Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan trọng có vai trò nòng cốt trong hệ thống kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Tuy nhiên dưới cơ chế thị trường nhiều doanh nghiệp nhà nước với hình thức cũ không còn tỏ ra phù hợp, hoạt động sản xuất kinh doanh đình đốn, kém hiệu quả. Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp có tầm chiến lược nhằm thúc đẩy đổi mới cơ chế quản lý và đổi mới cơ cấu hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá là mô hình nhằm nâng cao năng lực quản lý, sử dụng hợp lý hơn các yếu tố của quá trình sản xuất. Hướng đi lên của mô hình cổ phần hoá luôn luôn gắn liền với tính chất của nhà nước. Đặc điểm xã hội hoá khá rộng rãi của mô hình này có thể vận dụng thích hợp trong nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cổ phần hoá còn là biện pháp quan trọng tách nhà nước ra khỏi doanh nghiệp làm cho sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển, có hiệu quả, góp phần thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cổ phần hoá là yếu tố quan trọng song đó không phải là liều thuốc hợp lý đối với mọi loại hình doanh nghiệp nhà nước hơn nữa nó cũng không phải là phép mầu luôn gặp thuận lợi. Cổ phần hoá chỉ thực sự thành công khi nào doanh nghiệp lựa chọn được cho mình một mô hình kinh doanh phù hợp, với đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực nhằm sử dụng hợp lý các yếu tố lao động.
48 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1615 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ặc trưng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường là khu vực kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn nhưng việc chuyển đổi lại rất chậm. Thời gian qua ngân sách nhà nước đã phải đầu tư một tỷ trọng vốn lớn cho các DNNN nhưng hiệu quả thu được rất thấp trong khi ngân sách Nhà nước lại có hạn và phải dàn trải cho các khoản chi tiêu khác. Qua số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 1993 cho thấy : trong 6544 DNNN ( trong tổng số 7060 doanh nghiệp ) đang hoạt động có 3268 doanh nghiệp thuộc diện đề nghị phải giải thể hoặc chuyển đôỉ hình thức sở hữu chiếm 49,95% số doanh nghiệp được Nhà nước đầu tư.
Để xử lý tình trạng thiếu vốn và tạo cơ chế quản lý tài chính có hiệu lực, thực sự ràng buộc trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN thì giải pháp cần làm là thực hiện CPH một số doanh nghiệp Nhà nước.
3. Kinh nghiệm CPH doanh nghiệp Nhà nước ở một số nước
3.1. Cổ phần hoá ở nhóm các nước tư bản phát triển
Trong thập kỉ 80, các nước tư bản phát triển được chú ý như là một quá trình giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước và tiến hành cổ phần hoá các DNNN nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế thị trường hổn hợp đã được hình thành với việc thiết lập khu vực kinh tế Nhà nước ngày càng rộng lớn. Chính sách CPH bao trùm ở các nước này dựa trên quan điểm cho rằng việc tổ chức đời sống kinh tế của xã hội tuân theo các quy luật thị trường, thương mại hoá sản xuất và cạnh tranh bình đẳng có hiệu quả hơn là tuân theo các quan hệ chỉ huy tập trung và thể chế hành chính. Việc CPH ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển không phải là để xoá bỏ những chức năng đặc biệt về kinh tế mà chỉ có khu vực kinh tế Nhà nước mới đảm nhận được mà là nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực này.
Do đó, Chính phủ các nước đã lựa chọn các phương pháp tiến hành CPH sao cho không làm suy yếu khu vực kinh tế Nhà nước, mà trái lại, củng cố cho xứng đáng với vị trí quan trọng của nó trong nền kinh tế nhằm thực hiện một loạt chức năng kinh tế vĩ mô vì lợi ích toàn xã hội. Quá trình CPH ở các nước đã có nền kinh tế thị trường được thực hiện chủ yếu dưới các hình thức bán cổ phiếu của các DNNN qua các sở giao dịch chứng khoán, bán đấu giá có giới hạn người mua hoặc bán trực tiếp cho những người được lựa chọn một phần hay toàn bộ cổ phần doanh nghiệp. Việc bán đấu giá hay bán trực tiếp thường được áp dụng các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các lĩnh vực dịch vụ công cộng và thương mại, còn đối với các công ty lớn thì phổ biến là CPH thông qua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Nét đặc trưng của quá trình CPH ở các nước công nghiệp phát triển là hình thành các công ty cổ phần hỗn hợp Nhà nước-tư nhân hoạt động trên cơ sở thị trường và luật pháp của Nhà nước.
3.2. Cổ phần hoá DNNN ở Trung Quốc
Triển khai thực hiện sự cải cách dưới dự lãnh đạo của đảng Cộng sản, trong xu hướng xoá bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, tích cực phát triển kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, hưóng tới XHCN; kiên trì vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Trong cơ cấu kinh tế, DNNN chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, nhưng hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng giảm sút, làm ăn thua lỗ kéo dài, nợ nần chồng chất. Do vậy trong việc thực hiện cải cách khu vực DNNN Trung Quốc gặp nhiều khó khăn (về kinh nghiệm, về thực lực vốn và con người, về mô hình và biện pháp cải cách…).
Trung Quốc nhận thấy vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường XHCN ở khía cạnh xã hội hoá đầu tư thông qua việc huy động vốn cổ đông trong và ngoài nước và xây dựng cơ chế quản lý doanh nghiệp dân chủ hơn. Doanh nghiệp thực sự trở thành pháp nhân chủ thể kinh doanh tự chịu trách nhiệm về lổ lãi, chịu trách nhiệm trước cổ đông và luật pháp. Mục tiêu CPH là tách quyền sở hữu vốn tập trung của Nhà nước ở doanh thành quyền sở hữu cổ đông và phân định quyền sở hữu vốn của các cổ đông và quyền quản trị sản xuất kinh doanh để tạo môi trường xã hội hoá và dân chủ hoá trong sản xuất kinh doanh.
Về phương thức CPH, bán một số cổ phần của doanh nghiệp cho các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp, cả ở nước ngoài để hình thành tổ hợp cổ đông đa sở hữu và thành lập công ty cổ phần chấm dứt pháp nhân cũ là DNNN.
Về kết quả CPH, về cơ bản các DNNN đã được CPH đang đi vào làm ăn có hiệu quả hơn.
Bên cạnh những gì mà Trung Quốc đã đạt được trong quá trình cổ phần hoá DNNN thì Trung Quốc còn có một số hạn chế: Phần lớn những người lãnh đạo doanh nghiêp CPH là những người ở DNNN trước đây, có thể do yêu cầu của cổ đông trong thời kì chuyển đổi có thể do thiếu chỉ đạo áp dụng cơ chế tuyển chọn, thuê mượn. Việc đánh giá tài sản Nhà nước để CPH còn nhiều vướng mắc, tài sản thường bị đánh giá thấp như là biện pháp bán cổ phần, hậu quả là làm tổn hại đến lợi ích kinh tế Nhà nước, cũng có khi chúng lại bị định giá cao. Cơ chế kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và trách nhiệm của người lãnh đạo chưa đáp ứng được yêu cầu của chế độ công ty cổ phần. Các nội dung CPH của Trung Quốc ở trên đều rất giống ở Việt Nam.
Quan niệm CPH ở Trung Quốc là cải tạo DNNN thành công ty cổ phần. Do đó, CPH được coi là phương pháp để thực hiện công ty hoá. Công ty hoá là kết quả của cổ phần hoá DNNN, chuyển chúng sang hoạt động theo các nguyên tắc kinh tế thị trường và của kiểu tổ chức công ty hiện đại theo mô hình các nước phát ttiển. Còn ở Viêt Nam CPH và công ty hoá là 2 khái niệm tương đối độc lập và có nội dung khác nhau rõ ràng.
