân viên của doanh nghiệp. Đến kỳ phát lương doanh nghiệp sẽ gửi một bảng lương cho Ngân hàng. Ngân hàng căn cứ vào bảng lương đó để trích tiền từ tài khoản của doanh nghiệp sang tài khoản của nhân viên mà họ đã mở tài khoản ở Ngân hàng. Trong trường hợp nhân viên chưa có tài khoản tiền gửi, Ngân hàng có thể đến tận nhà để tuyên truyền, khuyến khích họ mở tài khoản vừa có lợi cho doanh nghiệp là không phải đến Ngân hàng rút tiền về phát lương, vừa có lợi cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp là an toàn và lại được hưởng thêm một phần lãi đối với số tiền chưa sử dụng đến tất nhiên Ngân hàng phải đảm bảo bí mật số dư tài khoản của người gửi tiền. Để đa dạng hoá các hình thức huy động vốn Ngân hàng cần phải đưa ra hình thức dịch vụ nhận và trả tiền ngoài giờ của Ngân hàng (ngoài giờ hành chính, các ngày nghỉ, ngày lễ tết) áp dụng công nghệ tiên tiến cho mô hình Ngân hàng hoạt động 24/24h để có thể thu hút tiền gửi của dân chúng bất cứ lúc nào trong ngày. Đồng thời, Ngân hàng cần thử nghiệm hình thức thu nhận tiền tại nhà, tại văn phòng của doanh nghiệp, sau đó chính thức áp dụng ở những nơi có đủ điều kiện, vấn đề huy động vốn trung - dài hạn là vấn đề khó khăn đối với hệ thống NHTM nước ta hiện nay. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải có sự chú ý, quan tâm của các ngành, các cấp và Nhà nước. Trong năm 2003 vừa qua NHNN&PTNT Láng Hạ đã đưa ra hình thức huy động mới đó tiền gửi bậc thang, theo hình thức này khách hàng có thể gửi tiền một lần nhưng được rút tiền làm nhiều lần nhưng không bị mất lãi, lãi suất được tính trên số dư của tài khoản theo từng bậc một. Trong thời gian tới chi nhánh nên đưa ra một số hình thức huy động khác như: gửi một lần rút lãi hàng tháng, gửi tiết kiệm theo niên kim cố định tức là tháng nào cũng gửi vào một số tiền nhất định vào một tài khoản với thời hạn trên một năm và được hưởng lãi suất có kỳ hạn…Có như vậy mới khuyến khích được khách hàng gửi tiền có kỳ hạn dài hơn, tạo nguồn vốn ổn định cho Ngân hàng. Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới để đứng vững, tạo lòng tin với khách hàng chi nhánh phải đa dạng hoá nghiệp vụ huy động ngoại tệ. Bởi hiện nay khi nền kinh tế nước ta mở cửa, mở ra nhiều cơ hội giao lưu làm ăn buôn bán giữa các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức nước ngoài nên nhu cầu ngoại tệ ngày càng tăng. Trong lúc đó khả năng huy động ngoại tệ của chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ còn yếu, còn mới. Chính vì vậy chi nhánh cần đưa ra những hình thức huy động hấp dẫn và hết sức thuận lợi để không những huy động vốn của các tổ chức kinh tế và dân cư trong nước mà còn thu hút được vốn của các công ty nước ngoài, xí nghiệp kinh doanh và các cá nhân nước ngoài đang ở Việt Nam. Ngoài ra còn phải tích cực tìm nguồn vốn ngoại tệ từ nước ngoài bằng cách thông qua các hợp đồng vay vốn của các tổ chức tín dụng ngoài nước để đầu tư vào các dự án kinh tế. 3.2.2 Mở rộng quan hệ đại lý và mạng lưới huy động: Việc cạnh tranh để thu hút khách hàng là cần thiết đối với chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ. Mặc dù gặp một số bất lợi song công tác huy động vốn ở chi nhánh đã đạt những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên để công tác huy động vốn đạt thành quả tốt hơn, huy động được một lượng vốn lớn đòi hỏi trong thời gian tới chi nhánh cần mở rộng thêm mạng lưới huy động. Chi nhánh phải tiến hành xem xét những tuyến phố, những khu vực đông dân cư để đặt các quầy huy động, đặc biệt là các tuyến phố trong nội thành nơi có mật độ dân cư lớn, những nơi cách xa các chi nhánh Ngân hàng. Hơn nữa hiện nay đang xuất hiện một số khu đô thị mới, việc mở rộng công tác huy động vốn của chi nhánh tới khu vực này sớm sẽ tạo điều kiện giúp cho chi nhánh huy động vốn tốt, đồng thời tạo lập uy tín của chi nhánh đối với khách hàng. ở một số khu vực nơi tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp…chi nhánh cũng nên bố trí các quầy tiết kiệm để huy động vốn được nhiều hơn nữa. Mặc dù cuộc sống sinh viên còn có nhiều khó khăn nhưng vì cuộc sống xa nhà nên họ thường phải dự trữ một lượng tiền đủ để trang trải các khoản sinh hoạt phí trong vài tháng. Quỹ tiết kiệm hoạt động không những đem lại an toàn cho đồng tiền của họ mà còn làm cho nó sinh lời. Như thế với một sinh viên thì số tiền huy động quá nhỏ những nếu tất cả sinh viên đều nhận thức được việc gửi tiền vào Ngân hàng là có lời và đều gửi thì nguồn vốn của Ngân hàng sẽ tăng lên một cách đáng kể. Tóm lại, để khơi tăng nguồn vốn huy động, bên cạnh việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn thì Ngân hàng cũng cần phải đẩy mạnh và phát triển mạng lưới huy động tới khắp các khu vực kinh tế, các khu vực đông dân cư, các vùng ngoại thành- nông thôn. 3.2.3. Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn Nguồn vốn huy động chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi nó được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, vì vậy việc nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của công tác huy động vốn. Để làm được điều này Ngân hàng cần thực hiện tốt các công việc sau: 3.2.3.1.Nâng cao chất lượng sử dụng vốn: Hoạt động tín dụng là hoạt động sử dụng vốn thường xuyên nhất của mọi Ngân hàng. Hoạt động tín dụng đạt chất lượng cao giúp Ngân hàng hạn chế được những rủi ro, đảm bảo thu hồi vốn đúng thời hạn để tiếp tục cho vay. Những thông tin về nhu cầu mở rộng tín dụng cần chính xác, để trên cơ sở đó hoạch định chiến lược huy động vốn cho những thời kỳ tiếp theo, đảm bảo Ngân hàng luôn có đủ vốn cho các nhu cầu kinh doanh, tránh những tác động xấu của việc ứ đọng vốn hoặc thiếu vốn để thực hiện được yêu cầu đó, chất lượng của công tác thẩm định cũng cần được nâng cao. Đối với chi nhánh mặc dù nhiệm vụ huy động vốn và cho vay trung dài hạn là rất quan trọng , nhưng các khoản cho vay trung dài hạn có khả năng sinh lời hạn chế, vốn thu hồi chậm, rủi ro` cao...Trong khi các khoản cho vay ngắn hạn lại chính là bộ phận quan trọng tạo ra lợi nhuận Ngân hàng, giúp Ngân hàng tồn tại và mở rộng kinh doanh. Vì vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn, tận dụng các nguồn ngắn hạn hiện có để sinh lời cũng rất cần thiết. 3.2.3.2. Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn Là một chi nhánh của NHNN, chi nhánh Láng Hạ hoạt động dựa trên việc thực hiện các nghị quyết, định hướng của HĐQT - NHNN Việt Nam về nguồn vốn và sử dụng vốn do đó khi chi nhánh huy động được khối lượng vốn lớn hơn kế hoạch thì sẽ được chuyển về NHNN Việt Nam để điều hoà cho các chi nhánh khác trong hệ thống và ngược lại khi chi nhánh thiếu vốn sẽ được NHNN Việt Nam cấp điều chuyển lại (tất nhiên với chi phí cao hơn khi Ngân hàng tự huy động). Do đó chi nhánh phải xác định chiến lược huy động vốn sao cho phù hợp với nhu cầu và mục đích sử dụng vốn của chi nhánh nói riêng và NH No VN nói chung. Bên cạnh đó, chi nhánh cần thực hiện các biện pháp tiết kiệm các chi phí hoạt động khác, bao gồm những chi phí về lương, chi phí về vật chất,...góp phần đảm bảo việc kinh doanh có lãi. Chỉ khi sử dụng được hiệu quả số vốn hiện thời, chi nhánh mới có thể đưa ra một kế hoạch hợp lý về nguồn vốn cho các thời kỳ tiếp theo. 3.2.4 Xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý 3.2.4.1. Mục đích của chính sách lãi suất: Mỗi Ngân hàng đều có chiến lược kinh doanh riêng, trong đó chiến lược về lãi suất là một bộ phận quan trọng. Lãi suất là yếu tố tạo thành phần lớn thu nhập và chi phí. Vì vậy, mọi biến động về lãi suất đều có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động của Ngân hàng. Do tầm quan trong của lãi suất mà việc xây dựng chính sách lãi suất hợp lý là rất cần thiết, nhất là trong công tác huy động vốn. Chính sách lãi suất của Ngân hàng được xây dựng nhằm mục đích chính là: - Huy động đủ vốn cho các mục đích sử dụng. - Đảm bảo tính cạnh tranh của Ngân hàng so với Ngân hàng khác trong việc thu hút vốn và cho vay. - Đảm bảo lợi nhuận Ngân hàng. 3.2.4.2. Tổ chức thực hiện: Chính sách lãi suất của Ngân hàng tác động trực tiếp đến khối lượng vốn huy động cũng như chi phí của khoản vốn đó. Đồng thời việc hoạch định chính sách lãi suất cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên ngoài. Khi xây dựng các mức lãi suất cho các loại hình huy động khác nhau, các mức kỳ hạn khác