Đề tài Một số giải pháp nhằm phục hồi và phát triển các làng nghề tại tỉnh Thái Bình

UBND tỉnh cần phải tổ chức lại bộ máy quản lý nghành nghề TTCN từ tỉnh đến huyện, xã . Xác định rõ chức năng nhiệm vụ của các sở ngành từ tỉnh xuống tránh chồng chéo như hiện nay. Tăng cường chỉ đạo trực tuyến và quản lý Nhà nước giúp các địa phương phát triển TTCN và làng nghề Tỉnh nên xem xét ban hành tiêu chuẩn cụ thể về công nhận làng nghề, xã nghề, nghĩa vụ và những chính sách ưu đãi đối với làng nghề xã nghề. Chỉ đạo và cấp kinh phí cho các huyện thị xây dựng chương trình dự án đầu tư cụ thể nhằm khai thác tiềm năng của địa phương và thu hút nguồn lực từ bên ngoài

doc62 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 958 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm phục hồi và phát triển các làng nghề tại tỉnh Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế biến gỗ, lương thực thực phẩm là có tỷ lệ cơ khí hoá cao hơn. - Thị trường + Thị trường cung ứng nguyên vật liệu Nguồn nguyên liệu cung ứng chủ yếu cho hộ, cơ sở ngành nghề nông thôn là tại địa phương, đặc biệt là các hộ làm ngành nghề có giá trị nguyên liệu mua vào tại địa phương chiếm tới 80,84%. Phạm vi cung ứng nguyên vật liệu cho các cơ sở ngành nghề rộng hơn nhiều so với các hộ ngành nghề (43,2% giá trị nguyên vật liệu mua từ các địa phương khác trong nước và 2,38% từ nhập khẩu). Bảng14: Tình hình cung ứng nguyên vật liệu (%) Chỉ tiêu đánh giá Cơ sở chuyên Hộ làm ngành nghề 1. Cơ cấu giá trị NVL mua vào (%) - Tại địa phương 54,42 80,87 - Tại địa phương khác trong nước 43,2 19,12 - Từ nước ngoài 2,38 0,07 2. Cơ cấu cơ sở có đi mua NVL: mức độ đáp ứng - Về số lượng + Đảm bảo 92,64 96,67 + Không đảm bảo 7,63 3,33 - Về tính lập thời + Đảm bảo 92,31 95,58 + Không đảm bảo 7,69 4,62 - Về chất lượng + Đảm bảo 92,64 97,06 + Không đảm bảo 7,36 2,94 3. Tỷ lệ cơ sở gặp khó khăn về NVL - Do vận chuyển 25,0 13,24 - Giá cao 51,55 14,53 - Thuế cao 4,63 13,73 - Cơ chế quản lý 8,80 2,77 - Khác 28,70 6,82 Nguồn: cục chế biến nông lâm , Bộ NN&PTNT Qua bảng trên ta có thể thấy tình hình cung ứng nguyên vật liệu là tương đối thuận lợi mặc dù vẫn còn một số khó khăn. Nhìn chung cho tới nay hầu hết các đơn vị sản xuất đều ít hoặc không có quan hệ chặt chẽ với người cung ứng nguyên liệu chính vì thế thị trường này thường kém ổn định. Nhiều nghề thường xuyên phải mua bù nguyên liệu từ ngoài vào như Dệt bao đay (Đông Quang - Đông Hưng), dệt chiếu (Quỳnh Phụ), chạm bạc (Kiến Xương). Để tình hình nguyên liệu được cung ứng bảo đảm hơn cần phải thiết lập quan hệ giữa người cung cấp nguyên liệu với người sản xuất và người tiêu thụ sản phẩm Cùng với chiến lược phát triển các làng nghề chúng ta cũng cần phải xem xét quy hoạch những vùng nguyên liệu có như vậy thì mới có thể sản xuất ổn định lâu dài. Việc khai thác tối đa khả năng cung cấp nguyên vật liệu tại chỗ sẽ làm giảm chi phí vận chuyển cho các đơn vị sản xuất. Giá cao là nguyên nhân khá rõ chiếm 51,85% gây nên khó khăn đối với hộ và 14,53% đối với cơ sở nghề. