Hiện nay ở Thanh hóa còn nhiều gia đình chưa chấp hành thực hiện việc sinh đẻ có kế hoạch theo đúng chủ chương quy định của Nhà nước, đặc biệt là đối với những gia đình làm nghề nông nghiệp.
Trong những năm vừa qua đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, thì Nhà nước đã có những quy định cụ thể đối với những trường hợp vị phạm việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch nó cũng đã góp phần hạn chế đáng kể những trường hợp sinh con thứ 3, những trên thực tế vẫn còn nhiều người vi phạm. Do vậy, UBDS-KHHGĐ tỉnh cần có những biện pháp phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của tỉnh đề ra những biện pháp cụ thể và nghiêm khác hơn đối với những đối tượng vi phạm là công chức Nhà nước.
Đối với đối tượng là những người làm nghề nông nghiệp, thợ thủ công những người hành nghề buôn bán nhỏ, thì chúngta cần đăc biệt quan tâm vì với đối tượng này thì hiện nay hầu như chưa có biện pháp hữu hiệu để những đối tương này tham gia chấp hành thực hiện tốt công tác KHHGĐ, nên hiện tương sinh con thứ 3 ở đối tượng này diễn rất phổ biến. Vì vậy, UBDS-KHHGĐ tỉnh cần phối hợp với chính quyền địa phương đề ra các biện pháp bắt buộc đối với đối tượng này để họ hiểu biết rõ hơn về trách nhiệm cua mình với việc thực hiện KHHGĐ. Chẳng hạn như đối với đối tượng làm nghề nông thì cần có những quy định bắt buộc liên quan đến quyền lợi của họ. Ví dụ như đối những người sinh con thứ 3 trở lên thì không được hưởng các chế độ ưu đãi, như không cấp thêm ruộng cho những đứa con thứ 3 trở lên, đồng thời với những đối tượng này cần có các hình thức khiển trách kỷ luật tại các cuộc họp hội đồng, các cuộc họp của chi hội phụ nữ .
Đối với đối tượng là thợ thủ công những người hành nghề buôn bán nhỏ cần áp dụng biện pháp sử phạt hành chính kết hợp với biện pháp kinh tế. Ví dụ như đối với những người sinh con thứ 3 trở lên thì không được ưu tiên cho những nơI buôn bán thuận tiện và các biện pháp sử phạt bằng tiền cụ thể đối với những người vi phạm việc thực hiện KHHGĐ.
71 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao trình độ học vấn và giảm mức sinh ở Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bảng 18: Tỷ lệ phụ nữ có chồng (1995-1999) Đơn vị: %
Năm
% phụ nữ từ 15-49 tuổi có chồng/tổng phụ nữ
1995
1996
1997
1998
1999
70,16
70,27
69,78
69,31
68,55
Nguồn UBDS-KHHGĐ tỉnh Thanh hóa
Ta nhận thấy % phụ nữ có chồng qua các năm có xu hướng giảm xuống đáng kể, điều này có nghĩa là số người phụ nữ kết hôn muộn và tình hình ly hôn, ly thân có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. ở đây ta chỉ đề cập đến khía cạnh ly hộn, ly thân có xu hướng tăng lên trong những năm qua. Bên cạnh đó theo kết quả diều tra dân số năm 1989và 1999, tỷ lệ ly hôn ly thân của hai năm 1989 và 1999 lần lượt là 1,438% và 1,880% như vậy trong vòng 10 năm tỷ lệ ly hôn ly thân đã tăng lên 0,3 lần. Nguyên nhân chính ở đây là khi nên kinh tế phát triển, người có nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ học vấn của mình, đặc biệt là đeối với người phụ nữ, do trình độ học vấn được nâng cao cho nên người phụ nữ ngày càng giữ những vị trí quan trọng trong xã hội vì thế trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ gia đình xu hướng bình đăng nam-nữ ngày càng thể hiện rõ, trong gia đình người đã có vai trò tích cực trong việc gia các quyếtđịnh liên quan đến cuộc sống của mình, các quan niệm cũ lạc hậu dần dần được đẩy lùi, tình trạng người phụ nữ bị coi như người chỉ biét tuân theo các quyết định của người chồng hầu như không còn nữa, mà họ ngày càng có xu hướng đấu tranh cho sự bình đẳng của mình trong gia đình,. Tình trạng ly hôn ly thân ngày một gia tăng là một minh chứng cho đIều đó.
Tuổi kết hôn không những có sự khác biệt giữa các dân tộc mà giữa các khu vực cũng có sự khác biệt đáng kể. ở đây ta chỉ đề cập đến khu vực thành thị và khu vực nông thôn, do có sự chênh lệch về mức độ phát triển kinh tế giữa các khu vực nên người dân ở hai khu vực này cũng được lĩnh hội nững giá trị về trình độ học vấn cũng rất khác nhau. ở khu vực thành thị do có trình độ kinh tế phát triển hơn nên có trình độ học vấn cao hơn khu vực nông thôn vì thế nó đã có tác động làm thay đổi cách nhìn nhận về hôn nhân theo xu hướng tiến bộ hơn, ở khu vực này có sự phổ biếncủa gia đình hật nhân, sự lỏng lẽo trong quan hệ thân tộc, mức độ đa dạng của các hoạt động kinh tế ngoàI gia đình, nó đã làm cho tuổi kết hôn ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn gần 3 tuổi.
Bảng 19: Tuổi kết hôn trung bình của phụ nữ theo khu vực
1994
1997
Chung
22,16
23,25
Thành thị
23,45
24,06
Nông thôn
21,29
21,62
Nguồn: UBDS-KHHGĐ tỉnh Thanh hóa (điều tra chọn mẫu)
Tuổi kết hôn ở khu vực nông thôn thấp hơn khu vực thành thị một phần là do người phụ nữ ở nông thôn có khoảng thờigian đi học thấp hơn. Mặt khác ở nông thôn Thanh hóa việc làm chính của phụ nữ là nghề nông ( theo tính toán năm 1999 có tới 90,78% dân số sống băng nghề nông), đất đai là yếu tố quan trọng. Vì vậy việc chia ruộng đất theo hộ gia đình chính là một nhân tố thức đẩy việc kết hôn sớm ở nông thôn.
Tuổi kết hôn nó còn có tác động trực tiếp đến mức sinh, khi phụ nữ bước vào tuổi kết hôn sớm thì khoảng thời gian sinh đẻ của họ kéo dài nên họ có xu hướng đẻ nhiều con so với những người bước vào tuổi kết hôn muộn. Có nhiều nhân tố tác động đến tuổi kết hôn của người phụ nữ trong đó trình độ học vấn là một nhân tố quan trọng nhất.
Bảng 19: Mối quan hệ giữa trình độ học vấn và tuổi kết hôn trung bình của phụ nữ.
Trình độ học vấn
Tuổi kết hôn trung bình(X)
Số con trung bình (Y)
1. Chưa đI học
18,05
3,2
2. Chưa TN cấp I
19,16
2,96
3. TN cấp I
19,87
2,65
4. TN cấp II
21,12
2,39
5. TN cấp III trở lên
23,5
2,29
Nguồn: UBDS-KHHGĐ tỉnh Thanh hóa năm 1997 (kết quả đIều tra chọn mẫu)
Qua bảng số liệu ta thấy tuổi kết hôn trung bình của tưng nhóm có trình độ học vấn càng cao thì số con trung bình càng giảm xuống đây là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Từ hai mối quan hệ này dựa vào phương pháp hồi quy tương quan chúng ta xây dựng dc phương trình sau.
Y = 6,21099 - 0,1735 X
Trong đó hệ số tương quan r= 0,9
Ta thấy răng mối quan hệ tương quan ở đây là khá chặt chẽ, từ phường trình hồi quy trên ta có thể tính được rằng để số con nhỏ hơn hoặc bằng 2 thì tuổi kết hôn trung bình của người phụ nữ phải lớn hơn 24,27 tuổi. Qua bảng số liệu trên thì tuổi kết hôn tbcó mối quan hệ tỷ lệ thuận với trình độ học vấn và tỷ lệ nghịch với mức sinh. Vởy đề giảm mức sinh nâng cao độ tuổi kết hôn thì một trong những yêu cầu quan trọng là năng cao trình độ học vấn của người phụ nữ khác hẳn với nữ giớin nam có tuổi kết hôn cao hơn hẳn cũng giông như nữ tuổi kết hôn trung bình của nam cũng phụ thuộc rất chặt chẽ vào trình độ học vấn.
