Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị tại Công ty xuất nhập khẩu lắp máy thuộc Tổng công ty lắp máy Việt Nam

Ngay từ khi có quyết định chuyển đổi từ Phòng xuất nhập khẩu sang Công ty XNK lắp máy của Tổng công ty lắp máy Việt nam, Công ty XNK lắp máy đã ý thức được sự khó khăn và thách thức trong kinh doanh. Cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế càng trở nên khốc liệt. Các công ty và tập đoàn lớn của nước ngoài chuyên sản xuất máy móc thiết bị đang xâm nhập mạnh mẽ vào thị trường Việt Nam. Điều này đòi hỏi Công ty XNK lắp máy phải có chiến lược kinh doanh phù hợp, chấp nhận cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Một vũ khí khá quan trọng để nâng cao hiệu quả cạnh tranh là thông tin. Ngày nay, cả trên lý luận và thực tiễn đều đã chứng minh rằng thông tin là một loại hàng hoá đặc biệt không thể thiếu trong môi trường kinh doanh hiện nay. Không có thông tin chính xác về thị trường, đối thủ cạnh tranh . thì không thể kinh doanh có hiệu quả. Chính vì vậy, công tác thu thập và xử lý thông tin, tiếp cận thị trường là vô cùng quan trọng. Với vai trò trung gian, cầu nối giữa người mua trong nước và người bán ở nước ngoài đòi hỏi Công ty XNK lắp máy phải có thông tin đầy đủ, chính xác về cả thị trường trong nước và nước ngoài. Các tiêu thức để thu thập và xử lý thông tin phải phù hợp với mục tiêu kinh doanh của Công ty.

doc72 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị tại Công ty xuất nhập khẩu lắp máy thuộc Tổng công ty lắp máy Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẵng, TP Hồ Chí Minh và nước ngoài như Liên Bang nga, Hàn quốc, Đài Loan theo chức năng giới thiệu sản phẩm, mở rộng thị trường, xúc tiến ký các hợp đồng với các đối tác trong nước và nước ngoài. II/ Phân tích tình hình kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị tạI công ty XNK lắp máy 1/ Đặc điểm kinh doanh nhập khẩu tại Công ty XNK lắp máy Công ty XNK lắp máy là đơn vị trực thuộc Tổng công ty lắp máy Việt Nam, được thành lập trên cơ sở là phòng xuất nhập khẩu của Tổng công ty trước đây và do Tổng công ty ra quyết định thành lập sau khi đã được sự đồng ý của Bộ xây dựng, Công ty XNK lắp máy hạch toán phụ thuộc Tổng công ty lắp máy Việt Nam. Chức năng chính của Công ty XNK lắp máy là kinh doanh nhập khẩu các loại máy móc thiết bị phục vụ cho ngành lắp máy và xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Ngoài việc phải đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về máy móc thiết bị cho các đơn vị thành viên của Tổng công ty lắp máy, Công ty XNK lắp máy còn có nhiệm vụ phải nghiên cứu, theo dõi về thị trường cũng như nhu cầu máy móc thiết bị ở Việt nam và khả năng cung ứng của các nhà cung cấp nước ngoài từ đó đề ra các phương án kinh doanh trình lên Tổng công ty. Trong hoạt động kinh doanh của Công ty XNK lắp máy mọi hợp đồng kinh tế và thao tác nghiệp vụ ngoại thương đều phải tuân thủ theo các qui định hiện hành của Nhà nước và tập quán quốc tế. Bên cạnh đó, vì Công ty XNK lắp máy hạch toán phụ thuộc Tổng công ty nên khi ký kết các hợp đồng kinh tế phải được sự đồng ý của Tổng công ty. Các hình thức của hợp đồng bao gồm: Hợp đồng mua bán; Hợp đồng uỷ thác; Hợp đồng liên doanh liên kết; Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các hợp đồng ngoại thương có giá trị lớn trước khi ký kết bắt buộc phải có phương án kinh doanh. Các hợp đồng sau khi ký kết được đăng ký với phòng giấy phép Bộ thương mại. Trường hợp những hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch (quota) đơn vị phải xin phép Bộ thương mại và chỉ sau khi Bộ cấp hạn ngạch mới tiến hành giao dịch ký kết hợp đồng ngoại thương. Tránh trường hợp hàng về trước rồi mới xin hạn ngạch hoặc mua bán hạn ngạch. Đối với hợp đồng thiết bị lẻ có giá trị trên 100.000USD bắt buộc phải có sự chấp thuận của Bộ chủ quản và vụ đầu tư Bộ thương mại. Mỗi đơn vị mua máy đều phải có 3 đơn hàng cạnh tranh. Trong mỗi đơn hàng đều phải chỉ rõ tính năng kỹ thuật, giá cả hợp lý và các điều kiện khác để so sánh, lựa chọn. Chỉ sau khi các đơn hàng được nghiên cứu kỹ và được Bộ thuơng mại đồng ý đơn vị mới ký hợp đồng ngoại. Các hợp đồng nhập khẩu uỷ thác sau khi thực hiện đều có thanh lý hợp đồng. Hình thức thanh toán hợp đồng ngoại thương thì tuỳ theo trị giá hàng hoá, đối tác nước ngoài hoặc các yếu tố khác mà đơn vị sẽ chọn các hình thức thanh toán khác nhau như: mở tín dụng thư; điện chuyển tiền hay hình thức mở tài khoản 2/ Cơ chế điều hành nhập khẩu của Công ty XNK Lắp máy Tổng công ty lập dự toán các công trình tham gia đấu thầu, công trình đang thi công ở trong nước và nước ngoài và giao cho Công ty XNK cân đối giá để nhập khẩu phục vụ cho kế hoạch của Tổng công ty phân phối theo nhu cầu của các đơn vị thành viên. Sau khi tham gia vào tính toán thực tế và dự báo cho nhu cầu của Tổng công ty, Công ty XNK lắp máy sẽ thực hiện các biện pháp nghiệp vụ như gửi và phúc đáp thư chào hàng, thư hỏi hàng sau khi có sự thống nhất của Tổng công ty. Công ty sẽ làm các bảng giá thiết bị máy móc sau khi đã cân đối mức cuung và cầu, tính toán khả năng tài chính của Tổng công ty giao và trình phương án vay vốn nhằm tái sản xuất. Công ty còn tham khảo thêm các nhà tư vấn để tránh nhập khẩu những công nghệ cũ kỹ, lạc hậu làm tăng thêm các chi phí không cần thiết cho sản xuất, nhập được các loại vật tư thiết bị đặc chủng cho các Công ty thành viên. Công ty thông qua Tổng công ty dự báo và thông báo cho các đơn vị thành viên về những dây chuyền công nghệ mới của nước ngoài như tính năng sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật tại Việt nam tiếp cận được với trình độ khoa học công nghệ của nước ngoài tiếp đó hướng dẫn các đơn vị áp dụng trong sản xuất và xây dựng tại Việt Nam, nhằm đáp ứng được đòi hỏi của thị trường và yêu cầu của Tổng công ty đang trong quá trình gia nhập và hội nhập với trình độ quốc tế. 3/ Tình hình kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị của Công ty trong những năm qua. Biểu 1: Kết quả hoạt động nhập khẩu của MEIMEX (1998-1999-2000) Đơn vị: nghìn USD Nội dung Năm 1998 Năm 19999 Năm 2000 Thực hiện K hoạch % so KH Thực hiện K hoạch % so KH Thực hiện K hoạch % so KH Tổng kim 5.293 4.842 109,3 4.873,4 4.740 102,8 7.624,356 6.733 113,4 ngạch nk Nhập khẩu 1.400 1.212 115,5 1.150 1.205 95,42 5.078,297 3.725 136,32 Uỷ thác Nhập khẩu 3.893 3.214 121,1 3.723,4 2.948 126,3 2.546,059 2.698 94,35 Tự doanh Qua bảng trên ta thấy, xuất khẩu của Công ty trong các năm (1998-2000) là bằng không, hình thức kinh doanh chủ yếu của Công ty là nhập khẩu. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 1998 đạt 5.293.000 USD, sang năm 1999 chỉ đạt 4.873.400 USD giảm 8% so với năm 1998 điều này là do nhập khẩu uỷ thác đã không hoàn thành kế hoạch và chỉ đạt 95,42%, còn nhập khẩu tự doanh đã hoàn thành tốt kế hoạch và đạt 126,3%. Hơn nữa, năm 1999 do nhu cầu về máy móc thiết bị trong ngành lắp máy giảm nên chiến lược nhập khẩu của Tổng công ty thay đổi vì vậy mà nhập khẩu tự doanh của MEIMEX tuy đã vượt kế hoạch đặt ra nhưng so với năm 1998 thì vẫn thấp hơn. Năm 2000, ngoài việc phải hoàn thành kế hoạch mà Tổng công ty giao cho, Công ty MEIMEX còn phải tự mình tìm kiếm bạn hàng, tìm kiếm đối tác và với sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên Công ty cũng như sự chỉ đạo sát sao của Ban giám đốc cho nên kim ngạch nhập khẩu năm 2000 của Công ty tăng hơn năm 1999 là 2.750.960 USD và đạt 113,4% so với kế hoạch, trong đó nhập uỷ thác tăng 3.928.300 USD và đạt 136,32% so với kế hoạch, nhưng nhập khẩu tự doanh lại giảm và chỉ đạt 94,35% so với kế hoạch. Nguyên nhân giảm nhập khẩu tự doanh là do giá của một số loại máy móc thiết bị trên thị trường thế giới cao hơn so với các năm trước, cho nên theo sự chỉ đạo của Tổng công ty , Công ty XNK lắp máy chi nhập khẩu những loại máy móc thiết bị tối cần thiết, còn lại là nhập một số phụ tùng thay thế, sửa chữa máy móc cũ để tiết kiệm tối đa được ngoại tệ. 4./ Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của MEIMEX. Biểu 2: Kết quả hoạt động nhập khẩu ở MEIMEX theo hình thức nhập khẩu Đơn vị: nghìn USD Năm Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Chỉ tiêu Giá trị TT (%) Giá trị TT (%) Giá trị TT(%) Tổng kim Ngạch NK 5.293 100 4.873,4 100 7.624,356 100 NK uỷ thác 1.400 26 1.150 24 5.078,297 67 NK tự doanh 3.893 74 3.723,4 76 2.546,059 33 Qua bảng trên chúng ta thấy, năm 1998 nhập khẩu tự doanh chiếm tới 74%, năm 1999 nhập khẩu tự doanh chiếm 76% điều này cho thấy chiến lược kinh doanh chủ yếu của Công ty là nhập khẩu tự doanh, nhập khẩu uỷ thác chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Thực trạng này dễ hiểu vì Công ty XNK lắp máy chủ yếu thực hiện nghiệp vụ nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho ngành lắp máy mà nhu cầu về máy móc thiết bị cho ngành này hàng năm là tương đối lớn và đều đặn, do đó mà nhập khẩu tự doanh của Công ty luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn. Năm 2000, kim ngạch nhập khẩu của Công ty tăng đáng kể so với các năm trước, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 7.624.356 USD trong đó nhập uỷ thác 5.078.297 USD chiếm tới 67% trong khi đó nhập tự doanh chỉ đạt 2.546.059 USD và chỉ chiếm 33%. Sở dĩ nhập khẩu uỷ thác năm 2000 vượt hơn cả nhập khẩu tự doanh và còn vượt xa so với các năm trước là do Công ty đã ý thức được rằng ngoài việc phải hoàn thành nghĩa vụ mà Tổng công ty giao, Công ty XNK phải tự mình tìm kiếm đối tác, chủ động hơn trong kinh doanh và không phải lệ thuộc nhiều vào Tổng công ty. Hơn nữa, nhập khẩu uỷ thác Công ty không cần bỏ vốn rủi ro hầu như không có mà Công ty vẫn có thể có lãi qua việc thu phí uỷ thác của đơn vị uỷ thác. 5./ Thị trường nhập khẩu của MEIMEX . Trước những năm 90, máy móc thiết bị chủ yếu của Tổng công ty lắp máy được nhập khẩu từ Liên Xô (cũ) và một số nước Đông Âu dưới nhiêù hình thức khác nhau, nhưng chủ yếu là do các nước này viên trợ không hoàn lại. Sang năm 1991 và cho đến nay, do có nhiều biến động lớn về kinh tế, chính trị trên thế giới đăc biệt là ở một số nước SNG và Đông Âu nên thị trường nhập khẩu máy móc thiết bị truyền thống của Công ty không còn nữa. Công ty mất các mối quan hệ bạn hàng cũ. Mặt khác, do đòi hỏi cao của thị trường nhập khẩu do đó Công ty đã chuyển sang nghiên cứu thị trường cung cấp máy móc thiết bị ở các nước kinh tế phát triển, những nơi mà có trình độ khoa học kỹ thuật cao, công nghệ chế tạo máy móc thiết bị hiện đại như Nhật, Mỹ, Ytaly... Trên thế giới hiện nay, thị trường buôn bán máy móc thiết bị rất rộng lớn, đa dạng và cạnh tranh rất quyết liệt. Việc nghiên cứu và tìm hiểu thị trường tìm hiểu đối tác cung cấp máy móc thiết bị là đòi hỏi cấp bách, tránh rủi ro trong kinh doanh của Công ty. Khi chọn nước để nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho nhu cầu trong nước, Công ty MEIMEX đã nghiên cứu tình hình sản xuất, khả năng tài chính của các đối tác nước ngoài, chính sách thương mại, điều kiện địa lý ..., nghiên cứu về uy tín về kinh doanh của nước xuất khẩu máy móc thiết bị xây dựng. Sau đây là một số thị trường mà Công ty MEIMEX thường nhập khẩu máy móc thiết bị. Biểu 3: Cơ cấu thị trường nhập khẩu máy móc thiết bị của MEIMEX . Đơn vị: nghìn USD Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Nước nhập khẩu K.ngạch NK TT (%) K.ngạch NK TT (%) K.ngạch NK TT(%) 1. CHLB Nga 1.823 34,4 1.115 22,8 1.746 22,9 2. Hàn Quốc 1.320 24,9 773 15,8 1.584 20,7 3. Nhật Bản 567 10,7 643,4 13,2 2.056 26,9 4. Trung Quốc 415 7,8 532 10,9 904 11,8 5. Đài Loan 315 5,9 452 9,2 521 6,8 6. Pháp 250 4,7 334 6,8 211 2,7 7. CHLB Đức 202 3,8 320 6,5 216 2,8 8. Mỹ 145 2,73 278 5,7 154,35 2,0 9. Italia 143 2,7 221 4,5 128 1,6 10. Thị trường # 113 2,1 205 4,2 104 1,36 Tổng 5.293 100 4.873,4 100 7.624,3 100 Nhìn bảng trên ta thấy thấy rằng năm 1998 bạn hàng lớn nhất của MEIMEX là CHLB Nga, chiếm tới 1.823.000 USD trong tổng số kim ngạch nhập khẩu là 5.293.000 USD và chiếm 34,4% tỉ trọng nhập khẩu. Đứng thứ hai là Hàn Quốc đạt 1.320.000 USD chiếm 24,9% tỉ trọng nhập khẩu, sau đó là các thị trường như: Nhật Bản 10,7%, Trung Quốc 7,8%, Đài Loan 5,9%, Pháp 4,7%, Đức 3,8%, Mỹ 2,73% ...Từ bảng trên ta có thể thấy rằng máy móc thiết bị của Công ty nhập về đa số từ các nước phát triển. Năm 1999, tổng kim ngạc nhập khẩu của Công ty giảm so với năm 1998 và thị trường nhập khẩu của Công ty cũng có sự thay đổi, cụ thể là nhập khẩu từ CHLB Nga giảm còn 1.115.000 USD và chiếm 22,8% tỷ trọng nhập khẩu, đứng thứ hai vẫn là Hàn Quốc nhưng chỉ đạt 773.000 USD và chiếm 15,8% tỷ trọng nhập khẩu, thứ ba là Nhật Bản đạt 643.400 USD và chiếm 13,2% ...Nhìn chung thì năm 1998 tổng kim ngạch nhập khẩu của Công ty có giảm nhưng cơ cấu thị trượng nhập khẩu không có sự thay đổi, các bạn hàng lớn như CHLB Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản vẫn luôn là bạn hàng chính của Công ty và luôn chiếm một tỷ trọng nhập khẩu lớn. Sang năm 2000 thì đã có sự thay đổi về cơ cấu thị trường nhập khẩu của Công ty , Công ty đã chú trọng nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại từ các kinh tế phát triển do đó mà thị trường nhập khẩu lớn nhất của Công ty năm 2000 là Nhật Bản, chiếm tới 2.056.000 USD trong