Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh Nghiệp bảo hiểm Phi nhân thọ PTI

I. Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ 1. Khái niệm về kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ Bảo hiểm phi nhân thọ vẫn đ¬ợc sử dụng nh¬ một khái niệm tổng hợp mang ý nghĩa hàm chứa tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại (bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự) và các nghiệp vụ bảo hiểm con ng¬ời không thuộc bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm bệnh tật, ốm đau ). Theo luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam giải thích về thuật ngữ bảo hiểm phi nhân thọ nh¬ sau: “Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ”. 2.Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ 2.1. Hoạt động kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm trực tiếp Đây là hoạt động cơ bản, là cơ sở cho sự tồn tại của DNBH. Hoạt động này là một quá trình liên hoàn từ khâu cấp đơn cho ng¬ời tham gia bảo hiểm, thu phí bảo hiểm, theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm, giám định tổn thất và giải quyết bồi th¬ờng bảo hiểm. Doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc theo một số nghiệp vụ, từ đó thu đ¬ợc phí bảo hiểm, và thực hiện chức năng chính của mình đó là tạo lập quỹ tiền tệ từ sự đóng góp của số đông để bù đắp những thiệt hại và tổn thất cho một số ít cá nhân, góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống của ng¬ời tham gia bảo hiểm. Quy trình thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc bắt đầu từ việc doanh nghiệp bảo hiểm thông qua mạng l¬ới đại lý hay các nhân viên khai thác chào bán các dịch vụ bảo hiểm tới từng đối t¬ợng khách hàng có nhu cầu. Khi hai bên đã thống nhất đ¬ợc các điều kiện cơ bản để có thể đi tới ký kết hợp đồng bảo hiểm, thì ng¬ời có nhu cầu tham gia bảo hiểm sẽ gửi tới doanh nghiệp bảo hiểm một đề nghị hay yêu cầu đ¬ợc cung cấp dịch vụ bảo hiểm, trên cơ sở đó, hợp đồng bảo hiểm đ¬ợc thiết lập và kí kết. Hợp đồng bảo hiểm là bằng chứng pháp lý thể hiện sự xác lập quyền và nghĩa vụ giữa hai bên: công ty bảo hiểm và ng¬ời tham gia bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và DNBH, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, DNBH phải trả tiền cho ng¬ời thụ h¬ởng bảo hiểm hoặc bồi th¬ờng cho ng¬ời đ¬ợc bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Theo các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm (các điều 17, Điều 19 và Điều 20), DNBH có quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm cơ bản sau: - Nghĩa vụ bồi th¬ờng hoặc trả tiền bảo hiểm kịp thời cho ng¬ời đ¬ợc bảo hiểm hoặc ng¬ời thụ h¬ởng. Luật kinh doanh bảo hiểm cũng qui định rõ nêú hai bên trong hợp đồng không có thoả thuận cụ thể về thời hạn này thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi th¬ờng trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đ¬ợc đầy đủ hồ sơ khiếu nại hợp lệ về yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi th¬ờng (Điều 29). - DNBH có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm, h¬ớng dẫn giải thích về mọi thủ tục cần thiết để ng¬ời tham gia bảo hiểm lập hồ sơ khiếu nại đòi tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. - DNBH cũng có những quyền lợi cụ thể t¬ơng ứng với trách nhiệm đã nhận, đó là quỳên thu phí bảo hiểm, quyền đề nghị đ¬ợc sửa đổi một số điều kiện, điều khoản của hợp đồng, chấm dứt hợp đồng ,nếu công ty bảo hiểm đã thực hiện việc bồi th¬ờng thì đ¬ợc phép thế quyền ng¬ời đ¬ợc bảo hiểm để yêu cầu ng¬ời thứ ba hoàn lại toàn bộ hoặc một phần số tiền đã bồi th¬ờng do lỗi của ng¬ời thứ ba đó gây ra.

docx65 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1817 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh Nghiệp bảo hiểm Phi nhân thọ PTI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngừơi lao động làm trong ngành bảo hiểm ngày một tăng lên. năm 1993 chi có khoảng 1000 người, năm 1996 có 7000 người, vấnố lao động đã liên tục tăng lên hàng năm, cho đến nay con số nay lên tới gần 200.000 người. Hiện nay, có tình trạng “chạy máu chất xám đang diễn ra phổ biến, những lao động trong nganh bảo hiểm đang có xu hướng bỏ doanh nghiệp quốc doanh để chạy sang làm việc cho doanh nghiệp liên doanh, nước ngoài, doanh nghiệp cổ phần. Điều này cũng dẫn tới sự cạnh tranh về nguồn lực con người, một số doanh nghiệp đã tìm cách giữ chân nhân viên của mình bằng việc áp dung chính sách lương bổng, điều kiện làm việc, cơ hội thăng tiến… Các doanh nghiệp bảo hiểm cũng cần chú trọng tới vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên. Hiện nay các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cũng đã quan tâm nhiều tới vấn đề nâng cao trình độ cho lao động của mình, điển hình là Bảo Việt thường xuyên có các chương trình đào tạo tại trung tâm trên Tổng công ty, điều này giúp cho nhân viên nâng cao trình độ nghiệp vụ và khả năng quản lý của mình, để họ làm việc một cách chuyên nghiệp và hiệu quả hơn. 4. Kinh nghiêm hoạt động Kinh nghiệm hoạt đông của các doanh nghiệm được xem xét chủ yếu dựa vào hoạt động khai thác hợp sản phẩm. Nhận biết được nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng luôn có gắng đa dạng hoá các sản phẩm của mình để bắt kịp với sự thay đổi đó. Năm 1993 chỉ có 22 sản phẩm, đến năm 2007 số lượng sản phẩm bảo hiểm đến nay đã lên tới gần 700 sản phẩm, trong đó có 550 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ các loại, phù hợp với nhu cầu khác nhau của từng khách hàng. Các sản phẩm bảo hiểm có sự kết hợp nhiều quyền lợi khác nhau của khách hàng, do đó khách hàng có thể lựa chọn cho mình sản phẩm phù hợp để tận dụng được nhiều lợi ích nhất. Nhiều DNBH phi nhân thọ đã cung cấo nhiều sản phâm bảo hiểm mới khác độc đáo như sản phẩm bảo hiểm cá nhân cho người sử dụng thẻ ATM, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm chăn nuôi... Bên cạnh đó hoạt động đầu tư, nghiên cứu thiết kế sản phẩm của một số doanh nghiệp chưa được chú trọng đúng mức, mặt khác do tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh trên thị trường trong thời gian vừa qua đã khiến các doanh nghiệp mở rộng điều kiện, điều khoản bảo hiểm quá mức thay vì nghiên cứu đưa ra những sản phẩm bảo hiểm mới. Hơn nữa, những sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ có mặt trên thị trường Việt Nam hiện nay thường chỉ tập trung vào những sản phẩm bảo hiểm truyền thống như bảo hiểm tài sản, bảo hiểm xe cơ giới, …Trong khi đó đã bỏ qua những sản phẩm có tiềm năng rất lớn như bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp trong lĩnh vực thiết kế, xây dung, y tế, tư vấn pháp luật. Ngoài ra, để thuận tiện hơn trong việc khai thác, các doanh nghiệp đã liên tục mở thêm các chi nhánh, văn phòng ở khắp mọi miền tổ quốc. Đặc biệt là hệ thống đại lý được coi là kênh phân phối vô cùng hữu hiệu, Những đại lý có cả mặt từ các thàng phố lớn cho tới các địa phương xa xôi, nhằm tiếp cận, phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng và kịp thời nhất. Ngoài kênh phân phối qua các đại lý, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam muốn nâng cao thị phần khai thác thêm nhiều hợp đồng hơn nữa, còn phân phối qua một số hình thức khác.Hiện hay hình thức phân phối bảo hiểm kết hợp với ngân hàng cũng tỏ ra hết sức hữu hiệu, và sự kết hợp này đã tạo ra lợi ích cho cả hai bên. Bên cạnh việc đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp wngs nhu cầu đa dạng của khách hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cũng tăng chú trọng tới chính sác quảng cáo, dịch vụ căm sóc khách hàng, khuyến mại nhắm nâng cao nhận thức của cộng đồng về bảo hiểm, giúp cho đối tượng và phạm vi của dịch vụ bảo hiểm phi phân thọ ngày càng đựoc mở rộng hơn. III. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm PTI 1. Năng lực tài chính Khả năng về vốn Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện PTI được thành lập năm 1998, với danh sách cổ đông và mức vốn góp như sau: Bảng 3: Dánh sách cổ đông của PTI ( Đơn vị: Triệu đồng VN ) Vốn điều lệ 70.000 I Cổ đông pháp nhân 48.300 1 Tập đoàn Bưu chính Viễn tthông Việt Nam- VNPT Group 28.700 2 Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh 7.000 3 Tổng công ty tái bảo hiểm Quốc Gia Việt Nam- Vinare 5.600 4 Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam- VIB 2.800 5 Tổng công ty xây dựng Hà Nội 1.400 6 Tổng công ty XNK Xây dựng Việt Nam- Vinaconex 1.400 7 Công ty CPTM Bưu chính Viễn thông- Cokyvina 1.400 II Cổ đông thể nhân 21.700 Các doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian qua, đã liên tục gia tăng vốn điều lệ và nguồn vốn chủ sở hữu của mình lên mục đích là tăng năng lực tài chính, năng lực kinh doanh của công ty. Trong thời gian qua nguồn vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu của PTI cũng đã liên tục được tăng lên. Vốn điều lệ của PTI năm 2001 chỉ là 64 tỷ đồng, năm 2002 là 70 tỷ đồng, đến năm 2007 đã tăng lên con số là 105 tỷ đồng, và dự tính trong năm 2008 sẽ tăng mức vốn điều lệ lên là 150tỷ đồng. Tuy mức vốn của PTI đã đựơc tăng lên khá nhiều nhưng so với qui định mới về mức vốn pháp định ( đối với công ty bảo hiểm phi nhân thọ là 300 tỷ đồng) thì vẫn còn thấp hơn rất nhiều. So với một số công ty bảo hiểm phi nhân thọ khác như Bảo Việt hiện nay mức vốn điều lệ là 900 tỷ, Bảo Minh là 1.100 tỷ, Pjico là 140 tỷ đồng, hay công ty cổ phần Viễn Đông (thành lập muôn hơn) cũng có vốn điều lệ là 200 tỷ đồng, như vậy PTI hiện nay có mức vốn thấp trên thi trường. Năm 2007 vừa qua, PTI cũng đã tham gia phát hành cổ phiếu ra thi trường với số lượng là 19.500.000 cổ phiếu, tổng giá trị là 195.000.000.000 đông.Việc phát hành cổ phiếu ra thị trường được coi là một kênh huy động vốn hữu hiệu cho doanh nghiêp, và PTI cũng đã dùng hình thức này để tăng tiềm lực về tài chính cho mình. Bên cạnh đó nguồn vốn chủ sở hữu của PTI cũng tăng lên hàng năm : năm 2001 là 75 tỷ đồng, năm 2002 là 85 tỷ đồng, năm 2003 là 107 tỷ đồng, năm 2004 là 118 tỷ đồng và đến năm 2007 đã tăng lên là 126 tỷ đồng. Nguồn vốn chủ sở hữu tăng cũng góp phần nâng cao năng lực tài chính, năng lực kinh doanh của công ty lên. Mặc dù công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện PTI đã tăng vốn điều lệ của mình lên ,nhưng chỉ với nghiệp vụ bảo hiểm thông thường( gồm các nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn, các sự cố đối với công trình xây dung của Tập đoàn VNPT, kinh doanh tái bảo hiểm phi nhân thọ, nhận và nhượng tái bảo hiểm liên quan đến các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ), quản lý quỹ và đầu tư vốn…thì mức vốn điều lệ nếu tăng tới mức 150 tỷ đồng vào năm 2008 vẫn quá là nhỏ bé. Đó là chưa kể đến bảo hiểm các hệ thống máy móc- thiết bị kỹ thuật hiện đại, sử dụng công nghệ cập nhật trình độ thế giới trong lĩnh vực Công nghệ thông tin, Viễn thông, bảo hiểm Vệ tinh Viễn thông. Như vậy việc chú trọng tăng vốn điều lệ của công ty này là yếu tố hết sức quan trong ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời gian tới. Trích lập dự phòng Bảo hiểm có chu trình kinh doanh đảo ngược, có nghĩa là khi hợp đồng được kí kết thì khách hàng sẽ phải trả cho doanh nghiệp một khoản tiển đó là phí bảo hiểm( đựơc gọi là giá cả của sản phẩm bảo hiểm), còn doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cam kết chi trả hay bồi thường cho họ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra đã được thoả thuận trong hợp đồng. Như vậy doanh nghiệp bảo hiểm sẽ luôn có trong tay một nguồn vốn nhàn rôĩ rất lớn và tương đối ổn định, một phần lớn đó sẽ trích ra thành một quỹ gọi là quỹ dự phòng nghiệp vụ, và doanh nghiệp đựoc phép dùng nguồn vốn này để đầu tư sinh lời. Bảng 4:Tổng quỹ dự phòng của PTI (2003-2007) ( Đơn vị: tỷ đồng VN) Năm 2003 2004 2005 2006 2007 Mức dự phòng 152.257 217.303 284.897 310.386 318.878 Quỹ dự phòng nghiệp vụ của PTI cũng tăng lên hàng năm : năm 2001 tổng dự phòng nghiệp vụ của PTI chỉ là 72,8 tỷ đồng, năm 2003 là 152.257 tỷ đồng, và đến năm 2007 đã tăng lên con số là 318.878 tỷ đồng. Trích lập dự phòng nghiệp vụ của PTI đựoc thực hiện như sau: - Dự phòng phí chưa được hưởng: mức trích lập phí đối với các loại hình bảo hiểm vận chuyển hàng hoá đựoc tính bằng 25% mức phí giữ lại trong năm, và bàng 50% mức giữ lại trong năm đối với các loại hình bảo hiểm khác - Dự phòng dao động lớn: được áp dụng thống nhất đối với tất cả các loại hình nghiệp vụ là 5% phí giữ lại và đựoc trích đến khi bằng 100% phí giữ lại. Riêng năm 2005, công ty thực hiện trích dự phòng giao động lớn tới 12%. - Dự phòng bồi thường đựơc công ty thực hiện trích lập theo phương pháp từng hồ sơ đối với các tổn thất thuọcc phạm vi bảo hiểm khách hàng đã khiếu nại nhưng chưa được giải quyết. Mức trích lập dựa trên ước tínhtổn thất phát sinh thuộc trách nhiệm bảo hiểm nhưng khách hàng chưa thông báo. do công ty đánh giá các số liệu về dự phòng IBRN Việc trích lập dự phòng như trên đã bổ sung vào quỹ dự phòng hàng năm của PTI gần 25 tỷ đồng. Đến năm 2007,quỹ dự phòng nghiệp vụ của công ty đã đạt trên 318 tỷ đồng, nhờ đó đảm bảo an toàn cao trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tạo ra nguồn vốn nhàn rỗi lớn cho hoạt động đầu tư tài chính của PTI. Đây là yếu tố tài chính quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho PTI ở những năm tiếp theo. 2.Thị phần Thị phần là một chỉ tiêu tổng hợp quan trọng phản ánh năng lực cạnh tranh về cung cấp dịch vụ của một DNBH trên thị trường. Do đó các doanh nghiệp đều cần phải quan tâm đến vấn đề này, khi thị phần của doanh nghiệp giảm xuống cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đó đã bị suy giảm về khả năng cạnh tranh. Vì thế để khẳng định vị thế của mình trên thị trường, các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng cần phải luôn duy trì đựơc thị phần của mình trên thị trường. Sau đây là thị phần của một số doanh nghiệp đứng đầu thị trường bảo hiểm phi