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề Thái Bình. Thị trường là một nhân tốt có vai trò quyết định sự phát triển của bất kỳ một hoạt động sản xuất, một ngành nghề nào thị trường có rộng lớn thì sản phẩm mới tiêu thụ được nhiều đem lại doanh thu lớn và ngành nghề đó mới phát triển được. Tuy nhiên thị trường luôn biến động không ngừng và khác nhau đối với từng nghề một. Thị trường của một loại sản phẩm phụ thuộc vào nhiều nhân tố trong đó quan trọng là giá cả, chất lượng mẫu mã sản phẩm. Đối với ngành chế biến lương thực thực phẩm như sản xuất bún, bánh thị trường tiêu thụ tại chỗ là chủ yếu. Người sản xuất thường phải tự đem đi rao bán các sản phẩm của mình thị trường có hạn. Để mở rộng nhất thiết phải đa dạng hoá các loại sản phẩm. Các làng nghề như (Nguyên Xá - Đông Hưng), Tân Hoà (Hưng Hà) có thể tìm hiểu để sản xuất thêm các sản phẩm như bánh đa, miến, bánh chả có như thế mới có thể đưa sản phẩm của mình ra các tỉnh khác được. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện nay đời sống nhân dân, nhất là ở các đô thị về tăng nhanh chúng ta cần tập trung nguồn lực để sản xuất phục vụ những thị trường này.Thị trường cho các sản phẩm dệt đũi chủ yếu là xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch sang Lào, Thái Lan 95% khoảng 5% được tiêu dùng trong nươc. Đối với làng thêu Minh Lãng (Vũ Thư) sản phẩm chủ yếu và có thị trường rộng lớn đó là các sản phẩm thêu hội hoạ. Những bức tranh về phong cảnh, con vật được người thợ thêu một cách khéo léo được ưa chuộng ở trong nước cũng như ngoài nước. Ngày nay, hầu hết các hộ không đứng bán hàng trực tiếp mà thường thông qua các cơ sở chuyên nghề ở nông thôn, các cơ sở này tìm kiếm thị trường thiết kế mẫu mã sau đó giao cho các cán bộ hộ gia đình tồn tại với tư cách là người gia công. Để thêu được những bức thêu thật đẹp đòi hỏi người thợ phải có tay nghề cao đặc biệt là phải có con mắt nghệ thuật để biết cách phối hợp màu sắc sao cho hài hoà nhất. Đối với làng chạm bạc Đồng Xâm sản phẩm có thể chia thành 3 loại gồm đồ thờ cúng, đồ trang trức và đồ mỹ nghệ. Đồ thờ cúng gồm các loại đinh, vạc, lư hương, đĩa quả, chân đèn, ngai, tượng các con vật linh thiêng....Hình mẫu cơ bản vẫn là các đồ thờ bằng đồng bằng gỗ trong các đền, miếu đình chùa. Nhưng do giá bạc khá đắt, các đồ thờ này được chế tác thu nhỏ lại và "biến tấu" đi chút ít. Loại hàng này không nhiều mà đa số là sản xuất đơn chiếc. Khách hàng, đặc biệt là khác nước ngoài hết sức thích thú loại đồ thờ này và coi chúng như là món đồ cổ quý gía. Đồ trang sức bao gồm nhiều loại: dây chuyền, xà tích, hoa tai, nhẫn, vòng, trâm lắc, khánh.....bằng bạc. Mỗi loại có nhiều kiểu dáng khác nhau, xưa kia hàng trang sức bằng bạc được nhân dân ta sử dụng nhiều nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ngày nay, người ta ít đeo bạc trừ miền múi. Hàng mỹ nghệ: Đây là mặt hàng chiến lược đem lại nguồn thu nhập chính của thợ chạm bạc Đồng Xuân chúng được sản xuất với số lượng lớn nhất loại vật phẩm này vừa có giá trí sử dụng như các đồ gia dụng khác, đồng thời để trang trí, bày chơi trong các nhà khá giả. Không chỉ được người trong nước mà người nước ngoài cũng