nhau Ngân hàng luôn phải xem xét đến các yếu tố đó: - Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước - Chính sách lãi suất của Ngân hàng No&PTNT VN. - Chính sách lãi suất của các Ngân hàng khác. - Tình hình tăng trưởng, lạm phát, biến động tỷ giá. - Các yếu tố tâm lý, thị hiếu của khách hàng. Việc ấn định lãi suất của Ngân hàng trước hết phải tuân thủ đầy đủ các quy định về lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đưa ra với các tổ chức tín dụng. Lãi suất cũng phải tuân theo quy luật về cung cầu về vốn trên thị trường, trong đó lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, thể hiện việc huy động vốn phải được thực hiện trên cơ sở sử dụng vốn. Trong phạm vi lãi suất cơ bản và biên độ giao động được phép thực hiện trên cơ sở lãi suất của Ngân hàng No&PTNT VN, chi nhánh Ngân hàng phải đưa ra được một lãi suất có tính cạnh tranh, hấp dẫn với khách hàng, tạo được một lợi thế so sánh nào đó so với các Ngân hàng cũng như các chi nhánh khác. Nếu lãi suất được thay đổi tự do theo cung cầu thị trường thì sự cạnh tranh này cũng không nên hiểu đơn giản chỉ là một mức lãi cao hơn của các Ngân hàng khác mà còn là việc sử lý tổng hợp nhiều vấn đề như: - Cách thức trả lãi: Cùng với một tỷ lệ lãi như nhau, những ưu đãi về hình thức trả lãi sẽ hấp dẫn khách hàng, chẳng hạn việc thực hiện lãi suất trả trước, lãi dài hạn nhưng được trả định kỳ theo quý, theo nửa năm. Tuy nhiên, việc áp dụng lãi suất trả trước gặp phải khó khăn trong công tác hạch toán của Ngân hàng và tính toán của người gửi tiền. Vì vậy giải pháp này cần được thực hiện đồng thời với việc cải tiến, đơn giản hoá thủ tục hạch toán. - Cách giải quyết với tiền lãi chưa lĩnh: Ngân hàng nên có quy định sau một thời gian nhất định sẽ tự động chuyển các khoản đó vào gốc của kỳ trả lãi sau và tính theo lãi mới của kỳ đó (nếu có thay đổi lãi suất); giúp khách hàng tiết kiệm thời gian nếu muốn tiếp tục gửi tại Ngân hàng mà chưa thể đến xác nhận. Cách giải quyết đó làm khách hàng cảm thấy có lợi và thuận tiện hơn thay vì việc chỉ tính và trả lãi theo lãi suất không kỳ hạn. - Cách giải quyết về lãi suất với các khoản tiền gửi rút trước kỳ hạn: Hiện nay các Ngân hàng thường áp dụng cách trả lãi theo mức không kỳ hạn với những khoản tiền gửi có kỳ hạn nhưng rút trước hạn. Cách làm đó làm cho người gửi thấy thiệt thòi và e ngại với việc gửi thêm tiền do không biết chắc khi nào sẽ rút tiền.Vì vậy Ngân hàng chỉ nên trừ một khoản phần trăm cố định nào đó trên số tiền lãi rút ra tuỳ theo thời gian đã gửi, hoặc áp dụng lãi suất của kỳ hạn ngắn hơn gần nhất để tính lãi cho những khoản chưa tròn kỳ, hoặc chấp nhận trả lãi đủ nếu có báo trước một thời gian nhất định ...Thực chất, việc làm đó không làm tăng đáng kể chi phí trả lãi của Ngân hàng vì mục đích chính của người gửi vẫn là sinh lời trên tiền gửi, và họ chỉ rút ra khi có nhu cầu rất cần thiết. Trong khi đó sự yên tâm khi gửi tiền của khách hàng sẽ làm Ngân hàng dễ dàng hơn trong việc huy động vốn mà không cần tăng thêm lãi suất. - Khoảng cách phân biệt lãi: Việc áp dụng một mức lãi suất phân biệt giữa các loại hình gửi tiền luôn cần thiết đối với mọi Ngân hàng. Lãi suất tiền gửi trung và dài hạn phải cao hơn đáng kể so với tiền gửi ngắn hạn để khuyến khích việc gửi tiền lâu dài, tránh dư thừa quá nhiều tiền gửi ngắn hạn gây khó khăn và mất an toàn trong kinh doanh của Ngân hàng. Lãi suất cũng cần có sự phân biệt giữa tiền gửi nội tệ và ngoại tệ tuỳ theo kế hoạch về ngoại tệ của Ngân hàng. Có chính sách hấp dẫn khuyến khích khách hàng gửi ngoại tệ nhằm tăng lượng tiền gửi bằng ngoại tệ của khách hàng trong lượng vốn huy động của Ngân hàng. Ngân hàng cũng nên có những ưu đãi về lãi suất với những khách hàng có những khoản tiền lớn. Sự phân biệt về lãi suất phải đủ lớn để người gửi tiền nhận biết rõ sự khác biệt về quyền lợi kinh tế khi lựa chọn mỗi loại hình. Nhờ đó Ngân hàng có thể tăng khả năng kiểm soát lượng tiền chảy vào, đảm bảo một cơ cấu vốn an toàn, hiệu quả, đạt được những tỷ lệ theo kế hoạch đề ra về vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; vốn nội tệ , ngoại tệ. Tuy nhiên, để làm được điều này hiện nay đối với các Ngân