nhân thọ qua một số năm. Bảng 5: Thị phần của PTI và một số doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ( 2005- 2007 ) Tên DN Doanh ( Tỷ đ) Thu Thị phần ( %) 2005 2006 2007 2005 2006 2007 Bảo Việt 2.138 2.246 2.578 38.56 32.08 30.08 Bảo Minh 1.204 1.386 1.711 21.76 19.8 20.46 PVI 691 1.164 1.706 12.49 16.63 20.43 Pjico 740 670 1.100 13.37 9.57 13.17 PTI 262 297 301 4.78 3.98 3.6 DN PNT khác 500 1.237 954 9.04 17.94 12.26 Tổng cộng 5.535 7000 8350 100% 100% 100% PTI trong những năm qua luôn đứng thứ 5 trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam, sau các doanh nghiệp Bảo Việt, Bảo Minh, PVI và Pjico. Mặc dù PTI đựoc đứng trong Top 5 doanh nghiệp có doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ lớn nhất, nhưng mức chênh lệch đối với doanh nghiệp đứng đầu là Bảo Việt lại rất lớn( chỉ gần bằng 1/8 lần) Sau đây là sơ đồ về thị phần của một số doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường Việt Nam năm 2007. Thị phần của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ năm 2007 8350 Tỷđ VN Thị phần của PTI tuy đứng thứ 5 trên thị trường bảo hiểm song lại ở mức rất khiếm tốn, sở dĩ như vậy là do trong những năm qua PTI đã quá tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm trong ngành Bưu Chính Viễn thông và một số cổ đông khác, khai thác ngoài ngành còn rất khiêm tốn. Do đó sau 10 năm hoạt động thị phần của PTI cũng không thay đổi nhiều, và chưa thực sự tạo đựoc uy tín trên thị trường. Trong các nghiệp vụ bảo hiểm mà PTI đã cung cấp trên thị trường, doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm tài sản kỹ thuật luôn chiếm vị trí dẫn đầu. Thể hiện ở thị phần doanh thu nghiệp vụ này như sau: Thị phần của các công ty bảo hiểm gốc trong nghiệp vụ kỹ thuật(2006) 37.224.352US$ Trong nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật, PTI xuất sắc chiếm vị trí thứ 4 trên thị trường ( sau Bảo Việt, Bảo Minh, PVI ) với thị phần là 9.08%. 3. Doanh thu, tốc độ tăng trưởng doanh thu Doanh thu bảo hiểm gốc qua các năm( 2003-2007) Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Doanh thu(tỷ) 155.754 206.427 262.295 267.5 292.9 Mức tăng (tỷ) 46.477 50.673 55.868 5.205 25.4 % tăng trưởng 29.84 32.53 27.06 1.984 9.495 Nhìn vào bảng ta thấy doanh thu phí bảo hiểm gốc của công ty năm sau đều tăng hơn năm trước, đặc biệt là năm 2004 với mức tăng trưởng cao nhất là 32.53%. Doanh thu phí bảo hiểm gốc năm 2006 có tăng nhưng rất ít, với mức tăng thấp ( 1.984% ). Tổng doanh thu bảo hiểm gốc đã chững lại ở năm 2006, và đến năm 2007 đã băt đã bắt đàu bắt nhịp trở lại với mức tăng tuyệt đối là 25.4 tỷ đồng, đạt mức tăng trưởng xấp xỉ 10%. Doanh thu bảo hiểm nhận tái qua các năm( 2003-2007) Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Doanh thu nhận tái BH (Tỷ ) 11,922 18,620 20,598 11,432 8,100 Mức tăng doanh thu ( tỷ ) 7,661 6,698 1,978 -9,166 -3,332 % tăng trưởng 64,26 56,18 10,62 -44,499 -19,146 Nhìn vào bảng trên ta thấy rằng doanh thu tái bảo hiểm tăng lên từ năm 2003 đén năm 2005, tuy nhiên đến năm 2006 và năm 2007 doanh thu tái bảo hiểm đã giảm đi nhiều. Cụ thể về doanh thu nhận tái bảo hiểm của từng nghiệp vụ năm 2007 và năm 2007 như sau: Doanh thu nhân tái bảo hiểm của từng nghiệp vụ ( 2006-2007) Nghiệp vụ BH 2006 2007 BH con người 108 7 BH tài sản 5.088 5.651 BH hàng hoá 5.516 1.393 BH trách nhiệm chung 72 281 BH xe cơ giới 26 BH cháy 648 742 Tổng cộng 11.432 8.100 Như vậy tổng doanh thu bảo hiểm( bao gồm cả BH gốc và TBH ) qua các năm như sau: Tổng doanh thu BH của PTI qua các năm ( 2003- 2007) Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng doanh thu (tỷ) 167,276 225,047 282,893 278,932 301,000 Mức tăng doanh thu ( tỷ) 52,675 57,771 57,846 -3,961 22,068 % tăng trưởng 31,49 34,54 25,70 -1,4 7,91 Như vậy doanh thu BH của PTI đã tăng lên đặn từ năm 2003 đến năm 2005, tuy nhien do những biến động của thị trường , cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn khi Việ Năm vừa chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, doanh thu của PTI đã giảm sút vào năm 2006. Sau một thời gian thích nghi với cơ chế thị trường mới, PTI dã tích cực cải tiến sản phẩm, gia tăng thêm các đại lý đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên làm việc chuyên nghiệp hơn và phù hợp với yêu cầu mới,do đó doanh thu bảo hiểm năm 2007 đã được cải thiện và tăng lên 22,086 tỷ so với năm 2006. Sau đây là cơ cấu doanh thu của PTI theo từng nghiệp vụ bảo hiểm quan một số năm: Cơ cấu doanh thu của PTI theo nghiệp vụ ( 2003- 2007) Nghiệp vụ 2003 2004 2005 2006 2007 D.thu (tỷ đ) Tỷ trọng (%) D.thu (tỷ đ) Tỷ trọng (%) D.thu (tỷ đ) Tỷ trọng (%) D.thu (tỷ đ) Tỷ trong (%) D.thu (tỷ đ) Tỷ trọng(%) Tài sản-KT 101,64 60,62 117,22 52,11 129,97 45,91 111,7 40,04 112,2 37,28 Hàng hải 15,92 9,5 22,083 9,82 21,591 7,63 24 8,6 25.2 8,37 Phi hàng hải 38,18 22,77 67,013 29,79 110,83 39,18 131,8 47,25 155,5 51,66 Nhận TBH 11,92 7,11 18,620 8,28 20,598 7,28 11,432 4,11 8,100 2,69 Tổng cộng 167,68 100,0 224,95 100,0 282,89 100,0 278,94 100,0 301,0 100,0 Nhìn vào bảng biểu ta thấy, doanh thu bảo hiểm qua các năm có xu hướng tăng lên, và nghiệp vụ bảo hiểm Tài sản- Kỹ thuật luôn chiếm tỷ trong rất lớn. Năm 2007 doanh thu của nghiệp vụ này là 111,7 tỷ đồng, trong đó TSKT là 109,6 tỷ và nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm chung là 1,7 tỷ đồng. Nghiệp vụ bảo hiểm TS – KT là thế mạnh của công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điên ngay từ buổi đầu thành lập, do dó nó luôn được chú trọng để khai thác một cách triệt để nhất, vì vậy nghiệp vụ bảo hiểm này luôn chiếm tỷ trong lớn trong tổng doanh thu của doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải đã có mức tăng trưởng vượt bậc, năm 2006 đã vượt qua cả doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm TS – KT với mức doanh thu tới 131,8 tỷ đồng, trong đó nghiệp vụ bảo hiểm con người là 19.8 tỷ đồng và nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là 112 tỷ đồng. Năm 2007, PTI lại đánh dấu một bước tăng trưởng lớn của nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải với mức doanh thu là 155,5 tỷ đồng, trong đó nghiệp vụ bảo hiểm con người là 20,8 tỷ đồng và nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là 134,7 tỷ đồng. Trong khi đó nghiệp vụ bảo hiểm TS – KT có tăng nhưng tăng đáng kể so với năm 2006, với doanh thu là 112,2 tỷ đồng, trong đó mức tăng chủ yếu là do nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm chung vơI doanh thu là 2,6 tỷ đông VN. Sở dĩ, tỷ trong doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm TS _ KT đã giảm dần trong những năm gần đây nguyên nhân chính là do sự thay đổi vầ chiến lựợc phát triển trong ngành và ngoài ngành, sản phẩm thế mạnh của công ty là bảo hiểm thiết bị điện tử đã có tốc độ tăng trưởng giảm dần , có chiếu hướng tiệm cận với tôc độ phat triển mạng lưới của ngành Bưu chính Viễn thông. Các đơn vị trong ngành BCVT khi chuyển sang cổ phần