Bảng 20: Trình độ học vấn và tuổi kết hôn trung bình của nam và nữ
Trìnhđộ học vấn
Tuổi kết hôn trung bình
Nam
Nữ
1. Chưa đI học
20,14
18,05
2. Chưa TN cấp I
21,76
19,16
3. TN cấp I
22,21
19,78
4. TN cấp II
24,72
21,92
5. TN cấp III trở lên
25,76
23,5
Nguồn: UBDS-KHHGĐ Tỉnh Thanh hóa năm 1997
Sự khác biệt về tuổi kết hôn trung bình của nam chưa đi học và nam có trình độ học vấn từ cấp III trở lên là gần 5 năm, đây là sự khác biệt tương đối lớn. Điều đó nói lên rằng khi mà tuổi kết hôn của nam tăng thì nó cũng gián tiếp tác dộng đến tuổi kết hôn của nữ, ngày nay nam giới lấy vợ có trình độ tương đương với mình qua bảng số liệu trên cho ta thấy rõ đIều đó. Mặt khác khi trình độ học vấn của nam giớ cao thì nhận thức của họ đối với hôn nhân và gia đình tốt hơn,. Vì thế trình độ học vấn của nam giới cũng có tác động tích cức đén việc giảm mức sinh và tăng tuổi kết hôn của phụ nữ.
Qua phân tích trên ta nhận thấy rằng tuổi kết hôn là một vấn đề quan trọng trong nghiên cứu quá độ dân số và nó có tác động trực tiếp đến mức sinh. Bởi lẽ kết hôn sớm cũng như hầu hết mọi người đều kết hôn là nhân tố tạo ra mức sinh cao.
2. Trình độ học vấn với quy mô gia đình
Một trong những luận đIểm chính của chương trình dân số ở Việt nam là khuyếch trương mạnh mẽ việc hạ thấp mức sinh góp phần nân cao phúc lơI và mưc sông của các gia đình. Cơ sở của luận điểm này là với nguồn lực có hạn, các cặp vợ chông có ít con hơn sẽ có niều khả năng đầu tư cho mỗi đứa con và như vậy họ có thể nuôi dạy và giáo dục con tốt hơn. Do đó việc gia tăng số gia đình có quy mô tương đối nhỏ sẽ góp phần nâng cao trình độ học vấn của các thế hệ trẻ em ké tiếp trong tương lai, một mục tiêu chung của các gia đình cũng như của các chính phủ đều mong đợi. Để làm được điều đó thì người ta nhận thấy rằng nang cao trình độ học vấn cho xã hội nói chung và phụ nữ nói riêng là một trong những cách thức tốt nhất để tiến tới quy mô gia đình nhỏ.
Bảng 21: Trình độ học vấn và quy mô gia đình
Trình độ học vấn
Quy mô gia đình
1 con
2 con
3 con
4 con
1. Chưa đI học
6,44
21,44
21,74
50,48
2 Chưa TN PTCS
8,36
23,19
23,19
45,26
3.TN PTCS/5-9
15,96
25,62
22,04
36,38
4.TN PTTH bậc1 (9-11)
15,00
28,53
26,06
30,40
5. TN PTTH bậc 2 (12)
20,44
38,67
27,08
13,81
Nguồn : Cục thống kê Thanh hóa năm 1998
Qua bảng số liệu trênta thấy đối với những phụ nữ chưa tốt nghiệp PTTH bậc 2 thì việc lưa chon quy mô gia đình 2 con là cao nhất chiếm 38,67%, còn đối với phụ nữ chưa đi học thì quy môgia đình 4+ là chủ yếu. Sở dĩ có sự khác biệt đó là đối với những người có trình độ học vấn cao thì sự hiểu biết về các biện pháp KHHGĐ cũng được nâng lên, bên cạnh đó họ còn cho rằng có ít con thì họ mới có đIều kiện chăn sóc sức khẻo cho con của họ được tốt hơn hay nói một cách đi là họ quan tâm đến chất lương nuôi dạy con cái sau này và khi người phụ nữ có trình độ học vấn cao thìthì thời gian dành cho việc nghiên cứu học tập và tham gia các hoạt động xã hội chiếm phần lớn thời gian của họ nên thời gian dành cho gia đình sẽ ít hơn, vì thế số con mong muốn của họ giảm xuống. Ngược lại đối với những người có trình độ học vấn thấp thì nhận thức của họ về KHHGĐ còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó họ còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo ưa thích gia đình đông con, đặc biệt là gia đình đông con trai. Do vậy, đa số trong số những người là ưa thích gia đình đông con.
II. ảnh hưởng của trình độ học vấn đến hành vi sinh sản
1. ảnh hưởng của trình độ học vấn đến số con mong muốn và số con thực tế
Trình độ học vấn nó tác động một cách gián tiếp đến số con được sinh ra của các bà mẹ, bởi lẽ con người với ý thức và trí tuệ, tư duy của mình nên mọi hành động đều là kết quả của suy nghĩ của họ. Nhưng mỗi người khác nhau có cách suy nghĩ và hành động khác nhau, tuỳ thuộc vào trình độ học vấn của họ. Vì vậy hành vi sinh sản và số lần sinh sản xuất phát từ từ sự mong muốn của người vợ và người chồng về số lượng và chất lượng con cái. Như vậy, số con mong muốn của họ có ảnh hưởng đáng kể đên mức sinh. Khác với số con lý tưởng hàm ý không tưởng, số con mong muốn trong hoàn cảnh sống cụ thể bao gồm cả số lượng và chất lượng, phụ thuộc vào hoàn cảnh thời gian, phản ánh được xác thực về số con họ muốn có phù hợp với điều kiện sống. Nhu cầu về số con mà người ta cho là hợp lý sẽ quyết định trực tiếp đến mức sinh. Số con mong muốn cũng góp phần hình thành nên quy mô gia đình lý tưởng. Chỉ tiêu số con mong muốn cũng chịu ảnh hưởng của trình độ học vấn đặc biệt là trình độ học vấn của phụ nữ. Trình độ học vấn sẽ làm thay đổi những quan niệm về số con mong muốn và chất lượng của những đứa con. Người phụ nữ có trình độ học vấn thì họ sẽ có nhận thức hợp lý về số con họ muốn có nhằm đảm bảo quy mô gia đình lý tưởng và đảm bảo chất lượng của con caisau này.
Bảng 22: Trình độ học vấn và số con mong muốn trung bình
Trình độ học vấn
Số con trung bình
Chưa đI học
2,87
Tốt nghiệp tiểu học
2,67
Tốt gnhiệp PTCS
2,61
Tốt nghiệp PTTH
2,2
Tốt nghiệp cao đẳng
1,96
Tốt nghiệp đại học
1,94
Nguồn: Cục thống kê Thanh hóa năm 1998
Qua bảng số liệu trên ta nhận thây số con mong muốn trung bình có xu hương sgiảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên, với những người phụ nữ chưa đi học thì số con mong muốn của họ là cao nhất 2,87 con, tiếp đến là số con mong muốn giảm dần khi trình độ học vấn tăng lên, số con mong muốn thấp nhất là đối với phụ nữ có trình độ đại học ( 1,94 con). Do đó, trình độ học vấn có tác động một cách gián tiếp đến mức sinh của người phụ nữ thông qua số con mà họ muón có, vì thế muốn hạn chế mức sinh thì việc nang cao trình độ học vấn là việc làm hết sức cần thiết.
Tuy nhiên số con mong muốn của phụ nữ ở các độ tuổi khác nhau là rất khác nhau, để thấy được tác động của trình độ học vấn đối với số con mong muốn của phụ nữ ở các độ tuổi khác nhau ta hãy xem xét bảng số liệu sau.
Bảng 23: Trình độ học và số con mong muốn chia theo nhóm tuổi.