hàng nói chung và với chi nhánh Láng hạ nói riêng là rất khó khăn, vì vậy sự phân biệt về lãi có thể thực hiện được khi Ngân hàng kết hợp với việc thực hiện đa dạng hoá các loại hình huy động vốn. 3.2.5 Nhóm giải pháp nâng cao uy tín của Ngân hàng Như đã phân tích, một trong những nguyên của việc người dân chưa muốn gửi tiền vào Ngân hàng là vì họ chưa hoàn toàn tin tưởng ở hệ thống Ngân hàng Việt Nam. điều đó đồng nghĩa với uy tín của Ngân hàng chưa được cao. Do đó để lấy lại được lòng tin đối với nhân dân thì Ngân hàng cần phải kiên trì phải phân tích tìm ra nguyên nhân và từng bước đề ra các giải pháp cho phù hợp. a. Hoàn thiện các tiện ích cho khách hàng Điều này có nghĩa, Ngân hàng phải luôn cải tiến đổi mới công nghệ và quy trình nghiệp vụ hay dịch vụ để đảm bảo lợi ích và sự tiện dụng cho khách hàng. * Giữ chữ tín với khách hàng: Ngân hàng phải đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi điều kiện, không được phép khất, trì hoãn với khách hàng vì lý do thiếu tiền mà còn phải làm thật nhanh chóng công tác thanh toán. sử dụng máy vi tính, máy đếm tiền...và hình thức thanh toán hiện đại như: máy rút tiền tự động ATM, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, VISA card, master card, sec du lịch...Tham gia thanh toán bù trừ liên Ngân hàng bằng cách nối mạng với trung tâm thanh toán bù trừ. Nếu Ngân hàng làm được điều này thì khách hàng sẽ ngày càng tin tưởng vào Ngân hàng và tất yếu họ sẽ gửi tiền vào nhiều hơn. *Công khai báo cáo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng; khi khách hàng lựa chọn Ngân hàng để gửi tiền họ đều phải tìm hiểu xem Ngân hàng đó kinh doanh có lãi hay không?, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có ổn định, an toàn hay không?, lĩnh vực kinh doanh của Ngân hàng có chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro hay không ?…Do vậy, Ngân hàng cần phải công bố công khai kết quả hoạt động của mình thông qua các báo cáo tài chính, đây có thể coi là một giải pháp không chỉ nâng cao hiệu quả huy động vốn mà còn nâng cao uy tín của Ngân hàng trên thị trường, tuy nhiên do yếu tố cạnh tranh và tính bảo mật trong hoạt động kinh doanh mà có rất ít Ngân hàng thực hiện giải pháp này (thường là thông qua các đợt kiểm tra của cơ quan kiểm toán), nhưng đây chính là cơ sở để người gửi tiền tin tưởng vào hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng . * Nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật :Trong điều kiện hoạt động hiện nay, cơ sở vật chất là một trong những cơ sở khá vững mạnh để tạo lòng tin cho người gửi tiền, Ngân hàng cần phải xây dựng được trụ sở làm việc với quy mô rộng lớn, vị trí thuận tiện, khang trang hiện đại, thời gian phục vụ nhanh chóng kịp thời, đáp ứng và thoả mãn nhu cầu của người gửi tiền, tạo ra sự tin tưởng cho người gửi tiền, củng cố uy tín, tăng khả năng cạnh tranh, tăng hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng. *Đổi mới phong cách phục vụ của Ngân hàng : Trong môi trường hoạt động như hiện nay, khi mà sự đa dạng hoá trong hình thức huy động vốn hay việc áp dụng công nghệ Ngân hàng diễn ra từng ngày thì phong cách phục vụ chính là nhân tố tạo ra nét đặc trưng cho hoạt động của Ngân hàng, thu hút khách hàng đến với Ngân hàng. Phong cách phục vụ, thái độ của nhân viên Ngân hàng chính là cái gương soi hình ảnh của Ngân hàng. Tại sao khách hàng bước vào Ngân hàng lại bỡ ngỡ, ngại ngùng? đó là do yếu tố tâm lý, vậy để làm sao thay đổi điều đó phải nhờ vào thái độ phục vụ của nhân viên Ngân hàng, với một thái độ giao tiếp cở mở, hoà nhã, tận tâm, nhiệt tình giải đáp các thắc mắc của khách hàng… thì kết quả đạt được không chỉ là thu hút được nguồn vốn của khách hàng mà còn tạo được uy tín cho Ngân hàng. *Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất, để thu hút họ tới tham gia giao dịch, gửi tiền. Đồng thời họ cũng được hưởng những tiện ích cho bản thân và gia đình. Ví dụ như: Ngân hàng thực hiện dịch vụ Ngân hàng tại nhà như nhận tiền gửi, cho vay tại nhà; làm việc ngoài giờ... b. Nâng cao trình độ cán bộ và đổi mới công tác quản lý trong Ngân hàng Bất cứ nhiệm vụ gì cũng phải thực hiện trên cơ sở quy trình