hoá, hạch toán sẽ chặt chẽ hơn, vì thế việc giảm chi phí sẽ là tất yếu. Do đó sẽ có sự cân nhắc kỹ lưỡng hơn trong việc lựa chon các sản phẩm bảo hiểm với các điều khoản hợp lý hơn. Vì thế PTI có thể có nguy cơ mất dần thị trường này. 4. Chất lượng sản phẩm- dịch vụ Sản phẩm bảo hiểm là một loại sản phẩm dịch vụ tài chính đặc biệt, khách hàng không thể sử dụng các giác quan của mình để cảm nhận được sản phẩm, mà chỉ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì lợi ích của sản phẩm mới đựoc phát huy tác dụng. Do đó để chào bán được sản phẩm một cách hiệu quả thì doanh nghiệp cần có những chính sánh cụ thể đối với sản phẩm của mình. Sau 10 năm hoạt động, hiện giờ PTI đã có gần 50 sản phẩm bảo hiểm phi nhan thọ chia thành 3 nhóm nghiệp cụ chính đó là:BH tài sản – kỹ thuật, BH hàng hoá và BH phi hàng hải. Trong đó, nghiệp vụ bảo hiểm thế mạnh là nhóm BH tài sản - kỹ thuật luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng doanh thu bảo hiểm của doanh nghiệp ( chiếm gần 50% ), đồng thời nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải trong mấy năm gần đây cũng đựơc chú trọng nên doanh thu cũng đã tăng lên rất mạnh, đặc biệt là doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. Do sức mua phương tiện không ngừng tăng của dân cư và qui định của nhà nước về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3, nên nghiệp vụ bảo hiểm này sẽ là một mảnh đất màu mỡ mà doanh nghiệp cần phải đặc biệt quan tâm. Trong thời gian qua PTI đã liên tục đưa ra thị trường những sản phẩm mới, số lượng sản phẩm dịch vụ tăng lên hàng năm. Các sản phẩm tung ra thị trường đáp ứng những nhu cầu khác nhau của khá hàng. tue nững sản phẩm mang tính đại trà, truyền thống như: Bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm con người, bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3… đén những sản phẩm đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của khách hàng như : bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, bảo hiểm lòng trung thực…Hay các sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp kết hợp nhiều nghiệp vụ như: bảo hiểm cháy với bảo hiểm thiết bị, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh… Chiến lược đa dạng hoá sản phẩm sẽ tạo điều kiện cho khách hàng có thêm nhiều lựa chọn hơn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng,do đó doanh nghiệp sẽ có cơ hội gia tăng thị phần. Sau đây là bảng thống kê số lượng nghiệp vụ thay đổi qua các năm kể từ khi thành lập cho đến nay. Số nghiệp vụ triển khai qua các năm Năm Số nghiệp vụ bảo hiểm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 28 36 38 40 42 43 44 44 44 48 ( Nguồn: Số liệu các phòng quản lý nghiệp vụ) PTI không những liên tục triển khai các sản phẩm mới, đồng thời cũng cố gắng tạo ra tính linh hoạt của mỗi sản phẩm. Các sản phẩm trước kia của công ty chỉ mang tính ấn định, khách hàng mua các sản phẩm với những mức phí và các điều khoản đã được ấn định trước. Hiện nay các điều khoản đựơc mở rộng và trở nên linh hoạt hơn, khách hàng có thể lựa chọn một hay một nhóm điều khoản phù hợp với mình. Chẳng hạn như trước kia chỉ có loại hình bảo hiểm kết hợp con người cả 3 điều kiện( A,B,C), đến nay công ty đã triển khai bảo hiểm kết hợp( A,B), (A,C) và ( C,B) với nhóm nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, công ty không những BH hàng hoá trong qua trình vận chuyển mà còn mở rônghàng lưu khi tạm thời..Nghiệp vụ Bh tài sản cũng đựoc mở rộng thêm các điều khoản như BH rủi ro cháy nổ, rủi ro lũ quét, rủi ro mưa bão… Sản phẩm bảo hiểm là một loại sản phẩm vô hình, do đó chất lượng dịch vụ phục vụ cũng là một yếu tố quan trọng quyết định tới chất lượng của sản phẩm. Chất lượng phục vụ được quan tâm tới ở các khâu chủ yếu đó là: - Công tác đề phòng hạn chế tổn thất đực công ty dặc biệt quan tâm, ngoài việc cung cấp cho khách hàng các thiết bị hỗ trợ hoả hoạn, thiên tai, PTI cũng hướng dẫn khách hàng sử dụng và bảo quản các trang thiết bị khi sử dung.. - PTI luôn đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu, do đó để làm hài lòng khách hàng, công ty đã có nhiều cải tiến trong khâu giám định tổn thất. Rút bỏ các thủ tục không cần thiết và thực hiện giám định một cách nhanh chóng hơn. - Đồng thời cũng để tăng thêm lợi ích của khách hàng, PTI cũng chú trọng trong khâu sau khai thác bằng các dịch vụ chăm sóc và giả đáp những thắc mắc của khách hàng, giúp cho khách hàng tin tưởng hơn vào sản phẩm cũng như tin tưởng hơn vào công ty. Chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định của khách hàng, do đó nó cũng đồng thời là nhân tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của công ty. Do đó, trong thời gian tới PTI cần chú trong hơn nữa tới chất lượng sản phẩm dịch vụ để sản phẩm của công ty đến gần hơn với khách hàng. 5. Nguồn nhân lực Hiện nay, cơ cấu tổ chức của PTI đã có những sự thay đổi phù hợp hơn, và được phân ra rõ ràng giữa khối kinh doanh và khối quản lý. Bộ máy quản lý của công ty hiện nay được tổ chức theo mô hình ma trận, các chi nhánh được hạch toán một cách độc lập với cac Giám đốc và phó Giám đốc riêng. Mỗi chi nhánh cũng có các phòng nghiệp vụ và đựơc quản lý trực tiếp bởi người đứng đầu chi nhánh đó. PTI đã phát triển đội ngũ trên 500 cán bộ nhân viên làm việc tại Hà Nội, trong đó trình độ đại học và trên đại học là khá cao( 80%). Đội ngũ cán bộ này còn trẻ và có trình độ nhưng trình độ chuyên môn về lĩnh vực bảo hiểm lại chiếm tỷ trọng không cao, mà đa số là được đào tạo từ các ngành nghề khác hoặc được chuyển từ ngành bưu chính Viễn thông sang. Chính vì vậy việc đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên làm việc cho công ty là hết sức quan trọng. Thời gian qua PTI cũng đã khá quan tâm đến điều này, công ty đã cử các cán bộ công nhân viên tham gia các khoá học đào tạo nghiệp vụ và kỹ năng bán hàng để nâng cao nghiệp vụ, làm việc một cách hiệu quả hơn. PTI tài trợ 100% học phí học cao học, học chứng chỉ Bảo hiểm Enrif ở Úc. Đông thời, hàng năm công ty cử cán bộ tham gia hội thảo nghiệp vụ tái bảo hiểm ở nước ngoài, tổ chức các buổi hội thảo, đào tạo về nghiệp vụ nâng cao trình độ nhiệp vụ của đại lý để công tác khai thác có hiệu quả hơn. Bộ phận giám định của công ty cũng được tham gia các lớp cơ bản về giám định và nâng cao theo từng nghiệp vụ. Các chương trình đào tạo này được thưc hiện khá thường xuyên ở công ty, nhưng ở các chi nhánh lại rất hạn chế, nguyên nhân đó là do các chi phí này thường lại được phân bổ cho các hoạt động khác ở các chi nhánh. Hơn nữa, chi phí chi cho đào tạo cũng chiếm tỷ lệ rất thấp so với doanh thu và đào tạo chỉ dừng lại ở mức đào tạo cơ bản, vì thế chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ chưa thực sự hiệu quả. Hiện nay đội ngũ cán bộ của PTI cũng khá đông đảo, tuy nhiên những cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao lại thiếu, đặc biệt là thiếu những nhân viên làm công tác giám định tổn thất đối với các vụ tổn thất lớn và phức tạp, điều này có thể ảnh hưởng lớn tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hơn nữa, ở PTI có tình trang đó là một số cán bộ lám việc lâu năm và có hiệu quả sau một thời gian khai thác đã lên làm quản lý, do đó bộ máy quản lý mỗi ngày một tăng lên, trong khi bộ phận khai thác lại phải tuyển dụng mới và đào tạo laị, do đó sẽ làm tốn kém rất nhiều về chi phí và thời gian. Đồng thời, đội ngũ cán bộ mới được tuyển dụng có thể sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh vì thiếu kinh nghiệm thị trường và hạn chế về các mối quan hệ…Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. PTI cũng phải đối mặt với tình trạng “ chảy máu chất xám “, đó là các cán bộ có chuyên môn và kinh nghiệm của mình chạy sang các công ty bảo hiểm khác làm việc. Những cán bộ này là nguồn lực vô cùng quan trong đối với công ty, góp phần lớn tạo ra sự thắng lợi cho mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp nói chung và PTI nói riêng cần có những chính sách và chiến lược để giữ chân những người tài này gắn bó lâu dài với mình hơn, cũng là để tăng sức cạnh tranh của mình trên thị trường. 6. Hệ thống phân phối Năm 1998, khi công ty cổ phần Bảo hiểm Bưu Điện mới thành lập, cơ cấu tổ chức của công ty chỉ bao gồm một văn phòng chính tại Hà Nội ( 2 phòng chức năng và 3 phòng vừa khai thác vừa quản lý), 1 chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay công ty đã có 22 chi nhánh tại các thành phố trên toàn quốc. Miến Bắc: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Thanh Hoá. Miền Trung: Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Đắc Lắc, Khánh Hoà. Miền Nam: Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Long An, An Giang, Cần Thơ, Cà Mau. Trụ sở chính nằm của công ty nằm tại đại bàn Hà Nội là nơi tập trung đông dân cư, phương tiện, doanh nghiệp, nên sẽ có nhiều lợi thế trong khâu khai thác và quản lý. Năm 2007, daonh thu bảo hiểm gốc của toàn công ty là 292,9 tỷ đồng, trong đó chi nhánh Hà Nội chiếm 24%, Hồ Chí Minh chiếm 33%. Đà Nẵng chiếm 6%, Hải Phòng chiếm 5%, Cần Thơ chiếm 4%, Đắc Lắc chiếm 5%...Như vậy doanh thu lớn nhất vẫn là 2 thành phố lớn là hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tuy việc triển khai xây dựng hệ thống đại lý của PTI có chậm hơn so với một số doanh nghiệp trên thi trường như Bảo Việt, Bảo Miinh, PVI và Pji co, nhưng hiện nay anh sách đại lý của PTI hiện nạy cũng đã phủ khắp các tỉnh thành trên mọi miền đất nước, và cơ bản đã thực hiện tốt đựơc chức năng của mình đó là khai thác hợp đồng bảo hiểm, giám định tổn thất và phục vụ chăm sóc tốt khách hàng… PTI cũng chú trọng vào việc đào tạo đội ngũ đại lý, đồng thời có cơ chế chính sách hoa hông hợp lý , hỗ trợ trang bị công cụ dụng cụ cho hoạt động ban đầu, chi trả lương hàng thàng theo doanh thu theo biểu phí hoa hông đựơc qui định bởi bộ tài chính, đồng thời cũng hỗ trợ một số chi phí khác như : tiền điện thoại, văn phòng phẩm, làm biển hiệu quảng cáo…Điều này cũng góp phần khích lệ các đại lý làm việc tốt và hiệu quả hơn, công ty có khả năng gia tăng được doanh thu của mình. ( sau đây là danh sách đại lý của PTI) Bên cạnh hình thức phân phối sản phẩm chính là qua hệ thống đại lý, PTI cũng tiến hàng phân phối qua hàng loạt các ngân hàng như: Ngân hàng Công Thương, ngân hàng đàu tư và phát triển, VIP Bank, VB Bank... Sự liên kết giữa bảo hiểm và ngân hàng sẽ tạo ra lợi ích cho đôi bên: ngân hàng sẽ thu thêm được một khoản lợi nhuận, còn doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phân phối thêm được nhiều sản phẩm hơn, gia tăng thị phần của doanh nghiệp. Vì thế, việc phân phối qua hình thức này có hiệu quả cũng khiến cho PTI tăng được khả năng canh tranh của mình trên thị trường, do đó sự liên kết này cần phải quan tâm nhiều hơn nữa. Như vậy, trong thời gian qua với phương châm “ Trao niềm tin tận tay khách hàng”, PTI đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhiều tầng lớp khách hàng khác nhau, nhưng để cho sản phẩm và thương hiệu của doanh nghiệp đến gần hơn với dân cư, cũng như để thực sự tạo được niềm tin đối với khách hàng, trong thời gian tới PTI cần phải cố gắng nhiều hơn nữa trong chiến lược kinh doanh của mình. . Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ PTI I. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học với Việt Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBH phi nhân thọ 1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới Sau đay là kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm của một số nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới: - Nước Mỹ: Các doanh nghiệp bảo hiểm ở Mỹ không chỉ phất triển mạng mẽ thị trường trong nước mà còn cung cấp các dịch vụ qua biên giới. Sự chi phối của nền kinh tế và các công ty đa quốc gia của Mỹ đã hỗ trợ cho các tập toàn bảo hiểm và công ty môi giới của Mỹ thực hiện đựơc điều này. - Nước Anh: Các công ty bảo hiểm của Anh hoạt động cũng rất mạnh mẽ trên thị trường quốc tế bằng việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, đại lý và đặt công ty con tại nhiều quốc gia khác, đồng thời cũng đặt biệt chú trọng liên kết với các công ty môi giới. Tận dụng những thuận lợi của công nghệ, ở Anh trong những năm qua đã xuất hiện nhiếu công ty bảo hiểm”trực tuyến” chuyên ký kết hợp đồng qua thư tín, internet, thư thoại… - Một số nước như Đức hoặc Pháp, ngoài hoạt động vươn xa ra thị trường quốc tế, các công ty bảo hiểm còn hạn chế sự xâm nhập của các công ty nước ngoài vào thị trường trong nước bằng cách mở rộng mạng lưới phân phối hết sức dày đặc, và tìm cách để khách hàng thự “ thuỷ trung” với mình. 2. Bài học đối với Việt Nam. Trong những năm gần đây thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, tuy nhiên điều kiện kinh tế và tình hình phát triển của mỗi nước là khác nhau do đó cần phải cân nhắc kỹ trong việc lựa chon chiến lựơc phát triển cho mình. Việt Nam vừa ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, trong bối cảnh này nứoc ta cần phải quan tâm đến những vần đề sau: - Việc mở của hội nhập là quá trình tất yếu và cần thiết , tuy nhiên việc hội nhập thị trường tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm nói riêng phải được tiến hành từ từ và theo từng bước. Chúng ta cần phải xem xét kỹ điều kiện và tình hình kinh tế trong nước và bên ngoài để có chiến lược phát triển sao cho phù hợp. - Chú trong đến việc khai thác thị trừơng trong nước trước tiên, đồng thời cũng tìm cách hướng ra thị trường quốc tế đầy sôi động. - Mở rộng thêm các chi nhánh, đại lý rộng khắp để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Tạo uy tín chung cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước để khách hàng “ trung thuỷ “ hơn với các công ty bảo hiểm trong nước. - Học tập các nước có thị trường bảo hiểm phát triển về các phương thức khai thác hợp đồng và dịch vụ phục vụ khách hàng để hoạt động một cách chuyên nghiệp và có hiệu quả hơn. II. Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty bảo hiểm nhân thọ PTI 1. Giải pháp từ phía nhà nước nhằm tăng năng lực cạnh tranh của toàn thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Nước ta vừa mới ra nhập tổ chức thượng mại thế giới WTO, vì thế thị trường trong nước có rất nhiều biến đổi, cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải đối mặt với sự ra nhập của hàng loạt các công ty nước ngoài. Trong bối cảnh này, chính phủ cần phải có những chính sách hợp lý để tạo thuận lợi cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển một cách lành mạnh và ổn định nhất. - Hoàn thiện về hệ thống pháp lý: Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, và gần đây nhất là Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành cuối năm 2006. Kèm theo đó là sự ra đời của các Nghị định mới ( Nghị định 45-46) để sửa đổi và bổ sung cho Nghị định 42- 43 đã cũ và không còn phù hợp. Đồng thời cũng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật, điều này tạo điều kiện cho người dân có thể hiểu luật pháp một cách rõ hơn và làm theo pháp luật. Tuy nhiên trong bối cảnh thị trường có rất nhiều biến đổi, cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, Nhà nước cần xem xét kỹ để có những sửa đổi pháp luật phù hợp với mục tiêu định hướng phát triển của thị trường, các văn bản pháp luật đòi hỏi phải tạo ra được sự bình đẳng giữa các doanh nghiêp với nhau, có như vậy cạnh tranh mới lành mạnh. - Nhà nước cũng cần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật bằng cách là đơn giản hoá các thủ tục hành chính nói chung, và trong kinh doanh bảo hiểm nói riêng, như việc đăng kí kinh doanh, cấp giấy phép…tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp bảo hiểm. - Thưc hiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường: Nhà nước cần kiểm tra thật xat xao việt thực hiện pháp luật của các công ty bảo hiểm, ngoài việc ban hành các qui định chung về dự phòng nghiệp vụ, khả năng thanh toán,..thì Nhà nứơc cũng cần phảI giám sát việc thực thi những qui định này của các doanh nghiệp. Cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu tài chính và cách xác định các chỉ tiêu tài chính để tạo thuận lợi cho việc kiểm tra được chặt chẽ và chính xác nhất. Từ đó có thể phát hiện sớm những trường hợp có nguy cơ mất khả năng thanh toán để kịp thời can thiệp và điều chỉnh. - Nhà nước thực hiện đúng các cam kết như đã kí khi ra nhập tổ chức thương mai thế giới, đồng thời luôn đẩy mạnh quan hệ hợp tác, giao lưu với các tổ chức quốc tế, từ đó tân dựng sự hỗ trợ về công nghệ, trao đổi kinh nghiêm thông tin. Tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên đựơc đi đào tạo về bảo hiểm tại các nước tiên tiến. 2. Giải pháp đối với doanh nghiệp bảo hiểm PTI nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường 2.1 Giải pháp ”hướng tới khách hàng” của doanh nghiệp .Xây dựng và phát triển thương hiệu : Thương hiệu là yếu tố rất quan trọng của một doanh nghiệp nói chung và đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm thì nó lại càng quan trọng. Bởi rằng sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ vô hình, do đó uy tín và hình ảnh của công ty sẽ tạo ra sự tin tưởng cho cho sự lựa chọn của khách hàng. Do đó mỗi doanh nghiệp bảo hiểm cần xây dựng chiến lược để phát triển thương hiệu của mình. Để nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp thì trước hết doanh nghiệp cần phải quan tâm việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, với tất cả các khâu: cung cấp sản phẩm, khai thác hợp đồng, và sau khai thác…Doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng những sản phẩm tốt nhất với thái độ phục vụ tốt nhất, chú trọng tới khâu chăm sóc khách hàng, hướng dẫn khách hàng lựa chọn sản phẩm phù hợp, giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng sau khi kí kết hợp đồng. Đồng thời thường xuyên quan tâm, tạo mối quan hệ tốt với khách hàng, có thể bằng các cuộc điện thoại hay gửi thiếp chúc mừng vào các dịp lễ Tết, hướng dẫn khách hàng cách tốt nhất để phòng ngừa rủi ro. Doanh nghiệp cần phải thường xuyên đổi mới trong khâu khiếu nại và giải quyết bồi thường, khâu này thường là mối quan tâm rất lớn đối với khách hàng, việc giải quyết nhanh chóng và dễ hiểu sẽ là lý do lớn để khách hàng tái tục hợp đồng với công ty. Để xây dựng hình ảnh của công ty mình được tốt nhất trong mắt khách hàng, thì doanh nghiệp cũng cần chú trọng tới việc xây dựng một đội ngũ nhân viên làm việc chuyên nghiệp. Những nhân viên trong công ty nên có đồng phục riêng, ngoài ra cũng cần xây dựng văn hoá làm việc trong doanh nghiệp, làm việc một cách nghiệm túc và thái độ phục vụ khách hàng tận tình nhất. Ngoài ra, các hoạt động marketing cũng làm một chiến lược lớn của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp quảng bá tên tuổi của mình. Ngày nay, công nghệ thông tin phát triển, công tác này lại càng có ý nghĩa lớn đối với mội doanh nghiệp, giúp hình ảnh cũng như sản phẩm của doanh nghiệp đến gần hơn với người dân hơn. Phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm Để nâng cao và củng cố vị thế của mình trên thị trường mỗi doanh nghiệp cần thường xuyên quan tâm đổi mới sản phẩm của mình. Hiện giờ PTI đang có khoảng gần 50 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, trước tiên doanh nghiệp cần hoàn thiện các sản phẩm hiện có trên thị trường, sau đó tiếp tục phát triển thêm các sản phẩm mới trên cơ sở đòi hỏi của thị trường, Điếu đó có nghĩa là doanh nghiệp cần nghiên cứu kĩ nhu cầu về sản phẩm của thị trường sau đó thiết kế những sản phẩm sao cho phù hợp, chứ không nên dựa vào ý muốn chủ quan của mình. PTI cũng cần chú trọng vào sản phẩm bảo hiểm thế mạnh của mình là bảo hiểm kỹ thuật để khai thác một cách triệt để nhất. Ngoài ra, cũng nên có hướng phát triển các sản phẩm có tiềm năng lớn như bảo hiểm con người hay bảo hiểm hoả hoạn- là những nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc, do đó có khả năng doanh thu sẽ rất cao, PTI cần nắm bắt cơ hội này. Thực hiện công tác thống kê và định phí phù hợp Phí bảo hiểm đựơc coi là giá cả của sản phẩm bảo hiểm, do đó việc định phí cũng rất quan trọng, ảnh hưởng tới quyết định mua của khách hàng. Nếu nức phí cao quá thì sẽ không thu hút được khách hàng mua sản phẩm bảo hiểm, còn nếu thấp thì doanh nghiệp có nguy cơ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Do đó, để thực hiện tốt việc định phí hợp lý, các công ty bảo hiểm nói chung cần phải thống kê tât cả các số liệu liên quan : về tình hình tham gia, số vụ tổn thất, tình trạng sinh tử… và cả các thông số về tình hình kinh tế. Khi định phí cần quan tâm tới các thông số về lãi suất, lạm phát… để có sự điều chỉnh hợp lý. Hiện nay, công tác đinh phí của PTI còn mang tính rất thụ động, do đó công ty cần mời chuyên gia giỏi để tư vấn cho công ty định phí một cách hợp lý và chính xác nhất. Tăng cường hoạt động quảng cảo, truyền thông: Hiện nay công nghệ thông tin ngày càng phát