Trung Quốc CPH không chỉ nhằm mục đích thu hút vốn từ nhân dân hay người nước ngoài, mà mục đích chủ yếu là chuyển đổi cơ chế kinh doanh của DNNN nhằm xây dựng chế độ xí nghiệp hiện đại và CPH DNNN chỉ là một trong nhiều biện pháp quan trọng hướng tới mục tiêu đó. Để thực hiện mục tiêu này Trung Quốc đã từng bước tiến hành cải cách DNNN như mở rộng quyền tự chủ kinh doanh, để lai lợi nhuận, chế độ khoán… Hiện nay Trung Quốc đang thực hiện các giải pháp đi sâu vào cải cách DNNN nhằm xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại.
3.3. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở các nước thuộc khu vực Châu á khác
Các khoản nợ nước ngoài không phải là lý do chính để tiến hành CPH doanh nghiệp Nhà nước. Mà mục tiêu chính là Nhà nước rút khỏi các lĩnh vực hoạt động mà xét thấy không cần thiết phải nắm giữ và duy trì sự độc quyền Nhà nước mà chuyển giao cho khu vực tư nhân nhằm thực hiện sự cạnh tranh để nâng cao hiệu quả. Mục tiêu nữa của CPH là phát triển thị trường chứng khoán trong nước, thể hiện đặc biệt nổi bật là ở các nước như Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, Malaisia, Thái Lan. Điều này cho phép, cùng với việc bán cổ phần của Nhà nước cho tư nhân thì việc mở rộng thị trường vốn và huy động vốn qua đăng kí và phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán cũng đã trở nên phổ biến, và do đó, số lượng các công ty cổ phần tăng lên nhanh chóng ở các nước này. Số tiền thu được từ quá trình bán các cổ phần của Nhà nước ở các DNNN sẽ được bù vào khoản ngân sách dùng cho đầu tư các cơ sở hạ tầng và các ngành kinh tế chiến lược mà Nhà nước thấy cần có sự tham gia và kiểm soát.
3.4. Cổ phần hoá ở nhóm các nước XHCN trước đây thuộc Đông Âu
Khác với đa số các nước phát triển và đang phát triển, quá trình CPH ở các nước XHCN cũ và Đông Âu đã trở thành cuộc thử nghiệm quan trọng đối với các Chính phủ mới thành lập trong việc cam kết thực hiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân và tự do cá nhân. Để CPH một nền kinh tế dựa trên các doanh nghiệp công cộng đã có cách đây hàng thế kỉ nếu không có sự chuẩn bị đầy đủ các cơ sở về luật pháp, về tâm lý, chính trị, văn hoá tư tưởng, kinh tế, và nhất là thiếu thời gian nhất định để làm thử, kiểm nghiệm và hoàn chỉnh lý thuyết cũng như trong hành động thực tiển thì dù thực hiện nhanh hay chậm biến nền kinh tế thành sòng bạc là có thể xảy ra. Việc tiến hành CPH được đặt trong một chương trình tư nhân hoá rộng lớn hơn và do đó nó khác nhau đối với từng nước. Tuy các nước đều đặt ra một hệ thống pháp lý cần thiết cho việc CPH các doanh nghiệp Nhà nước và đã vượt qua nghiệp Nhà nước và đã vượt qua iệc chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nhưng số doanh nghiệp được CPH vẫn còn rất hạn chế so với dự kiến. Quá trình CPH doanh nghiệp hết sức khó khăn và phức tạp do quy mô và phạm vi tiến hành quá đồ sộ mà thời gian đòi hỏi ngắn hơn nhiều so với các nưóc khác. Chính phủ các nước khác đều nhằm vào các nhà đầu tư nước ngoài và coi đó là một nhân tố quan trọng dể thay đổi công nghệ, học tập được kỉ thuật quản lý và kinh doanh hiện đại, nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường mở cửa. Các trường hợp CPH ở các nước Đông Âu thường được diễn ra bằng sự phát hành cổ phiếu và bán trực tiếp hoặc qua một tổ chức trung gian như giàn giao dịch chứng khoán.
II. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
ở việt nam trong thời gian qua
1. Chủ trương và chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong những năm qua
CPH các doanh nghiệp Nhà nước đang trở nên phổ biến, đem lại hiệu quả rõ rệt ở hầu hết các nước đã và đang phát triển trên thế giới. Song, ở nước ta hiện nay cái khó là chưa có môi trường kinh doanh thuận lợi và ổn định; nền kinh tế vẫn còn lạm phát và khủng hoảng, số cổ đông công nhân viên chức không có vốn để mua cổ phần và nếu có cũng còn sợ rủi ro, không dám đầu tư vào sản xuất mà chủ yếu là đi buôn, làm dịch vụ, hoặc gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng để lấy lãi, góp phần đảm bảo đời sống hằng ngày.
Trước tình hình trên, Nhà nước đã có chủ trương làm thử để từng bước “cổ phần hoá” một bộ phận kinh tế Quốc doanh. Chủ trương CPH doanh nghiệp đã được Chính phủ nêu ra trong quyết định 217/-HĐBT ngày14/11/1987, ”Bộ tài chính nghiên cứu và tổ chức làm thử việc mua bán cổ phần ở một số xí nghiệp và báo cáo kết quả lên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng vào cuối năm1988 ”. Tuy nhiên, với điều kiện cụ thể lúc bấy giờ là hệ thống bao cấp của Nhà nước đối với các DNNN còn rất lớn và chưa được dỡ bỏ hết thì không thể cho phép có những hiểu biết đầy đủ và vận dụng thực sự các yếu tố của nền kinh tế thị trường vào công tác quản lý và điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hình thái công ty cổ phần và những hiểu biết về nó cũng như về CPH còn rất ít ỏi và mới lạ đối với nhiều cấp lãnh đạo và chỉ đạo.
Năm 1990 Chính phủ ra Quyết định 143/-HĐBT vào ngày 10/5/1990 để điều chỉnh và bổ sung cho Quyết định 217/-HĐBT trong đó có nội dung “Nghiên cứu và làm thử việc chuyển xí nghiệp Quốc doanh thành công ty cổ phần ”. Tuy nhiên, vấn đề này đã không được tổ chức triển khai đầy đủ, cho đến nay chỉ có vài xí nghiệp địa phương đã CPH nhưng kết quả chưa rõ rệt vì nguyên nhân cơ bản là là chưa có luật công ty và các thể chế cần thiết để giải quyết về mặt pháp lý cho việc thử nghiệm này thực hiện. Đến 8/6/1992 Hội đồng Bộ trưởng lại ban hành quyết định 202-HĐBT và đề án hướng cổ phần dẫn thí điểm CPH cùng với quyết định 203-HĐBT về danh mục 7 doanh nghiệp được Trung ương trực tiếp chỉ đạo làm thử đến nay đã gần 4 tháng mà chỉ có Công ty Legamex(tp Hồ Chí Minh) là có đề án cụ thể và đã tiến hành CPH, 3 đơn vị khác thì Bộ chủ quản và bản thân đơn vị xin chưa thực hiện, 3 đơn vị còn lại cũng chưa triển khai gì. Tình hình nêu trên cho thấy CPH tuy rất cần thiết, là một giải pháp lớn và căn bản tổ chức lại DNNN, song thật không phải đơn giản thuận buồm xuôi gió như chúng ta mong muốn. Bởi vì, CPH hiện nay, ngoài những trở ngại như như trình bày ở trên còn là một quá trình đấu tranh, xoá bỏ bao cấp một cách triệt để. Quá trình này đòi hỏi doanh nghiệp phải đổi mới căn bản về chế độ sở hữu, phương thức đầu tư, chế độ tổ chức và quản lý, phương thức hạch toán và phân phối…Do vậy không thể tiến hành giải pháp này nếu chỉ thông qua sự tự nguyện của các cán bộ lãnh đạo của doanh nghiệp, các cán bộ lãnh đạo cơ quan cấp trên trực tiếp của doanh nghiệp. Điều đáng quan tâm là Nhà nước cần có chính sách giải quyết thoả đáng lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp dự định CPH và những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho việc CPH.
Ngày 20/4/1998 Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị 20/1998/CT-TTg về việc đẩy mạnh, sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp. Trong đó các DNNN thực hiện CPH thì Chính phủ yêu cầu từng Bộ, địa phương, Tổng công ty 91 trong kế hoạch CPH phải lựa chọn ít nhất 20% số doanh nghiệp, không cần duy trì 100% vốn Nhà nước để thực hiên CPH.
CPH là một giải pháp quan trọng trong quá trình đổi mới DNNN ở Việt Nam và là một nội dung của chương trình tổng thể đổi mới DNNN. Xuất phát từ quan điểm đó, công tác tổ chức bộ máy chỉ đạo thực hiện CPH các năm qua dã được kiện toàn lại. Nghị định 44/1998/NĐ-CP ra ngày 29/6/1998 của chính phủ về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần thay thế Nghị định 28/CP ra ngày 7/5/1996. Nghị định 44/1998 về cơ bản mang những nội dung tích cực, phù hợp hơn với thực tiển CPH doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam khắc phục những khiếm khuyết nảy sinh trong quá trình thực hiện NĐ 28, đặc biệt là các vấn đề về ưu đãi người lao động, xác định các giá trị doanh nghiệp, thẩm quyền quyết định giá trị, thẩm quyền ra quyết định CPH doanh nghiệp. Việc đưa ra danh mục các loại doanh nghiệp lựa chọn CPH cho thấy tính thời sự của vấn đề CPH trong đời sống doanh nghiệp. Cùng với NĐ 44, Quyết định 111/1998/QĐ-TTg ra ngày 29/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương là sự hợp nhất của Ban chỉ đạo TW đổi mới doanh nghiệp trước đây. Quy định chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ để Ban có đủ khả năng chỉ đạo công tác đổi mới doanh nghiệp. Cùng với các văn bản trên thì hệ thống các văn bản hướng dẫn kèm theo đã kiến tạo ra khung pháp lý đầy đủ nhất cho việc CPH doanh nghiệp Nhà nước.
2. Một số kết quả đạt đựợc
Sau khi được kiện toàn, công tác chỉ đạo thực hiện CPH đã có nhiều khởi sắc. Quy trình CPH doanh nghiệp Nhà nước đã được đổi mới theo hướng giảm bớt các khâu, các thủ tục không cần thiết. Sau khi Nghị định 44/-CP, cùng với Quyết định 111/1998/QĐ-TTg được áp dụng, thì quá trình CPH tiến triển rõ rệt và đạt được một số kết quả.
Trước tháng 6/1998 tiến trình CPH doanh nghiệp nhà Nước diễn ra rất chậm. Số lượng DNNN chuyển thành công ty cổ phần đến đầu năm 1998 là 20 doanh nghiệp. Sau khi có Nghị định 44/-CP thì công tác triển khai thực hiện CPH tại các địa phương cũng được đẩy mạnh. Nhiều bộ, địa phương trên cơ sở triển khai sắp xếp, phân loại DNNN hiện có, bước đầu đã lựa chọn và đăng kí với Chính phủ các DNNN có thể CPH trong năm 1998. Ngày 1/8/1998 Chính phủ ra quyết định 140/1998/QĐ- TTg công bố danh sách 178 DNNN tiến hành CPH trong năm 1998, tính đến tháng 11 năm 1998 đã có trên 250 DNNN đăng kí CPH; số lượng DNNN đăng kí CPH từ các địa phương vẫn tiếo tục tăng. Số lượng DNNN chuyến thành công ty cổ phần vào năm 1998 là 100 doanh nghiệp, năm 1999 có thêm 250 doanh nghiệp đưa tổng số doanh nghiệp được CPH đến cuối năm 1999 là 370 doanh nghiệp .
Bảng1:Số lượng doanh nghiệp Nhà nướcchuyển thành công ty cổ phần.
đơn vị: doanh nghiệp
Năm
Số lượng
1992-1995
7
1996
6
1997
7
1998
100
1999
250
Tổng số
370
Trong đó, các bộ ngành chiếm 68 doanh nghiệp, các địa phương có 274 doanh nghiệp, các tổng công ty 91 có 28 doanh nghiệp. Về cơ bản số DNNN đã hoàn thành chuyển đổi sở hữu có quy mô vốn nhà nước không lớn, bình quân trên 4 tỷ đồng. Đáng chú ý nhất là công ty mía đường Lam Sơn ở Thanh Hoá có vốn điều lệ lên tới 150 tỷ đồng. Như vậy, năm 1999 công tác CPH đã tiến bộ rõ rệt, vượt 2 lần so với năm 1998.
Đầu năm 2000 tổng số vốn của 5280 DNNN hiện nay khoảng hơn 116 nghìn tỷ đồng. Về số lượng, số doanh nghiệp đã CPH chiếm khoảng 8% tổng số DNNN nhưng tổng số vốn chỉ chiếm khoảng 2%. Vốn trung bình của một doanh nghiệp CPH là 5,4 tỷ đồng và chỉ bằng 30% vốn trung bình của DNNN. Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng lên rõ rệt và hoạt động của các công ty này cho thấy CPH là một hướng đi đúng đắn để sắp xếp lại DNNN. Các chỉ tiêu về vốn, lợi nhuận, nộp ngân sách, tạo việc làm, thu nhập bình quân đều tăng đáng kể. Doanh thu tăng 30%, lợi nhuận thực hiện tăng hơn 30%, nộp ngân sách tăng 15-18%, thu nhập của người lao động tăng từ 1,2-1,5 lần.
Theo báo cáo về tình hình sắp xếp và chuyển đổi sở hữu DNNN của các ngành, các địa phương thì đến ngày 20/7/2000 cả nước đã có khoảng 453 DNNN hoàn thành chương trình CPH và đa dạng hoá sở hữu trong đó:
-Ngành giao thông vận tải có 47 doanh nghiệp.
-Ngành dịch vụ thương mại có 175 doanh nghiệp.
-Ngành công nghiệp- xây dựng có 208 doanh nghiệp.
-Ngành nông, lâm, thuỷ sản có 23 doanh nghiệp.
Riêng 7 tháng đầu năm 2000, cả nước mới thực hiện chuyển đổi sở hữu được 83 doanh nghiệp, chỉ đạt 12% so với chỉ tiêu kế hoạch năm 2000 Chính phủ đã giao cho các bộ, ngành, và các Tổng công ty trong đó :
-73 doanh nghiệp thực hiện CPH.
-10 doanh nghiệp thực hiện giao bán.
Ngoài ra còn khoảng trên 60 doanh nghiệp đang triển khai công tác xác định giá trị doanh nghiệp.
Kết quả trên cho thấy tiến trình CPH và đa dạng hoá sở hữu DNNN trong 7 tháng đầu năm 2000 là hết sức chậm chạp, thậm chí còn chậm hơn cả tiến độ của cùng kì năm trước. Điều đáng lo ngại là đến thời điểm báo cáo có tới 53 bộ, Tổng công ty 91, địa phương từ đầu năm chưa chuyển đổi sở hữu được doanh nghiệp nào.
Bảng 2: Tình hình thực hiện cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp Nhà nước (Tính đến 23/7/2000)
Đơn vị: số doanh nghiệp
Bộ,ngành,địa phương và tổng công ty
Chỉ tiêu được giao
Chuyển đổi sở hữu
Xác định giá trị doanh nghiệp
1. Bộ Thương mại
19
0
6
2. Bộ Nông nghiệp
40
7
3
3. Bộ giao thông
25
2
3
4. Bộ xây dựng
18
3
-
5. Tp.Hà Nội
50
0
-
6. Tp.HồChí minh
56
10
2
7. Tp. Hải Phòng
21
2
3
8. Tp.Nam Định
54
0
3
9. Quảng Ninh
10
4
3
10. Ninh Bình
4
3
0
11. Thanh Hoá
18
9
7
12. Phú Thọ
11
4
1
13.TCT.Công nghiệpTàu thuỷ
6
0
0
14.TCT.Dệt may
10
0
1
15.TCT.Điện lực
9
0
2
16.TCT.Bưu chính
9
1
1
17.TCT. Dầu khí
6
0
0
Tính đến 31 tháng 12 năm 2000 đã có 618 doanh nghiệp và bộ phận DNNN được chuyển đổi hình thức sở hữu, và 2 doanh nghiệp chuyển đổi phương thức quản lý. Tính riêng năm 2000, số lượng doanh nghiệp hoàn thành chuyển đổi là 250, trong đó: cổ phần hoá 211 doanh nghiệp; giao, bán: 37 doanh nghiệp; khoán, cho thuê: là 2 doanh nghiệp. Tốc độ như vậy là tương đương với năm 1999, tuy nhiên, so với chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ giao năm 2000 theo 2 đợt là 692 doanh nghiệp (kể cả tồn năm 1999 chuyển sang) thì mới đạt 36% kế hoạch năm, cụ thể là:
Bảng 3: Tình hình thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu trong năm 2000.