của nó và huy động vốn cũng là một nghiệp vụ của Ngân hàng. thực tế tại Ngân hàng có nhiều cán bộ chuyên môn có năng lực quản lý và công tác quản lý ngày càng được chú trọng. Tuy nhiên để cho việc huy đọng vốn đạt hiệu quả cao thì Ngân hàng cân chú trọng hơn nữa về cán bộ nhân viên Ngân hàng và công tác quản lý trong Ngân hàng. cụ thể về nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác huy động vốn: - Phải tiếp tục đào tạo va đào tạo lại, nhằm trang bị đầy đủ kiến thức về nghiệp vụ và công nghệ nhằm thực thi tốt nhiệm vụ được giao. - Ngoài ra Ngân hàng nên có chính sách khuyến kích các cán bộ của mình tự nâng cao trình độ bằng cách tự học hoặc đi học tự túc nhằm tạo ta đội ngũ cán bộ có tâm và giỏi về nghiệp vụ chuyên môn. Đối với công tác quản lý điêù hành, ngoài việc cải tiến và đầu tư thêm vào các trang thiết bị phục vụ cho công tác huy động vốn thì Ngân hàng nên hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy, xắp xếp hợp lý. Ngân hàng cần lựa chọn và đào tạo những cán bộ có năng lực và phẩm chất để giao quyền quản lý điều hành. Việc làm này sẽ nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn. Tóm lại, nhân tố con người luôn là nhân tố quan trọng nhất, giải quyết mọi sự thành công hay thất bại của mọi hoạt động kinh tế. Do vậy, để phục vụ cho sự phát triển lâu dài và nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn thì đòi hỏi Ngân hàng phải có sự đầu tư hơn nưa cho công tác này về nhiều mặt: nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, thái độ làm viêc, tổ chức lại bộ máy thực hiện... c. Cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ Để hấp dẫn người gửi tiền vào giảm bớt khối lượng giấy tờ cần xử lý thì Ngân hàng phải thực hiện đại hoá, vi tính hoá làm cho tiện lợi nhất việc xử lý nghiệp vụ: ví dụ: nghiệp vụ nhận tiền gửi, rút tiền phát sinh. Trứơc đây, nhiều người có nhiều tiền không muốn đưa vào Ngân hàng vì họ cho rằng thủ tục gửi tiền vào vầ rút tiền ra rất phiền hà. Thêm vào đó là công tác phòng giao dịch đối với khách hàng thiếu mềm mỏng, tận tình. Điều đó đã gây ra một tâm lý ngại ngần quan hệ với Ngân hàng mà cho đến nay vẫn còn ảnh hưởng ít nhiều trong dân. Do vậy ngành Ngân hàng nói chung và chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ nói riêng phải không ngừng đổi mới toàn diện hoạt động của mình. Chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ trong thời gian qua đã tích cực đổi mới công nghệ Ngân hàng: Lắp đặt các trang thiết bị máy tính, nối mạng cục bộ, điện thoại... và đã rút ngắn thời gian thực hiện nghiệp vụ, bỏ qua những khâu không cần thiết. Tóm lại nhờ những hoạt động trên nhằm phục vụ khách hàng được tốt nhất và có hiệu quả nhất sẽ đưa thêm khách cho Ngân hàng. Từ đó Ngân hàng có khả năng tăng quy mô huy động vốn và giảm thiểu được chi phí. 3.2.6 Tăng cường hiệu quả của hoạt động marketing trong huy động vốn. “Nhiệm vụ của một doanh nghiệp là phải xác định đúng đắn những nhu cầu, mong muốn và lợi ích của các thị trường mục tiêu, trên cơ sở đó đảm bảo thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó một cách hữu hiệu hơn các đối thủ cạnh tranh”- (giáo trình Marketing Ngân hàng), do vậy, hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt Ngân hàng không thể ngồi chờ khách hàng đem tiền đến gửi vào Ngân hàng mà phải tiến hành các biện pháp nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu của người gửi tiền để từ đó thoả mãn tốt nhất mong muốn và lợi ích của họ, có như vậy Ngân hàng mới thu hút được các nguồn vốn trong xã hội, hay nói cách khác Ngân hàng phải xây dựng chiến lược khách hàng mà qua đó Ngân hàng có thể tiến hành các hình thức thu hút vốn phù hợp để có thể vừa thoả mãn lợi ích của người gửi tiền vừa đảm bảo cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả . “Chìa khoá để đạt được các mục tiêu trong kinh doanh là các doanh nghiệp phải xác định đúng đắn những nhu cầu và mong muốn của thị trường mục tiêu và tìm mọi cách thoả mãn tốt nhu cầu, mong muốn đó bằng những ưu thế hơn hẳn đối thủ cạnh tranh”- (giáo trình Marketing Ngân hàng). Như vậy, Ngân hàng không chỉ thoả mãn tốt nhất lợi ích của người gửi tiền mà còn phải thoả mãn