Đây là một trong những khoản tiền gửi lớn của ngân hàng. Thông thường người gửi tiết kiệm nhận được một cuốn sổ nhỏ trong đó nhân viên ngân hàng xác định toàn bộ số tiền rút ra ,gửi thêm , số tiền lãi . Khách hàng ở đây là tất cả các dân cư có khoản tiền nhàn rỗi tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng , có thể gửi vào ngân hàng nhằm tìm kiếm một khoản tiền lãi .
Việc phân chia các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư có thể theo nhiều tiêu thức khác nhau. Nhưng thường người ta phân chia các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư theo tiêu thức thời gian, tức là gồm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
73 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn quận Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ và tín dụng, là ngân hàng phát hành đồng thời là ngân hàng của các ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam. Các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng theo cơ chế thị trường trong khuôn khổ pháp luật. 10 năm qua, hệ thống ngân hàng không ngừng được củng cố và phát triển góp phần tích cực vào những thành tựu chung của công cuộc đổi mới, nổi bật là đẩy lùi nạn lạm phát phi mã, ổn định giá trị đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ mô, phục vụ có hiệu quả cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Những thành tựu đó đã đạt được trong hoàn cảnh đầy khó khăn thử thách của cơ chế thị trường và khi nền kinh tế nước ta còn ở trình độ thấp, đang chuyển đổi, những năm gần đây lại bị thiên tai dồn dập, và đặc biệt phải chống đỡ với những khó khăn của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực.
Tuy nhiên do mới chuyển đổi mô hình và cơ chế hoạt động còn thiếu kinh nghiệm vận hành trong cơ chế thị trường nên hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã không tránh khỏi những thiếu sót và bất cập cả về xây dựng khuôn khổ pháp lý, kiện toàn tổ chức, đào tạo cán bộ, chất lượng hiệu quả trong quản lý cũng như trong kinh doanh... chưa đi kịp yêu cầu đổi mới phù hợp với kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa phục vụ thật tốt và đem lại hậu quả tốt cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước:
- Luật Ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng đã có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1998, nhưng việc xây dựng các văn bản pháp quy để thi hành luật tuy có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa hoàn chỉnh; một số chính sách, quy định không còn phù hợp chưa được sửa đổi bổ xung kịp thời đã gây không ít khó khăn đối với việc nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng;
- Các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ chậm được đổi mới, công cụ quản lý hành chính trực tiếp không còn phù hợp và ít hiệu quả vẫn còn được sử dụng khá phổ biến. Các công cụ gián tiếp trong hoạch định và thực thi chính sách còn rất sơ khai. Việc đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái từ đầu năm 1999 là một bước tiến quan trọng nhưng cần phải tiếp tục hoàn thiện để nâng cao tính linh hoạt và khả năng ứng phó với cơ chế thị trường đầy biến động. Cơ chế điều hành lãi suất còn mang nặng tính hành chính trực tiếp và giản đơn. Việc xây dựng thị trường tiền tệ thứ cấp là một khâu then chốt của chính sách tiền tệ nhưng triển khai còn rất chậm.
- Hệ thống thanh toán giữa khách hàng với ngân hàng và hệ thống thanh toán liên ngân hàng (thanh toán bù trừ) đã góp phần nâng cao hiệu quả chu chuyển vốn trong toàn bộ nền kinh tế, nhưng tình trạng thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn khá phổ biến, làm cho việc điều hoà lưu thông tiền tệ và quản lý kho quỹ rất khó khăn, phân tán, tốn kém, ảnh hưởng rất lớn đến việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và cấu trúc lại hệ thống.
- Cơ cấu tổ chức của ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động có hiệu lực của một hệ thống được quản lý tập trung thống nhất. Cơ chế điều hành theo hệ thống dọc vẫn còn khiếm khuyết. Sự phối hợp giữa Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính trong chính sách tài chính - tiền tệ còn thiếu chặt chẽ. Những hạn chế nói trên phần nào làm giảm hiệu lực quản lý, điều hành của Ngân hàng nhà nước, cản trở việc đổi mới công cụ chính sách tiền tệ và hệ thống thanh toán.
- Năng lực tài chính của nhiều ngân hàng thương mại rất yếu, vốn tự có nhỏ, chất lượng tín dụng thấp (tỷ lệ nợ quá hạn cao) đang làm cho hoạt động tín dụng thiếu lành mạnh, có nhiều rủi ro, đe doạ nền tảng tài chính của các ngân hàng thương mại. Điều này một mặt phản ánh năng lực quản lý hạn chế của các ngân hàng thương mại, mặt khác cũng cho thấy hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và của nền kinh tế nói chung còn rất thấp.
- Năng lực điều hành kinh doanh trong kinh tế thị trường của các Ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập, nặng về nghiệp vụ truyền thống, các nghiệp vụ mới chậm được áp dụng, nên hiệu quả kinh doanh thấp và đang có xu hướng giảm sút, kể cả trong lĩnh vực tín dụng và kinh doanh dịch vụ. Các chỉ tiêu về tỷ lệ chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của phần lớn các ngân hàng thương mại đều thua kém các ngân hàng trong khu vực. Đây là thách thức lớn của các ngân hàng thương mại Việt Nam về sức cạnh tranh quốc tế ở trong nước và nước ngoài.
- Trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý và viên chức ngân hàng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển ngày càng cao của một hệ thống ngân hàng ngày càng hiện đại và phải cạnh tranh gay gắt. Công tác đào tạo bồi dưỡng, bố trí cán bộ còn nhiều thiếu sót. Một bộ phận cán bộ và viên chức ngân hàng thoái hoá, biến chất, tham nhũng hối lộ tiếp tay cho kẻ xấu gây tổn thất lớn về tiền của của nhà nước và nhân dân.
- Một thời gian dài, công tác thanh tra, kiểm tra giám sát hoạt động ngân hàng không được coi trọng đúng mức, chất lượng hiệu quả kém, thiếu nghiêm khắc trong việc xử lý các sai phạm. Điều đó đã tạo khe hở cho những vụ vi phạm pháp luật nghiêm trọng làm ảnh hưởng xấu đến nền tảng tài chính, độ an toàn và uy tín của cả hệ thống.
Vai trò tổ chức Đảng và đảng viên trong ngành ngân hàng chưa được xây dựng và phát huy đúng mức, nhất là trong việc đấu tranh ngăn ngừa tiêu cực làm cho hệ thống ngân hàng thực sự lành mạnh, quán triệt và thực hiện có hiệu quả đường lối chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Thủ tục vay vốn ngân hàng khá phức tạp, có nhiều loại hồ sơ người vay phải xin rất nhiều chữ ký và con dấu. Trong khi đó người dân gửi tiền (ngân hàng đi vay) thì thủ tục rất đơn giản: chỉ cần viết 1 giấy gửi tiền là xong.
Thực trạng nói trên đã phần nào phản ánh tính phức tạp của quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng với không ít khó khăn khách quan và khuyết điểm chủ quan. Quán triệt đường lối của Đảng và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhận rõ thành tựu cũng như tồn tại yếu kém và nhiệm vụ chính trị được giao trong giai đoạn mới, đi liền với những thời cơ thuận lợi và khó khăn thách thức to lớn trong tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới một cách cơ bản toàn diện, với bước đi khẩn trương đồng bộ và vững chắc.
