Bảo hiểm phi nhân thọ vẫn đư¬ợc sử dụng nh¬ư một khái niệm tổng hợp mang ý nghĩa hàm chứa tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại (bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự) và các nghiệp vụ bảo hiểm con ngư¬ời không thuộc bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm bệnh tật, ốm đau ). Theo luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam giải thích về thuật ngữ bảo hiểm phi nhân thọ nh¬ sau: “Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ”.
80 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1071 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bảo hiểm Bảo hiểm Bưu Điện (PTI), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với DNBH phi nhân thọ là 300 tỷ đồng) thì vẫn còn thấp hơn rất nhiều. So với một số DNBH phi nhân thọ khác như Bảo Việt hiện nay mức vốn điều lệ là 900 tỷ, Bảo Minh là 1.100 tỷ, Pjico là 140 tỷ đồng, hay công ty cổ phần Viễn Đông (thành lập muộn hơn) cũng có vốn điều lệ là 200 tỷ đồng, như vậy PTI hiện nay có mức vốn thấp trên thị trường.
Năm 2007 vừa qua, PTI cũng đã tham gia phát hành cổ phiếu ra thi trường với số lượng là 19.500.000 cổ phiếu, tổng giá trị là 195.000.000.000 đông. Việc phát hành cổ phiếu ra thị trường được coi là một kênh huy động vốn hữu hiệu cho doanh nghiêp, và PTI cũng đã dùng hình thức này để tăng tiềm lực về tài chính cho mình.
Bên cạnh đó, nguồn vốn chủ sở hữu của PTI cũng tăng lên hàng năm: năm 2001 là 75 tỷ đồng, năm 2002 là 85 tỷ đồng, năm 2003 là 107 tỷ đồng, năm 2004 là 118 tỷ đồng và đến năm 2007 đã tăng lên là 126 tỷ đồng. Nguồn vốn chủ sở hữu tăng cũng góp phần nâng cao năng lực tài chính, năng lực kinh doanh của công ty lên.
Mặc dù công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện PTI đã tăng vốn điều lệ của mình lên, nhưng chỉ với nghiệp vụ bảo hiểm thông thường (gồm các nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn, các sự cố đối với công trình xây dung của Tập đoàn VNPT, kinh doanh tái bảo hiểm phi nhân thọ, nhận và nhượng tái bảo hiểm liên quan đến các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ), quản lý quỹ và đầu tư vốnthì mức vốn điều lệ nếu tăng tới mức 150 tỷ đồng vào năm 2008 vẫn quá là nhỏ bé. Đó là chưa kể đến bảo hiểm các hệ thống máy móc - thiết bị kỹ thuật hiện đại, sử dụng công nghệ cập nhật trình độ thế giới trong lĩnh vực Công nghệ thông tin, Viễn thông, bảo hiểm Vệ tinh Viễn thông. Như vậy việc chú trọng tăng vốn điều lệ của công ty này là yếu tố hết sức quan trong ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời gian tới.
2.3.1.2.Trích lập dự phòng
Bảo hiểm có chu trình kinh doanh đảo ngược, có nghĩa là khi hợp đồng được kí kết thì khách hàng sẽ phải trả cho doanh nghiệp một khoản tiển đó là phí bảo hiểm (đựơc gọi là giá cả của sản phẩm bảo hiểm), còn DNBH sẽ cam kết chi trả hay bồi thường cho họ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra đã được thoả thuận trong hợp đồng. Như vậy, DNBH sẽ luôn có trong tay một nguồn vốn nhàn rỗi rất lớn và tương đối ổn định, một phần lớn đó sẽ trích ra thành một quỹ gọi là quỹ dự phòng nghiệp vụ, và doanh nghiệp đựơc phép dùng nguồn vốn này để đầu tư sinh lời.
Bảng 7:Tổng quỹ dự phòng của PTI
(giai đoạn 2003 - 2007)
(Đơn vị: tỷ đồng VN)
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Mức dự
phòng
152.257
217.303
284.897
310.386
318.878
(Nguồn:
Quỹ dự phòng nghiệp vụ của PTI cũng tăng lên hàng năm : năm 2001 tổng dự phòng nghiệp vụ của PTI chỉ là 72,8 tỷ đồng, năm 2003 là 152.257 tỷ đồng, và đến năm 2007 đã tăng lên con số là 318.878 tỷ đồng.
Trích lập dự phòng nghiệp vụ của PTI đựơc thực hiện như sau:
- Dự phòng phí chưa được hưởng: mức trích lập phí đối với các loại hình bảo hiểm vận chuyển hàng hoá đựơc tính bằng 25% mức phí giữ lại trong năm, và bàng 50% mức giữ lại trong năm đối với các loại hình bảo hiểm khác
- Dự phòng dao động lớn: được áp dụng thống nhất đối với tất cả các loại hình nghiệp vụ là 5% phí giữ lại và đựơc trích đến khi bằng 100% phí giữ lại. Riêng năm 2005, công ty thực hiện trích dự phòng giao động lớn tới 12%.
- Dự phòng bồi thường đựơc công ty thực hiện trích lập theo phương pháp từng hồ sơ đối với các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm khách hàng đã khiếu nại nhưng chưa được giải quyết. Mức trích lập dựa trên ước tính tổn thất phát sinh thuộc trách nhiệm bảo hiểm nhưng khách hàng chưa thông báo.
Việc trích lập dự phòng như trên đã bổ sung vào quỹ dự phòng hàng năm của PTI gần 25 tỷ đồng. Đến năm 2007,quỹ dự phòng nghiệp vụ của công ty đã đạt trên 318 tỷ đồng, nhờ đó đảm bảo an toàn cao trong hoạt động KDBH và tạo ra nguồn vốn nhàn rỗi lớn cho hoạt động đầu tư tài chính của PTI. Đây là yếu tố tài chính quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho PTI ở những năm tiếp theo.
2.3.2. Sản phẩm của PTI
Sản phẩm bảo hiểm là một loại sản phẩm dịch vụ tài chính đặc biệt, khách hàng không thể sử dụng các giác quan của mình để cảm nhận được sản phẩm, mà chỉ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì lợi ích của sản phẩm mới đựoc phát huy tác dụng. Do đó, để chào bán được sản phẩm một cách hiệu quả thì doanh nghiệp cần có những chính sánh cụ thể đối với sản phẩm của mình.
Sau 10 năm hoạt động, hiện giờ PTI đã có gần 50 sản phẩm bảo hiểm phi nhan thọ chia thành 3 nhóm nghiệp cụ chính đó là: BH tài sản – kỹ thuật, BH hàng hoá và BH phi hàng hải. Trong đó, nghiệp vụ bảo hiểm thế mạnh là nhóm BH tài sản - kỹ thuật luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng doanh thu bảo hiểm của doanh nghiệp (chiếm gần 50%), đồng thời nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải trong mấy năm gần đây cũng đựơc chú trọng nên doanh thu cũng đã tăng lên rất mạnh, đặc biệt là doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. Do sức mua phương tiện không ngừng tăng của dân cư và qui định của nhà nước về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3, nên nghiệp vụ bảo hiểm này sẽ là một “mảnh đất màu mỡ” mà doanh nghiệp cần phải đặc biệt quan tâm.
Trong thời gian qua, PTI đã liên tục đưa ra thị trường những sản phẩm mới, số lượng sản phẩm dịch vụ tăng lên hàng năm. Các sản phẩm tung ra thị trường đáp ứng những nhu cầu khác nhau của khách hang, từ những sản phẩm mang tính đại trà, truyền thống như: Bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm con người, bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 đến những sản phẩm đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của khách hàng như: bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, bảo hiểm lòng trung thựcHay các sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp kết hợp nhiều nghiệp vụ như: bảo hiểm cháy với bảo hiểm thiết bị, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Chiến lược đa dạng hoá sản phẩm sẽ tạo điều kiện cho khách hàng có thêm nhiều lựa chọn hơn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, do đó doanh nghiệp sẽ có cơ hội gia tăng thị phần.