những lợi ích đó bằng những phương tiện, cách thức có ưu thế nhất . Để xác định được những điều đó, hoạt động marketing có vai trò rất lớn trong công tác huy động vốn của Ngân hàng: nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu mà thị trường mong muốn, xác định lợi ích của khách hàng, dự đoán những nhu cầu trong tương lai, trên cơ sở những thông tin thị trường về nguồn vốn, khối lượng vốn, thời gian, Ngân hàng có thể xây dựng chiến lược huy động vốn đúng đắn với các phương thức huy động phù hợp, cơ cấu nguồn vốn hợp lý và chi phí thấp nhất . Do vậy, để nâng cao hiệu quả huy động vốn, chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ cần phải tăng cường hiệu quả của hoạt động marketing, hoạt động marketing có hiệu quả thì không chỉ huy động vốn mà hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng sẽ đạt hiệu quả cao . 3.2.7 Nâng cao hiệu quả hoạt động khuyếch trương của Ngân hàng . Ngày nay, việc mở rộng hoạt động của Ngân hàng thông qua hoạt động khuyếch trương, quảng cáo là rất cần thiết, với phương châm hoạt động “mọi khách hàng là bạn đồng hành của Ngân hàng”, Ngân hàng phải làm sao cho mọi người hiếu rõ những lợi ích khi gửi tiền vào Ngân hàng: mức lãi suất, thủ tục, chính sách ưu đãi…do đó, Ngân hàng cần phải đẩy mạnh và đa dạng hoá hoạt động, hình thức quảng cáo, khuyếch trương, qua đó, uy tín của Ngân hàng sẽ tăng lên, tạo được niềm tin nơi khách hàng. Song song với hình thức quảng cáo là hình thức khuyến mãi, người gửi tiền không chỉ được hưởng mức lãi suất hợp lý mà họ còn được hưởng những dịch vụ, những món quà tặng do hoạt động khuyến mãi mang lại, hình thức khuyễn mãi đa dạng sẽ tạo ra sự thích thú cho khách hàng từ đó tạo điều kiện cho Ngân hàng tiến hành công tác huy động vốn có hiệu quả. 3.3. Một số kiến nghị để thực hiện tính khả thi của các giải pháp 3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước 3.3.1.1.Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến hoạt động Ngân hàng. Hiện nay chúng ta đã có Luật Các tổ chức tín dụng, với nhiều quy định mới, nhiều nội dung mới thể hiện tính chất tiến bộ phù hợp với tình hình mới, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trong Luật vẫn còn một số điểm quy định chưa rõ ràng như quy định về vốn tự có của Ngân hàng, quy định về các nội dung hoạt động huy động vốn. Một số điểm còn gây tranh cãi trong quá trình thực hiện, ví dụ như các quy định về nghiệp vụ chiết khấu của Ngân hàng, trong đó chỉ nhắc tới các giấy tờ có giá ngắn hạn mà không có các trái phiếu dài hạn, nhưng cũng không có quy định nào ngăn cấm chiết khấu trái phiếu. Các quy định về chỉ tiêu hoạt động của Ngân hàng bị thay đổi quá nhiều trong một thời gian ngắn, chẳng hạn chỉ riêng trong năm 1999 đã có tới 5 lần hạ lãi suất. Một vài ví dụ nhỏ đó cho thấy những yếu tố còn thiếu chặt chẽ của Luật các tổ chức tín dụng nói riêng cũng như các luật và văn bản dưới Luật khác có liên quan, rất cần được Quốc hội tiếp tục nghiên cứu, sủa đổi và bổ xung cho phù hợp, đảm bảo tính niêm luật, công bằng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cũng nên đẩy mạnh một bước nghiệp vụ thị trường mở, một công cụ phổ biến để điều hành chính sách tiền tệ mà không cần trực tiếp tác động vào lãi suất, gây ra những biến động không có lợi về tình hình đầu tư. Các văn bản Luật và dưới luật cần được ban hành một cách có hệ thống hơn đảm bảo mọi hoạt động tài chính, tiền tệ, tín dụng đều được luật pháp hoá, tạo nên một môi trường ổn định về pháp lý và chế độ chính sách cho các Ngân hàng. 3.3.1.2. ổn định môi trường kinh tế vĩ mô Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết cho việc nâng cao hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng. Bởi nếu môi trường kinh tế bất ổn định thì mọi người không muốn đem tiền gửi, do đó Ngân hàng muốn huy động vốn đủ vốn có thời hạn dài thì có thể phải trả lãi suất cao và một số điều kiện nhằm bảo toàn số tiền của họ. Đối với Việt Nam hiện nay, thì những điều kiện quan trọng để tạo nên sự ổn định nền kinh tế vĩ mô là ổn định chính trị, có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn và ổn định tiền tệ. Nó là điều kiện cần thiết cho việc thực hiện