2.2. Những tồn tại từ phía ngân hàng:
Trong những năm qua, tuy hoạt động huy động và sử dụng vốn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hai Bà Trưng đã đạt được một số thành tựu như: nguồn vốn huy động ổn định và tăng trưởng đều, dư nợ ngày một tăng, nợ quá hạn giảm dần... Nhưng trong công tác huy động và sử dụng vốn của mình, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hai Bà Trưng vẫn bộc lộ một số tồn tại nhất định cần khắc phục.
a/ Những tồn tại trong công tác huy động vốn:
- Nguồn vốn mà Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quận Hai Bà trưng huy động trong các năm qua tuy có sự tăng trưởng nhưng với tốc độ không cao, chất lượng nguồn vốn chưa tốt. Nguồn vốn huy động được đa phần là từ phát hành kỳ phiếu, trong khi đó tiền gửi của dân cư và của các tổ chức kinh tế ít và ngày càng có xu hướng suy giảm. Trong khi đó việc phát hành kỳ phiếu lại không được ổn định, chủ yếu phụ thuộc vào điều hành của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội. Do đó lượng vốn huy động có thể biến động thất thường ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng.
Mặc dù lượng vốn huy động mà ngân hàng huy động bằng đồng ngoại tệ (mà chủ yếu là đôla Mỹ) ngày một tăng và với tốc độ quy mô ngày một cao, nhưng trong khi đó lượng vốn mà ngân hàng huy động bằng đồng nội tệ lại suy giảm, tư đó làm mất cân đối nguồn vốn huy động giữa đồng nội tệ và ngoại tệ.
- Việc huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp Hai Bà Trưng mới chủ yếu tập trung vào việc phát hành kỳ phiếu và một phần huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư. Còn việc huy động vốn trong các doanh nghiệp quốc doanh, và đặc biệt các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn ít. Vì lượng vốn của các doanh nghiệp chiếm một phần rất lớn và quan trọng trong nền kinh tế.
- Các hình thức huy động vốn chưa phong phú, mới chỉ tập trung ở một số hình thức như nhận tiền gửi, phát hành kỳ phiếu. Trong khi đó ngân hàng chưa tạo dựng nguồn vốn của mình bằng việc đi vay ngân hàng khác, vay các tổ chức tín dụng, nhằm tăng tổng nguồn vốn huy động đảm bảo nhu cầu vay vốn của các cá nhân, các tổ chức kinh tế để từ đó đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
b/ Những tồn tại trong công tác sử dụng vốn:
Công tác sử dụng vốn có những tồn tại sau:
+ Tuy rằng tổng dư nợ tín dụng qua các năm cũng tăng lên, nhưng việc đầu tư vốn chưa có chiều sâu. Các hoạt động tín dụng mới chỉ dừng lại ở một số hoạt động thông thường như cho vay đối với dân cư và tổ chức kinh tế... và chưa đáp ứng được hết nhu cầu vay vốn.
+ Với vị trí là một chi nhánh của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội nhưng hoạt động cho vay đối với các hộ sản xuất nông nghiệp, các hộ nghèo, các ngành kinh tế nông nghiệp còn rất ít. Ngân hàng là một địa chỉ vay vốn của các hộ nghèo trên địa bàn, nhưng chúng ta thấy việc vốn vay của các hộ nghèo chiếm tỷ lệ rất ít trong tổng vốn cho vay.
Tình trạng nợ quá hạn của vốn cho các hộ nghèo vay chiếm tỷ lệ khá cao trên tổng nguồn vốn cho các hộ nghèo vay. Và đây là một bài toán khó cho các cán bộ làm công tác tín dụng, nhằm bảo toàn được lượng vốn của ngân hàng. Chi nhánh cần đôn đốc và theo dõi tình hình sử dụng vốn của các hộ nghèo, kết hợp với phòng thương binh xã hội, chính quyền nhằm giải quyết số nợ khó đòi đó.
- Công tác cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn hạn chế. Ngân hàng tránh rủi ro khi cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, nhưng trong điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay thì các thành phần kinh tế tư nhân, hộ gia đình có vai trò quan trọng đối với nền sản xuất xã hội. Trên địa bàn thủ đô các ngành nghề thủ công buôn bán nhỏ và dịch vụ khá phát triển do đó ngân hàng có thể dựa vào điều kiện này để tăng thêm hiệu quả công tác sử dụng vốn.
Chương III :một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác huy động và sử dụng vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quận hai bà trưng :
I .định hướng hoạt động trong thời gian tới:
1. Định hướng trong công tác huy động vốn:
- Mở rộng các hình thức huy động vốn ; Mở rộng nguồn tiền gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng và ngân hàng trong và ngoài nước.
- Tăng thêm chất lượng của nguồn vốn huy động bằng việc tăng cường thu hút các nguồn vốn trung và dài hạn, đặc biệt là các nguồn vốn của dân, các khoản đầu tư của các tổ chức kinh tế nước ngoài.
- Ngoài việc mở rộng quan hệ với nhiều tổ chức kinh tế, ngân hàng cần chú trọng tăng cường được các mối quan hệ với dân cư để thu hút thêm được nguồn vốn nhàn rỗi của dân chúng.
2. Định hướng trong công tác sử dụng vốn:
- Mở rộng các hoạt động tín dụng như kinh doanh bất động sản, thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, thanh toán thẻ tín dụng...
- Tập trung đầu tư vốn cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, chú trọng đầu tư cho các Tổng công ty thực hiện các chương trình được chính phủ phê duyệt. Tiếp tục đầu tư cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. có đầy đủ hồ sơ pháp lý chuẩn mực, bảo đảm thu hồi vốn vay.
- Tiến hành mở rộng đầu tư cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh với điều kiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả và có đầy đủ hồ sơ pháp lý.
3. Một số chỉ tiêu cần đạt trong những năm tới :
- Tổng nguồn vốn huy động tăng từ 25 - 30% so với năm trước.
- Dư nợ hàng năm tăng từ 20 - 25% một năm.
- Tỷ lệ nợ quá hạn giảm 5% so với năm trước.
- Đảm bảo an toàn tài sản trong kinh doanh.
- Kinh doanh đảm bảo thực hiện đúng pháp luật đã quy định và thực hiện sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên.
II - Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn từ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn quận Hai Bà Trưng :
1. Giải pháp về phía Nhà nước :
1.1/ Tiếp tục chấn chỉnh tổ chức và đổi mới hoạt động của hệ thống ngân hàng :
* Khẩn trương hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống các văn bản pháp quy để có đủ khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc thực hiện tốt luật Ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng, bảo đảm cho hệ thông ngân hàng hoạt động hiệu lực, hiệu quả, năng động và an toàn. Đổi mới phương thức và thủ tục tín dụng theo hướng tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các đơn vị, các hộ kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế có dự án đầu tư khả thi được vay vốn ngân hàng, nhất là trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn. Khẩn trương xây dựng các thể chế về bảo hiểm tiền gửi và bảo đảm tiền vay, cùng với những chế tài nghiêm ngặt nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế tối đa tình trạng nợ xấu và nguy cơ mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Đồng thời bằng các giải pháp thích hợp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội ; trước mắt cần tập trung xử lý tốt tình tạng tồn đọng vốn trong các ngân hàng thương mại.
* Thực hiện chuyển đổi cơ bản về cơ chế điều hành lãi suất, cơ chế quản lý ngoại tệ, tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái, tích cực xây dựng và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện vận hành các công cụ mới của chính sách tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
* Hiện đại hóa hệ thống công nghệ ngân hàng mà trọng tâm là nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng. Phát triển mạnh các công cụ và dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đối với dân cư và các doanh nghiệp. Từng bước nâng dần tỷ lệ tín dụng so với GDP lên ngang bằng các nước trong khu vực.
Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng, trước hết tập trung vào những khâu trọng yếu như chất lượng tín dụng, quản lý rủi ro, đảm bảo khả năng thanh toán ... Chấn chỉnh bộ máy tổ chức, cơ chế hoạt động và nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan kiểm tra, giám sát của ngân hàng Nhà nước.
* Tiếp tục cơ cấu lại nợ của các của các nhân hàng thương mại, kể cả việc xây dựng ngay các định chế cần thiết để xử lý dứt điểm nợ và tài sản thế chấp tồn đọng trong một thời gian nhất định nhằm nhanh chóng lành mạnh hóa tình trạng tài chính, nâng cao chất lượng kinh doanh tiền tệ và giảm thiểu rủi ro tín dụng của các ngân hàng. Tăng vốn tự có của các ngân hàng trên cơ sở cơ cấu lại sở hữu hoặc cho vay tái cấp vốn tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng ngân hàng. Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần, tạo đièu kiện thuận lợi để Ngân hàng cổ phần phát triển bền vững; kiên quyết sát nhập hoặc giải thể các ngân hàng ngân hàng yếu kém, vi phạm pháp luật, xử lý nghiêm những người có hành vi sai trái ,củng cố và phát triển vững chắc hệ thống quỹ tín dụng nhân dân thực hiện tốt vai trò tương trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn trong phạm vi xã phường. Chấn chỉnh các công cụ tài chính, bảo đảm hoạt động đúng quy định và chỉ thành lập mới khi có đủ điều kiện.
* Tách bạch chức năng cho vay chính sách với chức năng cho vay tín dụng thương mại thông thường của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Thành lập ngân hàng chuyên cho vay theo chính sách, nhằm thực hiện tốt hơn các chính sách của Đảng và nhà nước; đồng thời đảm bảo tính thương mại, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh kinh doanh trên thị trường vốn. Từng bước nới lỏng các hạn chế hành chính không cần thiết trong hoạt đông tín dụng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh bình đẳng cho các ngân hàng thương mại, thúc đẩy và tạo điều kiện nâng cao hiệu quả của các ngân hàng.
* Nâng cao năng lực và chất lượng quản lý tài sản của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là phân định rõ bản chất và mức độ rủi ro của các loại tài sản, tăng cường giám sát và thu hồi nợ, cải tiến chính sách khách hàng và điều kiện tín dụng, trích lập các quĩ để bù đắp các khoản tổn thất do rủi ro trong kinh doanh. Chú trọng nâng cao năng lực thẩm định dự án đầu tư và đánh giá thực trạng tài chính của các doanh nghiệp xin vay vốn, đi đôi với việc thành lập hệ thống đăng ký doanh nghiệp theo qui định của luật doanh nghiệp và thực hiện chế độ công khai tài chính doanh nghiệp. Giảm mạnh chi phí hoạt động, nhất là các chi phí quản lý hành chính, chi phí nhân lực và chi nhánh. Hạ thấp chỉ tiêu về chi phí nghiệp vụ trên tài sản có xuống tương đương với mức bình quân của khu vực.
1.2/ Nâng cao năng lực điều hành của cán bộ quản lý ử ngân hàng cơ sở:
Theo các chuyên gia kinh tế thì một trong những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Đông á là do sự trì trệ, yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng dẫn đến tình trạng không kiểm soát được khả năng thanh toán, làm cho hệ thống ngân hàng lâm vào tình trạng khủng hoảng, kéo theo cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đang đe doạ nền kinh tế toàn cầu.
Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đặt vấn đề nhanh chóng cải cách triệt để hề thống tài chính ngân hàng, xây dựng hệ thống tài chính tiền tệ trong sạch, việc hoàn thành một cách thắng lợi công việc phụ thuộc rất nhiều vào thái độ và sự nỗ lực của nhân viên được giao quyền, hơn là vào hành động của cán bộ quản lý hoạt động theo chức năng. Do vậy cán bộ điều hành ngân hàng phải là người lãnh đạo có thể gây ảnh hưởng và củng cố giá trị tinh thần cũng như niềm tin cho nhân viên bằng lời nói và việc làm của mình. Người lãnh đạo cần phải lưu ý rằng, không phải chính họ thi hành chiến lược kinh doanh, mà là cán bộ nhân viên thuộc quyền quản lý của họ. Mục tiêu chiến lược kinh doanh chỉ thực hiện được một cách hoàn hảo, khi và chỉ khi mọi người trong tổ chức sẵn sàng hoàn thành các mục tiêu đó.
Thực tế cho thấy, tinh thần thái độ làm việc của lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp đến đa số nhân viên cấp dưới, không thể có một tập thể nhân viên giỏi, làm việc say mê, có trách nhiệm năng động, nhạy bén khi người lãnh đạo tỏ ra yếu kém trong chỉ đạo điều hành. Một vị lãnh đạo chuyên quyền chỉ đạo điều hành không nhất quán sẽ tạo ra một tập thể làm việc theo kiểu hình thức, luôn tìm cách lấy lòng cấp trên và kết quả là tạo ra các phe cánh đối đầu nhau...Vì vậy, việc xác định tiêu chuẩn người lãnh đạo, trước hết phải là người có thiện chí vì mọi người vì công việc. Tuy nhiên thiện chí không vẫn chưa đủ, người lãnh đạo phải có khả năng lãnh đạo, phải biết phối hợp các công việc của mọi người trong tổ chức một cách có hiệu quả; do đó người lãnh đạo phải biết phân quyền chứ không thể tự mình điều hành hết mọi công việc. Như vậy, việc xác định nhu cầu nhân sự và tuyển chọn người vào cơ cấu tổ chức phải hợp lí và giữ cho các chỗ ấy luôn có người làm việc phải được thực hiện một cách khoa học, không được tuỳ tiện hoặc vì lợi ích riêng tư.
1.3 / Hoàn thiện môi trường pháp lí cho hoạt động ngân hàng:
Nguyện vọng chung của người đầu tư là mong đợi có hệ thống pháp lí rõ ràng, đầy đủ và bình đẳng. Hệ thống pháp lụât của nước ta hiện nay còn thiếu chặt chẽ và chồng chéo, thiếu hướng dẫn thực hiện của chính phủ, các Bộ, các Ngành có liên quan.
Do đó để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người đầu tư và người sử dụng vốn trong những năm tới Quốc hội ban hành những bộ luật cần thiết trong quan hệ kinh tế như: luật bảo vệ quyền tài sản tư nhân, luật chứng khoán và thị trường chứng khoán, luật thương phiếu, luật séc...
Việc ban hành hệ thống pháp lí đồng bộ rõ ràng không chỉ tạo được niềm tin cho nhân dân trong việc điều chỉnh quan hệ tiêu dùng- tiết kiệm- đầu tư mà còn đảm bảo cho hoạt động ngân hàng phát triển đúng hướng và đúng pháp luật.
Chẳng hạn: Cho vay đối với hộ sản xuất, hộ nghèo từ trước tới nay của Ngân hàng nông nghiệp ngoài hình thức thế chấp cầm cố, bảo lãnh, còn thực hiện cho vay tín chấp: qua các Tổ tương hỗ, Hội phụ nữ , Hội nông dân...Mỗi loại đều có quy chế hoạt động riêng, vậy ngân hàng nên có hướng dẫn cụ thể thực hiện điều 376 Bộ luật dân sự về việc “ Bảo lãnh tín chấp của các tổ chức chính trị-xã hội ở cơ sở cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn taịo ngân hàng, sổ tín dụng sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ “.