Sau đây là bảng thống kê số lượng nghiệp vụ thay đổi qua các năm kể từ khi thành lập cho đến nay.
Bảng 8: Số nghiệp vụ triển khai qua các năm
Năm
Số nghiệp vụ bảo hiểm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
28
36
38
40
42
43
44
44
44
48
(Nguồn: Số liệu các phòng quản lý nghiệp vụ)
PTI không những liên tục triển khai các sản phẩm mới, đồng thời cũng cố gắng tạo ra tính linh hoạt của mỗi sản phẩm. Các sản phẩm trước kia của công ty chỉ mang tính ấn định, khách hàng mua các sản phẩm với những mức phí và các điều khoản đã được ấn định trước. Hiện nay, các điều khoản đựơc mở arộng và trở nên linh hoạt hơn, khách hàng có thể lựa chọn một hay một nhóm điều khoản phù hợp với mình. Chẳng hạn như trước kia chỉ có loại hình bảo hiểm kết hợp con người cả 3 điều kiện (A,B,C), đến nay công ty đã triển khai bảo hiểm kết hợp (A,B), (A,C) và (C,B) với nhóm nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, công ty không những BH hàng hoá trong quá trình vận chuyển mà còn mở rộng hàng lưu khi tạm thời..Nghiệp vụ tài sản cũng được mở rộng thêm các điều khoản như BH: rủi ro cháy nổ, rủi ro lũ quét, rủi ro mưa bão
Trong các nghiệp vụ bảo hiểm mà PTI triển khai, nghiệp vụ bảo hiểm tài sản - kỹ thuật luôn là thế mạnh của công ty, sau đây là cơ cấu doanh thu theo nghiệp vụ của PTI qua một số năm :
Bảng 9: Cơ cấu doanh thu của PTI theo nghiệp vụ
(giai đoạn 2003- 2007)
Nghiệp vụ
2003
2004
2005
2006
2007
D.thu
(tỷ đ)
Tỷ trọng
(%)
D.thu
(tỷ đ)
Tỷ
trọng
(%)
D.thu
(tỷ đ)
Tỷ
trọng
(%)
D.thu
(tỷ đ)
Tỷ
trọng
(%)
D.thu
(tỷ đ)
Tỷ trọng(%)
Tài sản-KT
101,64
60,62
117,22
52,11
129,97
45,91
111,7
40,04
112,2
37,28
Hàng hải
15,92
9,5
22,083
9,82
21,591
7,63
24
8,6
25.2
8,37
Phi hàng hải
38,18
22,77
67,013
29,79
110,83
39,18
131,8
47,25
155,5
51,66
Nhận TBH
11,92
7,11
18,620
8,28
20,598
7,28
11,432
4,11
8,100
2,69
Tổng cộng
167,68
100,0
224,95
100,0
282,89
100,0
278,94
100,0
301,0
100,0
(Nguồn: Công ty bảo hiểm Bưu Điện)
Nhìn vào bảng biểu có thấy, doanh thu bảo hiểm qua các năm có xu hướng tăng lên, và nghiệp vụ bảo hiểm Tài sản- Kỹ thuật luôn chiếm tỷ trong rất lớn. Năm 2007 doanh thu của nghiệp vụ này là 111,7 tỷ đồng, trong đó TSKT là 109,6 tỷ và nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm chung là 1,7 tỷ đồng. Nghiệp vụ bảo hiểm TS – KT là thế mạnh của công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điên ngay từ buổi đầu thành lập, do dó nó luôn được chú trọng để khai thác một cách triệt để nhất, vì vậy nghiệp vụ bảo hiểm này luôn chiếm tỷ trong lớn trong tổng doanh thu của doanh nghiệp.
Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải đã có mức tăng trưởng vượt bậc, năm 2006 đã vượt qua cả doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm TS – KT với mức doanh thu tới 131,8 tỷ đồng, trong đó nghiệp vụ bảo hiểm con người là 19.8 tỷ đồng và nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là 112 tỷ đồng. Năm 2007, PTI lại đánh dấu một bước tăng trưởng lớn của nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải với mức doanh thu là 155,5 tỷ đồng, trong đó nghiệp vụ bảo hiểm con người là 20,8 tỷ đồng và nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là 134,7 tỷ đồng. Trong khi đó, nghiệp vụ bảo hiểm TS – KT có tăng nhưng tăng đáng kể so với năm 2006, với doanh thu là 112,2 tỷ đồng, trong đó mức tăng chủ yếu là do nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm chung với doanh thu là 2,6 tỷ đồng VN.
Sở dĩ, tỷ trong doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm TS - KT đã giảm dần trong những năm gần đây nguyên nhân chính là do sự thay đổi về chiến lựợc phát triển trong ngành và ngoài ngành, sản phẩm thế mạnh của công ty là bảo hiểm thiết bị điện tử đã có tốc độ tăng trưởng giảm dần, có chiều hướng tiệm cận với tôc độ phát triển mạng lưới của ngành Bưu chính Viễn thông. Các đơn vị trong ngành BCVT khi chuyển sang cổ phần hoá, hạch toán sẽ chặt chẽ hơn, vì thế việc giảm chi phí sẽ là tất yếu. Do đó sẽ có sự cân nhắc kỹ lưỡng hơn trong việc lựa chọn các sản phẩm bảo hiểm với các điều khoản hợp lý hơn. Vì thế, PTI có thể có nguy cơ mất dần thị trường này.
Doanh thu nhóm nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải của PTI lại rất thấp, luôn chiếm tỷ trong rất nhỏ trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của doanh nghiệp (thường chỉ khoảng 9%). Hàng năm, doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm này tăng không đáng kể, do PTI chưa chú trong phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải, nên khả năng cạnh tranh về nghiệp vụ bảo hiểm này trên thị trường là rất yếu.
2.3.3. Hệ thống phân phối
Năm 1998, khi công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu Điện mới thành lập, cơ cấu tổ chức của công ty chỉ bao gồm một văn phòng chính tại Hà Nội (2 phòng chức năng và 3 phòng vừa khai thác vừa quản lý), 1 chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay công ty đã có 22 chi nhánh tại các thành phố trên toàn quốc.
Miến Bắc: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Thanh Hoá.
Miền Trung: Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Đắc Lắc, Khánh Hoà.
Miền Nam: Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Long An, An Giang, Cần Thơ, Cà Mau.
Trụ sở chính nằm của công ty nằm tại địa bàn Hà Nội là nơi tập trung đông dân cư, phương tiện, doanh nghiệp, nên sẽ có nhiều lợi thế trong khâu khai thác và quản lý. Năm 2007, doanh thu bảo hiểm gốc của toàn công ty là 292,9 tỷ đồng, trong đó chi nhánh Hà Nội chiếm 24%, Hồ Chí Minh chiếm 33%. Đà Nẵng chiếm 6%, Hải Phòng chiếm 5%, Cần Thơ chiếm 4%, Đắc Lắc chiếm 5%...Như vậy doanh thu lớn nhất vẫn là 2 thành phố lớn là hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm trên 50% doanh thu của doanh nghiệp.
Số lượng đại lý của PTI liên tục tăng trong những năm qua, sau đây là bảng thống kê số lượng đại lý trong những nănm gần đây
Bảng 10: Thống kê số lượng đại lý giai đoạn năm 2003 - 2007
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Số ĐL
501
893
1680
1900
2400
(Nguồn: Số liệu phòng quản lý đại lý)
Hiện nay, PTI đứng thứ tư về mạng lưới chi nhánh với 22 đơn vị trực thuộc trải dài trên khắp đất nước. Hiện tại công ty đang sử dụng hệ thống tổng đại lý và đại lý rông khắp để hỗ trợ cho hoạt động bán hàng. Công ty đã xây dựng được hệ thống 290 tổng đại lý và 2400 đại lý trên toàn quốc.
Nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống bán hàng trực tiếp trong hoạt động bảo hiểm, PTI có kế hoạch hợp tác với tổng công ty Bưu Chính Việt Nam để sử dụng trên 15.000 bưu cục của Tổng Công ty làm đơn vị đại lý bán bảo hiểm cho PTI. Sau khi các bưu cục chính thức trở thành đại lý của PTI, thì số lượng đại lý của PTI sẽ lên đến con số 17.400 với mạng lưới phủ khắp toàn quốc, không những tập trung ở các thành phố lớn mà còn tới tận vùng sâu, đáp ứng nhu cầu kịp thời của khách hàng tiềm năng, đặc biệt các khách hàng cá nhân. Bên cạnh việc tăng hiệu quả kinh doanh và qui mô của hệ thống, việc kết hợp đại lý với các bưu cục còn là một phương thức ưu việt, tiết kiệm hơn nhiều so với việc xây dựng mới đại lý. Đây sẽ là nhân tố quan trọng quyết định đến doanh thu và lơị nhuận của công ty trong những năm tới và về lâu dài, sẽ là thế mạnh cạnh tranh của công ty so với các DNBH khác.
Việc triển khai xây dựng hệ thống đại lý của PTI chậm hơn so với một số doanh nghiệp trên thi trường như: Bảo Việt, Bảo Minh, PVI và Pjico, nhưng hiện nay danh sách đại lý của PTI hiện nạy cũng đã phủ khắp các tỉnh thành trên mọi miền đất nước. Tuy số lượng đại lý là khá nhiều, song chất lượng và hiệu quả hoạt động lai chưa cao, doanh thu phí bảo hiểm so với một số DNBH khác còn thấp hơn rất nhiều. Nguyên nhân là do, PTI chưa thực sự chưa trong tới khâu đào tạo kỹ năng, chuyên môn cho đội ngũ nhân viên, tư vấn bảo hiểm. Có đào tạo thì chỉ tập trung ở khu vực tổng công ty, còn các chi nhánh thì chưa được quan tâm nhiều. Hơn nữa chi phí dành cho việc đào tạo còn rất hạn hẹp, vì thế chưa nâng cao được chất lượng hệ thống đại lý của doanh nghiệp. Đó là điểm yếu về khả năng canh tranh của PTI so với một số DNBH hàng đầu trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Bên cạnh hình thức phân phối sản phẩm chính là qua hệ thống đại lý, PTI cũng tiến hàng phân phối qua hàng loạt các ngân hàng như: Ngân hàng Công Thương, ngân hàng đầu tư và phát triển, VIP Bank, VB Bank... Sự liên kết giữa bảo hiểm và ngân hàng sẽ tạo ra lợi ích cho đôi bên: ngân hàng sẽ thu thêm được một khoản lợi nhuận, còn DNBH sẽ phân phối thêm được nhiều sản phẩm hơn, gia tăng thị phần của doanh nghiệp. Vì thế, việc phân phối qua hình thức này có hiệu quả cũng khiến cho PTI tăng được khả năng canh tranh của mình trên thị trường, do đó PTI cũng đang chú trọng tới hình thức phân phối này.
2.3.4. Bạn hàng
Bạn hàng cũng là một yếu tố ảnh hưởng lâu dài đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm. PTI được sáng lập bởi 7 cổ đông lớn, trong đó cổ đông với số vốn góp lớn nhất là Tập đoàn Bưu Chính Viễn thông Việt Nam - VNPT Group, với số vốn góp ban đầu là 28.7 tỷ đồng VN, và tính đến thời điểm 31/12/2007 số vốn góp của Tập đoàn đã tăng lên 40.18 tỷ đồng VN (chiếm 38.27% vốn điều lệ của DNBH PTI). Đồng thời, VNPT cũng là một khách hàng lớn của chính DNBH PTI, sản phẩm chính mà PTI cung cấp cho VNPT đó là sản phẩm bảo hiểm thiết bị thiện tử. DNBH PTI có lợi thế hơn một số doanh nghiệp bảo hiểm khác đó là PTI có các cổ đông lớn, đồng thời lại là khách hàng trung thành của mình. Hàng năm, VNPT mua sản phẩm bảo hiểm của PTI với giá trị rất lớn, tạo ra nguồn doanh thu rất thường xuyên và ổn định cho công ty. Đặc biệt, trong cuối năm 2007 vừa qua, VNPT cũng đã lựa chọn PTI cùng với DNBH Bảo Việt Việt Nam để mua bảo hiểm cho dự án phóng vệ tinh VINASAT với mức bảo hiểm trị giá lên tới 170 triêụ USD, đã tạo ra doanh thu lớn cho PTI.
Bên cạnh đó, Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam -Vinaconex cũng là khách hàng lớn của công ty, sản phẩm chủ yếu mà PTI cung cấp cho Vinaconex đó là các sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất - nhập khẩu, bảo hiểm hàng hoá vận chuyển chuyển nội địa
Ngoài ra, một số cổ đông khác cũng là khách hàng thường xuyên và trung thành của DNBH PTI như: Bưu chính Viễn thông Cokyvina, công ty xây dựng Hà Nội
Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện có các cổ đông lớn đồng thời là khách hàng trung thành của mình, do đó doanh thu phí bảo hiểm của doanh nghiệp luôn rất ổn định. Đây được coi là nhân tố có ảnh hưởng lâu dài giúp cho PTI nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
2.3.5. Nguồn lực con người
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của PTI đã có những sự thay đổi phù hợp hơn, và được phân ra rõ ràng giữa khối kinh doanh và khối quản lý. Bộ máy quản lý của công ty hiện nay được tổ chức theo mô hình ma trận, các chi nhánh được hạch toán một cách độc lập với các Giám đốc và phó Giám đốc riêng. Mỗi chi nhánh cũng có các phòng nghiệp vụ và đựơc quản lý trực tiếp bởi người đứng đầu chi nhánh đó.
Sau đây là cơ cấu nguồn lao động của công ty bảo hiểm PTI (tại Hà Nội) theo trình độ học vấn:
Bảng 7: Cơ cấu lao động theo trình độ học vấn
Loại lao động
Số lượng
Tỷ lệ %
Sau đại học
Đại học
Trung cấp
Lao động phổ thông
10
395
98
47
1.82
71.82
17.82
8.54
Tổng số
550
100
(Nguồn: Công ty Bảo hiểm Bưu Điện)
PTI đã phát triển đội ngũ trên 500 cán bộ nhân viên làm việc tại Hà Nội, trong đó trình độ đại học và trên đại học là khá cao (80%). Số lượng lao động trong độ tuổi từ 30 - 40 tuổi chiếm đa số( 70%), lao động trên tuổi 50 chiếm khoảng 5%, còn lại là lao động trẻ, tuổi từ 20 đến 30. Đội ngũ cán bộ nhân viên này đa số là còn trẻ và có trình độ nhưng trình độ chuyên môn về lĩnh vực bảo hiểm lại chiếm tỷ trọng không cao, mà đa số là được đào tạo từ các ngành nghề khác hoặc được chuyển từ ngành Bưu chính Viễn thông sang. Chính vì vậy việc đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên làm việc cho công ty là hết sức quan trọng.
Thời gian qua PTI cũng đã khá quan tâm đến điều này, công ty đã cử các cán bộ công nhân viên tham gia các khoá học đào tạo nghiệp vụ và kỹ năng bán hàng để nâng cao nghiệp vụ, làm việc một cách hiệu quả hơn. PTI tài trợ 100% học phí học cao học, học chứng chỉ Bảo hiểm Enrif ở Úc. Đồng thời, hàng năm công ty cử cán bộ tham gia hội thảo nghiệp vụ tái bảo hiểm ở nước ngoài, tổ chức các buổi hội thảo, đào tạo về nghiệp vụ nâng cao trình độ nhiệp vụ của đại lý để công tác khai thác có hiệu quả hơn. Bộ phận giám định của công ty cũng được tham gia các lớp cơ bản về giám định và nâng cao theo từng nghiệp vụ.