tổng kim ngạch nhập khẩu 7.624.300 USD và chiếm 26,9% tỷ trọng nhập khẩu; đứng thứ hai là thị trường Nga đạt 1.746.000 USD và chiếm 22,9% tỷ trọng nhập khẩu, tiếp theo là Hàn Quốc đạt 1.584.000 USD và chiếm 20,7% tỷ trọng nhập khẩu... Đặc biệt năm 2000 thị trường nhập khẩu từ Trung Quốc và Đài Loan của Công ty tăng hơn so với các năm, cụ thể là thị trường Trung Quốc đạt 904.000 USD chiếm 11,8% tỷ trọng nhập khẩu, thị trường Đài Loan đạt 521.000 USD chiếm 6,8% tỷ trọng nhập khẩu. Sở dĩ có việc thay đổi lớn về thị trường Trung Quốc và thị trường Đài Loan là do Công ty coi đây là thị trường trọng điểm của Công ty trong tương lai, đặc biệt là Trung Quốc sẽ trở thành bạn hàng lớn của Công ty trong tương lai. Qua bảng trên ta thấy, thị trường CHLB Nga luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong nhập khẩu của Công ty trong các năm, vì hàng hoá mà Công ty nhập khẩu từ thị trường này chủ yếu là sắt thép các loại và là nhập khẩu uỷ thác, các loại máy móc thiết bị phục vụ cho ngành lắp máy chủ yếu được Công ty nhập khẩu từ các nước tiên tiến. 6./ Thị trường tiêu thụ của Công ty MEIMEX . Theo định hướng của Tổng công ty lắp máy Việt Nam thì Công ty MEIMEX hoạt động chủ yếu là nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho ngành lắp máy, cho các đơn vị thành viên của Tổng công ty và cho các công trình mà Tổng công ty trúng thầu, do đó mà thị trường tiêu thụ của Công ty thường đã được xác định và sau đay là thị trường tiêu thụ của Công ty : Biểu 4: Tình hình nhập khẩu của Công ty MEIMEX phân theo thị trường tiêu thụ như sau: Đơn vị: nghìn USD Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Trị giá % Trị giá % Trị giá % Hà Nội 1.856 35,06 1.342 27,5 2.249 29,5 TP HCM 2.431 45,9 2.178 44,7 1.965 25,7 Hải Phòng 378 7,1 215 4,4 850 11,15 Đà Nẵng 115 2,1 - - 2.341 30,7 Đồng Nai 513 9,6 1.138,4 23,35 219,35 2,87 Tổng 5.293 100 4.873,4 100 7.624,3 100 Qua bảng trên ta thấy thị trường tiêu thụ chủ yếu của Công ty là TP Hồ Chí Minh nó chiếm tỷ trọng lớn và luôn ổn định, cụ thể chiếm 45,9% năm 1998, năm 1999 chiếm 44,7% và năm 2000 giảm xuống còn 25,7%. Bên cạnh đó thị trường Hà Nội cũng là thị trường lớn của Công ty, cụ thể năm 1998 chiếm 35,06%, năm 1999 chiếm 27,5% và năm 2000 tăng lên 29,5%. Có thể thấy rằng, thị trường Hà Nội và thị trường TP HCM là những thị trường chính của Công ty vì các đơn vị thành viên của Tổng công ty lắp máy Việt Nam đóng trên hai địa bàn này nhiều, hơn nữa đây là hai Thành phố lớn của Việt Nam do đó mà nhu cầu về xây dựng về cơ sở hạ tầng cũng như các công trình nhà máy là tương đối nhiều. Ngoài ra, Công ty còn cung cấp máy móc thiết bị cho cho các Thành phố như: Hải phòng, Đà nẵng, Đồng Nai. Đặc biệt là Thành Phố Đà Nẵng, năm 1998 chỉ chiếm 2,1% thị trường tiêu thụ của Công ty và sang năm 1999 thì không có, nhưng đến năm 2000 thì thị trường tiêu thụ ở Đà Nẵng là 2.341.000 USD chiếm 30,7% và là thị trường tiêu thụ lớn nhất của Công ty trong năm 2000. Sở dĩ năm 2000 thị trường tiêu thụ ở Đà Nẵng tăng như vậy là do Công ty phải cung cấp các loại máy móc thiết bị phục vụ cho việc xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất cũng như một số cơ sở hạ tầng khác. Có thể thấy rằng thị trường tiêu thụ của Công ty MEIMEX là trên khắp đất nước Việt Nam. Các khách hàng của Công ty thường là những khách hàng quen thuộc và lâu năm, điều đó có thể thấy rằng Công ty đã tạo được uy tín đối với các khách hàng của mình. Và để được tham gia đấu thầu cung cấp thiết bị cho các dự án của nhà nước thì điều này có nghĩa là uy tín của Công ty về việc cung cấp máy móc thiết bị là rất tốt. III/ Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị ở công ty XNK lắp máy Có thể nói, kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị ở Công ty XNK lắp máy đã thu được kết quả rất đáng mừng, qua đó góp phần đáng kể đưa doanh thu của Tổng công ty tăng cao qua các năm. Hơn nữa, thông qua việc nhập khẩu máy móc thiết bị, các Công ty thành viên của Tổng công ty lắp máy có điều kiện để trang bị lại máy móc thiết bị, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường lắp máy, nhờ đó đã thắng thầu các công trình lớn, mang lại hiệu quả và lợi nhuận kinh tế cao cho Tổng công ty. Kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị của Công ty XNK lắp máy luôn thực hiện đúng theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Đó là, máy móc thiết bị nhập về đều từ các nước tiên tiến, tiêu chuẩn kỹ thuật cao, các máy móc phù hợp và tương thích với điều kiện của Việt Nam, giá cả hợp lý, tiết kiệm ngoại tệ. 1/ Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc nhập khẩu máy móc thiết bị đối với doanh nghiệp. 1.1/ Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp H = X*F + N*C Trong đó: H: Hiệu quả tổng hợp của doanh nghiệp kinh doanh XNK X: Hiệu quả xuất khẩu N: Hiệu quả nhập khẩu F: Chi phí đầy đủ trong nước đối với xuất khẩu (qui ra ngoại tệ) C: Chi phí bằng ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá Vì một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hai chiều nên có thể không có lãi ở nhập khẩu hoặc ngược lại, miễn sao H>0 là kinh doanh có lãi. 1.2/ Hiệu quả tương đối của nhập khẩu. Nnk= (Fnk*Q*100)/C Trong đó: Nnk: Chỉ tiêu hiệu quả tương đối nhập khẩu Fnk: Chi phí sản xuất hàng hoá nhập khẩu ( hoặc hàng thay thế NK) qui ra ngoại tệ Q: Lượng hàng nhập khẩu C: Giá thành tính bằng ngoại tệ để nhập lượng hàng đó Chỉ tiêu này phản ánh % lợi nhuận trên vốn ngoại tệ bỏ ra để nhập khẩu lô hàng. Vì Công ty XNK lắp máy là đơn vị hạch toán phụ thuộc Tổng công ty lắp máy Việt Nam, do đó mà hiệu quả kinh doanh và các chi phí của Công ty đều phải hạch toán qua Tổng công ty, với nghiệp vụ kinh doanh của mình Công ty XNK lắp máy đã đóng góp đáng kể lợi nhuận của mình vào lợi nhuận chung của toàn Tổng công ty và sau đây là kết quả kinh doanh của Tổng công ty trong mấy năm gần đây: Biểu 5: Kết quả hoạt động kinh doanh năm 1998-1999-2000 Đơn vị: triệu đồng Nội dung Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Thực hiện K hoạch % so KH Thực hiện K hoạch % so KH Thực hiện K hoạch % so KH Tổng 418.639 400.000 104,6 542.810 510.000 106,4 693.917 560.000 123,9 DThu Tổng 17.650 15.000 117,6 26.667 24.500 108,8 37.136 27.400 135,5 LNhuận Lợi nhuận Thu được Từ NKhẩu 1.020 1.000 102 731 1.000 73,1 1.307 1.100 118,8 Tổng nộp NS 19.000 18.500 102,7 23.455 21.600 108,5 35.223 32.300 109 Lương B.Quân 1,020 1,214 1,313 Nhìn bảng trên ta thấy, tổng doanh thu của Tổng công ty tăng lên trong các năm và đều vượt mức kế hoạch, cùng với nó là lợi nhuận vẫn tăng hàng năm, cụ thể là năm 1998 tổng