1.4 / Nhà nước nên có chính sách trợ giá, chính sách bảo hiểm:
Cùng với các chính sách khác như: thuế, tín dụng, chính sách trợ giá, bảo hiểm sẽ góp phần thúc đẩy nông nghiệp nông thôn phát triển nhanh hơn mở rộng sản xuất.
Trợ giá là một giải pháp được nhiều nước trên thế giới áp dụng, điều đó thể hiện sự quan tâm bảo vệ sản xuất trong nước đảm bảo quyền lợi cho người dân tạo cơ sở cho sự phát triển lâu dài.
+Trợ giá đầu vào: Việc áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới giống... thường chi phí cao. Nhà nước nên có trợ giá để khuyến khích các hộ sản xuất, các doanh nghiệp tư nhân áp dụng khoa học kỹ thuật mới nâng cao năng xuất.
+ Trợ giá đầu ra: Việc sản xuất của các hộ sản xuất, các doanh nghiệp mang tính thời vụ, việc tiêu thụ sản phẩm của người nông dân thường gặp khó khăn. Nên nhà nước cần gia tăng quỹ bình ổn giá cả, bù đắp cho nông dân, hộ sản xuất không bị mất giá, gây thua thiệt cho họ.
Bảo hiểm giao thông, bảo hiểm y tế... đã đem lại hiệu quả thiết thực cho quỹ bảo hiểm nhà nước và cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm. ở nông thôn và trong nông nghiệp hoạt động này mới thử nghiệm. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm ở nông thôn như: Bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm các máy móc tiến hành sản xuất...
1.5 / Mở rộng quyền phán quyết cho các chi nhánh:
Mức phán quyết của Ngân hàng nông nghiệp Việt nam theo công văn số 2662/NNNN-03 quy định về mức phán quyết tối đa món vay của các chi nhánh cấp II, III, IV trong đó có các qui định cụ thể cho từng lĩnh vực, quy định trên có ưu điểm là thống nhất mức phán quyết cho vay tối đa của các chi nhánh cùng cấp trong toàn quốc. Tuy nhiên việc áp dụng hạn mức này chưa hạn chế được rủi ro, chưa kích thích giữa các chi nhánh tại các địa phương khác nhau vì các ngân hàng có tỉ lệ nợ quá hạn khác nhau đều có cùng mức phán quyết. Vì vậy ngân hàng nên giao mức phán quyết khác nhau cho các chi nhánh ngân hàng tỉnh, thành phố ( cấp II ), các ngân hàng quận, huyện ( cấp III ) tuỳ thuộc vào từng chỉ tiêu như: Sự phát triển kinh tế từng địa phương, mức dư nợ, đặc biệt là tỷ lệ nợ quá hạn.
1.6 / Xây dựng và củng cố thị trường tài chính:
Việc xây dựng và củng cố thị trường tài chính là điều kiện cần thiết và đòn bẩy quan trọng cho việc thực hiện các giải pháp tín dụng. Thị trường tài chính là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu vốn thông qua hai hình thức trực tiếp và gián tiếp.
+ Trực tiếp: Giao dịch giữa người thừa vốn và thiếu vốn với nhau.
+ Gián tiếp: là giao dịch giữa người thừa vốn và thiếu vốn thông qua tổ chức tài chính trung gian: Ngân hàng, quỹ tín dụng...
Trong điều kiện nước ta hiện nay, thị trường tài chính chưa thực sự phát triển. Do vậy việc xây dựng và củng cố thị trường tài chính nông thôn là cần thiết, nghĩa là phải củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của mạng ưới ngân hàng, khơi dậy tiềm năng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển.
2. Giải pháp đối với ngân hàng:
2.1 / Một số giải pháp chung:
a / Cải tiến hoạt động và mở rộng các hình thức dịch vụ ngân hàng:
* Thủ tục giản đơn, gon nhẹ: Khách hàng tới gửi tiền, chuyển tiền, rút tiền... Ngoài mục đích thu lãi, an toàn, còn mong muốn thủ tục đơn giản, nhanh chóng. Nếu thủ tục rườm rà quá lâu thì họ ngại và sẽ mất nhiều thời gian.
Do đó ngân hàng phải cải tiến các thủ tục sao cho đơn giản, rõ ràng, nhanh chóng, thanh toán có hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho khách.
* Cung cấp thông tin, tư vấn đầu tư:
Cung cấp thông tin, tư vấn đầu tư là vấn đề cấp thiết của mỗi ngân hàng giúp khách hàng hiểu biết các hoạt động của ngân hàng, biết cần phải làm gì, khi nào, ở đâu, có những thuận lợi và khó khăn nào cho họ nhằm giảm bớt thất thoát của họ và của chính ngân hàng, xã hội tạo niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng. Đây cũng chính là công cụ để tuyên truyền quản cáo rất hữu hiệu, do đó ngân hàng cần thiết lập hệ thống thông tin chính xác kịp thời.
* Dịch vụ chi lương: Ngân hàng có thể áp dụng hình thức này với các doanh nghiệp khách hàng lớn có thu nhập cao, ổn định. Từ số dư thừa tài khoản của doanh nghiệp tại ngân hàng, ngân hàng sẽ thực hiện chi trả lương cho nhân viên của doanh nghiệp. Đến kỳ phát lương doanh nghiệp sẽ gửi một bảng lương cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ trích tài khoản của doanh nghiệp qua tài khoản nhân viên đối với các nhân viên có tài khoản tại ngân hàng, nếu nhân viên có tài khoản tại ngân hàng khác thì ngân hàng trích tài khoản của doanh nghiệp qua tài khoản của nhân viên đó tại ngân hàng kia.
Nói chung hình thức này giảm bớt được chi phí rút tiền từ ngân hàng về phát lương đối với doanh nghiệp. Với nhân viên họ được hưởng một phần lãi xuất đối với khoản tiền chưa cần sử dụng tới, đồng thời đảm bảo được bí mật tình hình tài chính của họ. Với ngân hàng giữ được một khoản tiền lớn để hoạt động kinh doanh.
b / Hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh:
Rủi ro xảy ra khi ngân hàng cho khách hàng vay vốn mà không thu hồi được dẫn đến vốn bị ứ đọng không quay vòng. Nếu ngân hàng thực hiện tốt chính sách cho vay, kinh doanh có hiệu quả thì sẽ dẫn tới có nhiều khách hàng có quan hệ tốt với ngân hàng, uy tín của ngân hàng sẽ được nâng cao, tạo điều kiện huy động vốn dễ dàng và đạt hiệu quả cao.
Để thực hiện mục tiêu kinh doanh có hiệu quả, giảm tỷ lệ rủi ro, đảm bảo an toàn vốn tín dụng ngân hàng nên thực hiện các biện pháp sau:
- Thứ nhất: Trước khi cho vay phải thẩm định kỹ khách hàng, khách hàng phải có tài sản thế chấp, đủ tư cách pháp nhân, dự án đầu tư có tín nhiệm, làm ăn tốt, có quan hệ lâu dài với ngân hàng.
Trong quá trình thực hiện dự án cho vay các cán bộ tín dụng của ngân hàng phải thường xuyên theo dõi việc sử dụng vốn một cách nghiêm túc, trung thực, có nhận xét, kiến nghị lên giám đóc tránh tổn thất cho ngân hàng.
- Thứ hai: Ngân hàng nên giúp đỡ tìm đầu vào hoặc nơi tiêu thụ sản phẩm của khách hàng nhằm đạt hiệu quả cao, tạo uy tín và quan hệ làm ăn lâu dài với khách hàng.