Các chương trình đào tạo này được thưc hiện khá thường xuyên ở công ty, nhưng ở các chi nhánh lại rất hạn chế, nguyên nhân đó là do các chi phí này thường lại được phân bổ cho các hoạt động khác ở các chi nhánh. Hơn nữa, chi phí chi cho đào tạo cũng chiếm tỷ lệ rất thấp so với doanh thu và đào tạo chỉ dừng lại ở mức đào tạo cơ bản, vì thế chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ chưa thực sự hiệu quả.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ của PTI cũng khá đông đảo, tuy nhiên những cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao lại thiếu, đặc biệt là thiếu những nhân viên làm công tác giám định tổn thất đối với các vụ tổn thất lớn và phức tạp, điều này có thể ảnh hưởng lớn tới chất lượng sản phẩm bảo hiểm, do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng sẽ bị suy giảm.
Hơn nữa, ở PTI có tình trạng đó là một số cán bộ làm việc lâu năm và có hiệu quả sau một thời gian khai thác đã lên làm quản lý, do đó bộ máy quản lý mỗi ngày một tăng lên, trong khi bộ phận khai thác lại phải tuyển dụng mới và đào tạo laị, do đó sẽ làm tốn kém rất nhiều về chi phí và thời gian. Đồng thời, đội ngũ cán bộ mới được tuyển dụng có thể sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh vì thiếu kinh nghiệm thị trường và hạn chế về các mối quan hệĐiều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới vấn đề khai thác hợp đồng của DNBH, làm giảm khả năng cạnh tranh của PTI so với các DNBH khác trên thị trường.
PTI cũng phải đối mặt với tình trạng “chảy máu chất xám”, đó là các cán bộ có chuyên môn và kinh nghiệm của mình chạy sang các DNBH khác làm việc. Những cán bộ này là nguồn lực vô cùng quan trong đối với doanh nghiệp, góp phần lớn tạo ra sự thắng lợi cho mỗi doanh nghiệp. Khi DNBH mất đi những cán bộ giỏi cũng đồng nghĩa với việc DNBH làm giảm đi khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường.
2.3.6. Giá cả sản phẩm, chất lượng giám định và giải quyết bồi thường
Đối với các sản phẩm đã được qui định, thì DNBH phi nhân thọ PTI chấp hành theo đúng qui định của Bộ tài chính. Ngoài ra, PTI cũng không sử dụng chiến lược canh tranh bằng giá, có nghĩa là giá cả sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiêp không thấp các DNBH phi nhân thọ khác trên thị trường. Bởi lẽ, so với các DNBH khác, khả năng tài chính của PTI còn rất hạn chế, đối với các hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn, PTI sẽ phải nhượng tái đi một phần để đảm bảo khả năng về tài chính cho doanh nghiệp. Nếu PTI muốn cạnh tranh bằng cách hạ thấp phí bảo hiểm, thì sẽ gặp phải khó khăn trong việc chào tái các hợp đồng bảo hiểm này (do mức phí mà công ty nhận tái bảo hiểm nhận được là thấp, không hấp dẫn). Việc không tái đi được các hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn hoặc là: sẽ làm ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ty nếu PTI vẫn chấp nhận ký hợp đồng bảo hiểm; hoặc là: nếu PTI không kí kết hợp đồng bảo hiểm thì sẽ mất đi một khoản doanh thu cho công ty, hơn nữa cũng có nguy cơ mất đi sự tin tưởng từ phía khách hàng.
Chất lượng sản phẩm dịch vụ bảo hiểm được thể hiện thông qua khâu giám định, bồi thường tổn thất của mỗi DNBH. Hiện nay, PTI đang thiếu các cán bộ làm trong khâu giám định tổn thất, đặc biệt là các tổn thất lớn, có tính chất phức tạp, vì thế thời gian giải quyết bồi thường cũng bị chậm lại, ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm dịch vụ của công ty. Trong khi đó, các DNBH phi nhân thọ hàng đầu Việt Nam như Bảo Việt Việt Nam và Bảo Minh đang tạo được uy tín rất tốt đối với khách hang, do thực hiện tốt trong khâu giám định bồi thường tổn thất, với thời gian nhanh chóng và kịp thời. Chất lượng trong khâu giám định bồi thường quyết định tới chất lượng của sản phẩm, từ đó ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của PTI trong những năm qua. Tuy nhiên, hiện nay PTI cũng đã chú trong nhiều hơn trong công tác đào tạo nguồn nhân lực làm công việc giám định tổn thất, bằng cách gửi một số sang nước ngoài để học tập, đồng thời đang tiếp tục tuyển dụng thêm cán bộ làm việc trong bộ phận này.
2.4. Kết quả hoạt động, vị trí của PTI trên thị trường
2.4.1. Kết quả
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, và vị trí của doanh nghiệp bảo hiểm PTI là biểu hiện cụ thể của năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.4.1.1. Doanh thu bảo hiểm gốc
Bảng 11: Doanh thu bảo hiểm gốc giai đoạn 2003-2007
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
1. Doanh thu phí
(tỷ đồng)
155.754
206.427
262.295
267.5
292.9
2. Lượng tăng liên
hoàn (tỷ đồng)
46.477
50.673
55.868
5.205
25.4
3. Tốc độ tăng liên
hoàn (%)
29.84
32.53
27.06
1.984
9.495
(Nguồn: công ty bảo hiểm Bưu Điện)
Nhìn vào bảng có thấy, doanh thu phí bảo hiểm gốc của công ty năm sau đều tăng hơn năm trước, đặc biệt là năm 2004 với mức tăng trưởng cao nhất là 32.53%. Doanh thu phí bảo hiểm gốc năm 2006 có tăng nhưng rất ít, với mức tăng thấp (1.984%). Tổng doanh thu bảo hiểm gốc đã chững lại ở năm 2006, và đến năm 2007 đã bắt đầu bắt nhịp trở lại với mức tăng tuyệt đối là 25.4 tỷ đồng, đạt mức tăng trưởng xấp xỉ 10%.
Bảng 12: Doanh thu bảo hiểm của PTI theo từng nghiệp vụ
(giai đoạn năm 2003 – 2007)
(Đơn vị: tỷ đồng VN)
Nghiệp vụ
2003
2004
2005
2006
2007
1. Tài sản - KT
101.64
117.22
129.97
111.7
112.2
2.Hàng hải
15.92
22.083
21.591
24
25.2
3.Phi hàng hải
38.18
67.013
110.83
131.8
155.5
(Nguồn: Công ty bảo hiểm Bưu Điện)
Doanh thu phí bảo hiểm của từng nghiệp vụ bảo hiểm tăng nhưng không đều nhau. Doanh thu phí bảo hiểm của sản phẩm thế mạnh là nhóm Tài sản - Kỹ thuật tuy chiếm tỷ trong lớn nhưng lượng tăng lại không đáng kể. Trong vài năm gần đây, doanh thu phí bảo hiểm của nhiệp vụ bảo hiểm phi hang hải tăng mạnh và vuợt qua cả doanh thu sản phẩm thế mạnh của doanh nghiệp.