có hiệu quả và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng. - ổn định tiền tệ: củng cố vững chắc đồng nội tệ, tiếp tục kiềm chế lạm pháp, ổn định sức mua của đồng tiền, tránh các đột biến làm giảm sức mua của đồng nội tệ. để ổn định tiền tệ thì: + Chính phủ cần có chính sách tiền tệ ổn định, đặc biệt phải quan tâm đến chính sách thu hút nguồn vốn thời hạn dài để đầu tư cho các công trình có dự án lớn. Mặt khác, các chính sách về thu hút vốn từ dân phải được thể chế hoá và có tác dụng đi vào cuộc sống thực tiễn. + Nhà nước phải luôn duy trì, giữ vững ổn định chính trị bởi có sự mất ổn định về chính trị sẽ gây mất ổn định tiền tệ. + Nhà nước phải có chính sách tỷ giá ổn định, bởi trong điều kiện nền kinh tế mở như hiện nay, các mối quan hệ đan xen nhau, nhất là quan hệ kinh tế tiền tệ, do đó chính sách tỷ giá giữ vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy, Nhà nước nên thiết lập chế độ tỷ giá thấp đối với nhà nhập khẩu, ưu tiên khuyến khích nhà xuất khẩu bằng tỷ giá cao. - Có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn. Chính phủ đưa ra các chính sách về ngoại giao, tiết kiệm, cải tiến bộ máy Ngân hàng theo hướng tăng cường hiệu lực quản lý, giảm bớt hệ thống quản lý tài chính cồng kềnh sao cho phù hợp và gắn liền với thực tiễn. Ngoài ra, đối với chính sách huy động vốn qua Ngân hàng cũng cần phải được Nhà nước khuyến khích nhiều hơn nữa bằng các biện pháp linh hoạt, cụ thể thông qua các quy định lãi suất, chính sách tỷ giá...Tuy nhiên, trong chính sách chống lại đầu tư lãng phí, tham ô, làm thất thoát tài sản của Nhà nước và cần thực hiện nghiêm chỉnh những quy định trong các chính sách đó. 3.3.1.3. Thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính tiền tệ trong nước Sự phát triển của thị trường tài chính trong nước là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động Ngân hàng. Thị trường nội tệ và ngoại tệ liên Ngân hàng đã đi vào hoạt động nhiều năm nay, nhưng vẫn cần có sự quản lý và hỗ trợ từ phía Ngân hàng Trung ương để đẩy mạnh quan hệ giữa các Ngân hàng, tăng khả năng linh hoạt trong huy động vốn của các Ngân hàng, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng vốn. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên giúp đỡ các Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế tạo điều kiện hiện đại hóa hệ thống tài chính tiền tệ nước ta. Trong nền kinh tế thị trường, sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán là một tất yếu khách quan của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán là một công cụ hữu hiệu trong việc huy động vốn và lưu thông các nguồn vốn trong nền kinh tế. Thông qua thị trường chứng khoán các công cụ huy động vốn do Ngân hàng phát hành như kỳ phiếu, trái phiếu...cũng có thể được mua bán rộng rãi, góp phần ổn định khối lượng và đa dạng hoá cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng, đặc biệt là tăng cường khả năng huy động trung dài hạn. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã ra đời và bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 2000, tuy nhiên hoạt động của thị trường chứng khoán tại Việt Nam vẫn chưa phát huy được vai trò như nó vốn có, chủ yếu là do số doanh nghiệp đã cổ phần hoá và đăng ký giao dịch chứng khoán còn quá ít, hàng hoá trao đổi trên thị trường chứng khoán vì vậy chưa phong phú, đa dạng. Hơn nữa công chúng cũng chưa hiểu biết nhiều về chứng khoán nên các đối tượng tham gia đầu tư trên thị trường chưa được mở rộng, làm hạn chế khả năng huy động vốn thông qua chứng khoán, trong đó có chứng khoán của Ngân hàng. Vì vậy công tác tuyên truyền, phổ biến vấn đề này trong xã hội là rất quan trọng. 