- Thứ ba: Ngân hàng phối hợp chặt chẽ với cơ quan chính quyền Quận, Huyện, Thành phố để quản lý tài sản thế chấp thường xuyên trao đổi cung cấp những thông tin về rủi ro tín dụng với trung tâm ngân hàng nhà nước.
- Thứ tư: Phát mại tài sản thế chấp chậm nhất 10 ngày sau khi bên vay không trả được nợ đến hạn. Ngân hàng lập hội đồng thanh lý tài sản bao gồm đại diện của ngân hàng, các cơ quan chức năng và có mặt của người sở hữu tài sản đó.
c/ Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng :
Tạo dựng lòng tin vững chắc đối với khách hàng , khuyến khích khách hàng đến ngân hàng giao dịch . Do đó tác phong , lề lối làm việc của cán bộ nhân viên trong ngành ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng .
*Thái độ của nhân viên ngân hàng :
Có nhiều khách hàng ít có quan hệ giao dịch với nhân viên ngân hàng , nên lần đầu tiếp xúc không khỏi bỡ ngỡ ngại ngùng. Nếu thái độ của nhân viên không tỏ ra niềm nở, dễ gần thì khách hàng sẽ cảm thấy không yên tâm và đôi khi khó chịu , lần sau không muốn gặp nữa. Do đó thái độ phục của nhân viên có một vai trò rất quan trọng .Để tạo thuận lợi cho khách hàng và ngân hàng, nhân viên cần có thái độ nhiệt tình , vui vẻ và lịch sự.
* Trình độ của nhân viên ngân hàng :
Nhân viên ngân hàng phải có sự hiểu biết nhất định , bảo đảm có thể hướng dẫn các thủ tục và giải đáp các vướng mắc , tạo niềm tin đối với khách hàng . Người nhân viên ngân hàng phải thường xuyên học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ . Việc bố trí vị trí làm việc cho nhân viên ngân hàng phải tuỳ theo yêu cầu công việc , năng lực của mỗi cá nhân để có thể phát huy tốt sở trường của mỗi người và làm vững mạnh đội ngũ cán bộ công nhân viên.
d/ Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng :
ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trong hệ thống ngân hàng để thanh toàn nhanh chóng an toàn , chính xác , tiện lợi nên cần nhanh chóng thiết lập hệ thống tự động , liên kết thanh toán qua mạng quốc gia giữa các ngân hàng với nhau và với khách hàng trong cả nước , tham gia mạng thanh toán toàn cầu phục vụ thanh tán quốc tế , áp dụng thẻ thanh toán điện tử , thanh toán không chứng từ qua mạng vi tính giữa các ngân hàng cùng và khác địa phương.
2.2 Giải pháp đối với công tác huy động vốn :
a/ Mở rộng nhiều hình thức huy động vốn :
Việc mở rộng nhiều hình thức huy động vốn là một vấn đề đang được nói đến nhiều trong việc tăng cường nguồn vốn phục vụ cho việc phát triển kinh tế đất nước . Việc mở rộng các hình thức huy động vốn sẽ tăng thêm nguồn vốn đối với cả hệ thống , tạo điều kiện cho sự phát triển của toàn ngành . Hiện nay ngân hàng mới chỉ dừng lại ở một số biện pháp huy động vốn thông dụng như là nhận tiền gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế và phát hành kỳ phiếu . Vấn đề mở rộng nhiều hình thức huy động vốn cố thể được huyđộng như sau :
* Tiền gửi thanh toán :
Hiện nay ngân hàng chủ yếu nhận tiền gửi của các doanh nghiệp vào để thanh toán qua ngân hàng . Ngân hàng cần phải mở rộng hình thức tiền gửi thanh toán này đối với một số cá nhân cố nhiều tiền gửi vào ngân hàng để thực hiện thanh toán bằng séc ( Hiện nay ngân hàng đã mở dịch vụ chuyển tiền cho các cá nhân trong phạm vi toàn quốc ) . Ngân hàng cần phải nâng cao hiệu quả thanh toán nhanh chóng , an toàn để thu hút khách hàng thanh toán qua ngân hàng . Tiền gửi thanh toán qua ngân hàng là phương thức huy động vốn tiền gửi tốt nhất của các Ngân hàng Thương mại . Tuy nhiên việc thanh toán qua ngân hàng còn khó thực hiện bởi hai lý do : Thu nhập của dân cư còn thấp và sự phát triển của hệ thống thương nghiệp hiện nay chưa tạo điều kiện để thanh toán qua ngân hàng. Việc phát triển hình thức thanh toán qua ngân hàng thích hợp với nhiều đô thị phát triển . ở trên địa bàn thủ đô các hoạt động giao dich thưong mại diễn ra tấp nập là diều kiện tốt để ngân hàng phát triển các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng như : nhận chyển tiền , nhận thanh toán hộ , thu hộ các doanh nghiệp ...
* Tiền gửi tiết kiệm :
Có thể mở rộng hình thức huy động vốn tiền gửi tiết kiệm nhằm vào các mục đích nhất định như mua nhà , mua các phương tiện sinh hoạt đắt tiền . Để huy động tiền gửi tiết kiệm,theo loại này cần phải tạo ra một sự hấp dẫn đối với khách hàng nhất là phải chú trọng đến các yếu tố như : giá rẻ , thủ tục mua bán giản đơn , thuận tiện , hàng hoá chất lượng cao . Muốn đạt được điều đó ngân hàng phải phối hợp với các tổ chức cung cấp như tổ chức kinh doanh đĩa ốc , kinh doanh xe máy .Để đặt hàng với giá rẻ hơn giá bán lẻ trên thị trường để kích thích người gửi tiền tiết kiệm . Ngân hàng phải thực hiện hộ khách hàng các thủ tục chuyển giao quyền sở hữu ( mua bán ) tạo ra sự thoả mái cho khách hàng . Việc thực hiện các hình thức này là có thể được nếu như ngân hàng tìm các khai thác các nhu cầu của khách hàng cộng với việc mở rộng giao dịch với các doanh nghiệp , nhà sản xuất . Trên địa bàn Hà nội tầng lớp viên chức nhà nước có thu nhập ổn định khá đông. Do đó , nhu cầu tiết kiệm để mua sắm khá cao , vì thế ngân hàng có thể kích thích dân cư gửi tiền theo hình thức tiết kiệm mua sắm để có thể taọ thêm nguồn vốn cho sản xuất.
b/ Tăng cường huy động các nguồn vốn trung và dài hạn :
Nhằm tăng thêm chất lượng của nguồn vốn huy động ngân hàng phải tăng cường huy động nguồn vốn trung hạn và dài hạn . Các nguồn vốn trung dài hạn có thể được khai thác từ phía chính phủ , từ các tổ chức kinh tế và từ dân cư .
_ Đối với các nguồn vốn trung hạn và dài hạn từ phía các tổ chức kinh tế:
Hiện nay tiền gửi của các tổ chức vào ngân hàng còn ít.Do đố Ngân hàng nông nghiệp Hai Bà Trưng phải tăng cường,mở rộng được với các tổ chức kinh tế đóng trên địa bàn quận và thủ đô. Ngân hàng cần có đội ngũ cán bộ thẩm định có năng lực để tạo đựoc sự tin cậy của các doanh nghiệp , tổ chức kinh tế.
