Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực Dệt - May

Giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích họ đầu tư chiều sâu mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn. Đây là cách tốt nhất tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, chứng minh có sức thuyết phục môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với nhà đầu tư. Muốn vậy cần phân loại các dự án thành các nhóm khác nhau để có biện pháp xử lý, hỗ trợ thích hợp: Đối với dự án chưa thực hiện cần rà soát lại tính khả thi của dự án và liên hệ với nhà đầu tư để nắm thực chất dự định của họ. Nếu dự án không thể tiếp tục triển khai được thì nên sớm xử lý rút giấy phép đầu tư để có quy hoạch đất dự án vào việc khác hoặc kêu gọi nhà đầu tư khác đầu tư vào dự án. Cần tính đến lợi ích chính đáng của Nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài khi thanh lý, giải thể dự án. Nếu dự án có thể tiếp tục triển khai nhưng chưa đầu tư có khó khăn tạm thời về huy động vốn hoặc về thị trường tiêu thụ sản phẩm thì có thể cho phép dãn hoặc hoãn tiến độ trong một khoảng thời gian nhất định. Đối với những dự án mới bắt đầu triển khai thủ tục hoặc xây dựng cơ bản thì cần hỗ trợ họ giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính như công bố thành lập doanh nghiệp, thuê đất, thẩm định thiết kế xây dựng. để nhanh chóng đưa nhà máy vào hoạt động.

doc81 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực Dệt - May, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư, nhiều dự án có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư chưa được khuyến khích thoả đáng. Luậtđầu tư năm 1996 đã sửa đổi, bổ sung nhất định những thiếu sót trên. Trước hết các ưu đãi về tài chính được áp dụng với các tiêu chuẩn khuyến khích nhiều hơn, rõ ràng hơn về thời hạn, lĩnh vực. Các dự án được phân loại thành các nhóm khác nhau là các nhóm bình thường, các dự án khuyến khích đầu tư, các dự án có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư và các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư. Thời hạn miễn thuế lợi tức cũng được kéo dài tối đa 8 năm, doanh nghiệp có quyền chuyển khoản lỗ của bất kỳ năm thuế nào sang năm tiếp theo và được bù khoản lỗ đó bằng lợi nhuận của những năm tiếp theo nhưng không được quá 5 năm. Thuế suất lợi tức trong các trường hợp khuyến khích được áp dụng như sau: Trường hợp 1: Mức thuế lợi tức 20% áp dụng đối với các dự án Dệt - may có một trong các tiêu chuẩn sau: - Xuất khẩu ít nhất 50% sản phẩm. - Sử dụng 500 lao động trở lên. - Sử dụng công nghệ tiên tiến. Mức thuế suất trên được áp dụng trong 10 năm kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Trường hợp 2: mức thuế suất lợi tức 15% áp dụng đối với các dự án có một trong các tiêu chuẩn sau: - Xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm - Đầu tư vào vùng có điều kiện kinh tế, xã hội và tự nhiên khó khăn. Chuyển giao không bồi hoàn tài sản cho Nhà nước Việt Nam sau khi kết thúc thời hạn hoạt động. - Các dự án có hai trong các tiêu chuẩn ở trường hợp 1. Mức thuế suất lợi tức 15% được áp dụng trong 12 năm kể từ khi dự án bắt đầu đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Trường hợp 3: mức thuế suất 10% áp dụng đối với các dự án đầu tư vào vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Mức thuế này được áp dụng trong 15 năm kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Để khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất Chính phủ quy định mức thuế lợi tức áp dụng như sau: Đối với doanh nghiệp chế xuất tỉ lệ thuế lợi ứ là 10% lợi nhuận thu được và được miễn thuế lợi tức 4 năm (hoạt động sản xuất); Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, tỉ lệ thuế lợi tức là 15% lợi nhuận thu được đối với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản phẩm và được miễn thuế lợi tức 2 năm; trường hợp xuất khẩu từ 50-80% thì được giảm 50% thuế lợi tức cho 2 năm tiếp theo; 10% lợi nhuận thu được đối với doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu trên 80% sản phẩm thì được miễn thuế 2 năm và giảm thuế 2 năm tiếp theo. Bên cạnh việc miễn giảm thuế lợi tức, việc hoàn thuế lợi tức cũng được coi trọng. Luậtsửa đổi bổ sung năm 2000 đã quy định thêm một số những ưu đãi khác cho nhà đầu tư: Mức 15% cho các dự án thuộc danh mục khuyến khích đầu tư; đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; chuyển giao không bồi hoàn tài sản cho Nhà nước Việt Nam sau khi kết thúc thời hạn hoạt động. Mức 10% áp dụng với các dự án có một trong các tiêu chuẩn sau: - Có 2 trong các tiêu chuẩn trên tại trường hợp 15%. - Đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư. - Doanh nghiệp chế xuất Thời hạn áp dụng thuế suất ưu đãi trên được áp dụng suốt thời hạn thực hiện dự án đầu tư đối với dự án đáp ứng một trong các tiêu chuẩn: Thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn trong danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư. Đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Mức thuế suất 10% được áp dụng 15 năm kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh trừ các dự án thuộc diện ưu đãi suốt thời hạn hoạt động đã được quy định. Mức thuế suất 15% và 20% được áp dụng tương ứng trong 12 năm và 20 năm. Nhìn chung chính sách thuế về các khuyến khích tài chính đã đạt được mục tiêu đặt ra trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực Dệt - may. Chính sách thuế này đã hấp dẫn hơn so với đầu tư trong nước. Tuy nhiên các loại thuế áp dụng đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn chồng chéo, nhà đầu tư nước ngoài vẫn phải đóng nhiều loại phí, lệ phí khác nhau. 2.2. Chính sách đất đai Mục tiêu của chính sách đất đai là tạo điều kiện thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài yên tâm và tin tưởng đầu tư lâu dài ở Việt Nam. Đặc điểm đặc thù ở Việt Nam đó là, đất đai là tài sản quốc gia, thuộc sở hữu của Nhà nước (toàn dân) - các nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu về đất đai. Các loại văn bản pháp lý liên quan đến đất đai gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là Luậtđất đai, Luậtđầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghị định 18/CP ngày 13-2-1995 quy định chi tiết việc thi hành pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được phép góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất đai đưa vào góp vốn được xác định trên cơ sở mức tiền thuê đất quy định cho các trường hợp đầu tư nước ngoài. Mức tiền thuê đất được xác định tuỳ thuộc vào: - Mức quy định khởi điểm cho từng khu đất - Địa điểm của khu đất - Kết cấu hạ tầng của khu đất - Hệ số ngành nghề. Cách tính giá trị quyền sử dụng đất cho bên Việt