doanh thu là 418.639 triệu đồng lợi nhuận đạt được là 17.650 triệu đồng trong đó lợi nhuận thu được từ nhập khẩu là 1.020 triệu đồng; sang năm 1999 tổng doanh thu đạt 542.810 triệu đồng lợi nhuận đạt 26.667 triệu đồng trong đó lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu chỉ đạt 731 triệu đồng giảm 26,9% so với năm 1998, sở dĩ lợi nhuận thu được từ nhập khẩu năm 1999 giảm là kim ngạch nhập khẩu năm 1999 giảm và đặc biệt là nhập khẩu uỷ thác ít hơn so với năm trước; năm 2000 tổng doanh thu tăng vượt bậc so với hai năm trước và đạt 693.917 triệu đồng cùng theo đó là tổng lợi nhuận cũng tăng theo và đạt 37.136 triệu đồng trong đó lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu là 1.307 triệu đồng. Có thể thấy rằng lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu của công ty XNK lắp máy đã đóng góp một phần đáng kể vào lợi nhuận chung của Tổng công ty. Bên cạnh đó tổng số nộp ngân sách của Tổng công ty cho Nhà nước cũng đã tăng hàng năm, cụ thể năm 1998 đạt 19.000 triệu đồng, sang năm 1999 tăng lên 23.455 triệu đồng và đến năm 2000 là 35.223 triệu đồng và Tổng công ty luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch về các chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh của Tổng công ty lắp máy Việt Nam nói chung và của Công ty XNK lắp máy nói riêng đang ngày càng phát triển, nó đã thể hiện qua lợi nhuận đạt được hàng năm của Tổng công ty và mức lương trung bình của cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty mỗi năm một tăng, năm 1998 mức lương trung bình đạt 1,020 triệu đồng, sang năm 1999 đạt 1,214 triệu đồng và đến năm 2000 tăng lên 1,313 triệu đồng. Có được kết quả như trên là cả một quá trình phấn đấu không biết của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong ngành lắp máy cũng như tập thể lãnh đạo của Tổng công ty. Và có thể trong một tương lai không xa Tổng công ty lắp máy Việt Nam sẽ trở thành một tập đoàn mạnh trong ngành lắp máy của Việt Nam, và lúc đó nhiệm vụ của Công ty XNK lắp máy lại càng nặng nề hơn. Chương III Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị tại công ty XNK lắp máy I/ Nâng cao hiệu quả thu thập và xử lý thông tin tạI công ty XNK lắp máy Ngay từ khi có quyết định chuyển đổi từ Phòng xuất nhập khẩu sang Công ty XNK lắp máy của Tổng công ty lắp máy Việt nam, Công ty XNK lắp máy đã ý thức được sự khó khăn và thách thức trong kinh doanh. Cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế càng trở nên khốc liệt. Các công ty và tập đoàn lớn của nước ngoài chuyên sản xuất máy móc thiết bị đang xâm nhập mạnh mẽ vào thị trường Việt Nam. Điều này đòi hỏi Công ty XNK lắp máy phải có chiến lược kinh doanh phù hợp, chấp nhận cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Một vũ khí khá quan trọng để nâng cao hiệu quả cạnh tranh là thông tin. Ngày nay, cả trên lý luận và thực tiễn đều đã chứng minh rằng thông tin là một loại hàng hoá đặc biệt không thể thiếu trong môi trường kinh doanh hiện nay. Không có thông tin chính xác về thị trường, đối thủ cạnh tranh ... thì không thể kinh doanh có hiệu quả. Chính vì vậy, công tác thu thập và xử lý thông tin, tiếp cận thị trường là vô cùng quan trọng. Với vai trò trung gian, cầu nối giữa người mua trong nước và người bán ở nước ngoài đòi hỏi Công ty XNK lắp máy phải có thông tin đầy đủ, chính xác về cả thị trường trong nước và nước ngoài. Các tiêu thức để thu thập và xử lý thông tin phải phù hợp với mục tiêu kinh doanh của Công ty. 1/ Thông tin từ nội bộ ngành. Đây là kênh thông tin rất quan trọng và hữu hiệu. Nhu cầu về máy móc thiết bị đều nảy sinh từ các Công ty lắp máy, Công ty xây dựng thuộc Bộ xây dựng, do đó nhu cầu ở thị trường này là rất lớn. Muốn phát hiện nhanh các nhu cầu, Công ty XNK lắp máy cần phải có các “vệ tinh” ở các Công ty này. Các vệ tinh với chức năng nằm vùng của mình sẽ phát hiện các nhu cầu và cung cấp kịp thời các thông tin cho Công ty. Và đặc biệt, thông qua kênh thông tin này, Công ty có thể nắm được các thông tin về các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tương lai. 2/ Thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng. Tạp chí chuyên ngành, tin tức do Bộ thương mại, Tổng cục thống kê, Ngân hàng ... cung cấp. Đây là kinh thông tin tuy không cung cấp chính xác các nhu cầu nhưng lại giúp cho Công ty có cái nhìn tổng quát về tình hình thị trường. Kinh phí xây dựng kênh thông tin này không tốn kém, nhưng chất lượng thông tin không cao do đó Công ty cần thận trọng và xem xét khi chọn tài liệu thu thập thông tin. 3/ Thông tin từ các “văn phòng đại diện ảo” Thật ra khái niệm “văn phòng đại diện ảo” không còn xa lạ đối với các nhà kinh doanh Đài Loan, Singapore. Các nước này họ rất hay dùng “văn phòng đại diện ảo” trong kinh doanh. Nguyên nhân chính để dùng “văn phòng đại diện ảo” là vấn đề về chi phí. Nếu như đặt một văn phòng đại diện ở nước ngoài thường rất tốn kém và khó khăn về thủ tục thì phương thức “văn phòng đại diện ảo” đã khắc phục được các khó khăn trong khi vẫn đảm bảo được các chức năng hoạt động của một văn phòng đại diện thật. “Văn phòng đại diện ảo” là văn phòng không cần làm thủ tục xin phép nước sở tại, thuê văn phòng, các thiết bị văn phòng, nhân viên ...Thực hiện chức năng “văn phòng đại diện ảo” chỉ cần một nhân viên và các phương tiện liên lạc như: máy tính nối mạng internet, telephone, fax. Theo yêu cầu của Công ty mà nhân viên sẽ tìm hiểu các thông tin cần thiết và tiến hành cung cấp lại cho Công ty. Việc ra đời phương thức giao dịch văn phòng đại diện ảo thực sự đã giải quyết được: Tối thiểu hoá các chi phí cho việc thu thập thông tin từ văn phòng đại diện. Theo tính toán, chi phí bỏ ra hàng tháng cho “văn phòng đại diện ảo” chỉ bằng 1/15 chi phí bỏ ra cho văn phòng đại diện thật. Không phức tạp cho việc quản lý. Giảm tối thiểu các thủ tục hành chính. Khó khăn duy nhất đối với việc xây dựng “văn phòng đại diện ảo” là phải tìm được cộng tác viên trung thực, có đầy đủ trình độ để hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh được giao. Trong thời gian tới, Công ty XNK lắp máy nên nghiên cứu xem xét việc xây dựng kênh thông tin này vì thực sự công tác nghiên cứu thông tin nhập khẩu của Công ty còn kém. Ví dụ: Do thiếu kinh phí nên Công ty rất hạn chế cử người sang nghiên cứu thông tin ở nước ngoài, do đó phần lớn các quan hệ làm ăn với nước ngoài đều do Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam hoặc Bộ xây dựng giới thiệu. 