_ Đối với các nguồn vốn trung hạn và dài hạn từ phía dân cư :
Việc huy động tiền gửi trung hạn và dài hạn từ phía dân cư cần phải định ra nhiều loại kỳ hạn : 3 năm , 5 năm,10 năm. Với lãi suất huy động phù hợp. Thông thưòng người gửi tiền có kỳ hạn dài thường lo âu khi hộ cần chuyển đổi khoản tiền này sang hình thức khác để đáp ứng nhu cầu thanh khoản sẽ gặp khó khăn , hoặc lo sợ về lạm phát , sự phá sản của ngân hàng. Do vậy đối với các khoản tiền trung và dài hạn cần phát hành các trái phiếu có thể chuyển nhượng dễ ràng trên thị trường. Các trái phiếu này có thể bán lại cho các cá nhân khác , cho các doanh nghiệp , các ngân hàng.Việc huy động hình thức này chắc chắn sẽ tạo ra nguồn vốn ổn định đảm bảo cho ngân hàng hoạt động.
c/ Mở tài khoản cá nhân và séc cá nhân :
Ngày 21/ 02 /1994 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký quyết định số 22/ QĐ - NH ban hành thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt và thông tư 08 / TT – NH2 ký ngày 02 / 6 / 1994 hướng dẫn việc thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, Trong đó có sử dụng séc cá nhân với quyết định 160 / QĐ - NH2 ngày 19/8/1993 về việc mở tài khoản cá nhân. Các Ngân hàng Thương mại cũng có các văn bản cụ thể về việc khai thác quyết định này. Tuy nhiên, cho đến nay số lượng tài khoản cá nhân mở tại các ngân hàng trong nước nói chung và ở Ngân hàng Nông nghiệp Hai Bà Trưng nói riêng chưa nhiều , nó chưa thuận tiện và thiết thực . Trong tương lai không xa, khi trình độ dân trí của người dân đựợc nâng cao , hoạt động ngân hàng phát triển đầy đủ thì nó sẽ là hình thức đem lại tiện ích cho người sử dụng và đem vốn lớn cho ngân hàng. Để mở rộng tốt hình thức này cần phải :
+ Có hình thức giới thiệu, quảng cáo để người dân thấy được lợi ích của hình thức này.
+ Giới thiệu với khách hàng về các chuyển biến trong công tác nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng của ngân hàng ,nhằm đem lại lợi ích cho họ trong giao dịch gửi rút tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt .
Đối với ngân hàng , việc áp dụng hình thức này sẽ góp phần vao quá trình hiện đại hoá công tác thanh toán qua ngân hàng , giảm đáng kể chi phí in ấn, vận chuyển và bảo quản tiền mặt . Một điều quan trọng nữa là nhờ giữ tài khoản cho số đông khách hàng nên nếu làm tốt công tác này sẽ thu đựoc lượng tiền gửi lớn với chi phí tiền lãi thấp, có thêm nguồn vốn cho vay góp phần vào sự tăng trưởng của ngân hàngvà của cả nền kinh tế .
d/ Khuyến khích thêm nhiều doanh nghiệp , cá nhân và các tổ chức xã hội mở tài khoản tiền gửi :
Thông thường nguồn tiền gửi trong thanh toán của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn huy động của một ngân hàng thương mại. So với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn, tỷ trọng nguồn tiền gửi thanh toán của ngân hàng còn thấp , phí thu mua các dịch vụ thanh toán hộ chiếm phần không đáng kể. Ngân hàng đang phải chịu mức phí bình quân đầu vào khá cao dẫn đến lãi suất cho vay đầu ra cao làm hạn chế khả năng kinh doanh và thu hút khách hàng của ngân hàng . Chinh vì vậy , ngân hàng phải sớm có biện pháp khuyến khích thêm nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tới mở tài khoản, tạođiều kiện về thời gian thủ tục , có thể ưu tiên cho vay vốn , tài trợ cho các doanh nghiệp có số dư tài khoản lớn thường xuyên tại ngân hàng, cung ứng cho họ các dịch vụ thuận tiện như chi trả lương cho cán bộ qua ngân hàng.
2.3 / Giải pháp đối với công tác sử dụng vốn:
a/ Đa dạng hoá các hình thức kinh doanh và hoạt động :
Việc đa dạng hoá các hình thức trong hoạt động của ngân hàng là điều rất cần thiết . Là một chi nhánh mới thành lập của Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội , xuất phát từ những nghiệp vụ cơ bản, ngân hàng cần mở rộng thêm nhiều hình thức kinh doanh trong thời gian tới . Việc đa dạng hoá các hình thức kinh doanh vừa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng vừa giảm được khả năng rủi ro nếu xảy ra .Trông thời gian tới Ngân hàng Nông nghiệp Hai Bà Trưng nên mở rông thêm một số hình thức kinh doanh hoạt động là :
- Thanh toán thẻ tín dụng , chi trả tiền tự động .
- Mở dich vụ giữ hộ tiền vàng, giấy tờ có giá... cho khách hàng.
- Thực hiện các dịch vụ tư vấn cho khách hàng về tài chính tiền tệ.
- Làm đại lý huy động cho các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh có nhu cầu.
Việc mở rộng các hình thức kinh doanh trên có điều kiện cơ bản đẻ thực hiện được , bởi vì ngân hàng có một địa điểm thuận lợi ,nằm giữa trung tâm buôn bán của quận và thủ đô .Những dịch vụ này là hoạt động sinh lời của ngân hàng nhưng đồng thờichúng lại có tác dụng thu hút khách hàng . Cũng cần lưu ý rằng trong các hoạt động dich vụ của ngân hàng, giá cả của dịch vụ cũng hết sức linh hoạt và mang tính cạnh tranh cao để thu hút được và giữ niềm tin đối với khách hàng .
b/ Thực hiện nghiệp vụ chiết khấu đối với sổ tiết kiệm và các chứng chỉ tiền gửi :
Như chúng ta biết , tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn thường bị hạn chế bởi yếu tố kỳ hạn . Theo quy định người gửi tiền dưới hình thức có kỳ hạn chỉ được rút gốc và lãi khi hết thời hạn gửi . Thực tế khách hàng không thể có kế hoạch chính xác vì việc chi tiêu bất thường nên họ phải rút tiền ra trước hạn . ở trường hợp này , Ngân hàng áp dụng cho khách hàng hưởng lãi suất tiền gửi thấp hơn thấp hơn lãi suất lẽ ra khách hàng được hưởng, gây thiệt thòi cho người gửi tiền . Để khác phục tình trạng trên ,ngân hàng nên áp dụng cho vay thế chấp bằng sổ tiết kiệm khi gửi tiền với kỳ hạn dài , sắp đến ngày đáo hạn mà cần rút tiền thì có thể dùng sổ tiết kiệm của mình làm vật thế chấp vay vốn ngắn hạn cho những ngày còn lại để tránh thua thiệt về lãi suất do rút tiền trước kỳ hạn . Khách hàng đựoc vay tối đa 80% giá trị của sổ tiết kiệm , việc này thuận lợi nhưng vẫn chưa đạt hiệu quả tối đa vì khách hàng chỉ được vay số tiền thấp hơngiá trị tiền mình sở hữu, Khi sổ tiết kiệm đến hạn , khách hang phải đến ngân hang rút tiền tiết kiệm để trả nợ vay hoặc dùng tiền từ nguồn khác để trả nợ.
Do vậy ngân hàng nên áp dụng hình thức chiết khấu đối với sổ tiết kiệm để tạo hiệu quả hơn cho cả hai phía khách hàng và ngân hàng. Khi có nhu cầu rút tiền trước hạn , khách hàng có thể đưa sổ tiết kiệm của mình đến ngân hàng xin chiết khấu.