Nam góp vốn trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện theo công thức sau: Giá trị quyền sử dụng đất = Giá tiền thuê đất khởi điểm x Hệ số địa điểm x Hệ số hạ tầng x Hệ số ngành nghề x Diện tích x Thời hạn góp vốn Thời điểm để tính giá trị quyền sử dụng đất tính từ ngày cấp giấy phép đầu tư. Giá thuê đất, mặt trên là áp dụng cho thực trạng diện tích đất cho thuê, không bao gồm các chi phí đền bù, giải toả. Mặc dù trong các văn bản liên quan đã cố gắng phân loại để xác định các mức tiền thuê khác nhau cho phù hợp với điều kiện địa điểm, loại đất, hạ tầng cơ sở... Trong thực tế chính sách đất đai áp dụng đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài vẫn còn những vướng mắc nhất định: - Giá thuê đất của Việt Nam cao hơn với nhiều nước trong khu vực. Nếu tính cả các chi phí đền bù, giải toả thì giá đất bị đẩy lên quá cao. Thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chưa hợp lý. - Việc giao đất nhất là các dự án có đền bù, giải toả kéo dài. Thủ tục thuê đất, cấp đất, giá đền bù, giải toả mặt bằng còn phức tạp gây mất cơ hội và thời gian của nhà đầu tư. Hiệu lực pháp lý của các quy định về đất đai còn thấp. Luậtđất đai mặc dù đã sửa đổi song còn thiếu những văn bản hướng dẫn chi tiết. 2.3. Chính sách lao động: Chính sách lao động có mục tiêu giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề, kỹ năng cho người lao động, nâng cao trình độ quản lý và cải thiện thu nhập cho người lao động. Trong thời gian qua số lượng lao động làm trong các doanh nghiệp Dệt - may có vốn đầu tư nước ngoài khoảng trên 30 ngàn người. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á vừa qua đã làm giảm một khối lượng đáng kể lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do các dự án bị hoãn tiến độ, hoạt động không hiệu quả, không triển khai được... lực lượng lao động Việt Nam làm việc trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là từ các doanh nghiệp Nhà nước, lao động ở các thành phần kinh tế khác và số còn lại từ nguồn lao động xã hội. Số lao động làm việc trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn là lao động nữ, trẻ có khả năng thích ứng nhanh với yêu cầu công nghệ sản xuất tiên tiến nhưng hạn chế lớn về thể lực, kinh nghiệm. Một số lao động xuất thân từ nông thôn do đó kỹ thuật lao động chưa cao. Sự hiểu biết pháp Luậtlao động của người lao động còn hạn chế, không hiểu đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã cam kết. Nhiều lao động do không có việc làm mà buộc phải chấp nhận thiệt thòi, khi không chấp nhận sự thiệt thòi này thì thường phản ứng với giới chủ. Nhiều lao động trẻ tuổi thường không chấp nhận sự đối xử thô bạo của giới chủ, đây là mầm mống của những phản ứng lao động tập thể. Theo số liệu của Bộ kế hoạch đầu tư, số lượng các vụ tranh chấp lao động tập thể trong các dự án đầu tư nước ngoài có xu hướng gia tăng qua các năm. Số vụ tranh chấp lao động xảy ra nhiều ở các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh Đài Loan, Hàn Quốc. Các cuộc đình công này có quy mô ngày càng lớn và thời gian từ vài giờ đến vài ngày. Những vấn đề được đặt ra đối với các cuộc đình công này là vấn đề tiền lương, tiền thưởng, điều kiện làm việc và đặc biệt là việc đối xử thô bạo xúc phạm nhân phẩm và danh dự của người lao động. Trong số các cuộc đình công ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì số cuộc đình công ở các doanh nghiệp Hàn Quốc chiếm tỉ lệ tương đối cao. Các nhà đầu tư nước ngoài thường lôi kéo cán bộ trong các doanh nghiệp bằng cách trả lương cao (20-30 lần) so với công nhân nhằm phục vụ cho họ. Các cuộc đình công trên cho thấy những yêu cầu của người lao động là hoàn toàn chính đáng. Khi xảy ra đình công, các cơ quan chức năng của Nhà nước Việt Nam đã có sự phối hợp giải quyết thoả đáng theo đúng các quy định của pháp luật. Từ các cuộc đình công của người lao động tại các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thời gian qua có thể rút ra một số nguyên nhân sau: Đối với người sử dụng lao động: Nhiều giám đốc doanh nghiệp, kể cả người được uỷ quyền điều hành không nắm vững quy định của pháp Luậthoặc cố tình không tuân thủ những quy định của pháp Luậtnhư kéo dài thời gian làm việc trong ngày, kéo dài thời gian thử việc hoặc không kí hợp đồng lao động cá nhân, thoả ước lao động tập thể... Trù dập người lao động khi họ đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng, chấm dứt hợp đồng tuỳ tiện hoặc sa thải công nhân trái pháp Luậtlàm cho mối quan hệ với lao động trở nên căng thẳng. Vi phạm các quy định về điều kiện làm việc, điều kiện lao động và các tiêu chuẩn và quy phạm về an toàn lao động, vệ sinh lao động có nguy cơ gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Một số cán bộ giúp việc cho chủ doanh nghiệp nước ngoài nắm các quy định của pháp Luậtkhông vững nên nhiều trường hợp dẫn đến vi phạm pháp luật. - Về phía người lao động: Nhiều lao động thiếu sự hiểu biết về các quy định của pháp Luậtlao động, chưa nắm vững các chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của mình để kí hợp đồng lao động. Nhiều người mới rời ghế nhà trường, rời khỏi môi trường nông thôn nên chưa quen tác phong lao động công nghiệp. Như vậy chính sách lao động còn những hạn chế mặc dù giải quyết được công ăn việc làm do một lực lượng lớn người lao động. Song mục tiêu nâng cao tay nghề cho công nhân, nâng cao trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ còn hạn chế. Phía Việt Nam đã cử nhiều cán bộ tham gia ban giám đốc, hội đồng quản trị của các công ty liên doanh nhưng phổ biến là thiếu kiến thức và kinh nghiệm. Tình trạng không nắm rõ Luậtpháp, chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, lại hạn chế về chuyên môn và ngoại ngữ làm cho cán bộ Việt Nam không phát huy được vai trò của mình, nhất là phải đối mặt với những nhà đầu tư nước ngoài sừng sỏ, nhiều kinh nghiệm, thủ thuật. Hiện nay, có hiện tượng một số cán bộ đại diện bên Việt Nam trong liên doanh chỉ chăm lo đồng lương và lợi ích cá nhân của mình, chưa thực sự quan tâm đến lợi ích của người lao động, lợi ích của phía Việt Nam. Tình trạng yếu kém về trình độ và phẩm chất là một trong những nguyên nhân chính gây nên những thua thiệt, sơ hở trong hoạt động của các liên doanh. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ đã được đặt ra, song chưa giải quyết được nhiều và có tính chất tạm thời, chất lượng chưa cao. Mặc dù đã có những trung tâm đào tạo bồi dưỡng nhưng chất lượng đào tạo thấp chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc cung ứng và tuyển dụng lao động còn nhiều trường hợp chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật. Có doanh nghiệp chưa kí hợp đồng hoặc có thì nội dung đơn giản, không bảo vệ được quyền lợi của người lao động. Như vậy hiệu lực thực hiện chính sách lao động chưa cao, Luậtlao động thực hiện chưa nghiêm, việc xử lý các vi phạm còn chưa hợp lý. Cơ quan quản lý Nhà nước cần lúng túng khi có tranh chấp về lao động và tiền lương. 