rất mếm mộ đó là các kiểu lọ hoa, ly rượu, bình trà, nậm, ấm chén bát đĩa, đũa, gạt tàn, khay đến các loại tượng, con giống tranh khác phù điêu....Có thể nói trên các sản phẩm này đã kết tinh mọi tài năng sáng tạo nghệ thuật cao nhất của những người chạm bạc Đồng Xuân. Hàng chạm bạc Đồng Xâm khác hẳn và nổi trội so với hàng bạc của các nơi khác ở kiểu thức lạ về hình khối, dáng vẻ sản phẩm. Đặc trưng của sản phẩm là sự điều luyện tinh tế và hoàn hảo ở mức tối đa. Thị trường chính của làng chạm bạc Đồng Xâm hiện nay là Pháp, Nhật, Hồng Công, Canada, Đài Loan... Theo đánh giá của chủ hộ/cơ sở ngành nghề nông thôn cơ cấu giá trị sản phẩm chia theo mức chất lượng tốt, trung bình, kém của cơ sở ngành nghề là 67,8%, 29,5% và 2,7% của các hộ ngành nghề tương ứng là 59%, 39% và 12%. Trong một vài năm tới sau khi các rào cản trong quan hệ buôn bán giữa Việt nam và Liên Bang Nga bị xoá bỏ khả năng mở rộng thị trường đối với các sản phẩm TTCN là khả quan. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần có một chiến lược lâu dài về nâng cao chât lượng hàng hoá từ các làng nghề, nâng cao khả năng thu thập thông tin tìm kiếm thị trường..có như thế thì việc phát triển các làng nghề mới có thể đem lại kết quả cao được. Thị trường tiêu thụ trong nước còn hạn chế do mức thu nhập của người dân chưa cao lại bị cạnh tranh bởi một số hàng hoá nhập ngoại từ Trung Quốc. Nên chăng chúng ta cần có chính sách bảo hộ ở một mức độ nào đó đối với các sản phẩm của các làng nghề đồng thời có biện pháp khuyến khích các cơ sở ngành nghề ở nông thôn tham gia trực tiếp tìm kiếm thị trường xuất khẩu để tạo công ăn việc làm cho bà con nông dân nhằm ổn định tình hình kinh tế xã hội ở nông thôn. 3. Những đóng góp của các làng nghề trong những năm vừa qua ở Thái Bình. Trước hết các làng nghề đã góp phần không nhỏ vào sự gia tăng giá trị sản phẩm của địa phương Bảng15: Giá trị sản xuất của một số làng nghề tiêu biểu Làng nghề Sản phẩm SXKD chính Số lượng Giá trị sản xuất (tr. đ) Tổng số Từ nghề Tỷ trọng % 1. Thái Phương (H Hà) Dệt khăn 192 triệu cái 170.900 125.925 74 2. Tân Lễ(H Hà) Chiếu cói 2,6 triệu lá 43.600 35.322 81 3. Vũ hội (Vũ Thư) Cơ khí, bún, bánh 601.800 SP 770 tấn 36.130 23.796 66 4. Minh Lãng(Vũ Thư) Thêu 100.000 sản phẩm 34.777 21.122 61 5. Việt Hùng (VT) Rèn 50.000 sản phẩm 1.625 1.260 78 6. Thượng Hiền (KX) Mây tre đan 400.000m2 14.923 6.899 46 7. Hồng Thái (KX) Chạm bạc - 14.049 7.671 55 8. Nam Cao (KX) Dệt đũi 4 triệu m2 96.627 40.300 42 9. An Vũ (Q Phụ) Chiếu cói 432000m2 6.856 4.320 63 10. An Mỹ (Q Phụ) Bánh đa, chiếu 3000 tấn 6.000 5.000 83 Nguồn :Báo cáo Sở NN&PTNT tỉnh Thái Bình Nếu trong mấy năm qua giá trị sản xuất CN - TTCN toàn tỉnh đạt 1300 tỷ đồng thì khu vực ngoài quốc doanh chiếm 70 - 75% trong đó nghề và làng nghề chiếm 60 - 65% tỷ trọng chung toàn ngành một số làng nghề có giá trị sản xuất lớn như dệt Thái Phương đạt 126 tỷ đồng, dệt đũi Nam Cao đạt 40 tỷ đồng. Sự phát triển của các làng nghề đã được sự góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo xu hướng tăng cơ cấu ngành CN, dịch vụ quản lý trong ngành