Chi phí Giá trị của sổ Lãi suất Số ngày rút
chiết khấu = tiết kiệm đến. 5 chiết khấu 5 trước hạn
ngày đảo hạn
Số tiền khách Giá trị của sổ tiết kiệm Chi phí triết khấu
hàng được rút ra = đến ngày đảo hạn - ( Tính cho số ngày
( cả gốc và lãi ) đã rút ra trước )
Lãi suất chiết khấu phải lớn hơn lãi suất tiền gửi ( bằng lãi suất cho vay )
Như vậy , ngân hàng đã vừa thực hiện được việc chi trả tiền gửi tiết kiệm, vừa thực hiện được nghiệp vụ cho vay và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng có thể chọn lựa giữa hình thức vay thế chấp bằng sổ tiết kiệm hay chiết khấu trực tiếp tiền gửi của mình.
Ngoài các hình thức trên ngân hàng cũng cần phải nghiên cứu triển khai các hình thức huy động vốn dài hạn như huy động tiền gửi tiết kiệm xây dựng nhà ở, vừa hỗ trợ người dân sớm có nhà rút ngắn thời gian chờ đợi đủ vốn, vừa tạo nguồn vốn dài hạn cho ngân hàng. Hay áp dụng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm dài hạn có thưởng , tức là sau một thời gian nhất định những sổ tiết kiệm với những mã số riêng sẽ được quay thưởng giống như quay sổ số và những giải thưởng chỉ mang tính chất khuyến khích của ngân hàng.
Song song với việc đa dạng hoá tiền gửi tiết kiệm , Ngân hàng cần đẩy mạnh phát hành kỳ phiếu ngân hàng có mục đích , lãi suất linh hoạt, tuỳ thuộc vào môi trường cạnh tranh và cung cầu trên thị trường ,xây dựng đề án phát hành kỳ phiếu huy động vốn dài hạn, vừa tạo nguồn vốn vừa cung ứng hàng hoá cho thị trường vốn ra đời và hoạt động.
c/ Ngân hàng cần có phương thức đầu tư thích hợp đối với các loại hình doanh nghiệp:
Đối với doanh nghiệp nhà nước :
Hiện nay , ngân hàng cho vay vốn với đối tượng là doanh nghiệp nhà nước còn ít . Ngân hàng cần tiếp tục đầu tư vốn cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Bám sát tình hình tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước , đầu tư theo đúng ngành nghề đăng ký sản suất kinh doanh đã đăng ký.
Nắm vững tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính - kinh doanh của doanh nghiệp. Các báo cáo này phải chính xác và được ngân hàng kiểm tra kỹ lưỡng. Ngân hàng cần phân loại doanh nghiệp nhà nước theo 3 cấp độ A,B, C .
Các doanh nghiệp loại A có tình hình tài chính khả quan , có hướng phát triển đúng đắn . Đối với loại hình doanh nghiệp này ngân hàng cần đầu tư vốn nếu như doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản suất kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp loại B , có tốc độ tăng trưởng nhưng chậm do đó ngân hàng cần tìm hiểu kỹ tình hình của doanh nghiệp, phối hợp cùng doanh nghiệp trong việc phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân hàng sẽ đầu tư nếu như thấy rằng hoạt động đầu tư vốn sẽ đem lại hiệu quả và hướng phát triển của doanh nghiệp là đúng đắn.
Ngân hàng nên hạn chế đầu tư vốn cho các doanh nghiệp loại C. Vì các doanh nghiệp này tình hình tài chính không mấy khả quan, sản xuất linh doanh đình đốn , không có hướng phát triển đúng đắn. Việc làm ăn kém hiệu quả như thế sẽ dẫn đến tình trạng mất vốn nếu như ngân hàng quyết định đầu tư vào. Do vậy trước khi đầu tư hay cho vay vốn ngân hàng cần thẩm định rõ tình hình hoạt động của doanh nghiệpđó, từ đó có phương hướng cụ thể trong việc đầu tư.
Tham dự vào hoạt động tài chính của các đơn vị kinh tế thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp góp phần giải toả vốn, mở rộng sự kiểm soát của ngân hàng.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh :
Việc đầu tư cho các doanh ngiệp ngoài quốc doanh còn nhiều hạn chế bởi mức độ quan hệ của hiện chỉ bó hẹp trong khu vực doanh nghiệp nhà nước và hộ gia đình . Ngân hàng cần mở rộng đầu tư đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Các doanh nghiệp kinh tế ngoài quốc doanh được vay vốn của ngân hàng bao gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các cơ sở sản xuất kinh doanh được nhà nước công nhận . Còn về phương pháp cho vay , ngoài việc cho vay giản đơn theo mùa vụ và theo chu kỳ sản xuất , cho vay thu nợ theo từng nhóm , từng khế ước vay, nên quy định thêm một số phương thức cho vay linh động hơn như :
+ Cho vay theo “ tài khoản đặc biệt “ đối với các doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh có thu nhập thường xuyên , trên cơ sở đó các hộ vay có thể chủ động rút tiền vay và nộp tiền trả nợ hàng ngày , nhưng số dư nợ không vượt quá mức đã thoả thuận trước với ngân hàng.
+ Cho vay theo dạng trả góp hàng ngày, hàng tuần , hàng tháng tuỳ theo tính chất sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp hay hộ sản xuất .
+ Từng bước cho phép doanh nghiệp sử dụng séc thanh toán và cho mở rộng các hình thức thanh toán đối với doanh nghiệp .
+ Thực hiện các dịch vụ ngân hàng đối với doanh nghiệp như bảo lãnh trong việc đấu thầu dự án , dịch vụ tư vấn ...
Trong công tác cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cần chú ý tới các điều kiện vay vốn của doanh nghiệp :
\ Điều kiện về giấy phép kinh doanh, các thủ tục pháp lý quy định về chức năng quyền hạn của doanh nghiệp .
\ Tài sản thế chấp : Tài sản này phải thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp . Tài sản thế chấp được định giá cẩn thận và hợp pháp.
* Đối với tư nhân, hộ sản suất kinh doanh :
- Cần tăng cường doanh số cho vay đối với tư nhân , hộ sản suất kinh doanh nếu như kinh doanh có hiệu quả và trả đúng hạn .
- Thủ tục cho vay cần phải giản đơn , phù hợp.
- Cần bảo đảm các điều kiện về cầm cố, thế chấp tránh rủi ro.
- Mở rộng hình thức cho vay trực tiếp thông qua hợp tác xã,thông qua sự bảo lãnh của các tổ chức kinh tế .Ngân hàng phối hợp với các doanh nghiệp đầu tư vốn cho các hộ sản xuất kinh doanh. Sau đó đến khi thu hoạch , doanh nghiệp tiến hành thu mua của hộ sản xuất và qua đó các hộ sản xuất trả nợ cho ngân hàng . Hình thức này tạo thêm điều kiện phát triển sản xuất đối với hộ sản xuất kinh doanh.
- Với nhiệm vụ phát triển nông thôn, ngân hàng có thể phối hợp cùng với các công ty vật tư nông nghiệp tổ chức cho vay trực tiếp tới hộ sản xuất kinh doanh. Hình thức bảo đảm này người vay vốn sử dụng đúng mục đích, thúc đẩy quan hệ với ngân hàng.
d/ Thực hiện Marketing ngân hàng :
Ngân hàng cần có một bộ phận chuyên trách thực hiện nghiên cứu chiến lược Marketing ngân hàng. Hiện nay đây là một vấn đề còn được ít ngân hàng quan tâm . Marketing ngân hàng là một hệ thống quản lý trong một ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn và các dịch vụ của ngân hàng bằng các chính sách biện pháp linh hoạt để thích ứng với thị trường đạt mục tiêu tăng trưởng và phát triển.Hoạt động Marketing ngân hàng phải hoàn thiện về cơ cấu tổ chức,cơ sở vật chất kỹ thuật,về trình độ nhân viên để tạo ra một hình ảnh mới về hoạt động ngân hàngvà làm cho hình ảnh đó ngày càng hoàn thiện và có sức hút đối với khách hàng.