2.4. Chính sách công nghệ Mục tiêu của chính sách công nghệ là thu hút công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại của nước ngoài để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề thực hiện nội địa hoá công nghệ để tăng cường năng lực nội sinh của công nghệ. Điều này được khẳng định trong Luậtđầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản dưới Luậtlà thu hút công nghệ hiện đại để đầu tư chiều sâu vào các công ty, xí nghiệp hiện có hoặc thu hút công nghệ cao để sản xuất hàng xuất khẩu. Qua công tác thẩm định cho thấy nhiều dự án phát huy tốt trong việc chuyển giao công nghệ như Tổ hợp sợi - Dệt - nhuộm hoàn tất Hualon (Malaixia), các doanh nghiệp ngành may xuất khẩu: (Triump, Vân Lạc...). Còn những nhà máy, thiết bị được di chuyển hoàn toàn từ nước mẹ sang lắp đặt ại Việt Nam (như Choongnam, Chung Shing, Păng Rim...) nhưng sản phẩm vẫn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Song có khoảng trên 50% thiết bị đã qua sử dụng, chất lượng không cao. Với thiết bị công nghệ như hiện nay (phải chấp nhận công nghệ có trình độ từ 80% giá trị sử dụng trở lên). Về lâu dài ngành công nghiệp Dệt - may của chúng ta còn gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế. Mặt khác giá cả công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam chưa thật hợp lý. Nhiều công nghệ lạc hậu, công nghệ đã qua sử dụng nhưng giá tính vào góp vốn được nhà đầu tư cố ý nâng cao hơn 10-15% so với mặt bằng giá quốc tế. Việc tăng giá công nghệ góp vốn vào dự án còn thông qua việc tăng chi phí đào tạo công nhân làm cho cơ quan quản lý Nhà nước khó thẩm định được chính xác giá công nghệ. Ngoài ra việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết công nghệ còn kém. Việc đánh giá giá trị công nghệ chuyển giao vừa qua đã có những thành tựu nhất định cao không phải là không có những tồn tại và công việc này không phải là đơn giản. Trong thời gian tới chúng ta cần phải tăng cường công tác thẩm định công nghệ một cách kỹ lưỡng. Thực tế trên đòi hỏi cơ quan quản lý Nhà nước cần phải có một đầu mối chuyên về lĩnh vực chuyển giao công nghệ này. 2.5. Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Để bảo hộ hàng sản xuất trong nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, hầu hết các dự án đầu tư nước ngoài vào ngành sản xuất hàng Dệt , may đều yêu cầu phải có tỉ lệ xuất khẩu tối thiểu sản phẩm của mình ra nước ngoài (từ 50-80%). Đối với các doanh nghiệp may việc chấp hành tỉ lệ xuất khẩu theo giấy phép đầu tư quy định tương đối nghiêm chỉnh. Riêng đối với ngành Dệt thì sau khi đã đầu tư vào Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đặt vấn đề xin giảm tỉ lệ xuất khẩu và tăng tỉ lệ nội tiêu nhằm dần dần len chân vào thị trường Việt Nam. Cho đến nay chúng ta vẫn kiên quyết lập trường bảo hộ hàng sản xuất trong nước nên đã góp phần đáng kể vào việc duy trì sản xuất của các nhà máy sợi dệt . Tuy nhiên, việc thúc đẩy xuất khẩu mới chỉ dừng lại ở tình trạng bên nước ngoài bao tiêu sản phẩm do đó bên Việt Nam không biết được bạn hàng nước ngoài, giá cả, tình hình lợi nhuận thực tế thu được từ xuất khẩu - một vấn đề đang đặt ra gay gắt hiện nay. 2.6. Thủ tục đầu tư: Thủ tục cấp giấy phép đầu tư đã và đang còn là vấn đề trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài. Thời gian thẩm định dự án thường kéo dài. Nhiều cơ quan có quyền buộc nhà đầu tư phải trình dự án để họ xem xét nghiên cứu. Còn tồn tại tình trạng nhiều cửa hoặc "ít cửa nhưng nhiều khoá". Thêm vào đó việc chuẩn bị dự án bên Việt Nam thường làm sơ sài, khi đàm phán phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần gây mất thời gian. Các thủ tục hải quan cũng còn gây không ít khó khăn cho hoạt động đầu tư. Trình tự thủ tục không rõ ràng, áp mã số tính thuế còn tuỳ tiện. Tình trạng gửi hàng để kiểm tra quá lâu, gây khó khăn và những tiêu cực khác của các nhân viên hải quan. Việc làm thủ tục hải quan ở các cửa khẩu tiến hành còn chậm, thường mất từ 5-10 ngày, thậm chí lâu hơn, nhất là khâu kiêm nghiệm chất lượng hàng hoá, điều này làm ảnh hưởng đến chi phí của nhà đầu tư và tiến độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những vướng mắc trên bắt nguồn từ những quy định chồng chéo của nhiều cơ quan quản lý Nhà nước và thiếu sự cụ thể, chi tiết của các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Mặc dù đã có Luậtthuế nhưng thủ tục thực hiện Luậtthuế này cũng còn nhiều phiền hà, gây khó khăn cho nhà đầu tư nước ngoài. Thời hạn hoàn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập để sản xuất hàng xuất khẩu (ngành Dệt nhập 100% sợi PE, bông và các doanh nghiệp may) là quá dài. Ngoài ra hiện nay còn quá nhiều các loại phí và lệ phí. Theo thống kê chưa đầy đủ hiện nay có khoảng gần 200 loại phí và lệ phí đang được thực hiện. Điều này gây cho nhà đầu tư cảm giác thấy phải đóng quá nhiều loại thuế, phí. Thủ tục xuất nhập khẩu quá phức tạp và mất nhiều thời gian do chủ đầu tư phải "chạy đi chạy lại" nhiều cơ quan để xin ý kiến. Nhất là hàng nhập có sự thay đổi so với giải trình KTKT ban đầu hoặc so với giấy phép nhập khẩu đã được cấp để phù hợp với điều kiện thị trường đã thay đổi thì sự "chạy đi chạy lại" của chủ đầu tư càng nhiều hơn, mệt mỏi, tốn kém hơn. Thủ tục cấp đất còn phức tạp, kéo dài qua nhiều cửa. Thời gian từ ngày cấp giấy phép đầu tư đến ngày có quyết định cho thuê đất của thủ tướng Chính phủ còn quá dài (trung bình 428 ngày). Việc giao đất đối với những dự án có đền bù, giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn và bị kéo dài... Mặc dù các thủ tục đầu tư vẫn còn vướng mắc nhưng các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư đang cố gắng giải quyết để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. 