Chỉ tiêu
Kế hoạch năm 2000
Số DN chuyển đổi trong năm 2000
Tỷ lệ so với kế hoạch
Tổng số
692
250
36%
Khối,bộ, ngành
137
40
29%
Khối địaphương
484
192
40%
Khối TCT
71
18
25%
Một số bộ, địa phương, các Tổng công ty 91 triển khai tốt là: Bộ Công nghiệp, Bộ Thương mại, Tổng công ty Hoá chất, Tổng công ty Thép, Tổng công ty Hàng hải, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty Giấy, Tổng công ty Than, các tỉnh Nghệ An, Nam Định, Lâm Đồng, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Ninh Bình,…
Có 5 bộ ngành, 8 Tổng công ty 91 và 23 tỉnh thành phố không hoàn thành chuyển đổi sở hữu được doanh nghiệp nào. Nhiều bộ, ngành, địa phương trước đây quan tâm đến công tác CPH, số lượng DNNN thực hiện CPH tương đối nhiều nhưng nay thực hiện rất chậm như Bộ Xây dựng, Tổng cục Du lịch, Tổng công ty Cà phê, thậm chí cả 2 thành phố lớn là Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh cũng chỉ đạt 18%-39% (trong khi đó năm 1999 Hà Nội đạt 100%, Tp.Hồ Chí Minh đạt 80% kế hoạch). Riêng trong năm 2000 đã hoàn thành CPH và chuyển đổi sở hữu 188 doanh nghiệp, đạt 27,2% so với mục tiêu CPH và chuyển đổi sở hữu là 692 doanh nghiệp. Trong tổng số các doanh nghiệp CPH tính đến hết tháng 3 năm 2001 là 652 doanh nghiệp, có 322 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đạt 49,4%, 236 doanh nghiệp dịch vụ thương mại đạt 36,2%, 64 doanh nghiệp giao thông vận tải đạt 9,8%, 18 doanh nghiệp đạt 2,8%, 12 doanh nghiệp thuỷ sản đạt 1,8%. Tuy nhiên, tỷ lệ DNNN cổ phần hoá có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng vẫn chiếm tỷ lệ thấp nó chỉ khoảng 9-15% .(Nguồn : Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp).
Về kết quả hoạt động của các DNNN thực hiện CPH cho thấy, do thời gian hoạt động của phần lớn doanh nghiệp CPH còn ngắn, hơn nữa trong thời gian các công ty chuyển đổi sang công ty cổ phần thì sự tăng trưởng kinh tế của đất nước ta bị sụt giảm nên kết quả của một số doanh nghiệp CPH là chưa chính xác. Nhưng nhìn chung, công tác CPH năm 2000 đã có những tiến bộ do có sự cố gắng, nổ lực của các ngành, các cấp, và đặc biệt là hệ thống văn bản quy định về CPH ngày càng được sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện CPH.
Những kết quả bước đầu đáng ghi nhận trong việc CPH doanh nghiệp Nhà nước:
-Hình thành một mô hình doanh nghiệp mới, gắn bó chặt chẻ quyền lợi và trách nhiệm. Với việc thay đổi phương thức quản lý, chế độ bình bầu chọn Giám đốc, hội đồng quản trị và các chức danh lãnh đạo doanh nghiệp đã làm cho đội ngũ này có trách nhiệm cao hơn với do quyền lợi và nghĩa vụ gắn chặt với nhau. Không còn những giám đốc “há miệng chờ sung” mà thay vào đó là những giám đốc năng động, xông xáo, luôn bám sát thị trường, sáng tạo trong việc lập phương án kinh doanh, tìm kiếm bạn hàng, mở rộng thị trường. Đội ngũ công nhân viên được sàng lọc tinh chọn lại là các cổ đông chính của công ty nên chất lượng cũng như ý thức trách nhiệm, ý thức làm chủ tăng lên rõ rệt.
-Hiệu quả kinh doanh được nâng cao; lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân đều được đáp ứng. Theo dõi hoạt động của các DNNN được CPH nhận thấy là hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu vốn, lợi nhuận, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều tăng đáng kể như công ty sứ Bát Tràng, công ty giày Hà Nội, công ty XNK Namsimex…Tại DNNN đầu tiên được CPH là Đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam vào năm 1993 ở thời điểm CPH chỉ có số vốn là 6,2 tỷ đồng, sau 5 năm hoạt động vào năm 1998 số vốn tăng gấp hơn 6 lần (đạt gần 37,8 tỷ đồng), lợi tức so với vốn tăng 150%; xí nghiệp cơ điện lạnh thành phố Hồ Chí Minh, sau 3 năm hoạt động tăng vốn lên gấp 10 lần, lao đông tăng 4 lần, doanh thu tăng 10 lần. Những đơn vị có thời gian CPH trên một năm đều có những bước tiến lạc quan: Doanh thu tăng 30% lợi nhuận thực hiện tăng hơn 30% , nộp ngân sách tăng 15-18%, thu nhập của người lao động tăng từ 1,2 lần đến 1,5 lần so với trước CPH. Có những doanh ngiệp trước khi CPH gặp nhiều khó khăn, làm ăn thua lỗ, thì sau một năm CPH đã có đủ việc làm ổn định, các thành viên trong doanh nghiệp tin tưởng hơn, kết quả kinh doanh đã khá hơn trước, đó là công ty xe khách Hải Phòng, công ty tàu thuyền Bình Định, Công ty giấy Hiệp An, Công ty đồ mộc Hà Nội. Gần đây tại một số công ty lớn (doanh nghiệp 90,91)cũng có những chuyển động mới như phân xưởng may vỏ bao xi măng của Công ty xi măng Bỉm Sơn đã trở thành công ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn và hoạt động có hiệu quả.
Tính đến ngày 31/12/1999, nếu lấy 40 DNNN đã CPH từ năm 1998 trở về trước thì thấy kết quả như sau:
-Doanh thu tăng gấp 1,8 lần.
-Lợi nhuận tăng gấp 2,8 lần.
-Nộp ngân sách tăng gấp 3 lần.
-Số lượng lao động tăng trên 20%.
-Thu nhập của người lao động tăng thêm 20%.
Về tốc độ CPH, nếu nhìn tổng quát và theo hướng “đi lên” thì kết quả CPH là đáng khích lệ:
-Tính bình quân trong 8 năm qua thì mổi năm CPH 75 doanh nghiệp Nhà nước.
-Trong 3 năm đầu (1993-1995) chỉ CPH được 2-3 doanh nghiệp/năm, 7 năm đầu (1993-1999) CPH được 120 doanh nghiệp thì riêng năm 1999 CPH được 250 DNNN.
3. Những vấn đề nảy sinh
Chương trình CPH doanh nghiệp Nhà nước đã trải qua 8 năm. Kết quả đạt được là rất đáng khích lệ, nhưng cũng có nhiều vấn đề nảy sinh.