2.4.1.2 Kết quả hoạt động nhận tái bảo hiểm
Bảng 13: Doanh thu bảo hiểm nhận tái qua các năm
(giai đoạn 2003-2007)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
1.Doanh thu phí
nhận tái BH (Tỷ đ)
11.922
18.620
20.598
11.432
8.100
2. Lượng tăng liên
hoàn (tỷ đồng)
7.661
6.698
1.978
-9.166
-3.332
3.Tốc độ tăng LH(%)
64.26
56.18
10.62
-44.499
-19.146
4. Tỷ trọng trong
DT phí (%)
7.11
8.28
7.28
4.11
2.69
(Nguồn: Công ty bảo hiêm Bưu Điện)
Nhìn vào bảng trên cho thấy rằng, doanh thu tái bảo hiểm tăng lên từ năm 2003 đến năm 2005, tuy nhiên đến năm 2006 và năm 2007 doanh thu tái bảo hiểm đã giảm đi nhiều. Trong các sản phẩm mà PTI nhận tái, sản phẩm chủ yếu là bảo hiểm con người và bảo hiểm cháy, trong đó doanh thu tái bảo hiểm từ sản phẩm bảo hiểm cháy luôn chiếm khoảng 50% tổng doanh thu nhân tái.
Tỷ trọng doanh thu nhận tái bảo hiểm trong tổng doanh thu phí của PTI chiếm tỷ lệ không cao và đã giảm đi nhiều trong vài năm gần đây. Trong năm 2007. hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm mà PTI nhận tái đều giảm đi nhiều so với năm 2006: nghiệp vụ bảo hiểm con người năm 2006 là 108 triệu đồng, đến năm 2007 chỉ có 7 triệu đồng; doanh thu nhận tái nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá năm 2006 là 5516 triệu đồng, đến năm 2007 chỉ có 1393 triệu đồng, hơn nữa trong năm 2007 vừa qua PTI đã không nhận tái được nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới Do đó, tỷ trong doanh thu nhận tái bảo hiểm trong tổng doanh phi phí đã giảm xuống từ 4.11% năm 2006 xuống còn 2.69% năm 2007.
2.4.1.3 Hoạt động đầu tư
Để duy trì tính thanh khoản cao và phát triển các dịch vụ bảo hiểm qua hệ thống mạng lưới của các ngân hàng, hoạt động đầu tư của công ty chủ yếu tập trung vào việc gửi tiền tại các tổ chức tín dụng.
Tính đến cuối năm 2007, tổng số tiền công ty sử dụng cho hoạt động đầu tư khoảng 341.7 tỷ đồng, trong đó tiền gửi tại các ngân hàng là 272.6 tỷ đồng, đầu tư bất động sản là 49,2 tỷ, và góp vốn vào các doanh nghiệp khác là 19.9 tỷ.
Kết quả đạt được từ hoạt động đầu tư của PTI trong những năm qua như sau:
Bảng 14: Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của PTI
(giai đoạn 2003 – 2007)
(Đơn vị: tỷ đồng VN)
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Lợi nhuận từ
hđ đầu tư
13.302
16.604
20.552
23.464
27.962
(Nguồn: Công ty bảo hiểm Bưu Điện)
Trong nhưng năm qua, doanh thu từ hoạt động đầu tư của công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu Điện liên tục tăng lên, đã góp phần đáng kể vào tổng doanh thu của toàn doanh nghiệp. Lợi nhuận từ hoạt động này luôn chiếm tỷ trong rất cao trong tổng doanh thu, giúp cho doanh nghiệp có thêm phần nguồn thu để trang trải các khoản chi phí, trả lương, thưởng cho cán bộ nhân viên
2.4.2. Thị phần của PTI qua các năm
Bảng 15: Thị phần của PTI trên thị trường bảo hiểm Việt Nam
(giai đoạn 2003 – 2007)
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Thị phần (%)
4.03
4.36
4.78
3.98
3.6
(Nguồn: Thị trườngBH Việt Nam)
Giai đoạn năm 2003 – 2005 thị phần của PTI có tăng nhưng không đáng kể. Trong hai năm gần đây, khi đất nước ta bắt đầu bước vào hội nhập, thị phần của doanh nghiệp này còn có xu hướng giảm đi so với năm 2003. Nhìn chung, trong những năm qua, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ PTI luôn có tỷ trong doanh thu trên thị trường là khá nhỏ bé, chỉ xấp xỉ 4%.
So sánh thị phần của công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu Điện với một số DNBH phi nhân thọ khác trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay:
Hình 1: Thị phần của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ năm 2007
8350 Tỷ đ
VN
Thị phần của PTI tuy đứng thứ 5 trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, sau Bảo Việt Việt Nam, Bảo Minh, PVI và Pjico, song khoảng cách đối với các doanh nghiệp này lại khá lớn, thị phần của PTI trên thị trường rất khiêm tốn. Sở dĩ như vậy là do trong những năm qua PTI đã quá tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm trong ngành Bưu Chính Viễn thông và một số cổ đông khác, khai thác ngoài ngành còn rất khiêm tốn. Do đó sau 10 năm hoạt động thị phần của PTI cũng không thay đổi nhiều, và chưa thực sự tạo được uy tín trên thị trường.
Trong các nghiệp vụ bảo hiểm mà PTI đã cung cấp trên thị trường, doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm tài sản - kỹ thuật luôn chiếm vị trí dẫn đầu. Thể hiện ở thị phần doanh thu nghiệp vụ này như sau:
Hình 2: Thị phần của các công ty bảo hiểm gốc trong nghiệp vụ kỹ thuật (2006)
37.224.352US$
Trong nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật, PTI xuất sắc chiếm vị trí thứ 4 trên thị trường ( sau Bảo Việt, Bảo Minh, PVI ) với thị phần là 9.08%.
Chương III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
PHI NHÂN THỌ PTI
3.1. Một số kiến nghị đối với nhà nước giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ.
Nước ta vừa mới ra nhập tổ chức thượng mại thế giới WTO, vì thế thị trường trong nước có rất nhiều biến đổi, cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải đối mặt với sự ra nhập của hàng loạt các công ty nước ngoài. Trong bối cảnh này, chính phủ cần phải có những chính sách hợp lý để tạo thuận lợi cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển một cách lành mạnh và ổn định nhất.
- Hoàn thiện về hệ thống pháp lý: Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, và gần đây nhất là Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành cuối năm 2006. Kèm theo đó là sự ra đời của các Nghị định mới ( Nghị định 45-46) để sửa đổi và bổ sung cho Nghị định 42- 43 đã cũ và không còn phù hợp. Đồng thời cũng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật, điều này tạo điều kiện cho người dân có thể hiểu luật pháp một cách rõ hơn và làm theo pháp luật. Tuy nhiên trong bối cảnh thị trường có rất nhiều biến đổi, cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, Nhà nước cần xem xét kỹ để có những sửa đổi pháp luật phù hợp với mục tiêu định hướng phát triển của thị trường, các văn bản pháp luật đòi hỏi phải tạo ra được sự bình đẳng giữa các doanh nghiêp với nhau, có như vậy cạnh tranh mới lành mạnh.
- Nhà nước cũng cần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật bằng cách là đơn giản hoá các thủ tục hành chính nói chung, và trong kinh doanh bảo hiểm nói riêng, như việc đăng kí kinh doanh, cấp giấy phéptạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Thưc hiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường: Nhà nước cần kiểm tra thật xat xao việt thực hiện pháp luật của các công ty bảo hiểm, ngoài việc ban hành các qui định chung về dự phòng nghiệp vụ, khả năng thanh toán,..thì Nhà nứơc cũng cần phảI giám sát việc thực thi những qui định này của các doanh nghiệp. Cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu tài chính và cách xác định các chỉ tiêu tài chính để tạo thuận lợi cho việc kiểm tra được chặt chẽ và chính xác nhất. Từ đó có thể phát hiện sớm những trường hợp có nguy cơ mất khả năng thanh toán để kịp thời can thiệp và điều chỉnh.
- Nhà nước thực hiện đúng các cam kết như đã kí khi ra nhập tổ chức thương mai thế giới, đồng thời luôn đẩy mạnh quan hệ hợp tác, giao lưu với các tổ chức quốc tế, từ đó tân dựng sự hỗ trợ về công nghệ, trao đổi kinh nghiêm thông tin. Tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên đựơc đi đào tạo về bảo hiểm tại các nước tiên tiến.