Nhóm tuổi
Trình độ học vấn
Chưa đI học
Chưa TN PTCS
TN PTCS
TN PTTH
TN CĐ-ĐH
15-19
3,40
2,91
2,65
2,23
1,98
20-24
3,25
2,86
2,53
2,24
2,18
25-29
3,46
3,12
2,87
2,62
2,28
30-34
3,67
3,38
3,03
2,95
2,21
35-39
3,87
3,46
3,27
3,09
2,38
40-44
4,05
3,92
3,67
3,12
2,56
45-49
4,11
3,96
3,71
3,12
2,67
chung
3,81
3,4
3,12
2,67
2,38
Nguồn: Cục thống kê Thanh hóa
Qua bảng số liệu trên ta nhận thấy số con mong muốn trung bình của phụ nữ có xu hướng tăng lên theo các nhóm tuổi, cao nhất là nhóm tuổi 45-49, bên cạnh đó cùng với sự tăng lên của trình độ học vấn thì số con mong muốn trung bình ứng với các nhóm tuổi có xu hướng giảm xuống. Trong bảng số liệu trên số con mong muốn trung bình của phụ nữ trong nhóm tuổi 15-19 ứng với trình độ CĐ-ĐH thì có số con mong muốn trung bình thấp nhất 1,98 con. Như vậy đối với lớp thanh niên có trình độ học vấn cao thì việc mong muốn có ít con là phổ biên schủ yếu trong số họ muốn có từ 1- 2 con, vì đối với những người phụ nữ này họ đã tự trang bị cho mình có được kiến thức rất vững vang về hôn nhân gia đình, họ có nhận thức cũng như hiểu biết rất rõ về những chi phí phảI bỏ ra khi sinh con. Mặt khác cũng cùng nhóm tuổi 15-19 thì sự lựa chọn số con mong muốn trung bình của họ khác hẳn, số con trung bình mà họ mong muốn là 3,4 con chênh lẹch với phụ nữ có trình độ CĐ-ĐH là gần 1,5 con. Như vậy ta có thể nói rằng đối với những phụ nữ có trình độ học vấn thì họ ý thức được số con phù hợp với đIều kiện sống và hoàn cảnh của họ.
2. Trình độ học với việc lựa chọn giới tính.
Việt nam nói chung và Thanh hóa nói riêng còn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa nơI mà tư tưởng trọng namkhinh nữ vẫn đang cònphổ biến, tư tưởng muốn có con trai để nối rõi tông đường vẫn còn ăn sâu vào tiềm thức họ. Khi nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của trình độ học vấn với việc lựa chọn giới tính, chúng ta lại nhận thấy trình độ học vấn của người mẹ có ảnh hưởng không nhỏ đến sở thích có con trai, con gái. Trong một cuộc đIều tra về quan niệm con trai, con gái ở đồng băng bắcbộ một câu hỏi được đặt ra là “ theo chị nếu trong gia đình chưa có con trai hoặc con gái có nhất thiết phải đẻ cho đến khi có con trai, con gái không ? và thu được kết quả như sau.
Bảng 24: Giáo dục của người mẹ và giới tính của con Đơn vị %
Văn hoá
Trai
Gái
Có
Không
Không ý kiến
Có
Không
Không ý kiến
< 7
78,2
17,4
4,3
30,4
65,2
4,3
= 7
62,0
38,0
0
30,4
69,6
0
> 7
37,5
62,5
0
37,5
62,5
0
Tổng số
64,0
35,0
1
31,5
68,0
1
Nguồn: Dân số đồng băng bắc bộ những người nghiên cứu từ góc độ xã hội học
Từ kết quả trên ta có thể kết luận tỷ lệ ưa thích con trai cao hơn con gái rất nhiều (64% so với 31,5%), nếu chỉ xét về sự ưa thích con trai cho thấy có tới 78,2% phụ nữ dưới lớp 7 trả lời phải đẻ cho bằng được con trai trong khi đó tỷ lệ này ở phụ nữ lớp 7 là 62% và phụ nữ trên lớp 7 là 37,5%. Sự khác biệt giữa tỷ lệ cao nhất và tỷ lệ thấp nhất là hơn hai lần. Như vậy trình độ học vấn càng cao thì quan niệm về giới tính càng được cân bằng.
Trong một cuộc phỏng vấn được tiến hành ở một xã miền núi huyện Hà trung- Thanh hóa, một xã còn nghèo, trình độ học vấn của người dân còn tương đối thấp. Trong số 8 gia đình được hỏi thì đa số trong số họ có từ 2-3 con, có gia đình có tới 4-5 con. Đối với nững gia đình có trình độ lớp 4 lớp 5 thì ho đều cho rằng họ thích sinh con trai hơn con gái, khi được hỏi nếu sinh đếncon thứ 2vẫn là con gái thì chị có tiếp tục sinh cho bằng được con trai không ? thì họ trả lời là có, còn đối với những người có trìng độ lớp 7 cũng câu hỏi như vậy đa số họ đểutả lời rằng chỉ nên có hai con va họ không muốn đông con, nhưng nếu cả 2 con đều là con gái nếu có điều kiện về kinh tế thì họ rất muốn có thêm một đứa con trai, đối với những người có trình độ trên lớp 7 thì hị cho rằng chỉ nên có từ một đến hai con và họ quan niệm rằng con trai hay con gái đều là con của mình, cái chính lầphỉ cho nó ăn học nên người, tuy nhiên họ cũng cho rằng nên có một con trai và một gái là hợp lý nhất.
Từ hai dẫn chứng trên ta có thể kết luận về sự ảnh hưởng của trình độ học vấn đên sviệc lựa chọn giới tính ở Thanh hóa nư sau: ở Thanh hóa nói riêng và Việt nam nói chung vẫn còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo “trong nam khinh nữ” nhưng mức độ ảnh hưởng có sự khác nhau nó phụ thuộc vào trình độ học vấn. Đối với những người phụ nữ có trình độ học vấn thấp thì vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng này, còn đối với những người có trình độ học vấn thì họ dường như chủ động hơn trong việc lưa chon giới tính, tuy nhiên họ phảI sống trong môi trường mà tư tưởng nho giáo trong đại đa số người dân thì, nhất là đối với những người cao tuổi nên trong tư tưởng của họ ít nhiều vẫn mang tư tưởng đó.
3. Trình độ học vấn với tuổi sinh con đầu lòng và khoảng cách giữa các lần sinh.
Tuổi sinh con đầu lòng nó biểu hiện thái độ nhận thức của người phụ nữ, đối với hành vi sinh sản của mình, nó cũng là nhân tố có ảnh hưởng nhất định đến mức sinh. Với chế độ sinh đẻ tự nhiên người phụ nữ sinh con sớm sẽ làm tăng mức sinh của xã hội và số con họ sẽ cao. Cũng như những nhân tố khác tuổi sinh con đầu lòng cũng chịu ảnh hưởng của trình độ học vấn. Mỗi cặp vợ chồng sau khi cưới đều tự ý thức được việc sinh con để cái, tuỳ thuộc vào nhận thức của mỗi người mà họ sẽ quyết định thời điểm sẽ có đứa con đầu tiên, Những người có trình độ học vấn thấp thưòng chịu sức ép của ngoại cảnh tác động lên những ý địh về đứa con đầu lòng của mình như những quyết định của chồng và gia đình họ tộc nhà chồng về sở thích về sở thích có con trai và số con mong muốn, do học vấn thấp họ chưa có được tiếng nói mang tính chất quyết định trong gia đình, mọi việc trong gia đình họ phải nhất nhất tuân theo kể cả việc quyết đinh thời đIểm sinh đúa con đầu lòng, vớ họ việc sinh đứa con đầu lòng ngay sau khi cưới là điều tất yếu mà không mấy quan tâm chuẩn bị đIều kiện tôt nhất cho đứa con. Ngược lại đối với những người có trình độ học vấn cao bao giờ họ cũng có quyền tự chủ hơn trong mọi quyết định, một mặt do có học vấn cao nên họ có được tiếng nói tích cực trong gia đình không bị thụ đông do các tác động của ngoại cảnh, họ không thể tuân theo các quyết đinh về số con nếu điều kiện chưa cho phép họ làm điều đó. Thứ hai nhờ có học vấn cao những người phụ nữ này chỉ sinh đứa con đầu lòng khi điều kiện để đứa con đầu lòng chào đời được họ chuẩn bị một cách tối ưu nhất.
Bảng 25: Trình độ học vấn với tuổi sinh con đầu lòng trung bình của phụ nữ.
Trình độ học vấn
Tuổi sinh con đầu lòng trung bình
1. Chưa đi học
19,96
2. Chưa TN cấp I
20,76
3. TN cấp I
21,59
4. TN cấp II
23,12
5. TN cấp III trở lên
24,48
Nguồn: UBDS-KHHGĐ Tỉnh Thanh hóa năm 1997
( kết quả điều tra chọn mẫu)
Đối với những phụ nữ chưa đi học thì tuổi sinh con đầu long trung bình là thấp nhất 19,96 tuổi, phụ nữ có trònh độ từ tốt nghệp từ cấp 3 trở lên có tuổi sinh con đầu lòng cao nhất 24,8 tuổi cao hơn so với phụ nữ chưa đi học là 4,85 tuổi sự chênh lệch này là tương đối lớn, vì thế nó tạo ra sự khác biệt đố với mức sinh. Đối với phụ nữ chưa tốt nghiệp câp 1 và phụ nữ chưa đi học thì sự chênh lệch về tuổi sinh conđầu lòng là 0,8 năm, giữa phụ nữ tốt nghiệp cấp 2 và tốt nghiệp cấp 1là 1,53 năm, giữa tốt nghiệp cấp 2 và tốt nghiệp cấp 3 là 1,96 năm.