3.3.2. Kiến nghị với NHNN&PTNT Việt Nam 3.3.2.1 Một số ý kiến đề xuất: Qua thực tế hoạt động kinh doanh, chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ thấy rằng cần đề xuất với NHNN&PTNT Việt Nam các nội dung sau: - Về kế hoạch lâu dài nên có chiến lược tăng tốc để đưa NHNN&PTNT Việt Nam thành một NH hiên đại.Trước mắt nên mở rộng thêm các loại hình kinh doanh khác, không nên bó hẹp chỉ có nghiệp vụ truyền thống là đầu tư tín dụng mà có thể là: tham gia góp vốn cổ phần, liên doanh liên kết, tham gia thị trường chứng khoán, kinh doanh ngoại hối.... Đặc biệt là tập trung vào các dịch vụ tiện ích của Ngân hàng nhằm tăng tỷ lệ thu từ các dịch vụ Ngân hàng đó. - Hiện nay NHNN&PTNT Việt Nam đã hoạt động kinh doanh thực sự do vậy cần phải thay đổi lại cơ chế tài chính cho phù hợp như cơ chế lương thưởng, cơ chế khoán tài chính... Có như vậy mới phát huy hết vai trò của công cụ quản lý kinh tế này để thúc đẩy phát triển kinh doanh, sự hăng say nhiệt tình của cán bộ công nhân viên. 3.3.2.2. Một số kiến nghị: - Các văn bản hướng dẫn phải được đưa ra kịp thời, cụ thể và tránh chồng chéo giữa các văn bản với nhau. - Trang cấp kịp thời những phương tiện kinh doanh được xem là tất yếu của chi nhánh như: máy vi tính, máy rút tiền tự động ATM... - Tạo điều kiện về mặt pháp lý cũng như tài chính giúp chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ tìm kiếm và xây dựng trụ sở giao dịch mới khang trang và hiện đại hơn - Tạo điều kiện về nhân sự: số lượng, chất lượng đảm bảo cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. - NHNo Việt Nam cần có biện pháp chỉ đạo cụ thể về thị phần, tránh sự cạnh tranh về thị phần, giành giật khách hàng lẫn nhau trong nội bộ sẽ dẫn tới càng làm tăng chí phí, giảm uy tín và ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tài chính của toàn ngành nên Trên đây là một số giải pháp nhằm tạo điều kiện để Ngân hàng nâng cao chất lượng công tác huy động vốn. Các giải pháp đó chỉ phát huy tác dụng khi được sử dụng kết hợp với một sự đầu tư thích đáng về vốn, nhân lực của Ngân hàng cũng như sụ hỗ trợ tích cực của Nhà nước mà trước hết là tạo lập một môi trường kinh doanh ổn định cho hoạt động Ngân hàng và đặc biệt là sự hỗ trợ của trung tâm điều hành NHNN&PTNT Việt Nam. Các giải pháp nêu ra có thể chưa đầy đủ và cụ thể do sự hạn chế về thời gian nghiên cứu cũng như sự hiểu biết của em song hy vọng cũng sẽ đóng góp một phần cho sự phát triển vững chắc của Ngân hàng trong thời kỳ tới với những thành công mới. KếT LUậN Đối với mỗi một Ngân hàng nói chung và chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ nói riêng, huy động vốn đã đang và sẽ luôn luôn là một trong những hoạt động truyền thống, quan trọng và có tính chất quyết định đến mọi hoạt động khác của Ngân hàng. Hiện nay, Chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ đang phải đối đầu với những thử thách trong hoạt động huy động vốn, mặc dù hoạt động huy động vốn của Ngân hàng trong những năm gần đây đã thu được những kết quả khả quan, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế. Tuy nhiên, qua phân tích tình hình thực tiễn hoạt động huy động vốn của Ngân hàng, em đã mạnh dạn nêu ra một số tồn tại cơ bản của Ngân hàng cùng một số ý kiến đóng góp nhằm giải quyết những tồn tại và nâng cao hiệu quả huy động vốn của nhi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ. Song do Do kiến thức còn hạn hẹp cả về lý luận lẫn thực tiễn nên chuyên đề thực tập này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự hướng dẫn và góp ý của thầy cô để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của tập thể cán bộ chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ cùng với sự chỉ bảo dạy dỗ tận tình của các thầy cô giáo đặc biệt là thầy giáo TS. Nguyễn Đắc Thắng đã giúp tôi hoàn thành báo cáo thực tập này. Hà nội, ngày 14 tháng 5 năm 2005 Sinh viên thực hiện Vũ thị bích liên danh mục tài liệu tham khảo . 1. Giáo trình Ngân hàng Thương mại Tác giả : Eward.W.Reed và Eward K. Gill 2. Giáo trình Quản trị Ngân hàng . Tác giả : Tiến sĩ Nguyễn Duệ Giáo trình Lý thuyết tiền tệ Ngân hàng Tác giả : Phó tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hùng Giáo trình Marrketing Ngân hàng Tác giả : Phó giáo sư, phó tiến sĩ Trần Minh Đạo Quyết định thành lập chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Láng Hạ. Các báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Láng Hạ năm 2002, 2003, 2004 . Báo cáo kết quả tín dụng của chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Láng Hạ năm 2002, 2003, 2004 . Các tạp chí của Ngân hàng NN Việt Nam .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0005.doc
Tài liệu liên quan