3. Xây dựng quy hoạch Để ngành Dệt - may Việt Nam phát triển theo hướng tích cực góp phần vào sự phát triển bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nền kinh tế thì công tác quy hoạch phát triển đóng vai trò rất quan trọng trong quản lý nhằm cân đối vốn đầu tư trong toàn ngành, toàn nền kinh tế, giữa các địa phương. Thời gian qua, dựa trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đất nước. Đặc biệt là chiến lược xuất khẩu đến năm 2010 của Chính phủ và các điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn ở trong nước và tình hình quốc tế tổng công ty Dệt - may Việt Nam đã xây dựng tổng thể phát triển công nghiệp Dệt - may Việt Nam đến năm 2010 bao gồm các quy hoạch cơ bản như quy hoạch vùng phát triển công nghiệp Dệt , quy hoạch định hướng phát triển ngành may, quy hoạch đầu tư các dự án Dệt - may mới: cụ thể: (Bảng trang bên) 3.1. Quy hoạch vùng phát triển công nghiệp Dệt Căn cứ phân vùng quy hoạch: Đặc điểm địa lý, khí hậu kết hợp tính truyền thống cũng như khả năng phát triển ngành Dệt hiện tại và trong tương lai, phối hợp các điều kiện kinh tế - xã hội, giao thông vận tải... của từng địa bàn. Vùng I: Vùng Đông Nam Bộ và Đồng Bằng sông Cửu Long, tập trung ở các tỉnh, thành sau: Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Đồng Nai, An Giang, Sông Bé, Đồng Tháp, Tây Ninh, Long An, lấy thành phố Hồ Chí Minh làm trung tâm. Dự kiến sản lượng chiếm 50%-60% toàn ngành. Vùng II: Vùng Đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh phụ cận, gồm: Thành phố Hà Nội, các tỉnh Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Nghệ An, lấy Hà Nội làm trung tâm. Dự kiến sản lượng Dệt chiếm 30-40% toàn ngành. Vùng III: Vùng duyên hải miền Trung và một số tỉnh khu 4 cũ gồm: Thành phố Đà Nẵng, các tỉnh Quảng Nam, Khánh Hoà, Thừa Thiên Huế, lấy Đà Nẵng làm trung tâm. Dự kiến sản lượng Dệt chiếm 10% toàn ngành. 3.2. Quy hoạch phát triển ngành may: Trên cơ sở quy hoạch phát triển công nghiệp Dệt và đặc thù của ngành may, các dự án của ngành này được định hướng vào khắp các địa phương tại các thị trấn và thị xã. Các dự án này chuyên sản xuất hàng xuất khẩu thì trọng tâm vào 3 vùng I, II, III. Ưu tiên thuận tiện giao thông, gần các bến cảng. Đối với các công trình có vốn đầu tư nước ngoài thì hướng trọng tâm vào các khu chế xuất, khu công nghiệp đã được hình thành ở cả 3 vùng quy hoạch. 3.3. Quy hoạch vốn đầu tư các công trình/ dự án đầu tư mới ngành Dệt - may từ 1996 đến năm 2010. Nhìn chung công tác xây dựng quy hoạch trong thời gian qua đã được quan tâm và khẩn trương thực hiện góp phần đáng kể vào việc thu hút vốn đầu tư và phát triển cân đối giữa các vùng. Tuy nhiên chất lượng quy hoạch còn chưa cao, việc quy hoạch chi tiết ở một số địa phương còn tiến hành chậm, chưa đồng bộ. 4. Quản lý các dự án FDI trong Dệt - may sau khi cấp giấy phép đầu tư. Quản lý dự án sau khi cấp giấy phép đầu tư là công đoạn khó khăn nhất, chiếm nhiều thời gian nhất trong toàn bộ quy trình quản lý Nhà nước. Đây là giai đoạn thực hiện việc hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện đầu tư theo như đăng kí cũng như cam kết trong giấy phép đầu tư. Trong những năm đầu, do chưa có kinh nghiệm và nhận thức đầy đủ về tính phức tạp của vấn đề nên chưa đặt công tác quản lý Nhà nước đối với công đoạn này thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, quyết định hiệu quả của hoạt động hợp tác đầu tư. Do đó khi số dự án được cấp giấy phép tăng lên, các vấn đề phát sinh các vấn đề phát sinh diễn ra hàng ngày thì xảy ra tình trạng quản lý lộn xộn, chồng chéo gây khó khăn, chậm chễ cho việc thực hiện dự án. Nhưng ngay sau đó các cơ quan quản lý Nhà nước đã nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lý dự án sau cấp phép nên đã nhanh chóng điều chỉnh, xem xét quản lý một cách hợp lý, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Sau đây ta sẽ nghiên cứu và đánh giá thực trạng của vấn đề này. Công tác quản lý Nhà nước còn những mặt yếu kém, vừa buông lỏng, vừa can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước còn thiếu chặt chẽ (cụ thể giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp, Bộ Thương mại... và các địa phương). Nhiều cơ quan có xu hướng mở rộng quyền lực nhưng lại đùn đẩy, né tránh trách nhiệm đã được quy định trong việc quản lý các doanh nghiệp Dệt - may có vốn đầu tư nước ngoài. Có nhiều cơ quan Nhà nước (ở cả trung ương và địa phương) tham gia vào việc quản lý (kể cả xét duyệt cấp giấy phép) và xử lý các vấn đề có liên quan đến doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mà chưa có một cửa, một đầu mối thực sự thống nhất. Việc thực thi Luậtpháp, chính sách chưa nghiêm, thủ tục hành chính ở các cấp (nhất là thủ tục sau giấy phép (thủ tục cấp đất, giải phóng mặt bằng, xây dựng...) chậm được cải tiến. Hiện tượng xách nhiễu tiêu cực chưa bị chặn đứng, việc hình sự hoá các quan hệ. Kinh tế có xu hướng tăng lên. Những việc trên đã làm biến dạng chính sách, làm xấu đi môi trường đầu tư. Công tác Quản lý Nhà nước về mặt tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với 5 nội dung: - Lĩnh vực quản lý và sử dụng vốn - Quản lý chi phí, doanh thu, kết quả kinh doanh - Quản lý Nhà nước về mặt tài chính khi giải thể, phá sản và thanh lý doanh nghiệp FDI. - Quản lý Nhà nước về chế độ kế toán, thống kê, kiểm toán. Các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc quản lý tài chính và kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính của các doanh nghiệp FDI. Thời gian qua mặc dù đã thu được những thành tựu nhất định góp phần thực hiện mục tiêu quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp FDI tuy nhiên còn một số hạn chế sau: Các quy định chưa thành một thể thống nhất, thiếu tính cụ thể, thủ tục hành chính còn nặng nề, mang nặng cơ chế xin cho. Chất lượng kiểm tra không đạt yêu cầu, kiểm tra nhiều gây tâm lý không an tâm cho các doanh nghiệp. Những biện pháp quản lý kiểm tra còn thiếu cụ thể và chặt chẽ để vừa bảo đảm thực hiện hiệu lực quản lý của Nhà nước vừa tránh phiền hà cho hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Việc quản lý kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một việc làm cần thiết xuất phát từ yêu cầu quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp FDI (trong ngành Dệt - may). Tuy nhiên do hệ thống pháp Luậtvề đầu tư nước ngoài đang trong quá trình hoàn thiện còn thiếu cụ thể, đặc biệt là những quy định liên quan đến công tác kiểm tra... Nên trong thực tế, công tác kiểm tra của các cơ quan, địa phương nhiều khi chồng chéo, không thống nhất làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy cần nghiên cứu bổ sung thêm những quy định xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền và cơ chế phối hợp giữa các cấp, các cơ quan Nhà nước trong việc kiểm tra (cũng như trình tự) (thủ tục kiểm tra) xác định rõ hình thức mục tiêu, đối tượng kiểm tra để đảm bảo cho hoạt động này một mặt đáp ứng được các yêu cầu của công tác quản lý mặt khác vẫn bảo đảm không gây phiền hà cho doanh nghiệp. Sự hiểu biết pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài của một bộ phận không nhỏ cán bộ các cấp, các ngành còn hạn chế dẫn đến việc vận dụng tuỳ tiện, thiếu nhất quán trong không ít các trường hợp làm giảm tính hấp dẫn và hiệu lực của hệ thống pháp Luậtvề đầu tư. Sau hơn 10 năm đổi mới xây dựng và thực hiện pháp Luậtvề đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đội ngũ cán bộ làm về công tác đầu tư từ cấp trung ương đến địa phương đã có sự trưởng thành đáng kể. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn một số trường hợp vận dụng tuỳ tiện và thiếu nhất quán pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài do hạn chế về trình độ của những cán bộ thực hiện pháp luật. Điều này làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư ở Việt Nam. Trong những năm vừa qua, nhận thức rõ được tầm quan trọng và tính quyết định của công tác cán bộ, chúng ta đã chủ động cũng như phối hợp mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn những kiến thức cơ bản về hợp tác đầu tư với nước ngoài nhưng mới chỉ giải quyết được yêu cầu trước mắt, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển lâu dài. Chủ trương và việc thực hiện phân cấp, uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư, quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và Dệt - may nói riêng cho các địa phương, Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất đã phát huy tính năng động sáng tạo ở các địa phương, xử lý các vấn đề phát sinh kịp thời, sát thực tế. Tuy nhiên ở nhiều địa phương việc chấp hành các quy định về phân cấp, uỷ quyền chưa nghiêm túc; hiện tượng cạnh tranh chạy theo số lượng đã xuất hiện, trong khi đó việc kiểm tra, giám sát thực hiện phân cấp, uỷ quyền làm chưa tốt. Chương III Một số giải pháp nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI trong lĩnh vực Dệt - May I. quan điểm và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp Dệt - May Việt Nam 1. Quan điểm phát triển ngành Dệt- may Việt Nam 1.1. Công nghiệp Dệt - May phải được ưu tiên phát triển và phải được coi là một trong những mặt hàng trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong những năm vừa qua, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt - May Việt Nam đều tăng cao, (năm 1997 đã vươn lên đứng thứ 2 sau ngành đầu tư) là một trong 5 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Ngành công nghiệp Dệt - May là ngành thu hút nhiều lao động, vốn đầu tư không lớn lắm so với các ngành khác, đang trong xu hướng tiếp nhận sự chuyển dịch từ các nước Đông á, Đông Nam á. Ngành Dệt - May đã sớm phát triển ở nước ta, tay nghề khá, nguồn lao động dồi dào, có thể coi là ngành có khả năng phát triển. Dự báo tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Dệt - May trong giai đoạn 2000-2010 là trên 13%. Đó là tỉ lệ tăng trưởng cao so với nhiều ngành công nghiệp khác do đó cần được ưu tiên phát triển. 1.2. Phát triển ngành công nghiệp Dệt - May theo xu hướng hiện đại và đa dạng về sản phẩm: Công nghệ hiện đại ngày nay trở thành yếu tố quyết định cho sự phồn vinh của một quốc gia, tạo khả năng cạnh tranh cho các hàng hoá của mình. Chúng ta chỉ có thể thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển và tham gia vào phân công lao động quốc tế thông qua tăng cường năng lực công nghệ quốc gia, tiếp cận và làm chủ công nghệ tiên tiến, công nghệ cao. Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, nhu cầu hàng tiêu dùng trong đó có hàng Dệt - May sẽ tăng lên, không những tăng về số lượng mà ngày càng đòi hỏi nâng cao chất lượng, đa dạng mẫu số, mặt hàng... chất lượng cao. Tiếp nhận sự chuyển dịch ngành Dệt - May từ các nước kinh tế phát triển, ngành Dệt - May Việt Nam phải nhanh chóng phát triển, trang bị theo hướng hiện đại để tiếp tục thay thế họ thâm nhập vào thị trường quốc tế. Công nghiệp Dệt - May Việt Nam phải phát triển theo hướng hiện đại và đa dạng hoá sản phẩm mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của thị trường trong và ngoài nước. 1.3. Phát triển công nghiệp Dệt - May theo hướng kết hợp hướng về xuất khẩu với thay thế nhập khẩu. Hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả là kinh nghiệm của nhiều nước công nghiệp mới (NIC) và ở nước ta. Đó là một chiến lược cơ bản trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên thế giới hiện nay. ở nước ta có lợi thế về lao động và tài nguyên để đẩy nhanh nhịp độ phát triển ngành, sản xuất được nhiều mặt hàng mới đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời sản xuất được những mặt hàng thay thế nhập khẩu. Những năm qua ngành Dệt - May đã phát triển hàng xuất khẩu tốt, lấy kết quả xuất khẩu tạo ngoại tệ nhập khẩu máy móc thiết bị đổi mới thiết bị công nghệ mới cho ngành. Mặt khác đã sản xuất được nhiều mặt hàng lâu nay vẫn phải nhập khẩu: Chỉ khâu chất lượng cao, bông tấm cốt áo rét, mex, vải cácbon... 1.4. Phát triển công nghiệp Dệt - May theo hướng đa dạng hoá sở hữu và tập trung vào các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ: Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chiến lược phát triển kinh tế của Đảng ta. Thực tế cho thấy, có nhiều thành lập kinh tế tham gia sẽ tạo được môi trường cạnh tranh mà cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy sự phát triển. Qua nhiều lần đổi mới tổ chức quản lý ngành Dệt - May các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ là những mô hình hoạt động khá tốt, nhất là trong lĩnh vực may mặc nhiều doanh nghiệp hoạt động rất hiệu quả, nhanh chóng phát triển ngành Dệt - May. 1.5. Phát triển ngành công nghiệp Dệt - May phải gắn liền với sự phát triển của ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế khác: Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2010, Đảng ta đã chỉ rõ: Cần phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế mà trước hết là công nghiệp hoá nông thôn. Ngành Dệt nước ta có điều kiện góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp thông qua phát triển vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, tạo nguyên liệu cho ngành Dệt, giảm bớt nhập khẩu bông như hiện nay. Ngoài ra cần phối hợp với ngành hoá dầu chuẩn bị cho công nghiệp sản xuất số sợi hoá học sau này. 2. Mục tiêu năm 2001 và đến năm 2010. Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế đặc biệt là chiến lược xuất khẩu đến năm 2010 của Chính phủ, tiềm năng thị trường nội địa cũng như xuất khẩu của hàng Dệt - May Việt Nam, và yếu tố thời cơ thuận lợi. Tổng công ty Dệt - May Việt Nam đã xây dựng đề án tăng tốc phát triển ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2005 và 2010, cụ thể là: Mục tiêu tăng tốc phát triển ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2010 Chỉ tiêu Đơn vị Thực hiện 2000 Mục tiêu năm 2005 Tăng trưởng bình quân (2001-2005)(%) Mục tiêu năm 2010 Tăng trưởng bình quân (2006-2010) 1. Giá trị xuất khẩu Tr.USD 1950 4.000 13,2 7000 11,0 2. Thu dụng lao động sản phẩm chủ yếu 1000 người 1.600 3000 12,0 4.000 5,7 3.1. Bông sơ 1000T 6,7 30 25,4 95 20,8 3.2. Tơ sợi TH 1000T 45 100 18,1 130 5,8 3.3. Sợi xơ ngắn 1000T 85 150 13,0 300 12,0 3.4. Vải lụa tr.m2 304 800 18 1200 6,5 3.5. SP Dệt kim Tr.sp 90 150 8,5 230 6,5 3.6. SP may Tr.sp 400 780 10.5 1200 6,6 Nguồn: Vụ CN - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Các mục tiêu tổng quát của ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2010. - Đáp ứng đủ, kịp thời nhu cầu phong phú và đa dạng của dân cư trong mỗi giai đoạn cụ thể, với mức tiêu thụ 3 kg vải/người năm 2005 và 3,6 kg/người năm 2010 và các nhu cầu cho các ngành an ninh quốc phòng. - Toàn ngành có mức tăng trưởng bình quân 13% năm tới năm 2005 và 14% đến năm 2010. - Tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động xã hội vào năm 2010 với mức thu nhập bình quân khoảng trên 100 USD/người/tháng. - Nâng cao trình độ công nghệ, đạt mức tiên tiến của khu vực hiện nay và năm 2010 đạt mức tương đương của Hồng Kông, Thái Lan hiện nay. - Sản xuất và thành phẩm khoảng 1330 triệu m2 vào năm 2005 và 2000 m2 vào năm 2010. - Kim ngạch xuất khẩu đạt 3000 triệu USD năm 2005 và 4000 triệu USD (năm 2010). II. Một số thuận lợi và khó khăn cơ bản đối với công tác quản lý FDI trong lĩnh vực sản xuất hàng Dệt - May. 1. Thuận lợi: - Những năm gần đây ngành Dệt - May thế giới đang có xu hướng chuyển dịch về các nước đang phát triển ở khu vực Châu á (trong đó có Việt Nam) nơi có giá nhân công rẻ thích hợp với ngành nghề sử dụng nhiều lao động. - Tiềm năng phát triển ngành Dệt - May xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Tây Âu và Bắc Mỹ đã và đang gia tăng. - Ngành Dệt - May, đặc biệt là các dự án Dệt - May có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang được Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương quan tâm phát triển vì là ngành công nghiệp tạo nhiều công ăn việc làm, yêu cầu vốn đầu tư ít. - Thực hiện chủ trương phân cấp và uỷ quyền trong quản lý các dự án có vốn đầu tư nước ngoài giao lưu làm cho việc quản lý được trực tiếp hơn, thủ tục thông thoáng, đơn giản hơn. - Đội ngũ quản lý sản xuất kinh doanh phần nào đã có kinh nghiệm tiếp cận, đàm phán với phía đối tác nước ngoài. - Lực lượng lao động dồi dào có sẵn với trình độ kỹ thuật, kỹ năng tay nghề tương đối khá có thể đáp ứng được yêu cầu trình độ kỹ thuật của ngành mà phía nước ngoài yêu cầu. - Có sẵn một số cơ sở vật chất kỹ thuật có thể đáp ứng được yêu cầu trình độ kỹ thuật, hợp tác đầu tư và chất lượng sản phẩm của các đối tác nước ngoài. 2. Khó khăn: - Luậtđầu tư nước ngoài và các văn bản dưới Luậtliên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hoạt động sản xuất hàng Dệt - May đang trong quá trình hoàn thiện nên khó tránh khỏi những sơ hở, thiếu sót. - Thực hiện việc phân cấp, uỷ quyền, năng lực quản lý của một số cán bộ Nhà nước chuyên trách về vấn đề này còn hạn chế, lúng túng do thiếu kinh nghiệm, trình độ. - Do còn ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á (đối tác đầu tư chủ yếu vào ngành Dệt - May) nên nhiều dự án khó triển khai được hoặc đã triển khai nhưng sản xuất bị đình trệ, không hiệu quả, công nhân bị sa thải nhiều. - Một số đối tác thiếu thiện chí làm ăn lâu dài ở Việt Nam, cố tình vi phạm pháp luật, xúc phạm đạo đức, nhân phẩm của công nhân. - Trình độ hiểu biết pháp Luậtnói chung của một số cán bộ quản lý, công nhân còn hạn chế. Trước thực trạng, những khó khăn và thuận lợi trong hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng Dệt - May đòi hỏi công tác quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp cần phải được nâng cao hơn nữa thì mới đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới, giải quyết được những khó khăn vướng mắc góp phần quan trọng thực hiện chiến lược phát triển tăng tốc ngành Dệt - May Việt Nam. III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với FDI trong ngành Dệt - May. 1. Nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và đối với công tác xúc tiến vận động đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Dệt - May là một bộ phận không tách rời, gắn bó hữu cơ song không phải là mô hình thu nhỏ của ngành Dệt - May Việt Nam. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ, quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Dệt - May Việt Nam, sắp xếp và định hướng các nguồn vốn đầu tư phát triển vào việc thực hiện các dự án phù hợp với đặc thù của từng nguồn vốn. Trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài (đặc biệt là hình thức 100% vốn nước ngoài) định hướng chủ yếu vào các dự án thuộc lĩnh vực sợi - Dệt cần vốn đầu tư lớn, công nghệ tương đối hiện đại, có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận thoả đáng. Các dự án thuộc lĩnh vực may mặc vốn đầu tư nhỏ, khả năng thu hồi vốn nhanh, công nghệ, độ rủi ro thấp nên định hướng cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư hoặc đầu tư nước ngoài có điều kiện (công nghệ, tỉ lệ xuất khẩu...). Công tác vận động xúc tiến đầu tư cần được đổi mới cơ bản về nội dung và phương pháp thực hiện. Trước hết cần xác định đây là công việc, trách nhiệm của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước cần giành một phần thoả đáng cho công tác này, tập trung phối hợp giữa các đầu mối thuộc Bộ Thương Mại, Bộ Ngoại giao, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam kể cả việc duy trì hoạt động của một số văn phòng xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản... Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự án kêu gọi đầu tư được chuẩn bị kĩ, các ngành, các địa phương cần chủ động tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một các cụ thể, trên từng dự án với các chính sách và cơ chế quy định thống nhất của Nhà nước, hướng vào các khu vực và các nhà đầu tư có tiềm năng, tránh việc vận động nặng về hô hào chung chung như trước đây. - Đối với các đối tác có tiềm năng lớn về tài chính và công nghệ như các tập đoàn xuyên quốc gia và các nước G7; các dự án lớn, sử dụng nhiều lao động, tỉ lệ xuất khẩu cao, công nghệ hiện đại... Cần xây dựng chương trình xúc tiến riêng, áp dụng các cơ chế, chính sách đặc biệt. 2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước đối với các dự án FDI. Thời gian qua đã tiến hành phân cấp uỷ quyền cho tất cả 61 tỉnh, thành phố và uỷ quyền cho 22 ban quản lý khu công nghiệp trong các dự án đầu tư nước ngoài nói chung và Dệt - May nói riêng. Nhằm thực hiện tốt hơn công tác, cơ chế phân cấp, uỷ quyền và thống nhất quản lý Nhà nước trong lĩnh vực Dệt - May cần tiếp tục thực hiện những công việc sau: Các bộ ngành trung ương tiếp tục hướng dẫn cụ thể các địa phương về các vấn đề và xem xét, điều chỉnh các quy định không phù hợp thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của mình để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương thực hiện một cách đơn giản các chính sách, quy định của Chính phủ, điều chỉnh phương thức quản lý phù hợp với cơ chế mới; chuyển giao quyền quản lý trực tiếp các doanh nghiệp cho các địa phương, tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu cơ chế, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các địa phương, quản lý các doanh nghiệp lớn thuộc thẩm quyền (Bộ kế hoạch & đầu tư). Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và các ban quản lý khu công nghiệp cần thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, thống kê theo định kì về đầu mối quản lý thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Vụ quản lý dự án đầu tư nước ngoài). Cần lấy ý kiến của các bộ: kế hoạch đầu tư, công nghiệp....) về các dự án đầu tư nước ngoài: Từ khâu thẩm định, cấp giấy phép đầu tư đến theo dõi việc triển khai hoạt động. Trong phạm vi chức năng, thẩm quyền của mình, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần phối hợp cùng các bộ ngành tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước về các dự án đầu tư nước ngoài để hướng dẫn, nhắc nhở và có biện pháp điều chỉnh khi cần thiết. Đầu mối quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn hiện nay là UBND tỉnh, Thành phố. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố cần xây dựng và công bố công khai đầu mối chịu trách nhiệm, quy trình, thời hạn giải quyết các vấn đề phát sinh trong hoạt động của các doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, ngăn ngừa các hiện tượng tham nhũng, xách nhiều tiêu cực có thể xảy ra. Hạn chế việc can thiệp, kiểm tra của các cơ quan bảo vệ pháp Luậtnhư công an, viện kiểm sát... và hình sự hoá các quan hệ kinh tế, các sai phạm nhỏ của doanh nghiệp khi không cần thiết. Cần triệt để và kiên quyết hơn nữa trong việc quy định rõ ràng minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính và kiên quyết giảm đầu mối, giảm các thủ tục hành chính không cần thiết nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về cải cách hành chính; duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ đối thoại với hiệp hội các nhà đầu tư trong ngành Dệt - May. 3. Tập trung cao độ công tác quản lý, điều hành để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các dự án đầu tư trực tiếp hoạt động có hiệu quả: Giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích họ đầu tư chiều sâu mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn. Đây là cách tốt nhất tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, chứng minh có sức thuyết phục môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với nhà đầu tư. Muốn vậy cần phân loại các dự án thành các nhóm khác nhau để có biện pháp xử lý, hỗ trợ thích hợp: Đối với dự án chưa thực hiện cần rà soát lại tính khả thi của dự án và liên hệ với nhà đầu tư để nắm thực chất dự định của họ. Nếu dự án không thể tiếp tục triển khai được thì nên sớm xử lý rút giấy phép đầu tư để có quy hoạch đất dự án vào việc khác hoặc kêu gọi nhà đầu tư khác đầu tư vào dự án. Cần tính đến lợi ích chính đáng của Nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài khi thanh lý, giải thể dự án. Nếu dự án có thể tiếp tục triển khai nhưng chưa đầu tư có khó khăn tạm thời về huy động vốn hoặc về thị trường tiêu thụ sản phẩm thì có thể cho phép dãn hoặc hoãn tiến độ trong một khoảng thời gian nhất định. Đối với những dự án mới bắt đầu triển khai thủ tục hoặc xây dựng cơ bản thì cần hỗ trợ họ giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính như công bố thành lập doanh nghiệp, thuê đất, thẩm định thiết kế xây dựng... để nhanh chóng đưa nhà máy vào hoạt động. Đối với các dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng gặp khó khăn về tài chính, thị trường... thì cần xem xét cụ thể để có biện pháp giải quyết phù hợp. Trước hết cần xem xét điều chỉnh để các dự án nhanh chóng được hưởng các ưu đãi, khuyến khích quy định mới trong luật, nghị định vừa ban hành. Cho phép dự án sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn về thị trường quốc tế có thể được tăng tỉ lệ nội tiêu nếu sản phẩm đó trong nước có nhu cầu; chẳng hạn vải, sợi, nguyên liệu đầu vào cho ngành may... Đối với doanh nghiệp khó khăn về tài chính có thể xem xét cho họ vay tín dụng để triển khai dự án hoặc thu hút thêm nhà đầu tư nước ngoài mới cùng tham gia để sớm triển khai dự án, tạo thuận lợi cho việc chuyển nhượng vốn đầu tư nước ngoài. 4. Phối hợp đồng bộ, thống nhất giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp trong ngành Dệt - May 5. Thiết lập hệ thống giám sát hoạt động doanh nghiệp FDI thông qua công cụ kiểm toán và giám định nhằm theo dõi và hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động một cách hiệu quả. Bộ Tài chính cần hướng dẫn chế độ kiểm toán doanh nghiệp FDI phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời có kế hoạch phát triển và nâng cao chất lượng của các công ty kiểm toán Việt Nam, đủ khả năng đáp ứng yêu cầu kiểm soát hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Quy định chặt chẽ và chi tiết thi hành việc giám định công nghệ, tài sản nhập khẩu của doanh nghiệp FDI, đặc biệt với những thiết bị Dệt - May đã qua sử dụng hoặc công nghệ thuộc các thập niên trước, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất của doanh nghiệp nhằm hạn chế tình trạng công nghệ lạc hậu, nâng giá đầu vào đồng thời cần nghiên cứu ban hành một số chỉ tiêu thống kê chủ yếu buộc doanh nghiệp phải báo cáo trung thực với cơ quan quản lý Nhà nước trên cơ sở tôn trọng bí mật kinh doanh của doanh nghiệp. Có cơ chế khen thưởng và xử lý thích đáng những trường hợp cố tình sai phạm. 6. Rà soát và hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp Luậtliên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài trong Dệt - May làm cơ sở cho việc xử lý đúng đắn các trường hợp cụ thể; hướng dẫn, tuyên truyền pháp luật, chính sách sâu rộng trong các doanh nghiệp và địa bàn vận động đầu tư. Phát hiện những mâu thuẫn chồng chéo trong các văn bản để kịp thời bãi bỏ những quy định không cần thiết gây ra các thủ tục phiền hà cản trở đầu tư hoặc những sơ hở bị nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng, những phát sinh trong hoạt động thực tiễn để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. 