4/ Thông tin từ khách hàng. Trong hoạt động kinh doanh, độ thoả mãn của khách hàng về các sản phẩm và dịch vụ Công ty cung cấp chính là thước đo chính xác phản ánh đầy đủ về kết quả kinh doanh, khả năng cạnh tranh của Công ty. Hay nói cách khác, khách hàng chính là người có đánh giá khách quan, chính xác về việc kinh doanh của Công ty. Các Công ty nước ngoài, việc thu thập thông tin từ các khách hàng luôn được coi trọng và được tiến hành hết sức thường xuyên và chu đáo. Chính vì vậy, các Công ty này luôn có thông tin chính xác về mức độ thoả mãn của khách hàng về các sản phẩm và dịch vụ mà công ty này cung cấp. Từ dó các chính sách kinh doanh được đIều chỉnh thích hợp làm sao mang lại độ thoả mãn cao nhất cho các khách hàng. Sự thành công trong kinh doanh của các Công ty hàng đầu trên thế giới như :Honda, Motorola, IBM ... chính là nhờ một phần lớn đầu tư đúng mức về thu thập và xử lý thông tin từ khách hàng. 5./ Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, việc nắm vững thị trường là rất quan trọng. Chính vì vậy Công ty cần tiến hành nghiên cứu thị trường, nắm chắc nhu cầu của khách hàng để từ đó đáp ứng tối đa nhu cầu này. Là một Công ty xuất nhập khẩu nên Công ty XNK lắp máy phải nghiên cứu cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. -Công ty phải có kế hoạch lâu dài và tìm được thị trường mới có công nghệ, trình độ sản xuất thích hợp với năng lực sản xuất của Việt nam. -Phải tìm mua vật tư, máy móc thiết bị tận gốc có giá rẻ và hàng hoá phải có chất lượng đảm bảo. -Cán bộ làm việc phải có trình độ nhận thức, tinh thần trách nhiệm cao trong công tác, thông thạo ngoại ngữ và phong tục tập quán của các nước, phong cách giao tiếp chu đáo, tỉ mỉ, tìm hiểu thật kỹ các đối tác để cấp trên có cơ sở ký kết hợp đồng. -Trang bị phương tiện thông tin liên lạc để thu thập thông tin kịp thời về thị trường, về đối tác. -Tìm hiểu thị trường trong nước để lập kế hoạch tập trung vào nhập khẩu để đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. -Bám sát tình hình sản xuất của các đơn vị của Tổng công ty để có phương hướng hướng chính sách phù hợp nhập khẩu trang thiết bị phục vụ việc mở rộng thị trường của Tổng công ty. -Công ty XNK lắp máy phải thực hiện việc lập dự án vay vốn tín dụng để nhập khẩu những thiết bị phục vụ cho các đơn vị thành viên theo chỉ đạo của Tổng công ty. Tổng công ty lắp máy Việt Nam không những có uy tín trong nước mà còn là một trong những đơn vị có xu hướng phát triển đầu tư ra nước ngoài bằng vốn và công nghệ Việt nam để hướng tới xuất khẩu thiết bị và nhân công ra nước ngoài thu ngoại tệ đẩy mạnh sản xuất trong nước. Tổng công ty đã tổ chức các Công ty lắp máy ở Nga, Bungari, Irắc, Angiêri. Hiện nay đã thành lập hai Công ty liên doanh: là Công ty Otis-Lilama, liên doanh giữa Lilama với hãng Otis Elevator của Mỹ để bán, lắp và bảo trì các sản phẩm cầu thang máy, thang cuốn; Công ty Poslilama là liên doanh sản xuất cấu thép công suất 15.000tấn/năm ở Long thành Đồng nai giữa Lilama các Công ty Posec & Postrade- hai thành viên của tập đoàn thép lớn Posco của hàn quốc, Công ty liên doanh xây lắp Việt - Nga với Liên bang Nga tại khu công nghiệp Dung quất. Tổng công ty đang có quan hệ với hàng trăm Công ty nước ngoài từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapre, Đài Loan, Mỹ, Pháp, Anh … để hợp tác kinh doanh theo các hình thức: liên doanh liên kết, đấu thầu, nhận thầu công trình hoặc thuê nhân công. Vì vậy, nhiệm vụ của Công ty XNK lắp máy càng nặng nề hơn, vừa phải cung ứng khối thiết bị cho các công trình xây dựng ở nước ngoài, vừa phải cung cấp thiết bị cho các liên doanh của Việt nam với nước ngoài. Ngoài ra, Công ty còn phải trù liệu những máy móc, thiết bị thi công xây dựng trước mắt để nhập khẩu đáp ứng được nhu cầu phát triển của Tổng công ty. Công ty XNK lắp máy đã trực tiếp mua sắm, cung cấp được nguồn vật tư từ nước ngoài về với giá thấp nhất để phục vụ nhu cầu chế tạo, sản xuất và thương mại của Tổng công ty. Đến nay, công ty XNK lắp máy đã thực hiện được các hợp đồng nhập khẩu các lô hàng với hàng trăm ngàn tấn thép và thiết bị quan trọng như tuốc-bin và nhiệt điện Uông Bí với trị giá hàng triệu USD. Hiện nay, về nhập khẩu Công ty đã đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu của các đơn vị thành viên của Tổng công ty.uy tín thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Uy tín trong kinh doanh rất quan trọng, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Công ty phải tạo được một hình ảnh tốt đối với các khách hàng của mình, cung cấp hàng hoá và dịch vụ tốt nhất cho khách hàng, thoả mãn tối đa các lợi ích của khách hàng, chẳng hạn như hình ảnh tốt của hãng HONDA đối với người tiêu dùng Việt Nam hiện nay là không ai có thể phủ nhận. Trong những năm gần đây uy tín của Tổng công ty lắp máy trong ngành lắp máy ở Việt nam đã được nâng lên rất nhiều qua thi công các công trình mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế, cung cấp các loại máy móc thiết bị hiện đại thông qua hình thức đấu thầu. Uy tín là một trong những tiêu thức quan trọng để các nhà gọi thầu lựa chọn người trúng thầu. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Công ty XNK lắp máy trong những năm tới là phải nâng cao hơn nữa uy tín trong kinh doanh nói chung và kinh doanh máy móc thiết bị nói riêng. Một phương tiện tạo lập nâng cao uy tín một cách có hiệu quả đó là việc dùng các phương tiện thông tin đại chúng như : Báo, Đài, Truyền hình ... Công ty nên đầu tư một lượng tiền để duy trì mối quan hệ tốt với các cơ quan thông tin để thông qua đó họ quảng bá cho việc kinh doanh của mình và nâng cao được uy tín của Công ty. II./ Thu hút, tận dụng một cách có hiệu quả mọi nguồn vốn Trong cơ chế thị trường, việc nhập khẩu máy móc thiết bị cũng như mọi hàng hoá khác đều tính theo giá cả quốc tế và thanh toán bằng ngoại tệ tự do. Do vậy, các hợp đồng đều phải dựa trên các lợi ích và hiệu quả kinh tế để quyết định có nên thực hiện hợp đồng hay không. Muốn có hiệu quả kinh tế thì sử dụng vốn phải có hiệu quả cao. Đây là yêu cầu cấp bách trong điều kiện nhu cầu nhập khẩu máy móc thì cao trong khi vốn cho nhập khẩu thì eo hẹp. Như vậy, để đạt được hiệu quả sử dụng vốn cao thì Công ty phải làm tốt công tác quản lý vốn, cụ thể là: Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý tài chính, tín dụng của Nhà nước mà trước tiên là hoàn thành các loại thuế phải nộp. Tính toán các khả năng lỗ, lãi, thời gian thu hồi vốn trong kinh doanh cũng như dự tính trước những rủi ro có thể xẩy ra để có biện pháp phòng ngừa. Kết hợp chặt chẽ sự vận động của vốn và hàng hoá lưu thông. Vốn của Công ty bao gồm cả vốn lưu động và vốn cố định. Công ty XNK lắp máy là một Công ty chuyên kinh doanh XNK nên lượng vốn lưu động trong kinh doanh