Như vậy tuổi sinh con đầu lòng tỷ lệ thuận với trình độ học vấn và khoảng cách giữa các độ tuổi càng tăng lên theo trình độ học vấn, lý do đó là đối với những người phụ nữ có trình độ học vấn cao thì họ phải dành nhiều thời gian cho việc học tập và công việc. Do vậy, tuổi sinh con đầu lòng của ho là cao nhất, còn đối với những người có trình độ học vấn thấp thì hoàn toàn ngược lại do công việc xã hội của họ hầu như không có cho nên họ chỉ quan tâm đến công việc gia đình, vì thế tuổi sinh con đầu lòng của họ là rất thấp.
* Bên cạnh đó trình độ học vấn cũng có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến khoảng cách giữa các lần sinh của người phụ nữ, khi trình độ học vấn càng cao thì người phụ nữ có xu hướng lựa chon khoảng cách sinh con đầu lòng hợp lý, phù hợp với mình nhất để khi sinh đứa con tiếp theo có lợi nhất cho sức khoẻ của cả bà mẹ và trẻ em, ngược lai đối với người phụ nữ có trình độ học vấn thì họ không chủ động trong việc lựa chọn khoảng cách giữa các lần sinh con, thường thì khoảng cách giữa các lần sinh của họ rất ngắn và đIều đó là không có lợi cho sức khoẻ của bà mẹ và trẻ em.
Theo cuộc đIều tra phỏng vấn ở huyện Hà trung cho thấy, đối với phụ nữ có strình độ từ lớp 7 trở lên khi được hỏi theo anh chị thì khoảng cách giữa hai lần sinh là bao nhiêu năm là hợp lý họ trả lời khoảng từ 3-5 năm là hợp lý,khi hỏi tại sao thì họ cho rằng với khoảng cách đó thì có lợi nhất cho sức khoẻ của họ và con. Ngược lại, đói với những người có trình độ dưới lớp 7 thì đa số họ chọn khoảng cách giữa các lần sinh là từ 1-2 năm.
III. Trình độ học với việc nhận thức và sử dụng các bịên pháp tránh thai
Trình độ học vấn là yếu tố tác động mạnh mẽ đến mức sinh mhưng nó không tác động một cách trực tiếp, mà thông qua một số yếu tố trung gian như: Tuổi kết hôn, sự hiểu biết và sử dụng các BPTT, hành vi sinh sản ...trong đó sử hiểu biết và sử dụng các BPTT là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến mức sinh của người phụ nữ. mục đích của việc sử dụng các BPTT thứ nhất đó là hoặc là tránh thai hoàn toàn hoặc trì hoãn việc có thai sớm hay nói một cách khác là làm trì hoãn khoảng cách giữa hai lần sinh, thứ hai đó là tránh thai vĩnh viễn có nghĩa là người sử dụng nó sẽ chấm dứt việc sinh sản, mặt khác việc sử dụng các BPTT trước hết chịu sự tác động của tuổi tác và sự am hiểu về các BPTT kể cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Để hiểu hơn về vấn đề này ta lần lượt nghiên cứu sự tác động của trình độ học vấn với sự am hiểu và sử dụng các BPTT ở số khía cạnh sau.
1. Trình độ học vấn với việc nhận thức về các biện pháp tránh thai
Việc thực hiện các BPTT phụ thuộc vào trình độ học vấn của người sử dụng. Trình độ học học là cơ sở để cho người sử dụng có khả năng đón nhận và hiểu biết và hiểu biết nhiều hơn các thông tin xã hội trong đó có thông tin về dân số - KHHGĐ, phụ nữ có học vấn cao sẽ có nhiều cố ắng điều khiển hành vi sinh đẻ của mình, để đạt được chuẩn mực của sự tiến bộ xã hội đó là mỗi gia đình chỉ nên có từ một đến hai con. Do vậy, học vấn cao sẽ trang bị cho họ đầy đủ kiến thức và hiểu biết được tác dụng của các BPTT. Từ đó sẽ nâng cao nhận thức của họ, cho phếp họ thực hiện các biện pháp KHHGĐ khác nhau một cánh có hiệu quả, phù hợp với bản thân để có thể điều chỉnh được số con mong muốn.
Bảng 26: tỷ lệ hiểu biết về các BPTT
Nhóm đối tương theo tưng BPTT
Trả lời
Có hiểu biết
Không hiểu biết
Dụng cụ tử cung
97,28
2,72
đình sản nam
95,60
4,40
Bao cao su
100,00
0,00
Thuốc tránh thai
97,56
2,44
Nguồn: UBDS-KHHGĐ tỉnh Thanh hóa năm 1999
Qua bảng số liệu trên ta thấy hầu hết trong số người được hỏi đều có hiểu biết nhất định về các BPTT, đặc biệt là bao cao su thì có 100% đối tượng được hỏi đều biết, có lẽ rằng biện pháp này trong thời gian gần đây được rất nhiều người sử dụng, vì trong một hai năm gần đây biện pháp này đã được tuyền truyên rất nhiều trên các phương tiện phát thanh truyền hình. Tuy nhiên, cũng còn một phần nhỏ số người không có hiểu biết về BPTT mà mình đang sử dụng, lý do chính ở đây là do trình độ học vấn của những đối tượng này còn thấp. Do vậy, để thấy được mức độ ảnh hưởng của trình độ học vấn với việc am hiểu về các BPTT ta hãy xem xét bảng số liệu sau.
Bảng 27: Tỷ lệ phụ nữ hiểu biết về các BPTT và nguồn cung cấp chia theo trình độ học vấn
Trình độ học vấn
Phụ nữ có chồng
Hiểu biết một BPTT bất kì
Hiểu biết về BPTT hiện đại
Biết nguồn
Chưa đI học
80,81
79,12
65,18
Chưa tốt nghiệp I
93,23
85,52
75,64
Tốt nghiệp cấp I
97,47
89,17
80,41
Tốt nghiệp cấp II
98,32
97,19
95,19
Tốt nghiệp cấp III trở lên
99,49
99,25
99,01
Nguồn: UBDS- KHHGĐ tỉnh Thanh hóa năm 1998
Qua bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ hiểu biết về các BPTT tăng dân theo trình độ học vấn. Đối với phụ nữ chưa đI học có gần 20% không biết một BPTT nào, nhưng đối với những người có trình độ từ cấp I trở lên thì số người không hiểu biết về một biện pháp bất kì nào chỉ có 5% tức là thấp hơn 4 lần so với phụ nữ chưa đi học , bên cạnh đó chúng ta cũng nhận thấy rằng với những người phụ nữ có trình độ tốt nghiệp cấp I, tốt nghiệp cấp II, tốt nghiệp cấp III trở lên thì sự khác biệt về sự hiểu biết về một BPTT bất kì là rất ít chỉ khoảng 1%. Điều đó nói lên rằng để có kiến thức về các BPTT thì người phụ nữ chỉ cần đạt đến một trình độ nhất định nào đó,thì họ có thể hiểu biết được tương đối đầy đủ về các BPTT hay nói một cách khác ở trình độ đó người phụ nữ nhận thức được rằng việc sử dụng các BPTT là rất cần và tự họ sẽ tìm đến một BPTT phù hợp với mình.Điều này còn thể hiện rõ khi hỏi về nguồn gốc cung cấp các BPTT đối với những người có trình độ từ cấp I trở lên thì cvơ trên 80% số người hiểu biết về nguồn gốc của các BPTT mình đang sử dụng, đặc biệt là đối với phụ nữ có trình độ từ cấp II trở lên thì gần như 100% số người được hỏi đều biết. Còn đối với những phụ nữ chưa bao giờ đI học thì hoàn toàn ngược lại, tỷ lệ người được hỏi không biết về nguồn gốc của các BPTT là rất cao ( gần 40%) đIều này cũng thật lý giải, bởi vì đối với đối tượng này không quan tâm, không nhận thức được sự cần thiết của việc sử dụng các BPTT đối với việc hạn chế mức sinh, vì thế họ cũng không quan tâm nhiều đến nguồn gốc của nó. Mặt khác, ta lại nhận thấy không chỉ ảnh hưởng đến nguồn gốc cũng như một BPTT bất kì nào đó mà nó còn ảnh hưởng đến sự hiểu biết về các BPTT khác.
Bảng 28: Trình độ với sự hiểu biết về các biện pháp tránh thai khác nhau
Trình độ học vấn
Phụ nữ đã có chồng
BPTT hiện đại
BPTT truyền thống
Chưa đi học
79,12
80,67
Chưa tốt nghiệp I
85,52
88,23
Tốt nghiệp cấp I
89,17
93,18
Tốt nghiệp cấp II
97,19
99,47
Tốt nghiệp cấp III trở lên
99,17
99,62
Nguồn: UBDS – KHHGĐ tỉnh Thanh hóa năm 1998
Dù là BPTT truyền thống hay BPTT hiện đại thì một lần nữa chúng ta, có thể khảng định rằng trình độ học vấn tỷ lệ thuận với việc hiểu biết về các BPTT. Tuy nhiên, mức độ hiểu biết về các BPTT khác nhau là không giống nhau, theo bảng số liệu trên ta nhận thấy tỷ lệ nữ hiểu biết về BPTT hiện đại nhỏ hơn so với các BPTT truyên fthống, sở dĩ có tình trạng này là do có sự khác biệt về thời gian xuất hiện các loại BPTT. Đối với BPTT truyền thống do được người sử dụng biết đến trước nên tỷ lệ người hiểu biết về nó nhiều hơn và tỷ lệ hiểu biết về nó cũng tăng dần lên cùng với trình độ học vấn. Ngược là đối với các BPTT hiện đại do có thời gian du nhập vào sau nên tỷ lệ người biết là ít hơn. Nhưng trong thời gian không xa nữa thì tỷ lệ người sử dụng các BPTT hiện đại sẽ tăng hơn hẳn so với các BPTT truyền thống do các ưu điểm nỗi bật của nó ( tiện sử dụng, hiệu quả phòng ngừa cao, khong có các tác dụng phụ đối với người sử dụng).
Khi đánh giá về sự hiểu biết về các BPTT người ta cũng nhận thấy rằng có sự khác biệt khá lớn về sự am hiểu về các BPTT giữa hai vùng nông thôn và thành thị.
Bảng 29: Tỷ lệ hiểu biết về các BPTT chia theo khu vực
Khu vực
Biện pháp hiện đại
Biện pháp truyền thống
Thành thị
96,23
87,65
Nông thôn
75,23
80,12
Nguồn: UBDS – KHHGĐ Tỉnh Thanh hóa năm 1998
ở khu vực thành thị mức độ am hiểu về các BPTT hiện đại là 96,23, đối với khu vực nông thôn là 75,23 sự khác biệt này là trên 20%, sở dĩ như vậy là do ở thành thị người dân có trình độ học vấn cao hơn so với khu vực nông thôn, nên họ có sự hiểu biết về các biện pháp tránh thai tốt hơn ở khu vực nông thôn và việc thực hiện KHHGĐ cũng tốt hơn. Do đó, làm cho mức sinh ơ khu vực thành thị giảm một cách tương đối ổn định.
2. Trình độ học với việc sử dụng các biện pháp tránh thai
Biện pháp tránh thai là yếu tố quýêt định đến hành vi sinh sản của người phụ nữ do vậy để thấy được xu hướng sử dụng các BPTT ở tỉnh trong những năm gần đây ta hãy tham khảo bảng số liệu sau
Bảng 29: Tỷ lệ sử dụng các BPTT từ 1995-1999 Đơn vị: %
Chỉ tiêu
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Vòng tránh thai
53,61
55,60
61,55
56,31
48,77
Đình sản nam
0,94
0,81
0,34
0,21
0,11
Đình sản nữ
3,98
3,74
3,19
2,61
1,98
Bao cao su
17,56
18,67
15,93
16,14
17,77
Thuốc tránh thai
10,19
9,76
5,36
8,78
10,05
Tiêm tránh thai
-
0.08
0,38
0,51
1,12
Cờy tránh thai
-
0,014
-
0,035
-
Biện pháp khác
13,72
11,33
13,25
15,40
20,2
Tổng
100
100
100
100
100
Nguồn: UBDS-KHHGĐ tỉnh Thanh hóa
Qua bảng số liệu trên trong thời kỳ 1995-1999 vòng tránh thai là biện pháp được sử dụng nhiều nhất chiếm trên 50% trong các BPTT áp dụng, tỷ lệ người sử dụng cao nhất biện pháp này là vào năm 1997 (61,55%) tiếp đến là bao cao su cũng là một biện pháp có tỷ lệ người áp dụng tương đối lớn và thương đối ổn định qua các năm giao động từ 15-18%, số người áp dụng thuốc tránh thai cũng có từ 5- 11% , tuy nhiên việc áp dụng biện pháp này không có tính chất ổn định, thườngg có sự khác biệt lớn giữa các năm. Điều đáng lưu ý là biện pháp đình sản được áp dụng ở cả nam và nữ nhưng với tỷ lệ không cao và có sự khác biết đáng kể giữa nam và nữ. Sự khác biệt này giao động từ 4-18 lần. Xu hướng áp dụng biện pháp này ngày càng có xu hướng giảm xuống. Tính đến năm 1999 thì chỉ có 0,11% nam và 1,98% nữ áp dụng đình sản, và trong tương lai không xa biện pháp này có thể còn giảm xuống nữa.
Qua kết quả phân tích trên ta thấy rằng có trên 70%các BPTT áp dụng cho nữ, vì thế vai trò của phụ nữ trong việc thực hiện các BPTT có tính chất quyết định đến thành công hay thất bại của chương trinh DS-KHHGĐ ở Thanh hóa. Do đó, việc giáo dục và nâng cao trình độ học vấn sẽ trang bị cho người phụ nữ kiến thức về kinh tế cũng như xã hội mà từ đó sẽ giúp họ tiếp cận rễ ràng hơn đối với các BPTT.
Để thấy được mức độ ảnh hưởng của trình độ học vấn đến việc. Do đó các BPTT và lựa chọn BPTT hợp lý ta hãy xem xét bảng số liệu sau
Bảng 30: Cơ cấu sử dụng các BPTT theo trình độ học vấn Đơn vị :%
Các BPTT
Trình độ học vấn
Chưa đI học
Chưa TN PTCS (1-4)
TN PTCS (5-8)
TN PTTH bậc 1(9-11)
TN PTTH bậc 2 (12)
Tổng
100
100
1000
100
100
Thuốc tránh thai
5,55
3,00
1,15
0,06
1,07
Vòng tránh thai
69,44
69,46
72,44
73,62
66,74
Tiêm tránh thai
-
-
-
0.09
-
Màng ngăn, kem, S.B
-
-
0,15
-
-
Bso cao su
-
-
2,45
2,58
8,37
Đình sản nữ
-
8,38
10,53
9,91
7,08
Đình sản nam
16,66
7,78
4,04
0,60
0.21
Tính vòng tinh, XTN
5,55
7,78
7,21
1,46
16,31
Biện pháp khác
2,80
3,60
2,03
1,14
0,21
Nguồn: Cục thống kê Thanh hóa năm 1998
Bảng kết quả trên được tính từ kết quả đIều tra chọn mẫu gồm 2666 người. Ta nhận thấy rằng có tới 73,52% số phụ nữ sử dụng vòng tránh thai và đối với biện pháp này được áp dụng hầu như không có sự khác biệt đáng kể giữa những người cơ trình độ học vấn khác nhau. Bởi vì đối với biện pháp này ở Thanh hóa thực hiện rất rộng rãi và được thực hiện miễn phí hoàn toàn đối với nhưng người phụ nữ muốn áp dụng biện pháp này thì hàng kỳ đều có các công tác viên dân số ở tuyến huyện về tận xã để giúp các chị em phụ nữ thực hiện các biện pháp KHHGĐ. Mặt khác do ưu điểm của chính biện pháp này là chỉ cần thực hiện 1 lần và áp dụng được trong một khoảng thời gian khá dài, hiệu quả phòng ngừa cao.