3.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp bảo hiểm PTI nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường
3.2.1. Xây dựng và phát triển thương hiệu
Thương hiệu là yếu tố rất quan trọng của một doanh nghiệp nói chung và đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm thì nó lại càng quan trọng. Bởi rằng sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ vô hình, do đó uy tín và hình ảnh của công ty sẽ tạo ra sự tin tưởng cho cho sự lựa chọn của khách hàng. Do đó mỗi doanh nghiệp bảo hiểm cần xây dựng chiến lược để phát triển thương hiệu của mình.
Để nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp thì trước hết doanh nghiệp cần phải quan tâm việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, với tất cả các khâu: cung cấp sản phẩm, khai thác hợp đồng, và sau khai thácDoanh nghiệp cung cấp cho khách hàng những sản phẩm tốt nhất với thái độ phục vụ tốt nhất, chú trọng tới khâu chăm sóc khách hàng, hướng dẫn khách hàng lựa chọn sản phẩm phù hợp, giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng sau khi kí kết hợp đồng. Đồng thời thường xuyên quan tâm, tạo mối quan hệ tốt với khách hàng, có thể bằng các cuộc điện thoại hay gửi thiếp chúc mừng vào các dịp lễ Tết, hướng dẫn khách hàng cách tốt nhất để phòng ngừa rủi ro.
Doanh nghiệp cần phải thường xuyên đổi mới trong khâu khiếu nại và giải quyết bồi thường, khâu này thường là mối quan tâm rất lớn đối với khách hàng, việc giải quyết nhanh chóng và dễ hiểu sẽ là lý do lớn để khách hàng tái tục hợp đồng với công ty.
Để xây dựng hình ảnh của công ty mình được tốt nhất trong mắt khách hàng, thì doanh nghiệp cũng cần chú trọng tới việc xây dựng một đội ngũ nhân viên làm việc chuyên nghiệp. Những nhân viên trong công ty nên có đồng phục riêng, ngoài ra cũng cần xây dựng văn hoá làm việc trong doanh nghiệp, làm việc một cách nghiệm túc và thái độ phục vụ khách hàng tận tình nhất.
Ngoài ra, các hoạt động marketing cũng làm một chiến lược lớn của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp quảng bá tên tuổi của mình. Ngày nay, công nghệ thông tin phát triển, công tác này lại càng có ý nghĩa lớn đối với mội doanh nghiệp, giúp hình ảnh cũng như sản phẩm của doanh nghiệp đến gần hơn với người dân hơn.
3.2.2. Phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm
Để nâng cao và củng cố vị thế của mình trên thị trường mỗi doanh nghiệp cần thường xuyên quan tâm đổi mới sản phẩm của mình. Hiện giờ PTI đang có khoảng gần 50 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, trước tiên doanh nghiệp cần hoàn thiện các sản phẩm hiện có trên thị trường, sau đó tiếp tục phát triển thêm các sản phẩm mới trên cơ sở đòi hỏi của thị trường, Điếu đó có nghĩa là doanh nghiệp cần nghiên cứu kĩ nhu cầu về sản phẩm của thị trường sau đó thiết kế những sản phẩm sao cho phù hợp, chứ không nên dựa vào ý muốn chủ quan của mình.
PTI cũng cần chú trọng vào sản phẩm bảo hiểm thế mạnh của mình là bảo hiểm kỹ thuật để khai thác một cách triệt để nhất. Ngoài ra, cũng nên có hướng phát triển các sản phẩm có tiềm năng lớn như bảo hiểm con người hay bảo hiểm hoả hoạn- là những nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc, do đó có khả năng doanh thu sẽ rất cao, PTI cần nắm bắt cơ hội này.
3.2.3.Thực hiện công tác thống kê và định phí phù hợp
Phí bảo hiểm đựơc coi là giá cả của sản phẩm bảo hiểm, do đó việc định phí cũng rất quan trọng, ảnh hưởng tới quyết định mua của khách hàng. Nếu nức phí cao quá thì sẽ không thu hút được khách hàng mua sản phẩm bảo hiểm, còn nếu thấp thì doanh nghiệp có nguy cơ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Do đó, để thực hiện tốt việc định phí hợp lý, các công ty bảo hiểm nói chung cần phải thống kê tât cả các số liệu liên quan : về tình hình tham gia, số vụ tổn thất, tình trạng sinh tử và cả các thông số về tình hình kinh tế. Khi định phí cần quan tâm tới các thông số về lãi suất, lạm phát để có sự điều chỉnh hợp lý.
Hiện nay, công tác đinh phí của PTI còn mang tính rất thụ động, do đó công ty cần mời chuyên gia giỏi để tư vấn cho công ty định phí một cách hợp lý và chính xác nhất.
3.2.4. Tăng cường hoạt động quảng cảo, truyền thông:
Hiện nay công nghệ thông tin ngày càng phát triển, các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng đa dang. Các công ty bảo hiểm nói chung, PTI nói riêng muốn bán được nhiều sản phẩm thì cần phải giới thiệu cho nhiều người được biết. Cách thức tỏ ra hữu hiệu nhất có lẽ là quảng cáo, có thể dán áp phíc, tớ rơi ...Triểnn khai các hoạt động PR tạo ra mối quan hệ “thông tin hai chiều” , để có được những thông tin phản hồi từ phía khách hàng, từ đó doanh nghiệp có thể có được những thay đổi và những chiến lược mới phù hợp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
3.2.5. Mở rộng các kênh phân phối
Hiện nay, kênh phân phối chủ yếu và tỏ ra hữu hiệu nhất vẫn là mạng lưới đại lý, do đó PTI cần củng cố và mở rộng hơn nữa hệ thống đại lý rộng khắp các tỉnh thành phố, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng ở mọi nơi trên đất nước. Ngoài ra,để tăng doanh thu và mở rộng thị phần doanh nghiệp cũng cần triển khai thêm các hình thức phân phối khác, đặc biệt là hình thức phân phối liên kết giữa bảo hiểm và ngân hàng. Sự liên kết này ngày càng tỏ ra ưu việt và có rất nhiều công ty bảo hiểm đã áp dụng hình thức phân phối này, do đó PTI cũng nên quan tâm và phát triển hình thức này để đa dạng hoá các hình thức phân phối sản phẩm của mình.
VNPT là một cổ đông lớn của công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện, vì thế PTI cũng nên mở rộng và phát triển kênh phân phối sản phẩm qua mạng bưu cục của VNPT. Mạng lưới bưu cục của VNPT là rất lớn, phủ kín khắp các tỉnh thành của cả nước, việc phân phối sản phẩm qua các bưu cục này sẽ giúp PTI có thể khai thác thêm được rất nhiều hợp đồng ở nhiều vùng miền khác nhau, mà còn tiết kiệm được chi phí khai thác. Điều này mạng ý nghĩa rất lớn cho chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, vì thế PTI cânf chú trọng hơn nữa tới hình thức phân phối này.
Công ty cần thường xuyên mở các chương trình đào tạo đại lý và nhân viên bán hàng, để họ hoạt động chuyên nghiệp và và có trách nhiệm hơn. Đồng thời cần xây dựng chế độ khen thưởng để khuyến khích đại lý làm việc hiệu quả hơn.
3.2.6. Tăng tiềm lực tài chính của doanh nghiệp
Muốn nâng cao tiềm lực về tài chính thì trước hết doanh nghiệp cần tăng nguồn vốn điều lệ của mình lên, mục tiêu ban đầu là đạt tới mức vốn pháp định mà nhà nước đã qui định. Doanh nghiệp cổ phần bảo hiểm Bưu Điện có thể sử dụng một số biện pháp nhằm tăng vốn của mình lên bằng cách đó là:
- Kêu gọi vốn góp thêm từ các cổ đông: PTI được thành lập từ 7 cổ đông lớn, do đó tiềm lực về tài chính của họ là khá cao, muốn tăng nguồn vốn của công ty thì trước tiên nên kêu gọi vốn góp từ các cổ đông này.