CPH ở nước ta là một quá trình rối rắm, phức tạp và tốn thời gian, làm hao mòn các nguồn lực tài chính và giảm sút sự kiên nhẫn của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam chưa có một phương pháp đánh giá tài sản doanh nghiệp thống nhất theo đúng chuẩn mực quốc tế, do đó khó khăn trong huy động vốn. Công tác xác định giá giá trị doanh nghiệp trong những năm qua tuy đã có nhiều đổi mới, song việc xác định giá trị tại nhiều địa phương mang nặng tính chủ quan, không thống nhất với cách xử lý của TW như đánh giá cao giá trị doanh nghiệp nhằm thu hồi vốn hay đánh giá thấp giá trị doanh nghiệp để đẩy nhanh CPH lấy thành tích, do đó làm chậm tốc độ CPH hoặc gây thất thoát tài sản quốc gia.
Chiến lược, chính sách và cơ chế quản lý chưa phù hợp, rõ ràng, không có quy định ưu tiên CPH đối với hoạt doanh nghiệp hay bộ phận kinh tế nào. Công tác chuẩn bị và hổ trợ các DNNN thực hiện CPH chưa làm tốt nên nhiều doanh nghiệp khi tiến hành CPH gặp rất nhiều khó khăn, nhất là vấn đề giải quyết các tồn tại của DNNN trước đây hay giải quyết vấn đề người lao động dư thừa khi CPH. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn nếu không có sự trợ giúp thì rất khó chuyển thành công ty cổ phần. Một số nội dung cơ chế chính sách đưa ra chưa thực sự bám sát đời sống doanh nghịêp. Việc triển khai NĐ 44 đã cho thấy một số nội dung chưa phù hợp với thực tiển. Công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách mới cho người lao động chưa được đẩy mạnh. Vẫn còn thiếu một hệ thống hổ trợ, tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc CPH.Việc chuyển DNNN sang công ty cổ phần – một hình thái quản lý hiện đại và phức tạp nhất- với chính sách ưu đãi được quy định tại NĐ 44 sẽ chỉ mang tính chất đơn nhất chưa thể tạo được sự an tâm cho các doanh nghiệp khi chuyển sang một môi trường hoạt động mới.
Tiến hành CPH doanh nghiệp Nhà nước là một giải pháp cải cách mang tính chất triệt để nhất, cương quyết nhất, cho nên rất cần phải có văn bản pháp luật có tính pháp lý cao làm cơ sở vững chắc cho việc triển khai thực hiện. Nhưng trên thực tế vẫn còn thiếu một hệ thống các văn bản pháp quy có tính pháp lý cao như luật, pháp lệnh về CPH.
Công tác tổ chức thực hiện CPH doanh nghiệp Nhà nước thời gian qua tiến hành không đồng đều, rộng khắp giữa các ngành, các địa phương và các tổng công ty nhà Nhà nước. Các địa phương không thực sự quan tâm đến CPH và coi đó là nhiệm vụ của các cấp ban ngành cao hơn. Còn nhiều bộ ngành, địa phương chưa có DNNN chuyển sang công ty cổ phần, thậm chí chưa hoàn thành việc đăng kí danh sách DNNN tiến hành CPH. Các công ty quốc doanh đều không có quyết định các vấn đề tài chính, vấn đề về đầu tư.Thực tế cho thấy trong những điều kiện tương tự , nơi nào mà được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo thì nơi đó triển khai tốt, ngược lại, những Bộ, địa phương, tổng công ty tuy có khá nhiều điều kiện thuận lợi nhưng kết quả CPH doanh nghiệp Nhà nước không cao.
Đội ngũ cán bộ chỉ đạo đổi mới DNNN chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Số lượng cán bộ kiêm nhiệm còn nhiều nên ít chú trọng, thiếu chủ động và kiên quyết trong việc tổ chức triển khai và đẩy nhanh CPH. Công tác giám sát và đôn đốc của ban chỉ đạo TW đối với công tác CPH ở các cấp cơ sở chưa được tốt. Hiện nay, khi Chính phủ đã giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các bộ, địa phương thì công tác giám sát, đôn đốc càng mang ý nghĩa hết sức quan trọng. Công tác phối hợp giữa các cấp chưa được nhịp nhàng dẫn đến thiếu thống nhất trong việc triển khai CPH ở các địa phương (điển hình là trong việc xác định giá trị thực hiện).
Giới hạn về việc mua cổ phiếu cũng là một yếu tố làm trì hoãn CPH, không hấp dẫn đối với công chúng, không tạo được sự an tâm cho nhà đầu tư. Quy định này cũng có tác động ngược lại mục đích của CPH là huy động vốn từ nhiều nguồn lực khác nhau.
Tư tưởng ngại thay đổi. Nhiều giám đốc của các doanh nghiệp nhà nước sợ rằng CPH sẽ làm họ mất đi quyền lực vốn có, nên họ cố tình trì hoãn CPH. Lãng tránh nhiệm vụ mới, kể cả những đòi hỏi thái quá của doanh nghiệp về tính hoàn thiện của chính sách đã đẩy CPH vào một tình thế hết sức khó khăn. Một phần tư tưởng ngại thay đổi là do các doanh nghiệp không có quyền tự chủ trong kinh doanh. Nhiều giám đốc không có quyền quyết định một số vấn đề về kinh doanh và tài chính của công ty.
Tình trạng giảm biên chế. Rất nhiều doanh nghiệp thực hiện giảm biên chế, nhiều lao động mất việc làm. Chính phủ cần có một chương trình thật sự, cụ thể để giải quyết vấn đề này, tránh trường hợp những người chống đối sẽ lợi dụng cơ hội để trì hoãn tiến trình CPH.
Chưa coi trọng vai trò của khu vự kinh tế tư nhân, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân là điều kiện bẵt buộc giúp Việt Nam tránh khỏi những hậu quả đáng tiếc trong quá trình hội nhập và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá. Chúng ta chưa có một quan điểm thống nhất về vai trò của kinh tế tư nhân. Để khuyến khích bộ phận kinh tế này, các trở ngại như thủ tục hành chính rườm rà, quy định về định chế tài chính, quyền sử dụng đất… cần phải được giải quyết. Mặc dù nhà nước đã ban hành luật khuyến khích đầu tư trong nước trên thực tế, môi trường đầu tư vẫn chưa thực sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Kể từ thời điểm tiến hành CPH doanh nghiệp đầu tiên (7/1993) tiến độ CPH hầu như không năm nào đạt chỉ tiêu như kế hoạch (năm 1993: 2 doanh nghiệp, năm 1994: 1, năm 1995: 2, năm 1996: 5, năm 1997: 5 doanh nghiệp); năm 1998 chỉ tiêu là 150 doanh nghiệp, năm 1999 chỉ tiêu là 400 doanh nghiệp. Như vậy, nếu giữ đúng tiến độ như kế hoạch thì đến năm 2000 có khoảng 600 doanh nghiệp được CPH. Nhưng trên thực tế đến tháng 2 năm 2000 mới chỉ CPH được 380 doanh nghiệp.
4. Nguyên nhân
Những vấn đề nảy sinh trên do nhiều nguyên nhân gây ra và những nguyên nhân đó được khái quát như sau:
Môi trường kinh doanh đang tiếp tục gặp khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực. Các DNNN đều thiếu vốn ngiêm trọng, công nợ nhiều, kỷ thuật công nghệ, thiết bị lạc hậu, lao động dư thừa, sản phẩm làm ra không có thị trường tiêu thụ, sức cạnh tranh kém. Sự hiểu biết về CPH, về chứng khoán trong công chúng tuy có được cải thiện song vẫn còn nhiều hạn chế, do nước ta chưa hình thành đầy đủ các loại thị trường và nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Do đó, người lao động, các nhà đầu tư ít hào hứng mua cổ phần tại các doanh nghiệp CPH.
Việc lựa chọn các doanh nghiệp CPH ở các bộ ngành, các địa phương chưa được nhận thức đúng, nhiều địa phương, bộ ngành chọn các doanh nghiệp kinh doanh khó khăn, hiệu quả thấp, thậm chí không hiệu quả, tình hình tài chính chưa lành mạnh, lao động dôi dư nhiều, nợ phải trả lớn, nợ phải thu khó đòi lớn hoặc không đủ hồ sơ, thiếu tài sản vật tư, ứ đọng, kém, mất phẩm chất, lạc hậu về kỉ thuật để CPH dẫn đến một số doanh nghiệp không hấp dẫn nhà đầu tư và bị vướng mắc ngay khi triển khai thực hiện CPH.