Như vậy có thể kết luận rằng hoạt động Marketing ngân hàng luôn luôn gắn liền với hoạt động của ngân hàng trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay.
Bộ phận chuyên trách nghiên cứu về Marketing ngân hàng sẽ có những đóng góp lớn trong việc tăng cường công tác huy động vốn, sử dụng vốn và đem lại hiệu quả kinh doanh đối với ngân hàng . Bộ phận này sẽ tìm ra các phương pháp thích hợp để thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng một cách khoa học.
e/ Thực hiện triệt để cơ cấu khoán tài chính đối với cán bộ tín dụng :
áp dụng cơ chế khoán tài chính đối với các cán bộ tín dụng ít nhiều đã có những ưu điểm nhất định .
Thực hiện thưởng vật chất đối với các cán bộ tín dụng có dư nợ cao, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, thu lãi đầy đủ.Và ngược lại có hình thức kỷ luật thích hợp đối với các cán bộ tín dụng có tỷ lệ nợ quá hạn vượt mức cho phép và không thu đủ lãi. Thực hiện biện pháp này có lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. Về phía ngân hàng có chế độ thưởng phạt về tài chính, cán bộ tín dụng sẽ tập chung, đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu khách hàngđặc biệt là dự án kinh doanh. Nhờ đó tín dụng ngân hàng sẽ biết đâu là dự án thực sự đem lại hiệu quả kinh tế cao, có khả năng trả nợ vốn và lãi đúng hẹn để mạnh dạn cho vay đáp ứng nhu cầu của khách hàng như vậy ngân hàng sẽ mở rộng được doanh số cho vay và cho vay đúng đối tượng, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Mặt khác tự do cơ chế khoán tài chính nên các bộ tín dụng rất sợ tỷ lệ nợ quá hạn lớn, không thu hồi được lãi đúng hạn. chính vì vậy, cán bộ tín dụng phải rất tích cức xem xét dự án trước khi cho vay, kiểm tra đôn đốc sau khi giải ngân nhằm giúp hộ sản xuất sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiêu quả.
Cơ chế khoán tài chính làm cho cán bộ tín dụng có trách nhiệm hơn đối với những khoản cho vay của mình. Như thế sẽ giúp ngân hàng mở rộng cho vay, cho vay đúng đối tượng, thu tiền gốc và lãi đúng kỳ hạn, tránh đưẹc rủi ro. Bên cạnh đó, với tinh thần trách nhiệm cao và sự hiểu biết của cán bộ ngân hàng những dự án không có hiệu quả kinh tế sẽ bị loại bỏ, giúp khách hàng tránh được rủi ro.
Rõ ràng cơ chế khoán tài chính đã làm cho chất lượng tín dụng được bảo đảm. Ngân hàng nên tiếp tục phát huy và hoàn thiện cơ chế này trong hoạt động kinh doanh của mình, có như vậy mới ngày càng mở rộng được công tác tín dụng của khách hàng.
g/ Mở rộng cho vay thông qua tổ tín chấp :
Cho vay thông qua tổ tín chấp là một xu hướng nhằm tiếp cận trực tiếp tới hộ sản xuất một cách hiệu quả. Nhiều nhà nước đã rất thành công trong việc cấp tín dụng cho hộ sản xuất thông qua tổ tín chấp vay vốn. đặc biệt việc tín chấp đối với các hộ nghèo thông qua tổ tín chấp là cần thiết, nó quyết định đến việc thành công của chương trình tín dụng người nghèo. ở ngân hàng nông nghiệp Hai Bà Trưng có thực hiện cấp tín dụng cho hộ sản xuất thông qua tổ thì mới giải quyết được vấn đề kiểm soát nghiêm ngặt quá trình chuyển tải vốn đó . Bởi vì, với tính tự nguyện,dân chủ và năng động , hoạt động trên cơ sở quy ước của tổ , việc cho vay thông qua tổ để giải quyết tốt các vấn đề sau :
Thứ nhất : Tổ là nơi xác định và đánh giá nhu cầu tín dụng đảm bảo công khai, chuẩn xác kịp thời. Nhờ đó ngân hàng có thể giải ngân nhanh mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng.
Thứ hai : Việc hình thành tổ tín chấp vay vốn có quy ước riêng là điều kiện cần thiết thực hiện vai trò kiểm tra, đôn đốc, giám sát sử dụng vốn vay, trả nợ đúng hạn của hộ vay vốn.
Thứ ba : Tổ cũng là nơi để các hộ tương trợ nhau, không những về nhu cầu tín dụng mà còn kiến thức, là đầu mối thu nhận kỹ thuật sản xuất để chuyển tải cho từng thành viên, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ngân hàng.
Thứ tư : Khi trình độ quản lý của tổ được nâng lên, thì tổ cũng là nơi có thể thực hiện các dịch vụ trong ngân hàng ( như : làm đại lý thu nợ, phát tiền vay...) trong điều kiện các cánbộ tín dụng ngân hàng chưa đáp ứng trên diện rộng.
Trên đây ta thấy những vấn đề mà khi có tổ tín chấp, thì việc thông qua tổ những vấn đề đó đựơc giải quyết tốt. Do đó Ngân hàng Nông nghiệp Hai Bà Trưng nên áp dụng hình thức này trong thời gian tới.
Những giải pháp trên đây là những biện pháp có thể thúc đẩy một cách tốt hơn công tác huy động vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng Nông nghiệp Hai Bà Trưng . Với những giải pháp đó hy vọng rằng có thể đem lại cho Ngân hàng những phương hướng có thể thúc đẩy sự phát triển hoạt động kinh doanh trong thời gian tới.
Kết luận
Nội dung của chuyên đề đề cập đến công tác huy động vốn và sử dụng vốn trong một Ngân hàng thương mại . Như đã nói ở trên công tác huy động vốn và sử dụng vốn có vai trò quan trọng không những đối với hoạt động ngân hàng mà còn đối cả nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Hy vọng rằng qua chuyên đề này những suy nghĩ của tôi có thể góp phần nhỏ bé nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng .
Do trình độ có hạn , thêm vào đó đây là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng và là một trong những vấn đề đang được quan tâm, cho nên chuyên đề này không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Tôi rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo cũng như các cán bộ ngân hàng để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Lê Anh Vân và các cô chú trong Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hai Bà Trưng đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này.
Tài liệu tham khảo
1. Ngân hàng thương mại. GS. TS Edwand WReed
NXB thành phố Hồ Chí Minh
2. Tiền tệ và ngân hàng. PTS. Lê Văn Tề
NXB thành phố Hồ Chí Minh - 1992
3. Tiền và hoạt động ngân hàng. Lê Vinh Danh
NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 1996
4. Những vấn đề cơ bản về tiền tệ tín dụng và ngân hàng trong bước đầu đổi mới ở Việt Nam. Cao Sĩ Khiêm - Viện KHNH - Hà Nội 1994.
5. Bảo toàn và phát triển vốn. Nguyễn Công Nghiệp và Phùng Thị Đoan
NXB Thống kê - Hà Nội 1992
6. Báo cáo kết quả kinh doanh của NHN0 & PTNT Quận Hai Bà Trưng
7. Tạp chí Tài chính - Tiền tệ
8. Tạp chí Ngân hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6723.doc