nông lâm ngư nghiệp góp phần bố trí lực lượng lao động hợp lý theo hướng "Ly nông bất ly hương". Đặc biệt sự phát triển đó đã phá thế thuần nông tạo đà cho công nghiệp phát triển thúc đẩy quá trình CNH HĐH nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. ở rất nhiều làng nghề phát triển thu nhập từ ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đã chiếm tới 70 - 80% tổng thu nhập của toàn xã. - Sự hồi phục và phát triển của các làng nghề đã và đang tạo thêm nhiều việc làm và góp phần làm tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn. Bảng16: Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở/hộ ngành nghề (1996). VA / năm VA/LĐ TX năm TNBQ hộ/năm LNBQ cơ sở/năm TN/CP của hộ LN/CP của cơ sở TN của 1 LĐ của hộ LNBQ/năm/LĐ của cơ sở 1.Cơ sởchuyên 533564 8745 - 72780 - 5,08 - 3095 - Chế biến N-L-TS 161945 5750 - 34594 - 3,06 - 2830 -Công nghiệp và XD 1098824 8463 - 73743 - 3,73 - 3102 - Dịch vụ 484732 12584 - 122767 - 9,32 - 3331 2. Hộ chuyên 16651 4662 9352 - 18,83 - 2618 - - Chế biến NLTS 12900 4495 8708 - 22,21 - 3034 - - CN và XD 26796 4304 11112 - 23,89 - 1826 - - Dịch vụ 11806 5746 8415 - 1378 - 4096 - 3. Hộ kiêm 7791 2995 6291 - 44,62 - 2418 - - Riêng cho LĐ phi nông nghiệp 4213 3081 3419 - 30,7 - 2501 - Nguồn: Qua bảng trên ta thấy thu nhập bình quân của một lao động ở cơ sở chuyên là 3,095 triệu trong khi đó ở hộ chuyên chỉ đạt 2,618 triệu và hộ kiêm là 5,501 triệu. Thực tế cho thấy số hộ làm nông nghiệp kiêm ngành nghề chiếm phần lớn trong các làng nghề trừ một vài làng nghề đạt được trình độ phát triển cao. Nhờ tạo việc làm thu nhập của người lao động tăng lên. Tuỳ theo từng loại nghề và mức độ phát triển từng lại nghề mà mức thu nhập giữa chúng có sự chênh lệch đáng kể một số nghề như dệt khăn, phương la, dệt đũi Nam Cao có những hộ thu nhập từ 50 -100 triệu trong lúc đó một số nghề khác như thêu ren chỉ đạt 4 - 5 triệu đông/năm Thu nhập bình quân của một lao động ở cơ sở là 260.000đ/tháng ở hộ chuyên là 250.000đ/tháng còn hộ kiêm là 200.000đ/tháng. Trong đó một số nghề có thu nhập cao hơn như chạm bạc, dệt đũi đạt 15 - 20000đ/ngày nhưng một số nghề lại có thu nhập thấp như làm nó 4-7000đ/ngày. Mặc dù có những nghề có thu nhập thấp như vậy song đối với người nông dân lúc nông dân thì vẫn rất cần thiết nhất là nó lại phù hợp với lực lượng lao động nữ. Trung bình thu nhập của một lao động nghề thường bằng 1,7 - 3,9 lần so với thu nhập bình quân của một lao động nông nghiệp thuần. Trong từng làng nghề trình độ lao động khác nhau cũng có mức thu nhập rất khác nhau. Một thợ chạm bạc tay nghề cao có thu nhập gấp 1,5 - 2 lần người có tay nghề trung bình. - Sự phục hồi và phát triển các làng nghề trong những năm qua đã thực sự nâng cao đời sống nhân dân địa phương. Nhờ có thu nhập cao, các làng nghề đã đầu tư xây dựng được nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống. Các công trình chung của xã như: điện đường, trường học, trạm xá, trụ sở UBND đều khang trang hơn các xã trong cùng điều kiện mà không có nghề. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. ở các làng nghề phát triển mạnh không có hộ thuộc diện đói nghèo tỷ lệ hộ có nhà kiên cố cao tầng, có đồ dùng và các phương tiện sinh hoạt đắt tiền ngày càng gia tăng. Một điều chúng ta dễ nhận thấy trong các làng nghề đó là tinh thần hăng say lao động, người dân phấn khởi khi sản phẩm của mình được tiêu thụ nhanh chóng. Các làng nghề ở nông thôn phát triển còn góp phần xoá bỏ các tập tục lạc hậu, lối làm ăn nhỏ còn tồn đọng ở nông thôn tạo ra nếp nghĩ, cách làm ăn mới theo tác phong của nền sản xuất công nghiệp, mở rộng giao lưu hàng hoá. Trong các làng nghề các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút cũng giảm đáng kể. Một đặc tính nữa thể hiện truyền thống hiếu học của người dân Thái Bình là tạo điều kiện cho con em được ăn học, tỷ lệ số người đỗ Đại học thường cao trong các làng nghề không giống như ở các nơi khác thường khuyến khích trẻ em đi làm kiếm tiền rõ ràng đâylà một điều rất quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của làng nghề của tỉnh và của đất nước. 4. Một số chính sách của Nhà nước và tỉnh Thái Bình đối với các làng nghề Nhận thức rõ vai trò quan trọng của các làng nghề đối với việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Ngày 29/11/2000 chính phủ đã ra quyết định số 132/2000/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến kích phát triển ngành nghề nông thôn trong đó khẳng định. Nhà nước có chính sách khuyến khích việc tiêu thụ và sử dụng các sản phẩm ngành nghề nông thôn nhất là các sản phẩm sử dụng nguồn nguyên liệu tự nhiên của các sản phẩm chất thải hoá chất nhựa công nghiệp. Nhà nước khuyến khích tạo điều kiện và có chính sách bảo vệ quyền lợi hợp pháp các cơ sở sản xuất, kinh doanh ngành nghề nông thôn. Khuyến khích việc tự nguyện thành lập các hiệp hội theo ngành nghề hoặc theo địa phương nhằm hỗ trợ thiết thực cho các cơ sở ngành nghề phát triển, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân huy động các nguồn lực xã hội triển khai các hoạt động trợ giúp, tư vấn, thống tin, tiếp thị, đào tạo nghề, khuyến công nghiên cứu công nghệ, kiểu dáng mẫu mã cho phát triển ngành nghề nông thôn. Quyết định nhằm tạo điều kiện cho các cơ sở ngành nghề nông thôn được chính phủ cũng đã yêu cầu các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương phải có những chính sách hỗ trợ về vốn, về khoa học công nghệ, về đào tạo....đối với các cơ sở ngành nghề. Để nhằm cụ thể quyết định cảu chính phủ về làng nghề trên cơ sở các điều kiện riêng biệt của tỉnh, UBND tỉnh Thái Bình đã ra quy định để xây dựng tiêu chuẩn của làng nghề cũng như các chính sách đối với làng nghề. Phát triển làng nghề là một trong năm chương trình kinh tế lớn của tỉnh với mục tiêu đến năm 2005 có 40% trở lên số hộ có nghề tỷ trọng giá trị sản xuất từ ngành nghề chiếm 55- 60% tổng giá trị sản xuất ở nông thôn. Hướng ưu tiên phát triển một số ngành nghề trong thời gian tới là: + Nghề dệt, da, may mặc, thêu + Chế biến nông sản thực phẩm + Nghề mây tre đan + Nghề thủ công mỹ nghệ Để thực hiện chương trình đó UBND tỉnh đã có những biện pháp nhằm ưu tiên về đất đai, đào tạo nghề cho những dự án du