Qua bảng số liệu trên cũng cho ta thấy rằng số người đình sản cao hơn nhiều so với nam giới nhất là lên trình độ càng cao thì sự khác biệt này càng lớn, đối với nhóm TN PTCS (5-8) Là 6,59%, nhóm TN TPTH Bậc 1 là 9,31% , nhóm TN PTTH bậc 2là 6,87%. Nguyên nhân của tình trạng này là do tư tưởng trọng nam khinh nữ mà vấn đề KHHGĐ chủ yếu do người phụ nữ chịu trách nhiệm, và người đàn ông dường như đứng ngoài cuộc. Bởi thế ta thấy biện pháp này chủ yếudcáp dụng ở nữ giới. Ta cũng nhận thấy một xu hướng ở đây là khi trình độ học vấn càng cao thì ở cả nam và nữ tỷ lệ người áp dụng các biện pháp này ngày một giảm xuống. Phải chăng khi trình độ học vấn càng cao thì người ta càng hoài nghi về biện pháp này, là nó có tác động sấu đén sức khẻo của người thực hiện và như vậy người ta sẽ tìm đến các biện pháp khác thay thế cho biện pháp này.
Điều này thể hiện rõ qua việc sử dụng hai biện pháp bao cao su và tính vòng kinh, xuất tinh ngoài. Đối với cả hai biện pháp này đều có chung một xu hướng, đó là khi trình độ học vấn càng cao thì xu hướng sử dụng các biện pháp này càng tăng. ở biện pháp tính vòng kinh, xuất tinh ngoài, đối với những người chưa đi học thì tỷ lệ sử dụng là 5,5%, con đối với những người tốt nghiệp PTTH bậc 2là 16,31% sự chênh lệch này là gần 3 lần. Tuy nhiên ở đây ta không khảng định rằng trình độ học vấn luôn luôn tỷ lệ thuận với việc sử dụng các BPTT mà có một số BPTT đối với người có trình độ học vấn thấp lại sử dụng nhiều hơn chẳng hạn như việc sử dụng biện pháp dình sản đối với người chưa đi học lại có tỷ lệ cao nhất, với nam là 16,66%. Do đó ta có thể kết luận rằng việc sử dung các BPTT nó phụ thuộc vào thái độ của người sử dụng đối với vấn đề KHHGĐ và sự hiểu biết của họ về các BPTT. Tuy nhiên, ở đây ta cũng không thể phủ nhận được vai trò của công tác truyền thông, tư vấn về DS-KHHGĐ đối với việc sử dụng các BPTT. Qua bảng số liệu trên ta cũng nhận thấy một điều nữa là đối với những người chưa đi học thì tỷ lệ người sử dụng vòng tánh thai cũng tương đương với nhóm có trình độ học vấn khác.
Để hiểu rõ hơn về sự khác biệt giữa trình độ học vấn với việc sử dụng các BPTT khác nhau ta hãy xem bảng số liệu sau:
Bảng 31: Tỷ lệ phụ nữ 15-49 tuổi hiện đang có chồng chia theo trình độ học vấn và tình trạng sử dụng các BPTT
Trình độ học vấn
BPTT hiện đại
BPTT khác
Chưa đIihọc
100
0
Chưa TN cấp I
92,62
4,83
TN cấp I
92,95
7,05
TN cấp II
90,30
9,70
TN cấp III
85,27
14,73
TN CĐ-ĐH trở lên
83,50
16,50
KXĐ
100
0,00
Nguồn: Cục thống kê Thanh hóa năm 2000
Bảng số liệu trên được pnân tích từ kết quả của cuọc điều tra chọn mẫu, nên không cho ta biết chính xác về tình hình sử dụng các BPTT ở Thanh hóa nhưng dưa vào đây ta có thể biết được xu hướng mà thực tế đang diễn ra. Ta nhận thấy có hai xu hướng diễn ra trên bảng số liệu trên ứng với hai biện pháp. Đối với BPTT hiện đại thì tỷ lệ người sử dụng các biện pháp này có xu hướng giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên con đối với các biện pháp khác thì hoàn toàn ngược lại, khi trình độ học vấn càng cao thì tỷ lệ sử dụng các BPTT càng tăng lên. Như vậy, đối với những người có trình độ học vấn cao (ở đây là những người có trình độ học vấn từ cấp II trở lên), thì việc sử dụng các BPTT của họ không cứng nhắc chỉ tập trung vào một loại biện pháp nào mà họ luôn chủ động linh hoạt trong việc sử dụng các BPTT hợp lý phù hợp với mình nhất điều này được thể hiện rõ qua bảng số liệu trên. Còn đối với những người có trình độ học vấn thấp (phụ nữ chưa đến trường hoặc chưa TN cấp I) thì hoàn toàn ngược lại họ không chủ động chủ động linh hoạt trong việc sử dụng các loại BPTT, theo bảng số liệu trên thì có tới gần 100% phụ nữ sử dụng BPTT hiện đại và như vậy có nghĩa là đối với những người này mức độ rủi do trong việc sử dụng các BPTT sẽ cao. Vì vậy, hiện tượng sinh ngoài ý muốn thường xẩy ra ở những người phụ nữ có trình độ học vấn thấp.
Sự khác biệt về các loại hoạt động lao động khác nhau cũng tác động đến việc sử dụng các BPTT khác nhau
Bảng 32: Quan hệ giữa các loại lao động và việc sử dụng các BPTT
Biện pháp KHHGĐ
Phân loại lao động
LĐ trí óc
LĐ phi nông nghiệp
LĐ nông nghiệp
LĐ dự trữ
Toàn tỉnh
100
100
100
100
Thuốc tránh thai
0,84
2,96
0.75
3,20
Vòng tránh thai
65,52
48,88
75,43
61,29
Tiêm tránh thai
-
-
0,13
-
Màng ngăn, kem, S.B
-
-
-
-
Bao cao su
9,32
17,03
2,18
12,90
Đình sản nữ
5,93
8,15
9,82
9,67
Đình sản nam
-
-
2,18
-
Tính vòng kinh,XTN
14,40
21,48
8,10
12,94
Biện pháp khác
4,62
1,50
1,41
-
Nguồn: cục thống kê Thanh hóa năm 1998
Qua bảng số liệu trên ta nhận thấy đối với phụ nữ làm nông nghiệp thì việc sử dụng vòng tránh thai là chủ yếu chiếm 75,43%, lý do là đối với người làm nghề nông thì thu nhập của họ rất thấp nếu như sử dụng các BPTT hiện đại thì họ thường xuyên phải bỏ ra một khoản chi phí. Vì thế đây là vấn đề đáng quan tâm của họ. Tính vòng kinh, xuất tinh ngoàI được các phụ nữ làm nghề phi nông nghiệp sử dụng nhiều nhất với tỷ lệ tương ứng là 21,48% và 17,03%, mức độ tiếp theo là đối với lao động trí óc. Đối với cả hai biện pháp này thì đòi hỏi người sử dụng phảI có sự hiểu biết và phảI bỏ ra một khoản chi phí cho biện pháp mà mình sử dụng.
Các biện pháp đình sản nam nữ cũng được đối tượng làm nghề nông nghiệp sử dụng nhiều nhất, đối với nam là 2,18%, nữ là 9,28%. Khi thực hiện biện pháp nay thì đối với cả nam và nữ đều mất khả năng sinh đẻ, đối với những người làm nghề nông nghiệp thì đa số là có nhiều con, mà trong số các gia đình đông con thì có rất nhiều gia đình có đông nằm ngoài ý muốn của họ. Vì thế biện pháp naỳ đáp ứng được yêu cầu của loại đối tượng này biên cạnh đó đối với những người thực hiện biện pháp này họ còn nhận được một khoản tiền trợ cấp của Nhà nước để bồi dưỡng sức khẻo. Do đó, biện pháp này được đối tượng làm nghề nông nghiệp sử dụng nhiều nhất.
IV. Đánh giá hiệu quả của việc nâng cao trình độ học vấn tới việc giảm mức sinh ở Thanh hóa.
Thanh hóa là một tỉnh có quy mô dân số khá lớn, trong khi đó trình độ phát triển kinh tế còn thấp, thấp hơn mức trung bình của toàn quốc. Đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn nhất là đối với vùng nông thôn. Kinh tế kém phát triển nó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến cơ hội học tập của người dân, nên nhìn chung trình độ dân trí ở Thanh hóa còn thấp, đặc biệt còn thiếu những người có trình độ cao phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Trên thực tế hiên nay cho thấy những người có trình độ Cao đẳng - Đại học chỉ chiếm 1,38% dân số, số người có trình độ trên Đại học chỉ chiếm 0,0123% dân số. Trong khi đó tỷ lệ mù chữ vẫn còn cao chiếm 7,3% dân số trên 6 tuổi. Nhưng đối với học sinh đi học phổ thông lại chiếm tỷ lệ tương đối cao chiếm 91,11% ( dân số trên 6 tuổi). Điều đó phản ánh rằng nền giáo dục của Thanh hóa trong những năm gần đây đã có bước chuyển biến đáng kể và sự chuyển đó đã có ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội trong đó có ảnh hưởng mạnh đến mức sinh điều này được thể hiện ở một số mặt sau:
Trình độ học cao làm tăng tuổi kết hôn của người phụ nữ, theo kết quả phân tích thì sự chênh lệch này giữa những người chưa đi học với những người có trình độ từ cấp III trở lên là 5 năm.