tương đối lớn. Chính vì vậy, nếu Công ty nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì chắc chắn hiệu quả kinh doanh của Công ty sẽ tăng lên. Vốn lưu động là do sự hợp thành của tài sản lưu động và vốn lưu động biểu hiện bằng tiền. Với loại vốn này Công ty cần thực hiện các biện pháp sau: Tăng tốc độ lưu chuyển hàng hoá để không cần tăng lượng vốn lưu động mà hiệu quả sử dụng lại tăng lên Cần lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi, an toàn tránh tình trạng ứ động vốn hay dây dưa công nợ trong thanh toán tiền hàng. Tận dụng vốn của chủ đầu tư trong nhập khẩu uỷ thác bằng cách yêu cầu họ chuyển tiền đúng hạn, như vậy sẽ tiết kiệm vốn của Công ty vào các dự án nhập khẩu tự doanh. Tuy nhiên cũng không nên yêu cầu chủ đầu tư đặt cọc khoản tiền lớn để thực hiện hợp đồng với bạn hàng quen thuộc thì Công ty có thể sử dụng vốn của mình ứng ra thực hiện hợp đồng, sau đó mới yêu cầu bạn hàng thanh toán. Như vậy công ty sẽ tăng được sức cạnh tranh của mình trên thị trường. Đẩy mạnh xuất khẩu để tăng lượng vốn lưu động phục vụ nhập khẩu. Ngoài ra còn phải quản lý tốt lượng hàng dự trữ, thanh lý kịp thời hàng ứ đọng, hàng tồn kho để giải phóng vốn. Nguồn vốn lưu động của Công ty hiện nay gồm: vốn tự có, vốn đi vay, vốn liên doanh liên kết. Nhưng để nhập khẩu máy móc thiết bị có hiệu quả trong khi vốn tự có thì ít thì Công ty nên tận dụng triệt để vốn vay từ các Ngân hàng, các tổ chức tài chính với lãi suất ưu đãi. Vốn cố định là vốn đầu tư vào tài sản cố định của Công ty. Vốn cố định của Công ty XNK lắp máy không nhiều, chỉ chiếm khoảng 20% tổng số vốn kinh doanh. Mà đặc điểm của vốn cố định là tham gia nhiều lần vào quá trình sản xuất kinh doanh và nó được chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm. Chính vì vậy Công ty cần: Tăng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu vì như thế sẽ khai thác được hết công suất tài sản cố định và giảm ch phí tài sản cố định trên một đơn vị hàng hoá kinh doanh. Tăng tỷ trọng tài sản cố định được sử dụng trong kinh doanh, giảm tỷ trọng tài sản cố định chờ thanh lý. Phải thường xuyên phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng vốn để kịp thời đề ra các phương án đối phó thích hợp. Thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất đối với quá trình sử dụng vốn. Khi bỏ vốn ra kinh doanh phải xây dựng được các phương án kinh doanh để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn cao. Công ty XNK lắp máy là Công ty chuyên kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị, đây là mặt hàng có giá trị lớn trong khi đó vốn của Công ty chỉ có hạn. Do vậy, vốn là vấn đề nan giải đối với Công ty và rất cần sự giúp đỡ của Nhà nước trong việc cung cấp vốn kinh doanh. Cụ thể là nhà nước có thể cho phép Công ty giữ lại thuế để tiếp tục kinh doanh. Từ đó Công ty có trách nhiệm bảo toàn, sử dụng hợp lý và có hiệu quả vốn kinh doanh. Ngoài ra Copong ty còn yêu cầu các chủ đầu tư trong nước thanh toán đầy đủ, nhanh chóng phí uỷ thác cũng như mọi chi phí để tránh tình trạng ứ động vốn và tăng nhanh vòng quay vốn lưu động. Hiện nay, theo phân cấp quản lý ngân sách ở khu vực quốc doanh, nếu vượt chỉ tiêu thu nộp ngân sách thì đơn vị được giữ lại một phần để bổ sung vào vốn. Những năm qua Công ty luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch nộp ngân sách đối với Nhà nước nên Công ty cần đề nghị Bộ xem xét để được hưởng chế độ này nhằm đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất kinh doanh. III./ Hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ nhập khẩu máy móc thiết bị. Hiện nay các nghiệp vụ nhập khẩu máy móc thiết bị mà Công ty đang áp dụng là tương đối phù hợp và có hiệu quả. Nhưng không có nghĩa là các nghiệp vụ đó không bao giờ thay đổi, cho nên trong thời gian tới Công ty cần thu thập các thông tin về kinh tế, chính trị, luật pháp ... của nước ta lẫn các nước khác trên thế giới để kịp thời thay đổi các nghiệp vụ cho phù hợp. 1/ Lựa chọn đúng đắn đối tác kinh doanh. Công ty cần phải tìm hiểu kỹ đối tác nước ngoài về quá trình phát triển của họ, cơ cấu tổ chức, phong tục tập quán, năng lực về tài chính, uy tín của họ trên thị trường ... Đây là điều hết sức quan trọng vì trong kinh tế thị trường và nhất là trong thời đại ngày nay moị doanh nghiệp đều tham gia kinh doanh trong đó có cả những Công ty kinh doanh thật sự và có cả Công ty ”ma” hay những Công ty có khả năng phá sản. Như vậy, nếu chúng ta tìm hiểu kỹ đối tác nước ngoài sẽ giúp cho Công ty tránh được nhiều rủi ro trong nhập khẩu máy móc thiết bị. Với những mặt hàng đã lựa chọn, dựa vào các đơn chào hàng hoặc đơn hỏi hàng của các bạn hàng nước ngoài, của khách hàng trong nước, Công ty cần thiết kế một kết cấu giá hợp lý bù đắp được chi phí và đem lại được lợi nhuận cho Công ty. Đối với máy móc thiết bị về lắp máy là loại hàng có độ chuyên môn hoá cao và phức tạp do vậy rất khó xác định giá ngoài việc tham khảo các chủ hàng của các hãng, các Công ty nước ngoài. Do vậy Công ty có thể áp dụng một trong những cách như: tham khảo giá của những hãng giữ vị trí chủ yếu trong sản xuất và cung cấp loại thiết bị mà Công ty cần mua; sử dụng giá đấu thầu ... để từ đó Công ty có thể chọn được giá ở mức độ hợp lý nhất. 2./ Sử dụng linh hoạt nghệ thuật đàm phán. Công ty cần nắm vững nghệ thuật đàm phán, biết vận dụng ba yếu tố của nghệ thuật đàm phán là bối cảnh, thời gian và quyền lực của đàm phán sao cho có lợi nhất. Bối cảnh của đàm phán là một môi trường và đIều kiện các chủ thể tiến hành đàm phán như: địa điểm diễn ra, thời cơ, tiềm lực, con người. Nguyên tắc mà Công ty cần quán triệt là phải che dấu bối cảnh của mình và tìm bối cảnh của đối tác. Về thời gian đàm phán, đó là quá trình có khởi điểm và có kết điểm. Kết điểm là những điểm chết về thời gian đàm phán, về chất lượng hay về giá cả thiết bị. Đàm phán sẽ kết thúc khi một trong hai bên hay cả hai bên đi đến điểm chết. Với nguyên tắc là Công ty cần che dấu các điểm chết của mình như chất lượng thiết bị mà chủ đầu tư yêu cầu, vốn giành cho nhập khẩu ... và khai thác điểm chết của đối phương như chất lượng, mẫu mã hay mức độ hiện đại của các thiết bị. Quyền lực của đàm phán là sức mạnh và sự am hiểu của chủ thể tham gia đàm phán. Muốn nắm được quyền lực này thì Công ty phải am hiểu kỹ về chuyên môn kỹ thuật, về luật pháp ... 