- Phát hành cổ phiếu ra thị trường để huy động vốn: nguồn vốn này được tập hợp lại từ những nguồn vốn nhàn rỗi nhỏ của các tầng lớp dân cư, tạo thành một nguồn vốn lớn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nâng cao được khả năng tài chính của mình. Phương thức huy động vốn này tỏ ra là một phương thức hết sức hữu hiệu mà hiện tại có rất nhiều doanh nghiệp đang sử dụng.
- Doanh nghiệp cũng có thể gia tăng nguồn vốn của mình bắng cách bổ sung từ chính nguồn lợi nhuận của doanh nghiệp: hàng tháng doanh nghiệp sẽ có những khoản lãi từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn lợi nhuận này thay vì chia có các cổ đông, công ty sẽ giữ lại (có thể một phần lớn) để bổ sung vào nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn lợi nhuận này cũng góp phần làm tăng tiềm lực về tài chính cho doanh nghiệp.
- Ngoài ra, công ty cũng có thể trả cổ tức bằng cổ phiếu: thay vì trả bằng tiền thì công ty có thể phát hành thêm một số cổ phiếu để trả cổ tức , còn số tiền đáng lẽ dùng được trả cổ tức sẽ được giữ lại để bổ sung vào nguồn vốn cho doanh nghiệp.
Trong giai đoạn 2008 – 2010, PTI đang có kế hoạch tăng vốn điều lệ của mình lên 500 tỷ đồng Việt Nam, do đó công ty có thể lựa chọn một số hoặc tất cả các biện pháp trên để thực hiện mục tiêu tăng vốn của mình. Tăng đựơc vốn lên không những giúp doanh nghiệp tăng khả năng về tiềm lực tài chính, doanh nghiệp có thể nhận các hợp đồng có giá trị lớn, mà còn giúp tạo sự tin tưởng hơn cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm ở công ty này .
3.2.7. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và đào tạo nguồn nhân lực
Trong mỗi doanh nghiệp, dù hoạt đông sản xuất hay dịch vụ thì nguồn nhân lực con người luôn là yếu tố cơ bản và quan trong để tạo nên sự thành công trong công việc. Một doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ, nhân viên giỏi sẽ giúp doanh nghiệp đó có những bước tiến trong công việc, đương đầu vượt qua những thử thách một cách dễ dàng, chiến thắng đối thủ cạnh tranhHơn nữa, nếu không có con người thị mọi nguồn lực khác của công ty sẽ trở nên vô nghĩa. Vì thế, mỗi doanh nghiệp nói chung và PTI nói riêng cần phải có những chiến lược riêng đề phát triển nguồn lực cho mình, nhằm thúc đẩy được mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đi lên nhanh nhất.
- Doanh nghiệp cần hoàn thiện bộ máy tổ chức: Bộ máy quản lý của doanh nghiệp cần được tổ chức một cách đơn giản những phải đầy đủ nhất, đảm bảo sự rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bộ phận, đồng thời cũng cần có sự liên hệ giữa các bộ phần chức năng với nhau.
- Chú trong đặc biệt tới công tác đào tạo nguồn nhân lự c: PTI cần có có các chương trình đào tạo một cách tập trung, tuy nhiên đào tạo lại cần theo các hướng khác nhau đối với từng đối tượng . Đối với bộ phận quản lý thì đào tạo những kiến thức về hoạt động quản lý, kích thích sáng tạo , làm việc độc lập trong công việc..Đối với bộ phận khai thác cần đào tạo về trình độ chuyên môn, và kỹ năng ứng xử, đối đápNgoài ra công ty cũng nên cử một số nhân viên đI học tập ở nước ngoài để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp.
- Thường xuyên theo dõi sát xao bộ máy tổ chức để biết được tình trạng thiếu thừa nhân lực của từng bộ phận để tuyển dụng. Việc tuyển dụng nhân lực phải được thực hiện một cách công khai và minh bạch. Khi tiến hành tuyển dụng công ty nên đưa tin lên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút được nhiều người đến tham dự, quá trình thi phải đảm bảo chọn được những người thực sự giỏi để cống hiến cho công ty.
- Công tác quản lý nguồn nhân lực cũng cần được quan tâm hơn nữa:
+ Cần xây dựng chính sách lương bổng hợp lý, vừa đảm bảo khả năng chi trả của doanh nghiệp đồng thời giữ chân và thu hút đựơc nhân lực có tài.
+ Có cơ chế thưởng phạt rõ ràng: người làm việc chăm chỉ, có thành tích cao sẽ nhận được những phần thưởng từ công ty( có thể la tiền thưởng, quà tặng hay được thăng chức..), đồng thời cũng có những biện pháp đối với những người không tuân thủ các qui định của công ty. Điều này sẽ khuyến khích cán bộ nhân viện làm việc nhiệt tình và có trách nhiệm với công việc hơn .
- Tạo môi trường làm việc tốt nhất: khi nhân viên được làm việc trong môi trường tốt, có tính chuyên nghiệp, văn hóa làm việc riêng, thì họ sẽ có cảm giác đựoc coi trọng và hứng thú hơn với công việc, mỗi ngày đi làm sẽ không còn là những mệt mọi nữa, vì thế họ sẽ làm việc chăm chỉ và cống hiến nhiều hơn cho công ty.
3.2.8. Hiện đại hoá bằng ứng dụng công nghệ thông tin
Hiện nay công nghệ thông tin đang rất phát triển, nó ngày càng giúp ích nhiều hơn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và PTI nói riêng thì cần ứng dụng công nghệ thông tin trong cả hai khâu: quản lý và khai thác.
- Ứng dụng trong khâu quản lý :
+ Cần xây dựng trang Web nội bộ để cung cấp thông tin cho các cán bộ nhân viên trong công ty, đồng thời cũng tạo ra mối liên hệ gắn kết giữa các bộ phận trong công ty. Việc này cũng giúp cho thông tin được truyền đi một cách nhanh chóng và chính xác mà lại không mất nhiều thời gian và công sức.
+ Việc quản lý nhân lực và các tài liệu trên máy tính cũng hết sức tiện lợi, người dừng có thể tra cứu và tìm những thông tin cần thiết một cách nhanh nhất.
+ Có thể sử dụng một số phần mềm máy tính rất hữu ích: như phần mềm tin học hiện đại đối với việc thông kê rủi ro, tổn thất trong các nghiệp vụ bảo hiểm. Hiện nay, các công ty bảo hiểm đang lo lắng về tình trạng trục lợi bảo hiểm, tình trạng này diễn ra ngày một nhiều, và một trong những “ chiêu ” hay đựơc sử dụng đó là thay đổi một số thông tin về ngày tháng, đó là khi kí kết hợp đồng do thông tin truyền về công ty quá chậm, nhân viên bán bảo hiểm có thể cấu kết với khách hàng để thay đổi một số thông tin quan trọng. Vì thế doanh nghiệp bảo hiểm cần có một phần mềm máy tính riêng, có tính bao quát cao, để ở bất cứ tại cơ sở nào của công ty trên mọi miền đất nước, khi có bất cứ hợp đồng nào được kí kết hoặc là sự kiện gì xảy ra với đối tượng bảo hiểm, thông tin được đưa lên nhanh chóng sẽ được truyền đI và nằm trong tầm kiểm soát của trung tâm quản lý “đầu não”. Điều này sẽ giúp làm giảm tình trạng truc lợi trong bảo hiểm.