Vấn đề quyền lợi của cán bộ quản lý, thu nhập, việc làm của người lao động, đặc biệt là vị trí của người quản lý trực tiếp tại DNNN là những vấn đề gây cấn đã làm cho một số cán bộ chủ chốt chần chừ, ngại CPH, thậm chí không muốn CPH. Bởi vì trình độ yếu kém, ý thức tập thể kém của một số cán bộ lãnh đạo nên họ sợ rằng khi doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần thì họ không được tiếp tục giữ cương vị trước đây( chỉ có một số ít trong họ muốn cổ phần hoá ngay để được Nhà nước xử lý các vấn đề tồn tại về tài chính do trách nhiệm giám đốc gây ra).
Đến ngay khung pháp lý vẫn chưa đầy đủ để tạo lập một môi trường kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế dẫn tới nhiều doanh nghiệp còn do dự, so sánh thiệt hơn khi chuyển từ DNNN sang hình thức công ty cổ phần. Một số cơ chế chính sách hiện nay về CPH chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thực tế như: việc khống chế mức mua cổ phần đối với lãnh đạo doanh nghiệp, khống chế đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài còn quá chặt chẽ, cứng nhắc; chính sách mua cổ phần ưu đãi của lãnh đạo doanh nghiệp dẫn đến một số doanh nghiệp cần huy động vốn cho hoạt động vốn kinh doanh chưa đủ do bị khống chế nên một số cá nhân có tiền lại không mua được cổ phần, dẫn tới việc huy động vốn, không tạo được niềm tin và khuyến khích các cổ đông khác mua cổ phần…
Việc thực hiện CPH doanh nghiệp Nhà nước còn do các nguyên nhân sau:
Việc lựa chọn danh mục và lộ trình để thực hiện chuyển đổi sở hữu, cơ cấu lại doanh nghiệp của các bộ, các tổng công ty 91 và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa được quan tâm đúng mức, dẫn tới kế hoạch và danh mục công bố chậm(đến tháng 5 năm 2000 mới giao chỉ tiêu đợt 1 cho 32 bộ, Tổng công ty, địa phương, tháng 7 năm 2000 giao tiếp chỉ tiêu cho 57 bộ, Tổng công ty, địa phương. Ngoài ra, việc lựa chọn DNNN tiến hành chuyển đổi còn thiếu chính xác( nhiều doanh nghiệp thua lỗ, mất vốn cũng được lựa chọn cổ phần hoá), dẫn tới triển khai chậm hoặc không triển khai được. Chính phủ giao chỉ tiêu kế hoạch doanh nghiệp thực hiện CPH và đa dạng hoá cho các bộ, ngành, địa phương quá chậm.
Nhiều bộ, ngành, địa phương, Tổng công ty 91 chưa nhận thức đầy đủ mục đích, ý nghĩa của chủ trương CPH chưa thực sự quan tâm đúng mức đến công tác sắp xếp lại và CPH doanh nghiệp Nhà nước, do đó, trong chỉ đạo và tổ chức triển khai còn mang tính chất đối phó, do dự, chần chừ, thiếu kiên quyết, trông chờ vào sự tự nguyện, của doanh nghiệp và đôi chổ còn khoán trắng cho Ban đổi mới doanh nghiệp, chưa gắn trách nhiệm của lãnh đạo các bộ, địa phương, các Tổng công ty với việc triển khai và thực hiện chủ trương sắp xếp lại DNNN của Chính phủ.
Các Tổng công ty, nhất là Tổng công ty 90 không triển khai tích cực vì cho rằng càng cổ phần hoá thì quy mô của Tổng công ty càng bị thu hẹp lại (do bị giảm đơn vị thành viên).
iii. MộT Số giải pháp nâng cao hiệu quả của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Để hoàn thành chỉ tiêu cổ phần hoá cho các năm tiếp theo, tránh vấp phải một số vấn đề không đáng có trong quá trình cổ phần hoá, để chương trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước đạt kết quả tốt thì theo em nên có mốt số giải pháp sau.
1. Nhận thức đúng đắn về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Mục tiêu của đẩy mạnh tuyên truyền cổ động cho CPH là làm cho các cấp, các ngành, từng doanh nghiệp, và từng người lao động nhận thức sâu sắc về CPH như một xu thế tất yếu và sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho cả Nhà nước, lẫn cá nhân, từ đó tích cực, yên tâm thực hiện CPH, đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương quan trọng này của Đảng và Nhà nước. Tăng cường giáo dục cho cán bộ Đảng viên trong các cơ quan Nhà nước và nhân dân hiểu rõ chủ trương của Đảng, Nhà nước và lợi ích của CPH doanh nghiệp Nhà nước. Đây là một công việc rất quan trọng nhưng từ trước đến nay chưa được quan tâm đúng mức.
Làm cho các cấp, các ngành, các DNNN quán triệt sâu sắc và có nhận thức đúng đắn về chủ trương, chính sách và các giải pháp đổi mới và phát triển DNNN. Cổ phần hoá DNNN không thể làm chệch hướng của nước ta lên chủ nghĩa xã hội. Việc cổ phần hoá DNNN nào, mức độ chuyển đổi sở hữu bao nhiêu…là do Nhà nước quy định.
2. Hoàn thành cơ chế chính sách
Cần xem xét soạn thảo sớm ban hành một văn bản pháp lý cao về CPH để thể chế chủ trương CPH với các quy định rõ ràng, cụ thể về các vấn đề, cổ phần khống chế, tiến trình định giá, chế độ hỗ trợ doanh nghiệp được CPH, chế độ chính sách đối với người lao động để doanh nghiệp yên tâm triển khai CPH. Sửa đổi và hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách phục vụ cho hoạt động CPH doanh nghiệp, nâng cao năng lực pháp lý của hệ thống chính sách có liên quan đến hoạt động chuyển đổi sở hữu DNNN, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động chuyển đổi sở hữu và đa dạng hoá doanh nghiệp. Để có căn cứ pháp lý cho việc CPH doanh nghiệp Nhà nước trên diện rộng, Chính phủ cần xúc tiến nghiên cứu trình Quốc hội ban hành đạo luật về CPH doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời hoàn thiện và xây dựng các định chế thích hợp để thực hiện luật phá sản doanh nghiệp. Cùng với việc sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh lại Luật Phá sản và hệ thống các văn bản hướng dẫn để Luật Phá sản có thể đi vào cuộc sống, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh và lành mạnh hoá tình hình tài chính, đề nghị Chính phủ chỉ đạo sửa đổi tồn tại của một số cơ chế chính sách hiện hành chưa phù hợp và ban hành những chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá:
-Sửa đổi, bổ sung nghị định số 44/1998/NĐ-CP ra ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
-Ban hành chính sách xử lý lao động dôi dư trong DNNN, đảm bảo nguồn tài chính thoả đáng cho việc này.
-Xây dựng cơ chế ưu đãi hợp lý và cơ chế xử lý nợ để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu và niêm yết trên thị trường chứng khoán, bao gồm cả biện pháp khoanh nợ, xoá nợ và chuyển nợ thành cổ phần ở những doanh nghiệp CPH.
-Ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
-Hướng dẫn triển khai quy chế quản lý phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, đặc biệt là việc cử người trực tiếp quản lý phần vốn nhà nước ở các doanh nghiệp.
Có cơ chế cụ thể xử lý đối với những tài sản và nợ loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp, thành lập công ty quản lý tài sản và mua bán nợ theo tinh thần Nghị quyết số 11-2000/NQ-CP ra ngày 31/7 của Chính phủ dể hỗ trợ các doanh nghiệp xử lý các vấn đề tồn tại về tài chính khi thực hiện các đề án chuyển đổi sử hữu và giảm thiểu tổn thất của nhà nước trong quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu. Mặt khác, sự ra đời của công ty này sẽ giúp cho các doanh nghiệp lành mạnh hoá tình hình tài chính ngay trong quá trình sản xuất kinh doanh và hỗ trợ các doanh nghiệp CPH không đủ điều kiện niêm yết thực hiện mua bán trao đổi cổ phiếu.