3./ Qui định chặt chẽ các điều khoản hợp đồng. Khi ký kết hợp đồng Công ty chú ý tới điều khoản giá cả, phương thức thanh toán, số lượng, chất lượng, cơ sở giao hàng, bảo hiểm ... một cách chặt chẽ để tránh thua thiệt về sau. +Tính toán giá: Giá cả là một trong những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh cũng như hiệu quả kinh doanh của Công ty. Mức giá đưa ra phải đủ thu hồi vốn và có lãi song lại phải đủ sức cạnh tranh để thị trường chấp nhận. Để đưa ra được một mức giá cũng như một chính sách giá hợp lý, Công ty cần phải hạch toán và tính chính xác mọi chi phí bỏ ra đồng thời phải xác định được sản phẩm hàng hoá đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống, mức độ mong muốn có được hàng hoá của người tiêu dùng cao đến đâu và giá cả của các đối thủ cạnh tranh ra sao. Trong giai đoạn hiện nay, Công ty XNK lắp máy nên xây dựng chính sách giá hướng vào chiếm lĩnh thị trường, hướng vào thị trường trọng điểm, duy trì được mối quan hệ với những bạn hàng truyền thống. +Thanh toán ngoại thương. Hiện nay phương thức thanh toán chủ yếu của Công ty là mở thư tín dụng (L/C) và điện chyển tiền. Để đảm bảo an toàn, Công ty cần áp dụng phương thức này với các đối tác lần đầu quan hệ mua bán. Trong L/C qui định các điều khoản cụ thể, chặt chẽ, các điều khoản trong L/C phải phù hợp với hợp đồng nhập khẩu. L/C có thể là L/C trả ngay hoặc L/C trả chậm. Với uy tín của Công ty trên thị trường trong và ngoài nước, bên cạnh hình thức thanh toán bằng L/C Công ty cần phải linh hoạt áp dụng các hình thức thanh toán khác nhau để thích ứng được với các yêu cầu của đối tác. Đặc biệt là hình thức thanh toán trả chậm cần được Công ty áp dụng, với hình thức này là Công ty không cần bỏ vốn mà vẫn có thể mua được hàng và có thể tiết kiệm được phần lãi suất phải vay ngân hàng và tăng thêm lợi nhuận cho Công ty. 4./ Đảm bảo quá trình giao nhận, vận chuyển nhanh chóng đầy đủ kịp thời. Với kế hoạch giao nhận, vận chuyển của Công ty phải được thiết lập trên cơ sở những đơn đặt hàng của khách hàng từ đó có các phương pháp bán và phương tiện vận chuyển phù hợp. Công ty nên vận dụng phương pháp bán thẳng để có thể giảm được chi phí vận chuyển, xếp dỡ, bảo quản, giảm bớt các khâu trung gian không cần thiết, nhất là đối với các mặt hàng máy móc thiết bị là mặt hàng cồng kềnh, phức tạp đòi hỏi phải có qui trình vận chuyển hết sức khó khăn. Với các điều khoản về giao nhận, thanh toán thì Công ty phải qui định chặt chẽ và rõ ràng, đồng thời cũng phải lập các điều khoản phạt nếu không thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng. Để tiếp nhận hàng hóa một cách đơn giản thì Công ty cần làm tốt công tác Hải quan, vì trên thực tế các thủ tục hải quan là rất phức tạp, hiện nay thủ tục hải quan đã được đơn giản hoá rất nhiều so với các năm trước, nhưng so với các nước thì thủ tục Hải quan của Việt Nam vẫn rườm rà hơn các nước trong khu vực. Để tránh phiền hà, khi làm thủ tục Hải quan cán bộ của Công ty phải chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ cần thiết như bản hợp đồng ngoại, hợp đồng uỷ thác (nếu có), quyết định của Bộ Thương mại phê duyệt nhập khẩu máy móc thiết bị, công văn phê duyệt của người có thẩm quyền quyết định đầu tư, tờ khai Hải quan, bảng kê chi tiết hàng nhập khẩu (packinglist), hoá đơn thương mại (invoice), giấy chứng nhận hàng xuất xứ (certificate), lệnh giao hàng... đặc biệt trong tờ khai Hải quan cần nêu rõ mã hàng nhập khẩu, mã số thuế, mã số giấy đăng ký Hải quan. Do vậy, để tạo sự thuận lợi và nhanh gọn trong vấn đề làm thủ tục Hải quan tiếp nhận hàng hoá thi Công ty cần xây dựng mối quan hệ tốt, uy tín với Hải quan. IV./ Chính sách quản lý Thành lập trong nền kinh tế thị trường, Tổng công ty lắp máy Việt Nam thực hiện chính sách giao việc cho từng bộ phận chuyên môn. Công ty XNK lắp máy có nhiệm vụ tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu nên phải chịu trách nhiệm trước Tổng công ty về tất cả các hoạt động đó trên cả tính kinh tế và hợp pháp. Trong mấy năm qua, mặc dầu đã có nhiều cố gắng nhưng Tổng công ty và Công ty XNK lắp máy vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức và sử dụng cán bộ. Do đó mà chưa phát huy hết được năng lực công tác của từng cá nhân, chưa tạo được động cơ làm việc cho cán bộ công nhân viên, điều này làm cho các hoạt động kinh doanh của Tổng công ty lắp máy nói chung và Công ty XNK lắp máy nói riêng chưa đạt được hiệu quả cao. Do ảnh hưởng của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước kia, nên tính năng động tự chủ trong kinh doanh của cán bộ còn hạn chế. Các cán bộ của Công ty XNK lắp máy vẫn chưa thích ứng với phong cách kinh doanh mới và còn phụ thuộcvào Tổng công ty. Hơn nữa, với cơ chế quản lý Nhà nước hiện nay, quỹ lương thưởng bị giới hạn do đó không khuyến khích được tính hiệu quả trong công tác của mỗi cá nhân. Đã đến lúc Tổng công ty lắp máy Việt Nam và Công ty XNK lắp máy cần phải đưa ra một cơ chế quản lý mới nhằm khai thác và sử dụng hết năng lực của từng cá nhân, phục vụ cho mục đích kinh doanh cung của Tổng công ty. Muốn làm được như vậy, Tổng công ty lắp máy Việt Nam và Công ty XNK lắp máy phải có biện pháp khai thác và sử dụng con người như sau: 1./Tạo động cơ: Đây là công việc hết sức quan trọng, để làm được điều này, yêu cầu lãnh đạo Tổng công ty và Công ty XNK lắp máy phải có nghệ thuật quản trị nhân lực. Các nhà lãnh đạo phải nắm và hiểu rõ được mục đích, nguyên nhân làm việc của từng cá nhân, với mỗi cá nhân thì động cơ làm việc và hiệu quả công việc là khác nhau. Lãnh đạo phải hiểu được tính của nhân viên, biết được sở trường sở đoản của họ để từ đó có thể giao việc thích hợp. 2./Tạo môi trường làm việc tốt. Sau khi nắm bắt và tìm hiểu rõ động cơ của từng cá nhân thì Công ty cần có các biện pháp và chính sách thích hợp như: -Điều kiện làm việc: các trang thiết bị văn phòng như máy tính, máy fax, điện thoại, e-mail ... đáp ứng được nhu cầu của từng cá nhân. -Môi trường làm việc: không khí làm việc cởi mở, thẳng thắn, những ý tưởng mới hay các công việc khó khăn có thể đưa ra trước tập thể để bàn bạc giải quyết nhưng quyết định cuối cùng vẫn là lãnh đạo. 3./Thu nhập. Thu nhập là một yếu tố rất quan trọng để tạo nên động cơ làm việc của từng cá nhân. Mức lương cao, thưởng đúng người đúng việc thì sẽ thu hút được những người có năng lực làm việc, thúc đẩy họ làm việc tốt hơn. Hiện nay, mức lương ở các cơ quan Nhà nước là tương đối thấp so với mặt bằng xã hội, thu nhập của cán bộ công nhân viên nhà nước nếu cứ mong chờ vào lương thì không đủ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của họ, do đó mà hiệu quả công việc và năng suất làm việc trong các cơ quan Nhà nước thường thấp hơn các doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này, Công ty cần có các chính sách khen thưởng, khuyến khích hợp lý để tạo động cơ làm việc cho cán bộ. 4./Chính sách đào tạo cán bộ. Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển từng ngày từng giờ, việc cập nhật các kiến thức kinh tế, xã hội đối với các cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu là điều vô cùng cần thiết. Chính vì vậy Công ty cần có chính sách cử cán bộ đi đào tạo nâng cao, đào tạo lại, tổ chức các lớp đào tạo tại chỗ. Việc tham gia các khoá đào tạo sẽ gúp cho cán bộ của Công ty nâng cao được trình độ kỹ năng nghiệp vụ của mình từ đó mang lại hiệu quả cao cho công ty nói riêng và cho Tổng công ty nói chung. V./ Kiến nghị đối với nhà nước nhằm khuyến khích và tạo đIều kiện cho nhập khẩu Để thực hiện tốt công tác nhập khẩu, ngoài những cố gắng của Công ty, Nhà nước cũng cần phải có cơ chế và biện pháp thích hợp khuyến khích, tạo điều kiện cho nhập khẩu. 1/ Quản lý ngoại tệ. Nhà nước cần có sự quản lý ngoại tệ để đảm bảo có được các đầu vào bằng nhập khẩu như nguyên liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng mà trong nước không tạo ra được. Nhà nước cần xem xét lại và điều chỉnh nguyên tắc, cơ chế phân bổ ngoại tệ ở các doanh nghiệp cũng như việc chuyển giao ngoại tệ giữa các doanh nghiệp. Mặc dù có sự thiếu hụt ngoại tệ nhưng lại có quá nhiều tình trạng lưu thông ngoại tệ nội bộ, tích trữ ngoại tệ ở qui mô lớn, số lương ngoại tệ lưu hành ở thị trường “chợ đen” Nhà nước không thể kiểm soát nổi. Nhà nước cần có biện pháp để ngăn chặn tình trạng này.Nhà nước phải chuyển ưu tiên phân bổ ngoại tệ cho các dự án lớn tốn khá nhiều ngoại tệ và thời gian xây dựng cơ bản lâu sang việc cổ vũ, khuyến khích các mối liên kết trong nội bộ các ngành công nghiệp và cải tiến hoạt động của doanh nghiệp theo tiêu chuẩn kinh tế. 2/ Chính sách về tỷ giá hối đoái. Chính sách về tỷ giá hối đoái của Nhà nước có quan hệ trực tiếp đến việc tăng hay giảm xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Công ty khi tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu nếu bán ngoại tệ cho Ngân hàng ngoại thương thì sẽ bị thiệt, do tỷ giá mua của Ngân hàng thường thấp hơn giá thị trường, còn nếu Công ty muốn mua lại thì phải mua ở mức giá cao hơn giá thị trường. Do đó nhiều doanh nghiệp đã bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp khác hoặc tìm những mặt hàng nhập khẩu có chênh lệch giá cao để nhập khẩu. Đểkhắc phục tình trạng trên, Nhà nước cần có sự quản lý ngoại tệ phù hợp, với một tỷ giá ngoại hối tương đối sát với thị trường, khoảng chênh lệch giữa giá mua và giá bán là tối thiểu. Đồng thời Nhà nước cần giành một số ngoại tệ cho Ngân hàng ngoại thương vay để làm vốn kinh doanh và điều chỉnh tỷ giá thị trường ổn định, không đột biến. Ngân hàng nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại cần kết hợp quản lý bằng cách buộc các đơn vị phải thanh toán qua Ngân hàng, tránh tình trạng giữ ngoại tệ mua bán với nhau. 3/ Chính sách hỗ trợ khác. -Nhà nước cần phải đơn giản hoá các thủ tục hành chính, cần phải thực hiện chính sách một cửa một dấu, bổ sung những người có năng lực chuyên môn cho công việc xuất nhập khẩu. Các cơ quan chức năng cần phối kết hợp chặt chẽ trong việc kinh doanh xuất nhập khẩu, nhằm đơn giản hoá các thủ tục nhập khẩu. Cơ quan Hải quan nên có những người am hiểu về chuyên môn như y, dược, các máy móc thiết bị chuyên dùng ... để bớt đi thủ tục, gây mất thời gian không cần thiết. -Nhà nước cần kiên trì thực hiện chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại, gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Để có thể hoà nhập với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và học hỏi tiếp thu được khoa học công nghệ hiện đại. -Nhà nước phải tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt là doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân. Các qui đinh, nghị định, thông tư ... ban hành phải thông nhất từ trên xuống dưới. -Nhà nước cần đổi mới chính sách nhập khẩu nhằm khuyến khích nhập khẩu các thiết bị hiện đại phục vụ công nghiệp hoá, xây dựng nền kinh tế hàng hoá hướng mạnh về xuất khẩu. Đồng thời Nhà nước cần có hướng chỉ đạo các Ngân hàng có thể đứng ra bảo lãnh để các doanh nghiệp có thể vay được khoản tiền lớn từ các tổ chức tín dụng quốc tế với lãi suất ưu đãi hay là từ các hãng sản xuất ở nước ngoài dưới dạng L/C trả chậm. Kết luận Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã chủ trương mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại nhằm đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước vững bước tiến lên XHCN với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Ngày này, xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang ngày càng lan rộng. Để hội nhập được với nền kinh tế thế giới thì Việt Nam cần có các chính sách kinh tế thích hợp, đặc biệt là về chính sách thương mại quốc tế, mà kinh doanh xuất nhập khẩu là một nội dung chủ yếu, cốt lõi của thương mại quốc tế. Việt Nam là một nước đang phát triển nên yêu cầu nhập khẩu các loại máy móc thiết bị phục vụ cho sự phát triển kinh tế của đất nước hiện nay là hết sức cần thiết. Công ty XNK lắp máy (MEIMEX) thuộc Tổng công ty lắp máy Việt Nam (LILAMA) là một trong những Công ty thực hiện việc nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho ngành lắp máy và một số ngành khác. Mặc dù mới được Tổng công ty ra quyết định thành lập trên cơ sở Phòng kinh doanh XNK trước đây, nhưng Công ty XNK lắp máy đã hoạt động rất có hiệu quả và khẳng định được vị thế của mình trên thương trường. Việc đưa ra một giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị trên đây chỉ là đóng góp nhỏ của cá nhân em để MEIMEX tiếp tục đạt được những thành tựu lớn hơn trong tương lai. Trong một thời gian ngắn thực tập tại MEIMEX, hơn nữa trình độ nhận thức có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự hướng dẫn chỉ bảo của các thầy cô giáo cũng như Ban giám đốc và cán bộ công nhân viên của MEIMEX. TàI liệu tham khảo 1/ Giáo trình thương mại quốc tế Chủ biên: PGS. TS Nguyễn Duy Bột 2/ Giáo trình kinh tế thương mại Chủ biên: PGS. TS Đặng Đình Đào PGS. TS Hoàng Đức Thân 3/ Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương Chủ biên: PGS. TS Đinh Xuân Trình Trường đại học ngoại thương 4/ Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại quốc tế Chủ biên: PGS. TS Trần Chí Thành 5/ Những thông tin cơ bản về kinh doanh thương mại Trung tâm thông tin thương mại Hà nội 6/ Marketing- Lý luận và nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh Trường Đại học KTQD 1994 7/ Báo thương mại; Thời báo kinh tế 8/ Các bản báo cáo tổng kết hàng năm của MEIMEX

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0497.doc
Tài liệu liên quan