triển, các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng đa dang. Các công ty bảo hiểm nói chung, PTI nói riêng muốn bán được nhiều sản phẩm thì cần phải giới thiệu cho nhiều người được biết. Cách thức tỏ ra hữu hiệu nhất có lẽ là quảng cáo, có thể dán áp phíc, tớ rơi ...Triểnn khai các hoạt động PR tạo ra mối quan hệ “thông tin hai chiều” , để có được những thông tin phản hồi từ phía khách hàng, từ đó doanh nghiệp có thể có được những thay đổi và những chiến lược mới phù hợp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Mở rộng các kênh phân phối Hiện nay, kênh phân phối chủ yếu và tỏ ra hữu hiệu nhất vẫn là mạng lưới đại lý, do đó PTI cần củng cố và mở rộng hơn nữa hệ thống đại lý rộng khắp các tỉnh thành phố, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng ở mọi nơi trên đất nước. Ngoài ra,để tăng doanh thu và mở rộng thị phần doanh nghiệp cũng cần triển khai thêm các hình thức phân phối khác, đặc biệt là hình thức phân phối liên kết giữa bảo hiểm và ngân hàng. Sự liên kết này ngày càng tỏ ra ưu việt và có rất nhiều công ty bảo hiểm đã áp dụng hình thức phân phối này, do đó PTI cũng nên quan tâm và phát triển hình thức này để đa dạng hoá các hình thức phân phối sản phẩm của mình. VNPT là một cổ đông lớn của công ty cổ phần bảo hiểm Bưu Điện, vì thế PTI cũng nên mở rộng và phát triển kênh phân phối sản phẩm qua mạng bưu cục của VNPT. Mạng lưới bưu cục của VNPT là rất lớn, phủ kín khắp các tỉnh thành của cả nước, việc phân phối sản phẩm qua các bưu cục này sẽ giúp PTI có thể khai thác thêm được rất nhiều hợp đồng ở nhiều vùng miền khác nhau, mà còn tiết kiệm được chi phí khai thác. Điều này mạng ý nghĩa rất lớn cho chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, vì thế PTI cânf chú trọng hơn nữa tới hình thức phân phối này. Công ty cần thường xuyên mở các chương trình đào tạo đại lý và nhân viên bán hàng, để họ hoạt động chuyên nghiệp và và có trách nhiệm hơn .Đồng thời cần xây dựng chế độ khen thưởng để khuyến khích đại lý làm việc hiệu quả hơn. 2.2 Giải pháp bên trong doanh nghiệp Để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, ngoài chiến lược “ hướng tới khách hàng” thì PTI cũng cần phải có những biện pháp thúc đẩy bên trong doanh nghiệp. Sau đây là một số giải pháp mà công ty nên quan tâm và áp dụng: Tăng tiềm lực tài chính của doanh nghiệp: Muốn nâng cao tiềm lực về tài chính thì trước hết doanh nghiệp cần tăng nguồn vốn điều lệ của mình lên, mục tiêu ban đầu là đạt tới mức vốn pháp định mà nhà nước đã qui định. Doanh nghiệp cổ phần bảo hiểm Bưu Điện có thể sử dụng một số biện pháp nhằm tăng vốn của mình lên bằng cách đó là: - Kêu gọi vốn góp thêm từ các cổ đông: PTI được thành lập từ 7 cổ đông lớn, do đó tiềm lực về tài chính của họ là khá cao, muốn tăng nguồn vốn của công ty thì trước tiên nên kêu gọi vốn góp từ các cổ đông này. - Phát hành cổ phiếu ra thị trường để huy động vốn: nguồn vốn này được tập hợp lại từ những nguồn vốn nhàn rỗi nhỏ của các tầng lớp dân cư, tạo thành một nguồn vốn lớn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nâng cao được khả năng tài chính của mình. Phương thức huy động vốn này tỏ ra là một phương thức hết sức hữu hiệu mà hiện tại có rất nhiều doanh nghiệp đang sử dụng. - Doanh nghiệp cũng có thể gia tăng nguồn vốn của mình bắng cách bổ sung từ chính nguồn lợi nhuận của doanh nghiệp: hàng tháng doanh nghiệp sẽ có những khoản lãi từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn lợi nhuận này thay vì chia có các cổ đông, công ty sẽ giữ lại (có thể một phần lớn ) để bổ sung vào nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn lợi nhuận này cũng góp phần làm tăng tiềm lực về tài chính cho doanh nghiệp. - Ngoài ra, công ty cũng có thể trả cổ tức bằng cổ phiếu: thay vì trả bằng tiền thì công ty có thể phát hành thêm một số cổ phiếu để trả cổ tức , còn số tiền đáng lẽ dùng được trả cổ tức sẽ được giữ lại để bổ sung vào nguồn vốn cho doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2008 – 2010, PTI đang có kế hoạch tăng vốn điều lệ của mình lên 500 tỷ đồng Việt Nam, do đó công ty có thể lựa chọn một số hoặc tất cả các biện pháp trên để thực hiện mục tiêu tăng vốn của mình. Tăng đựơc vốn lên không những giúp doanh nghiệp tăng khả năng về tiềm lực tài chính, doanh nghiệp có thể nhận các hợp đồng có giá trị lớn, mà còn giúp tạo sự tin tưởng hơn cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm ở công ty này . Hoàn thiện tổ chức bộ máy và đào tạo nguồn nhân lực Trong mỗi doanh nghiệp, dù hoạt đông sản xuất hay dịch vụ thì nguồn nhân lực con người luôn là yếu tố cơ bản và quan trong để tạo nên sự thành công trong công việc. Một doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ, nhân viên giỏi sẽ giúp doanh nghiệp đó có những bước tiến trong công việc, đương đầu vượt qua những thử thách một cách dễ dàng, chiến thắng đối thủ cạnh tranh…Hơn nữa, nếu không có con người thị mọi nguồn lực khác của công ty sẽ trở nên vô nghĩa. Vì thế, mỗi doanh nghiệp nói chung và PTI nói riêng cần phải có những chiến lược riêng đề phát triển nguồn lực cho mình, nhằm thúc đẩy được mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đi lên nhanh nhất. - Doanh nghiệp cần hoàn thiện bộ máy tổ chức: Bộ máy quản lý của doanh nghiệp cần được tổ chức một cách đơn giản những phải đầy đủ nhất, đảm bảo sự rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bộ phận, đồng thời cũng cần có sự liên hệ giữa các bộ phần chức năng với nhau. - Chú trong đặc biệt tới công tác đào tạo nguồn nhân lự c: PTI cần có có các chương trình đào tạo một cách tập trung, tuy nhiên đào tạo lại cần theo các hướng khác nhau đối với từng đối tượng . Đối với bộ phận quản lý thì đào tạo những kiến thức về hoạt động quản lý, kích thích sáng tạo , làm việc độc lập trong công việc..Đối với bộ phận khai thác cần đào tạo về trình độ chuyên môn, và kỹ năng ứng xử, đối đáp…Ngoài ra công ty cũng nên cử một số nhân viên đI học tập ở nước ngoài để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. - Thường xuyên theo dõi sát xao bộ máy tổ chức để biết được tình trạng thiếu thừa nhân lực của từng bộ phận để tuyển dụng. Việc tuyển dụng nhân lực phải được thực hiện một cách công khai và minh bạch. Khi tiến hành tuyển dụng công ty nên đưa tin lên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút được nhiều người đến tham dự, quá trình thi phải đảm bảo chọn được những người thực sự giỏi để cống hiến cho công ty. - Công tác quản lý nguồn nhân lực cũng cần được quan tâm hơn nữa: + Cần xây dựng chính sách lương bổng hợp lý, vừa đảm bảo khả năng chi trả của doanh nghiệp đồng thời giữ chân và thu hút đựơc nhân lực có tài. + Có cơ chế thưởng phạt rõ ràng: người làm việc chăm chỉ, có thành tích cao sẽ nhận được những phần thưởng từ công ty( có thể la tiền thưởng, quà tặng hay được thăng chức..), đồng thời cũng có những biện pháp đối với những người không tuân thủ các qui định của công ty. Điều này sẽ khuyến khích cán bộ nhân viện làm việc nhiệt tình và có trách nhiệm với công việc hơn . - Tạo môi trường làm việc tốt nhất: khi nhân viên được làm việc trong môi trường tốt, có tính chuyên nghiệp, văn hóa làm việc riêng, thì họ sẽ có cảm giác đựoc coi trọng và hứng thú hơn với công việc, mỗi ngày đi làm sẽ không còn là những mệt mọi nữa, vì thế họ sẽ làm việc chăm chỉ và cống hiến nhiều hơn cho công ty. Hiện đại hoá bằng ứng dụng công nghệ thông tin Hiện nay công nghệ thông tin đang rất phát triển, nó ngày càng giúp ích nhiều hơn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và PTI nói riêng thì cần ứng dụng công nghệ thông tin trong cả hai khâu: quản lý và khai thác. - Ứng dụng trong khâu quản lý : + Cần xây dựng trang Wed nội bộ để cung cấp thông tin cho các cán bộ nhân viên trong công ty, đồng thời cũng tạo ra mối liên hệ gắn kết giữa các bộ phận trong công ty. Việc này cũng giúp cho thông tin được truyền đi một cách nhanh chóng và chính xác mà lại không mất nhiều thời gian và công sức. + Việc quản lý nhân lực và các tài liệu trên máy tính cũng hết sức tiện lợi, người dừng có thể tra cứu và tìm những thông tin cần thiết một cách nhanh nhất. + Có thể sử dụng một số phần mềm máy tính rất hữu ích: như phần mềm tin học hiện đại đối với việc thông kê rủi ro, tổn thất trong các nghiệp vụ bảo hiểm. Hiện nay, các công ty bảo hiểm đang lo lắng về tình trạng trục lợi bảo hiểm, tình trạng này diễn ra ngày một nhiều, và một trong những “ chiêu ” hay đựơc sử dụng đó là thay đổi một số thông tin về ngày tháng, đó là khi kí kết hợp đồng do thông tin truyền về công ty quá chậm, nhân viên bán bảo hiểm có thể cấu kết với khách hàng để thay đổi một số thông tin quan trọng. Vì thế doanh nghiệp bảo hiểm cần có một phần mềm máy tính riêng, có tính bao quát cao, để ở bất cứ tại cơ sở nào của công ty trên mọi miền đất nước, khi có bất cứ hợp đồng nào được kí kết hoặc là sự kiện gì xảy ra với đối tượng bảo hiểm, thông tin được đưa lên nhanh chóng sẽ được truyền đI và nằm trong tầm kiểm soát của trung tâm quản lý “đầu não”. Điều này sẽ giúp làm giảm tình trạng truc lợi trong bảo hiểm. + Công ty cũng nên dùng ứng dụng quản lý nhân viên làm việc tại văn phòng: đó là hệ thống nắp đặt tự động, cần thẻ ra vào, như vậy sẽ quản lý được nhân viên ra vào trong văn phòng, đồng thời cũng đảm bảo độ an toàn đối với tài sản của công ty. - Ứng dụng trong khâu khai thác: Công nghệ thông tin có đóng vai trò quan trọng trong khâu quan lý, ngoài ra nó cũng góp phần giúp ích trong khâu khai thác. Hiện nay một số công ty đang có hướng khai thác, kí kết hợp đồng qua internet, điện thoại. Việc các nhân viện liên hệ gặp gỡ khách hàng qua điện thoại, hoặc thường xuyên gọi điện hỏi thăm, chúc mừng vào các dịp lễ Tết sẽ tạo thuận lợi hơn trong việc khai thác hợp đồng. Việc ứng dụng công nghệ thông tin cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty là rất quan trong, do đó doanh nghiệp cần có phả đầu tư nhiều hơn nữa cho công nghệ thông tin để phục vụ cho công tác quản lý. Đồng thời cần hỗ trợ chi phí mua sắm các thiết bị công nghệ cho các đại lý, chi nhánh để phục vụ cho việc khai thác hợp đồng. Tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vốn Các doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi khai thác đựơc để đem đầu tư sinh lời, hiện nay doanh nghiệp bảo hiểm PTI chủ yếu sử dụng nguồn vốn này đem gửi ngân hàng và mua trái phiếu Chính Phủ, hai hình thức này tuy có độ an toàn cao nhưng lại có khả năng sinh lời kém, do đó chưa đem lại những lợi nhuận lớn đựơc cho công ty, vì thế để cho hoật động đầu tư thực sự góp phần nâng cao năng lực tài chính một cách đáng kể cho công ty thì doanh nghiệp cần phải nghiên cứu phương thức đầu tư hợp lý hơn: - Doanh nghiệp cần có chương trình quản lý nguồn vốn: Nguồn vốn của công ty được hình thành chủ yếu bởi phí khai thác được từ các hợp đồng bảo hiểm, lượng tiền này thường là rất lớn và có tính ổn định, tuy nhiên doanh nghiệp không thể sử dụng hết nó mà phải giành phần lớn để chi trả và bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do đó, doanh nghiệp cần phải xây dựng chương trình để quản lý việc sử dụng ngân quỹ này một cách hợp lý và hiệu quả. Công ty có hệ thống chi nhánh rộng khắp, tại mỗi chi nhánh lượng tiền tập trung là khá lớn, doanh nghiệp cần qui định một tỷ lệ giữ lại nhất định, phần tiền còn lại sẽ được chuyển nhanh chóng tới tổng công ty để thực hiện các kế hoạch đầu tư tiếp theo. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần chú ý cân nhắc, nếu chi nhánh nào đủ mạnh, có đủ năng lực thì có thể uỷ quyền giao cho một lượng vốn nhất định để chi nhánh đó thực hiện đầu tư sinh lời. - Doanh nghiệp cần xây dựng các danh mục đầu tư hợp lý : Nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động đầu tư là rất lớn do đó cần phải nghiên cứu thật kỹ các hình thức đầu tư để sao cho vừa đảm bảo độ an toàn lại có tỷ suất lợi nhuân cao. Nguồn tiền này còn được dùng để chi trả, bồi thường cho khách hàng do đó cần phải đảm bảo độ an toàn, như hình thức đầu tư trái phiếu, gửi ngân hàng…Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần lựa chọn thêm một số hình thức đầu tư khác để sinh lợi nhuận cao, tăng thu nhập cho công ty như tham ra vào thị trường chứng khoán để mua cổ phiếu của các công ty khác, góp vốn liên doanh, liên kết, cho vay…Doanh nghiệp cũng cần cân nhắc lựa chọn các hình thức đầu tư ngắn hạn, dài hạn khác nhau để đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết. - Xây dựng chương trình đánh giá rủi ro của các dự án đầu tư : Trước khi thực hiện đầu tư công ty nên có chương trình đánh giá mức độ rủi ro dự án một cách nghiêm túc và kỹ lưỡng, từ đó có những quyết định nghiêm túc là có đầu tư hay không, hoặc nếu đầu tư thì với lượng vốn là bao nhiêu, có như vậy mới tránh được những thất bại trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. - Đào tạo chuyên môn cho nhân sự phòng Kế hoạch - đầu tư : trình độ chuyên môn của cán bộ thực hiện đầu tư quyết định đến hiệu quả hoạt động đầu tư , do đó công ty cần có những cán bộ giỏi về chuyên môn, am hiểu các lĩnh vực đầu tư, các luật lệ,tập quấn quốc tế về hoạt động đầu tư…từ đó tăng khả năng thành công của hoạt động đầu tư và nhạy bén hơn trong việc xử lý các tình huống xáu xảy ra trong quá trình đầu tư. Doanh nghiệp cung cần thường xuyên bổ sung, tuyển dụng thêm nhân sự cho phòng Kế hoạch đầu tư khi cần thiết, đồng thời trang bị đầy dủ các máy móc thiết bị phục vụ cho công tác phân tích, thẩm định đánh giá các dự án đầu tư. - Công ty cũng cần theo dõi sát xao quá tình hình đầu tư trên thị trường để có những điều chỉnh phù hợp trong từng thời kỳ.Chẳng hạn như những biến động về lãi suất hay lạm phát cũng sẽ khiến doanh nghiệp thay đổi chiến lược đầu tư của mình, giúp doanh nghiệp có thể lựa chọn những hình thức đầu tư hợp lý nhất trong từng giai đoạn để tăng hiệu quả hoạt động đầu tư.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBH7.docx
Tài liệu liên quan