Khi trình độ học vấn cao thì người phụ nữ có xu hướng sinh ít con hơn. Do đó làm cho số con trung bình của người phụ nữ giảm xuống, theo kết quả phân tích của UBDS-KHHGĐ tỉnh thì sự chênh lệch về số con trung bình , theo kết quả phân tíh của UBDS-KHHGĐ tỉnh thì sự chênh lệch về số con trung bình giữa phụ nữ có trình độ tốt nghiệp cấp III và phụ nữ chưa đi học là một con.
Trình độ học cao sẽ nâng cao địa vị của người phụ nữ, làm tăng vai trò của người phụ nữ sinh đẻ. Khi đó tiếng nói của họ có trọng lượng hơn, không còn lệ thuộc vào bố mẹ chồng trong các quyết định nhất là các quyết định về việc sinh con.
Trình độ học vấn cao, nó sẽ tác động tích cực đến nhận thức của người phụ nữ đối với mức sinh. Qua phân tích thực trạng của trình độ học vấn đối với mức sinh ta nhận thấy trình độ học vấn có quan hệ tỷ lệ thuận với mức sinh, tỷ lệ thuận với tuổi sinh con đầu lòng và tỷ lệ nghịch với số con mong muốn.
Trình độ học có tác động tích đến việc nhận thức và sử dụng các BPTT, đối với những phụ nữ có trình độ học vấn thì họ có nhận thức về các BPTT một cách sâu sắc hơn và thường lựa chọn cho mình một BPTT hợp lý.
Như vậy, khi trình độ học vấn của người dân được nâng cao thì đồng nghĩa với việc giảm mức sinh. Xu hướng ở Thanh hóa cho thấy trong vòng 10 năm 1989-1999 khi tỷ lệ mù chữ giảm từ 15,45% xuống còn 7,26% tức là giảm hơn hai lần thì mức sinh giảm được 0,4 lần ( từ 2,9% xuống 2,072%).
Vì thế việc nâng cao trình độ học vấn cho người nói chung và người phụ nữ nói riêng trở thành một yêu cầu không thể thiếu, nhằm nâng cao sự hiểu biết của đối với việc sinh đẻ có kế hoạch và góp phần giảm mức sinh xuống một tỷ lệ hợp lý.
Chương IV
Các giải pháp nhằm nâng cao trình độ học vấn và giảm mức sinh ở Thanh hóa
I. Các giải phápnhằm giảm mức sinh
1. Biện pháp vận động, khuyến khích tuyện truyền giáo dục
a. Tăng cương công tác truyền thông dân số
Thanh hóa là tỉnh có địa hình tương đối phức tạp hơn nữa trình độ phát triển kinh tế lại không đồng đều giữa các khu vực, vì thế việc mở rộng quy mô hoạt động của công tác DS-KHHGĐ là việc làm rấtcần thiết. Công tác DS-KHHGĐ ở đây phảI gắn với từng loại địa bàn và từng loại đối tượng, đIều đó có nghĩa là người làm công tác DS-KHHGĐ phảI dựa vào tình hình cụ thể của từng địa bàn, đề đưa ra cách tuyên truyền vận động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất tránh tình trạng tuyên truyền vận động moọt cách cứng nhắc. Cụ thể là thứ nhất, cần phải vận động cả đối tượng là nam giới tham gia vào việc thực hiện KHHGĐ, vì nam giới cũng là đối tương đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh sản, hơn thế nữa đối với nam giới họ thường quan niệm rằng việc sinh đẻ là việc của người phụ nữ, vì thế họ thường lẫn tránh trách nhiệm của mình. Do đó cần tích cực vận động nam giới tham gia thực hiên KHHGĐ để nhằm thay đổi quan niệm của họ về vấn đề KHHGĐ để họ hiểu hơn về vai trò trách nhiệm của mình, và là người bạn đắc lực giúp người vợ cùng tham gia tự nguyện thực hiện KHHGĐ, thứ hai là đi đôi với công tác tuyên truyền vận động thì người làm công tác KHHGĐ cần có những hành động cụ thể bằng cách cung cấp đầy đủ các BPTT đén tận tay người sử dụng, giúp họ thực hiện một cách có hiệu quả đối với việc sinh đẻ có kế hoạch.
b. Trú trọng đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ ở cấp cơ sở
Các kế hoạch về DS-KHHGĐ dù có hoàn hảo đến đâu nhưng nếu không được triển khai thực hiên tốt thì cũng không mang lại hiệu quả cao. Đó chính là lýdo tại sao cần phảI trú trọng đầu tư đúng mức cho những người thực hiện công tác DS-KHHGĐ ở cấp cơ sở. Mặc dù hiện nay nguồn kinh phí trung ương trợ cấp còn hạn chế, đối với mỗi cộng tácviên dân số ở cấp xã, một tháng họ chỉ nhận được một khoản tiền khoảng 100. 000 đồng, vơí số tiền it ỏ đó nếu như họ phải thực hiện công việc trên địa bàn rộng thì số tiền này may ra mớiđủ chi phí cho đi lại. Do đó nó không cótác dụng khuyến khích lọng nhiệt tình của họ. Vì thế cần phải trú trong đầu tư cơ sở vật chất và phúc lợi đối với những công tácviên dân số là việc làm rất cần thiết hiện nay. Nguồn kinh phí cho hoạt động cần có sự kết hợp giữa nguồn trợ cấp của Nhà nước và kinh phí của địa phương, trong đó đặc biệt trú trọng đến việc huy động nguồn kinh phí của địa phương. Bởi vì nếu trú trong đầu tư tốt cho công tác DS- KHHGĐ thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng dân số, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng đồng thời góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Bên cạnh đó đối với những cái nhân, những gia đình những tổ chức đoàn thể xã hội chấp hành thực hiện tốt công tác dân số KHHGĐ thì tuỳ thuộc vào đIều kiện cụ thể của từng nơI mà dưa ra hình thức chế độ khuyến khích cho phù hợp sao cho có tác dụng khuyến khích cao nhất họ tham gia. Chẳng hạn như đối với đối tượng làm nghề nông nghiệp là đối tượng có mức thu nhập thấp, vì thế áp dụng hình thức thưởng bằng tiền hoặc hiện vật cho những người tham gia thực hiện tốt KHHGĐ là việclàm rất hữu ích nó vừa có tác dụng họ biểu dương vừa có tác dụng nhắc nhở. Ngược lại đối với loại đối tượng là cán bộ công nhân viên chức thì cần có hình thức khuyến khíchđộng viên về mắt tinh thần như cấp bằng khen hoặc biểu dương toàn công ty đối với những người thực hiện tốt KHHGĐ thì sẽ có tác dụng khuyến khích rất cao.
c. Tăng cường công tác truyền thông dân số
Công tác truyền thông, thông tin giáo dục và tổ chứcquần chúng tập trung vào vào các khu vực nông thôn, tầng lớp buôn bán nhỏ, thợ thủ công và nội trợ, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên nhằm chuyển đổi về nhận thức về gia đình ít con. Bởi vì đối với những đối tượng trên trừ tầng lớp thanh niên còn lại hầu hết có trình độ học vấn thấp, sự hiểu biết về kiến thức xã hội còn nhiều hạn chế, họ không quan tâm đến sự thay đổi của đất nước, không hiểu được tầm quan trọng của việc thực hiện KHHGĐ.
Cần phải đưa giáo dục dân số vào các trường phổ thông nhằm trang bị những kiến thức cơ bản về dân số như: dân số và mô trường, dân số và việc làm, ảnh hưởng của gia tăng dân dân số đến thu nhập và mức sống chung của xã hội .. vì khi đã có kiến thức về dân số và các vấn đè liên quan thì người mới có đủ cơ sở vững chắc để tiếp thu về kiến thức KHHGĐ. Như vậy, việc đưa giáo dục dân số và KHHGĐ vào các trường phổ thông là rất cần thiết và bắt buộc. Vì trẻ em là tương lai của đất nước là nền tảng cho đất nước sau này. Do đó, chúng ta cần trang bị cho chúng hành trang bước vào đời không chỉ những kiến thức về tự nhiên, kiến thức xã hội mà cả kiến thứcvề DS- KHHGĐ.