+ Công ty cũng nên dùng ứng dụng quản lý nhân viên làm việc tại văn phòng: đó là hệ thống nắp đặt tự động, cần thẻ ra vào, như vậy sẽ quản lý được nhân viên ra vào trong văn phòng, đồng thời cũng đảm bảo độ an toàn đối với tài sản của công ty.
- Ứng dụng trong khâu khai thác:
Công nghệ thông tin có đóng vai trò quan trọng trong khâu quan lý, ngoài ra nó cũng góp phần giúp ích trong khâu khai thác. Hiện nay một số công ty đang có hướng khai thác, kí kết hợp đồng qua internet, điện thoại. Việc các nhân viện liên hệ gặp gỡ khách hàng qua điện thoại, hoặc thường xuyên gọi điện hỏi thăm, chúc mừng vào các dịp lễ Tết sẽ tạo thuận lợi hơn trong việc khai thác hợp đồng.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty là rất quan trong, do đó doanh nghiệp cần có phả đầu tư nhiều hơn nữa cho công nghệ thông tin để phục vụ cho công tác quản lý. Đồng thời cần hỗ trợ chi phí mua sắm các thiết bị công nghệ cho các đại lý, chi nhánh để phục vụ cho việc khai thác hợp đồng.
3.2.9. Tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vốn
Các doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi khai thác đựơc để đem đầu tư sinh lời, hiện nay doanh nghiệp bảo hiểm PTI chủ yếu sử dụng nguồn vốn này đem gửi ngân hàng và mua trái phiếu Chính Phủ, hai hình thức này tuy có độ an toàn cao nhưng lại có khả năng sinh lời kém, do đó chưa đem lại những lợi nhuận lớn đựơc cho công ty, vì thế để cho hoật động đầu tư thực sự góp phần nâng cao năng lực tài chính một cách đáng kể cho công ty thì doanh nghiệp cần phải nghiên cứu phương thức đầu tư hợp lý hơn:
- Doanh nghiệp cần có chương trình quản lý nguồn vốn: Nguồn vốn của công ty được hình thành chủ yếu bởi phí khai thác được từ các hợp đồng bảo hiểm, lượng tiền này thường là rất lớn và có tính ổn định, tuy nhiên doanh nghiệp không thể sử dụng hết nó mà phải giành phần lớn để chi trả và bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do đó, doanh nghiệp cần phải xây dựng chương trình để quản lý việc sử dụng ngân quỹ này một cách hợp lý và hiệu quả. Công ty có hệ thống chi nhánh rộng khắp, tại mỗi chi nhánh lượng tiền tập trung là khá lớn, doanh nghiệp cần qui định một tỷ lệ giữ lại nhất định, phần tiền còn lại sẽ được chuyển nhanh chóng tới tổng công ty để thực hiện các kế hoạch đầu tư tiếp theo. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần chú ý cân nhắc, nếu chi nhánh nào đủ mạnh, có đủ năng lực thì có thể uỷ quyền giao cho một lượng vốn nhất định để chi nhánh đó thực hiện đầu tư sinh lời.
- Doanh nghiệp cần xây dựng các danh mục đầu tư hợp lý : Nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động đầu tư là rất lớn do đó cần phải nghiên cứu thật kỹ các hình thức đầu tư để sao cho vừa đảm bảo độ an toàn lại có tỷ suất lợi nhuân cao. Nguồn tiền này còn được dùng để chi trả, bồi thường cho khách hàng do đó cần phải đảm bảo độ an toàn, như hình thức đầu tư trái phiếu, gửi ngân hàngNgoài ra doanh nghiệp cũng cần lựa chọn thêm một số hình thức đầu tư khác để sinh lợi nhuận cao, tăng thu nhập cho công ty như tham ra vào thị trường chứng khoán để mua cổ phiếu của các công ty khác, góp vốn liên doanh, liên kết, cho vayDoanh nghiệp cũng cần cân nhắc lựa chọn các hình thức đầu tư ngắn hạn, dài hạn khác nhau để đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết.
- Xây dựng chương trình đánh giá rủi ro của các dự án đầu tư : Trước khi thực hiện đầu tư công ty nên có chương trình đánh giá mức độ rủi ro dự án một cách nghiêm túc và kỹ lưỡng, từ đó có những quyết định nghiêm túc là có đầu tư hay không, hoặc nếu đầu tư thì với lượng vốn là bao nhiêu, có như vậy mới tránh được những thất bại trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
- Đào tạo chuyên môn cho nhân sự phòng Kế hoạch - đầu tư : trình độ chuyên môn của cán bộ thực hiện đầu tư quyết định đến hiệu quả hoạt động đầu tư , do đó công ty cần có những cán bộ giỏi về chuyên môn, am hiểu các lĩnh vực đầu tư, các luật lệ,tập quấn quốc tế về hoạt động đầu tưtừ đó tăng khả năng thành công của hoạt động đầu tư và nhạy bén hơn trong việc xử lý các tình huống xáu xảy ra trong quá trình đầu tư. Doanh nghiệp cung cần thường xuyên bổ sung, tuyển dụng thêm nhân sự cho phòng Kế hoạch đầu tư khi cần thiết, đồng thời trang bị đầy dủ các máy móc thiết bị phục vụ cho công tác phân tích, thẩm định đánh giá các dự án đầu tư.
- Công ty cũng cần theo dõi sát xao quá tình hình đầu tư trên thị trường để có những điều chỉnh phù hợp trong từng thời kỳ.Chẳng hạn như những biến động về lãi suất hay lạm phát cũng sẽ khiến doanh nghiệp thay đổi chiến lược đầu tư của mình, giúp doanh nghiệp có thể lựa chọn những hình thức đầu tư hợp lý nhất trong từng giai đoạn để tăng hiệu quả hoạt động đầu tư.
Kết luận
Trong những năm qua, công ty Cổ phần bảo hiểm Bưu Điện cũng đã đạt được rất nhiều thành công trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Hiện nay, PTI đang đứng ở vị trí thứ 5 trên thị trường trong lĩnh vực bảo hiểm đang kinh doanh, ngoài việc phát huy thế mạnh là nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật (luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng doanh thu của thị trường), DNBH PTI cũng đã phát triển thêm một số nghiệp vụ bảo hiểm khác và đạt được mức doanh thu rất cao. Tuy nhiên, DNBH PTI vẫn chưa thực sự tạo được niềm tin từ phía khách hàng, nhiều người dân còn cảm thấy rất mới mẻ khi nghe tới tên doanh nghiệp này. Hơn nữa trong bối cảnh đất nước ta đang hội nhập mạnh mẽ, có rất nhiều DNBH ra nhập thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, nguy cơ bị thu hẹp về thị phần là rất có thể xảy ra. Vì thế, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường là một mục tiêu mà doanh nghiệp cần phải hướng tới.
Để nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập hiện nay, PTI cần phải hoạch định cho mình chiến lược kinh doanh cụ thể. Trong thời gian qua DN cũng đã thưc hiện một số biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường bảo hiểm như: tăng tiềm lực tài chính, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, mở rộng, đa dạng hoá kênh phân phốituy nhiên, hiệu quả vẫn chưa cao. Vì thế trong thời gian tới, PTI cần phải chú trọng hơn nữa trong chiến lược kinh doanh của mình, để có những chính sách cạnh tranh phù hợp, khẳng định được vị thế và hình ảnh của mình, đứng vững được trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đang hết sức sôi động như hiện nay.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế bảo hiểm - PGS. TS Nguyễn Văn Định - Trường đại học Kinh tế Quốc Dân
Giáo trình Quản trị Kinh doanh Bảo hiểm – PGS. TS Nguyễn Văn Định - Trường đại học Kinh tế Quốc dân
Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam 2007, 2006
Tạp trí bảo hiểm năm 2006 và 2007
Luật kinh doanh bảo hiểm
Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành – Biên soạn: TS. David Bland.
Báo cáo tài chính của PTI năm 2005, 2006, 2007.
Các trang Web:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5930.doc