Sửa đổi, bổ sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để tạo động lực phát triển sản xuất kinh doanh và gắn bó người lao động với doanh nghiệp, khắc phục tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu đãi cho người lao động giữa các doanh nghiệp thực hiện CPH. Đồng thời dành một tỷ lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài để thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý của các cổ đông. Cần nới rộng tỷ lệ mua cổ phần đối với người nước ngoài và các tổ chức nước ngoài đã đăng kí thường trú ở Việt Nam. Bỏ khống chế mua cổ phần ưu đãi đối với các cán bộ quản lý DNNN để họ tích cực tham gia vận động, thực hiện CPH.
Giải quyết thoả đáng đối với số lao động dư thừa trong quá trình CPH và sắp xếp lại DNNN, có thể lập quỹ đền bù (quỹ trợ cấp thất nghiệp) từ các nguồn tài chính như tiền bán cổ phần, ngân sách Nhà nước, viện trợ nước ngoài.
Sớm tổng kết, rút kinh nghiệm về hoạt động của thị trường chứng khoán để hoàn thiện cơ chế hoật động của thị trường này như một công cụ thúc đẩy, khuyến khích quá trình CPH.
3. Tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
3.1. Lựa chọn doanh nghiệp CPH
Nhà nước cần có những nỗ lực hơn nữa trong việc giải quyết các công ty hoạt động có hiệu quả, hoặc có vốn quá nhỏ bằng cách giải thể, CPH, bán hoặc cho thuê, Nhà nước chỉ nên giữ lại những doanh nghiệp hoạt động công ích và những doanh nghiệp trong lĩnh vực đặc biệt.
Việc lựa chọn DNNN sang công ty cổ phần phải tính đến khả năng tham gia của các cá nhân và các tổ chức có vốn. Họ là người đầu tư tài chính vì mục tiêu lợi nhuận. Vì thế không ai mua cổ phiếu ở các doanh nghiệp thua lỗ. Do đó, trước mắt phải nhằm CPH các doanh nghiệp làm ăn có lãi và tương đối có uy tín trong kinh doanh.
Việc lựa chọn DNNN để CPH còn liên quan đến điều kiện kinh tế xã hội hiện nay của đất nước. Việc CPH các doanh nghệp có quy mô vừa và nhỏ là phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay. Trong thời gian tới cần tiến hành CPH các doanh nghiệp có quy mô lớn.
3.2. Tổ chức thực hiện kế hoạch cổ phần hoá
3.2.1. Tăng cường công tác chỉ đạo
Chính phủ cần tăng cường chỉ đạo và thường xuyên kiểm điểm tiến độ triển khai CPH của các bộ, địa phương và các Tổng công ty 91 để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp. Đồng thời biểu dương những đơn vị làm tốt, phê phán những đơn vị triển khai không tích cực. Kiên quyết xử lý đối với những cán bộ được giao nhiệm vụ CPH nhưng còn chần chừ, do dự hoặc có hành vi cản trở tiến trình CPH. Báo cáo của Chính phủ tại kì họp thứ 5 – Quốc hội khoá X đã chỉ rõ “các bộ, ngành, Tổng công ty và các địa phương trong phạm vi trách nhiệm của mình phải phải chỉ đạo chặt chẽ việc tiến hành CPH các doanh nghiệp đã được phê duyệt”. Chính phủ cần kiện toàn và cũng cố bộ máy chỉ đạo thực hiên CPH. Phải tạo được nhận thức và xác định vai trò quản lý của Nhà nước đối với công ty cổ phần.
Đổi mới công tác chỉ đạo thưc hiện CPH. Kết hợp sự chỉ đạo tập trung của Nhà nước và đăng kí tự nguyện của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Căn cứ vào những quy định chung về lựa chọn doanh nghiệp CPH và điều kiện cụ thể của ngành và địa phương, các cơ quan quản lí Nhà nước cần sớm tiến hành phân loại các doanh nghiệp, xác định các doanh nghiệp đưa vào diện CPH: Loại cần tiếp tục giữ 100% vốn của Nhà nước, loại cần CPH và mức độ CPH. Đó là cơ sở để xác định chương trình CPH. Các doanh nghiệp liên quan sẽ chủ động xúc tiến các công viếc chuẩn bị cần thiết.
Đổi mới hoạt động của Ban chỉ đạo CPH của ngành, địa phương theo hướng vừa theo dõi, vừa hướng dẫn trực tiếp và cụ thể cho các doanh nghiệp thực hiện các công vịêc trước, trong và sau khi CPH. Ban đổi mới DNNN cần phải được giao thẩm quyền, chức năng lớn hơn để có thể tổ chức, điều hành, phối hợp hoạt động giữa các bộ, ngành liên quan, với địa phương.
Đối với doanh nghiệp, qua những kết quả thu được từ CPH doanh nghiệp Nhà nước có thể nêu lên một số kinh nghiệm đáng lưu ý mà các doanh nghiệp cần áp dụng trong việc mở rộng diện CPH trong thời gian tới. Đó là quan tâm tới các vấn đề về lao động, đây được coi là một trong những yếu tố quan trọng đặc biệt quyết định sự thành công nhanh của quá trình thực hiện CPH. Phải làm cho cán bộ công nhân viên, người lao động biết thực trạng doanh nghiệp hiện nay việc CPH là tất yếu khách quan, làm cho mọi người hiểu rõ ý nghĩa sự cần thiết, xu thế và lợi ích của việc CPH. Cần tập trung giải thích để người lao động thấy rằng việc mua cổ phần là điều kiện cần thiết cho việc thực hiện làm chủ kinh tế, tạo cho họ và các cổ đông ngoài doanh nghiệp tin rằng lãnh đạo doanh nghiệp có khả năng vực doanh nghiệp vượt qua khó khăn để đi lên. Giải quyết quyền và nghĩa vụ không chỉ với mổi thành viên mà quan trọng hơn đối với các bộ phận và tập thể người lao động trong doanh nghiệp là phải thông qua các công việc như định giá doanh nghiệp, phương thức mua bán cổ phiếu, các quy định về cổ tức bằng tỉ lệ % trên giá trị bình quân của cổ phiếu. Các doanh nghiệp tiến hành CPH phải xây dựng phương án sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện của mình, mang lại hiệu quả kinh tế cao, và đặc biệt chú trọng đến xây dựng cơ chế hoạt động theo khuynh hướng khuyến khích phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động.
Thực hiện Nghị quyết trung ương Đảng lần thứ 8: Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 20/TTg tiíep tục cũng cố, sắp xếp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước.
Tiếp tục cũng cố và hoàn thiện tổ chức Tổng công ty.
Nghiên cứu ban hành quy chế thí điểm thuê Giám đốc.
3.2.2 Có chính sách hỗ trợ, ưu đãi của nhà nước đối với các doanh nghiệp CPH
Cần có ưu đãi đối với các đoanh nghiệp CPH như đối với các DNNN hiên hành khác.
Đước nhà nước cấp quyền sử dụng đất, đối với đất mà nhà nước trước đó đã sử dụng và sử dụng quyền này theo các quy định hiện hành trong đó đã hưởng một số ưu đãi của Nhà nước .
Ưu đãi về nhãn hiệu hàng hoá, mặt bằng doanh nghiệp được phân phối hạn ngạch xuất nhập khẩu, được miễn giảm có thời hạn một số loại thuế mà các công ty cổ phần khác phải nộp. Những ưu đãi này là rất cần thiết để thực thi chương trình CPH có thêm các thuận lợi, bảo đảm chương trình được thực hiện một cách tốt đẹp.