2. Các biện pháp bắt buộc
Hiện nay ở Thanh hóa còn nhiều gia đình chưa chấp hành thực hiện việc sinh đẻ có kế hoạch theo đúng chủ chương quy định của Nhà nước, đặc biệt là đối với những gia đình làm nghề nông nghiệp.
Trong những năm vừa qua đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, thì Nhà nước đã có những quy định cụ thể đối với những trường hợp vị phạm việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch nó cũng đã góp phần hạn chế đáng kể những trường hợp sinh con thứ 3, những trên thực tế vẫn còn nhiều người vi phạm. Do vậy, UBDS-KHHGĐ tỉnh cần có những biện pháp phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của tỉnh đề ra những biện pháp cụ thể và nghiêm khác hơn đối với những đối tượng vi phạm là công chức Nhà nước.
Đối với đối tượng là những người làm nghề nông nghiệp, thợ thủ công những người hành nghề buôn bán nhỏ, thì chúngta cần đăc biệt quan tâm vì với đối tượng này thì hiện nay hầu như chưa có biện pháp hữu hiệu để những đối tương này tham gia chấp hành thực hiện tốt công tác KHHGĐ, nên hiện tương sinh con thứ 3 ở đối tượng này diễn rất phổ biến. Vì vậy, UBDS-KHHGĐ tỉnh cần phối hợp với chính quyền địa phương đề ra các biện pháp bắt buộc đối với đối tượng này để họ hiểu biết rõ hơn về trách nhiệm cua mình với việc thực hiện KHHGĐ. Chẳng hạn như đối với đối tượng làm nghề nông thì cần có những quy định bắt buộc liên quan đến quyền lợi của họ. Ví dụ như đối những người sinh con thứ 3 trở lên thì không được hưởng các chế độ ưu đãi, như không cấp thêm ruộng cho những đứa con thứ 3 trở lên, đồng thời với những đối tượng này cần có các hình thức khiển trách kỷ luật tại các cuộc họp hội đồng, các cuộc họp của chi hội phụ nữ ...
Đối với đối tượng là thợ thủ công những người hành nghề buôn bán nhỏ cần áp dụng biện pháp sử phạt hành chính kết hợp với biện pháp kinh tế. Ví dụ như đối với những người sinh con thứ 3 trở lên thì không được ưu tiên cho những nơI buôn bán thuận tiện và các biện pháp sử phạt bằng tiền cụ thể đối với những người vi phạm việc thực hiện KHHGĐ.
Có như vậy mới có tác dụng răn đe và dần dần đưa công tác DS-KHHGĐ của tỉnh đi vào nề nếp.
II. Các biện pháp nâng cao trình độ học vấn
Trình độ học vấn không trực tiếp làm giảm mức sinh nhưng nó có tác dụng tích cực đếnviệc hạn chế mức sinh. Vì vậy, việc nâng cao trình độ học vấn cho người dân hiện nay ở Thanh hóa là việc làm hết sức cần thiết. Để nâng cao trình độ học vấn cho người dân thì chúng ta có những biện pháp sau:
1. Tiến hành xoá nạn mù chữ nâng cao tỷ lệ người đi học.
Hiện nay ở Thanh hóa tỷ lệ người mù chữ còn cao (7,3%) vì thế để góp phần nâng cao trình độ học vấn cho người dân thì công việc trước tiên là cần xoá nạn mù chữ trong nhân dân. Đối tượng mù chữ ở Thanh hóa tập trung chủ yéu vào các đối tượng sống ở vùng nông thôn ven biển và vùng miền núi, vung sâu, vùng xa, nơI tập trung sinh sống của các dân tộc ít người. ở đó do đIều kiện kinh tế kém phát triển, cơ sở vật chất trường lớp còn nhiều thiếu thốn, đội ngũ giáo viên còn thiếu, cuộc sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn họ chưa có đIều kiện chăm lo đến việc học tập của con cái, vì thế cần phải đặc biệt chú ý vào hai loại đối tượng này. Muốn vậy, tỉnh cầncó sự đầu tư thoả đáng cho giáo dục ở những vùng này đông thời cần có các dự án đầu tư giúp các vùng này có điều kiện phát triển kinh tế nhằm tạo điều kiện thuậnlợi cho trẻ em đến trường
2. Phát triển các loại hình đào tạo
Nhằm tạo thêm cơ hội cho được đi học, nâng cao trình độ học vấn, kiến thức kỹ năng ngành nghề ...bằng cách phát triển thêm các loại hình đào tạo:
Khuyến khích mở các trường công lập bán công, dân lập, tạo đIều kiện thuận lợi cho các trường có nhu cầu học thêm ca.
Giáo dục lao động hướng nghiệp
Dạy nghề cho học sinh phổ thông ( cơ cấu ngành nghề sát với yêu cầu của xã hội, sát với hoàn cảnh của địa phương và theo khả năng của từng trường).
Mở rộng các lớp học từ thiện, các lớp học ngoài giờ hành chính để thu hút những người lao động nghèo không có điều kiện đi học
Mở rông các trường tự học tự làm, tạo điều kiện cho học có thu nhập trong khi còn đang đi học hoặc kết hợp vừa học văn hoá vừa học nghề, thu hút thêm nhiều học sinh tham gia, nhằm thêm tạo thêm cơ hội kiếm việc làm khi học sinh ra trường.
3. Nâng cao chất lượng giảng dạy
Nâng cao số trường cấp I, cấp II đạt tiêu chuẩn quốc gia, khuyến khích phong trào thi đua dạy tốt, học tốt trong tòan tỉnh, có hình thức khuýên khích thảo đáng đối với các tập thể cái nhân có thành tích trong giảng dạy. Thường xuyên nâng cao chất lượng giảng dạy, tổ chức huấn luyện cho giáo viên theo định kỳ, nhằm giúp họ tiếp thu được những kiến thức tiến bộ trong thời kỳ đổi mới, nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy được tốt hơn.
4. Đầu tư thoả đáng cho sự nghiệp giáo dục
NgoàI nguồn ngân sách do Nhà nước cấp thì tỉnh cần chủ động tạo ra nguồn thu, để tăng cường hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng của công tác giảng dạy
Kết luận
Qua nghiên cứu mối quan hệ giữa trình độ học vấn và mức sinh ở tỉnh Thanh hóa cho ta thấy trình độ học vấn là yếu tố tác động mạnh mẽ đến mức sinh tuy không trực tiếp làm giảm mức sinh, nhưng nó là yếu tố có ảnh hưởng lỡn đến thái độ hành vi sinh sản của người phụ nữ góp phần hạ thấp mức sinh. Tuy nhiên trình độ học vấn không tự nhiên có được mà nó là thành quả của sự nỗ lực cố gắng của xã hội và bản thân mỗi người.Qua nghiên cứu thực trạng về học vấn ở tỉnh Thanh hóa, ta thấy trình độ học vấn của người dân trong những năm gần đây có tăng lên đáng kể, nhưng vè chất lượng thì, đặc biệt là đối với vùng nông thôn và miền núi, do môi trường sống cũng như các yếu tố phong tục tập quán chi phối nên việc chăm lo học cho học tập cho người dân ở những vùng này còn rất nhiều hạn chế, nên trình độ học vấn của người dân ở những vùng này còn rất, đó chính là nguyên nhân dẫn đến mức sinh ở những vùng này còn cao. Vì vậy, qua đề tài nghiên cứu này em nhận thấy rằng để góp phần vào việc giảm mức sinh trong tỉnh, cần đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao trình độ học vấn, cũng như tạo điều kiện phát triển kinh tế nhiều hơn nữa cho người dân ở vùng nông thôn và miền núi
Cuối cùng em xin cám ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy Võ Nhất Trí.
TàI liệu tham khảo
1. Chủ biên. Nguyễn Đình Cử. Giáo trình dân số và phát triển
2.Giáo trình dân số học –chủ biện. GS. Phùng Thế Trường NXB Thống kê 1995
3.Học vấn và mức sinh. Đặng Xuân
4. Phan tân . Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh ở Việt nam
5. Niên giám thống kê tỉnh Thanh hóa 1996-1999
6. Kết quả đIều tra chọn mẫu về dân số 1996,1997,1998,1999,2000
7. Một số vấn đề về dân số học
8. Kết quả đIều tra về dân số KHHGĐ. UBDS-KHHGĐ
9. Khổng Văn Mẫn . Chính sách dân số và vấn đề giảm sinh
10. Tâm lý trọng nam khinh nữ trong xã hôI hiện nay. Khoa học về phụ nữ số 4-1995
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23300.doc