7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của công Đoàn và các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự lãnh đạo của Đảng thông qua các tổ chức Đảng và các Đảng viên giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý, làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, là yếu tố đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp theo đúng các quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và người lao động làm việc tại các doanh nghiệp. Cần sớm có quy định và hướng dẫn phương thức, chế độ tổ chức và sinh hoạt Đảng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phù hợp với đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này. Hoạt động công đoàn và các tổ chức đoàn thể khác là hình thức thuận tiện nhất để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Việc thành lập và hoạt động của tổ chức công đoàn đã được quy định trong các văn bản pháp luật. Trong tương lai cần phải rà soát tình hình thành lập và hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp Dệt - May có vốn FDI, có kế hoạch thành lập công đoàn ở tất cả các doanh nghiệp Dệt - May có vốn đầu tư nước ngoài còn lại trên cơ sở tự nguyện của người lao động và hướng dẫn công tác công đoàn tại các doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm của từng loại hình doanh nghiệp. 8. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý Nhà nước về hoạt động FDI - Tổ chức, bồi dưỡng nâng cao trình độ về pháp luật, chính sách, chuyên môn (Quản lý và chuyên ngành Dệt - May), ngoại ngữ đối với cán bộ làm hợp tác đầu tư với nước ngoài. - Rà soát sàng lọc để nâng cao chất lượng cán bộ, tuyển chọn cán bộ có đủ năng lực trong lĩnh vực này. - Mở các chuyên ngành đào tạo về quản lý đầu tư tại các trường đại học cho các sinh viên để cung cấp cho quản lý một lớp trẻ kế cận có đủ năng lực, kiến thức về lĩnh vực này. - Phối hợp với các bộ, ngành (lao động - TB&XH, GDĐT...) tổ chức nâng cao tay nghề cho người lao động trong các doanh nghiệp Dệt - May FDI. Kết luận Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và lĩnh vực sản xuất hàng Dệt - May nói riêng. Ngành Dệt - May Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần thực hiện chiến lược phát triển tăng tốc ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2010. Do đặc thù của ngành Dệt - May (sử dụng nhiều lao động, công nghệ đa dạng) và của công tác quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Thời gian qua các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất hàng Dệt - May đã có nhiều nỗ lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và đã đạt được nhiều kết quả có ý nghĩa quan trọng, tuy nhiên vẫn còn không ít những tồn tại, thiếu sót. Cần phải tập trung giải quyết nhằm đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển ngành Dệt - May Việt Nam và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tài liệu tham khảo - Giáo trình kinh tế đầu tư - PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai (chủ biên). - Tạp chí nghiên cứu lý luận - Những vấn đề kinh tế thế giới 3-1996, số 2/1997. - Tạp chí nghiên cứu kinh tế - Luậtđầu tư nước ngoài Việt Nam, 1992, 1996,2000 - Quy định chi tiết thi hành Luậtđầu tư nước ngoài. - Tài liệu hiệp hội Dệt - May Việt Nam 10/2000 - Kế hoạch phát triển ngành công nghiệp Dệt - May Việt Nam đến năm 2010. Tổng công ty Dệt - May Việt Nam. - Tạp chí thông tin câu lạc bộ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. - Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế - Chiến lược công nghiệp trung hạn Việt Nam - Tạp chí kinh tế và dự báo 8/1998. - Tạp chí Luậthọc số 4-1996. - Tạp chí Dệt - May. + Sách một số vấn đề mới về FDI tại Việt Nam. Nhà xuất bản Thống kê 1997. + Sách: Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. PGS.PTS Mai Ngọc Cường (chủ biên). Và một số tài liệu thực tế của Vụ quản lý dự án đầu tư nước ngoài. Vụ Công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I. Những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) - Quản lý Nhà nước về FDI và lĩnh vực Dệt May 2 I/ Những vấn đề chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài 2 1. Khái niệm 2 2. Hình thức đầu tư 3 3. Vị trí và vai trò của FDI 4 II/ Quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài 8 1. Khái niệm quản lý 8 2. Bản chất quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam 8 3. Quản lý Nhà nước về hoạt động đầu trực tiếp nước ngoài (FDI) 12 4. Các phương pháp quản lý hoạt động đầu tư 16 III/ Một số vấn đề về lĩnh vực Dệt may 19 1. Ngành Dệt - May 19 2. Đặc điểm của ngành Dệt - May 20 3. Xu thế phát triển và dịch chuyển của ngành Dệt - May trong khu vực 21 Chương II. Thực trạng công tác quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực Dệt - May 26 I/ Khái quát về tình hình FDI vào lĩnh vực Dệt - May Việt Nam 26 1. Ngành Dệt 27 2. Ngành may - phụ liệu may 31 3. Nhận xét về kết quả hoạt động của FDI trong ngành công nghiệp Dệt - May 34 II/ Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực Dệt - May ở Việt Nam từ năm 1988 đến nay 37 A. Quá trình hình thành công tác quản lý 37 B. Quản lý Nhà nước về hoạt động FDI trong lĩnh vực sản xuất hàng Dệt - May 43 1. Xây dựng hệ thống pháp Luậtvà văn bản dưới Luậtliên quan 44 2. Xây dựng và quản lý thực hiện cơ chế, chính sách 50 3. Xây dựng quy hoạch 60 4. Quản lý các dự án FDI trong Dệt - May sau khi cấp giấy phép đầu tư 62 Chương III. Một số giải pháp nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI trong lĩnh vực Dệt - May 65 I/ Quan điểm và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp Dệt - May Việt Nam 65 1. Quan điểm phát triển ngành Dệt - May Việt Nam 65 2. Mục tiêu năm 2001 và đến năm 2010 67 II/ Một số thuận lợi và khó khăn cơ bản đối với công tác quản lý FDI trong lĩnh vực sản xuất hàng Dệt - May 68 1. Thuận lợi 68 2. Khó khăn 69 III/ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với FDI trong ngành Dệt - May 70 1. Nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và đối với công tác xúc tiến vận động đầu tư 70 2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước đối với các dự án FDI 71 3. Tập trung cao độ công tác quản lý, điều hành để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các dự án đầu tư trực tiếp hoạt động có hiệu quả 72 4. Phối hợp đồng bộ, thống nhất giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp trong ngành Dệt - May 73 5. Thiết lập hệ thống giám sát hoạt động doanh nghiệp FDI 73 6. Rà soát và hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp Luậtliên quan 73 7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của công đoàn và các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 73 8. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý Nhà nước về hoạt động FDI 74 Kết luận 75 Tài liệu tham khảo 76

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0137.DOC
Tài liệu liên quan