Khuyến khích lĩnh vực kinh tế tư nhân, cần có nhiều hơn nữa các cuộc đối thoại giữa Nhà nước với khu vực kinh tế này, bằng cách cung cấp những diễn đàn cho họ trình bày ý kiến và nguyện vọng của mình. Chính phủ nên tổ chức các cuộc gặp gỡ thường xuyên để lắng nghe và thấu hiểu những vấn đề mà khu vực kinh tế này đang gặp phải, nhằm có những giải pháp thích hợp để thúc đẩy tiến trình CPH.
3.2.3. Có các giải pháp thích hợp
Đánh giá và định giá doanh nghiệp
Chính phủ cần làm việc với các tổ chức tư vấn quốc tế có kinh nghiệm trong lĩnh vực này để phát triển một phương thức xác ddịnh giá trị doanh nghiệp toàn diện theo tiêu chuẩn quốc tế làm cơ sở xác định giá trị công ty sẽ được CPH từ nay về sau.
Tiến hành thay đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp CPH. Thay phương pháp “ Giá trị hiện tại của dòng tiền tệ” thay thế cho hương pháp đang được sử dụng:“Tổng giá trị tài sản”. Phương pháp định giá mới sẽ giúp chúng ta có cách thực hiện phù hợp với cách thức đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới . Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có những quy định cụ thể về cách thức hoạt động của quỹ CPH, về việc xử lý nợ quá hạn và quyền sử dụng đất… vì đây là những yếu tố được coi có nhiều cản trở nhất trong việc thẩm định giá trị doanh nghiệp. Cách tốt nhất là để cho thị trường quyết định giá bán doanh nghiệp thông qua đấu thầu, cạnh tranh, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, việc xác định giá bán doanh nghiệp thường được thực hiện bằng nhiều phương pháp để có thể kiểm tra mức độ hợp lý của giá trị, trên cơ sở đó tổ chức đấu thầu và đấu giá trên thị trường để có được phương án chuyển đổi sở hữu tối ưu.
Ưu tiên người lao động mua cổ phần
Việc quy định số cổ phiếu tối đa sở hữu bởi thành viên trong ban Giám đốc công ty cần được bãi bỏ. Việc nâng cao số cổ phiếu sở hữu bởi ban giám đốc sẽ gắn liền với nâng cao trách nhiệm rong việc điều hành sản xuất kinh doanh. Cũng cần gia tăng cổ phiếu ưu đãi của doanh nghiệp dành cho nhân viên của mình từ tỷ lệ 20% lên 50% , nhằm khuyến khích người lao động mua nhiều cổ phần hơn trong công ty mà họ đang làm việc, gắn liền quyền lợi và trách nhiệm của người lâo động với doanh nghiệp.
Chính phủ cần có những chương trình ưu đãi như giảm thuế thu nhập cho các cổ đông trong vòng 5 năm đầu tiên để khuyến khích mọi người mua cổ phiếu. Những lao động có thu nhập thấp không có khả năng mua những cổ phiếu ưu đãi dành cho họ nên được cung cấp các khoản vay lãi suất thấp từ 10-15 năm, hoặc cho cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp CPH vay bình quân 3 triệu đồng (tối đa không quá 5 triệu đồng) và không chịu lãi trong vòng năm năm dưới hình thức bán chịu cổ phiéu trả chậm. Còn nếu cán bộ công nhân viên mua cổ phiếu trả ngay bằng tiền mặt thì được mua chịu cổ phiếu trả chậm trong 5 năm vơi lãi suất ưu đẫi tương đương với tỉ lệ % thu về sử dụng vốn hằng năm. Mức mua chịu tối đa của loại này không vượt quá số cổ phiếu mua bằng tiền mặt. Vốn hỗ trợ có thể từ nguồn vốn của công ty hoặc từ quỹ CPH.
Kết luận
Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan trọng có vai trò nòng cốt trong hệ thống kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Tuy nhiên dưới cơ chế thị trường nhiều doanh nghiệp nhà nước với hình thức cũ không còn tỏ ra phù hợp, hoạt động sản xuất kinh doanh đình đốn, kém hiệu quả. Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp có tầm chiến lược nhằm thúc đẩy đổi mới cơ chế quản lý và đổi mới cơ cấu hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá là mô hình nhằm nâng cao năng lực quản lý, sử dụng hợp lý hơn các yếu tố của quá trình sản xuất. Hướng đi lên của mô hình cổ phần hoá luôn luôn gắn liền với tính chất của nhà nước. Đặc điểm xã hội hoá khá rộng rãi của mô hình này có thể vận dụng thích hợp trong nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cổ phần hoá còn là biện pháp quan trọng tách nhà nước ra khỏi doanh nghiệp làm cho sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển, có hiệu quả, góp phần thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cổ phần hoá là yếu tố quan trọng song đó không phải là liều thuốc hợp lý đối với mọi loại hình doanh nghiệp nhà nước hơn nữa nó cũng không phải là phép mầu luôn gặp thuận lợi. Cổ phần hoá chỉ thực sự thành công khi nào doanh nghiệp lựa chọn được cho mình một mô hình kinh doanh phù hợp, với đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực nhằm sử dụng hợp lý các yếu tố lao động.
Vì vậy nhà nước cần có những điều chỉnh thích hợp để công tác cổ phần hoá mang lại hiệu quả cao cho bộ phận doanh nghiệp nhà nước tiến hành chuyển dổi chế độ sở hữu ( Những doanh nghiệp cổ phần hoá).
Do còn hạn chế về phương pháp luận nghiên cứu và còn quá ít tài liệu tham khảo nên chưa hiểu sâu được về vấn đề nghiên cứu. Mặc dù vậy qua đề tài này em đã có thêm nhiều kiến thức quý về vấn đề Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và bên cạnh đó nâng cao thêm tư duy lí luận.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo –TS Nguyễn Ngọc Huyền đã tận tình hướng dẫn giúp em hoàn thành đề tài này.
Tài liệu tham khảo
1. Công ty cổ phần và chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần
Đoàn Văn Hạnh-NXB Thống Kê.
2. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước- cơ sở lí luận và giải pháp
Nguyễn Ngọc Quang-Nxb Khoa học Xã hội-1996.
3. Tạp chí “phát triển kinh tế” số 96/1998; số 112, 114/2000.
Tạp chí “Việt Nam và Đông Nam á ngày nay” số 7,13 năm 1999.
Tạp chí “kinh tế và dự báo” số 3, 8 năm 2000; số 9 năm 2001.
Tạp chí “con số và sự kiện” số 5, 8 năm1999.
Tạp chí thông tin số 1 năm 2001.
CPH DN Nhà nước ở Trung Quốc và Việt Nam-những tương đồng và khác biệt
Dương Hoàng Anh-Tạp chí”Kinh tế và dự báo” số 5/2001.
Bàn thêm về CPH doanh nghiệp Nhà nước,
Trần Thanh Hà- Tạp chí “kinh tế và dự báo”
CPH doanh nghiệp Nhà nước- kết quả và giải pháp
TS.Trần Trung Tín-Tạp chí “kinh tế và dự báo”số 01/2001.
11. CPH– một biện pháp giải quyết nguồn vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Hà Thị Kim Dung- tạp chí”kinh tế và dự báo” số
Mấy vấn đề bức bách về CPH.
Gs.TS.Vũ Huy Từ
Làm thế nào đẩy nhanh tiến trình CPH.
PTS. Bùi Hà- Tạp chí TTLL số 12/1992
Vấn đề CPH doanh nghiệp- mục tiêu và giải pháp.
PTS. Trần Du Lịch- Tạp chí TTLL số12/1992
Một số giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN.
Th.s. Bùi Hữu Phước, Th.s. Phan thị Nhi Hiếu- Tạp chí “tài chính” số 4/2001.
1998- năm của cổ phần hoá
Lê Quốc Chiến- Tạp chí “Tài chính và doanh nghiệp” số1/1999.
Cổ phần hoá DNNN năm 2000- thực trạng và giải pháp.
Lê Hoàng Hải- Tạp chí “tài chính doanh nghiệp” số tháng 3/2001.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33729.doc