nhập nghề phát triển nghề, làng nghề có tính khả thi. Mặt dù các chính sách của chính phủ, tỉnh là tương đối rõ ràng song vẫn còn chung, chưa có ưu đãi cụ thể. Ngay trong khâu vay vốn để mở mang ngành nghề cũng còn gặp nhiều khó khăn, sự hỗ trợ vốn từ ngân sách hầu như không có. Các biện pháp về hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm không được chú ý, chính vì thế khả năng đạt mục tiêu đề ra là rất khó khăn nếu không có sự đầu tư, sự quan tâm sát sao hơn. III. Những đánh giá chung về các làng nghề ở nông thôn Thái Bình. Những thành công đã đạt được và kinh nghiệm rút ra từ sự phát triển các ngành nghề ở tỉnh Thái Bình Từ sự phân tích hình hình phát triển ngành nghề ở nông thôn Thái Bình trong những năm qua ta thấy. Sau một thời kỳ suy thoái 1986 - 1992 kể từ 1993 trở lại đây ngành nghề TTCN ở Thái Bình phát triển tương đối ổn định năm sau cao hơn năm trước trong một khoảng thời gian dài bình quân suốt từ 1993 đến 1999 đạt mức độ tăng trưởng 17% /năm có năm cao như giai đoạn 1994 -1995 tăng 25% từ năm 1995 trở lại đây có những ngành tăng khá như chế biến lương thực thực phẩm (tăng 1,5 lần) dệt may (tăng 2,1 lần).....Sự phát triển mạnh của các ngành nghề nông thôn nói chung và làng nghề nói riêng đã góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bộ mặt đời sống xã hội nông thôn. Tuy nhiên trong đó ngành mây tre đan, sản xuất đồ gỗ có hướng giảm. Hoạt động sản xuất của các ngành TTCN ở Thái Bình đã phát triển hướng vào nhu cầu thị trường. Xét về yếu tố tiềm năng Thái Bình có lực lượng lao động dồi dào những nghề hiện có đòi hỏi vốn đầu tư không cao với kỹ thuật và tay nghề hiện nay các sản phẩm được sản xuất ra đã đáp ứng được một phần nhu cầu của thị trường, một số sản phẩm như đũi, thêu chạm bạc đã có chỗ đứng ở trong nước và xuất khẩu. Thái Bình là nơi đất chật người đông đất đai ngày càng bị thu hẹp sự phát triển nhanh của ngành nghề TTCN đã thu hút lực lượng lao động hàng chục ngàn đời trong đó đáng kể là lực lao động nữ và người ngoài độ tuổi lao động. Hầu hết các làng nghề đều có thu nhập từ 150 - 400 ngàn đồng. Tất cả tình hình trên đã tác động tốt đến vấn đề giải quyết việc làm tăng thu nhập cải thiện đời sống người lao động nông thôn. Các ngành nghề ở nông thôn Thái Bình đã góp phần vốn nhàn rỗi trong nhân dân để đầu tư sản xuất. Chúng khai thác tốt các nguồn lực sẵn có ở địa phương để tạo thành những sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường. Đạt được những kết quả trên là do - Sức ép ngày càng tăng của việc giải quyết công ăn việc làm tăng thunhập cho dân cư, tình trạng mất đất canh tác trong khi dân số tăng lớn chính là động lực bên trong quan trọng nhất thôi thúc người lao động và gia đình họ tìm kiếm mọi biện pháp có thể để phát triển gành nghề, thậm chí họ chấp nhận mức tiền công rất thấp chỉ 4000-5000đ/ngày - Đạt được kết quả đó phải kể đến sự mạnh dạn đầu tư dám nghĩ, dám làm năng động bươn trải tìm kiếm thị trường của một số gia đình cũng như cơ sở làm nghề. Chính họ đã khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống ở địa phương, họ đã vươn lên đạt kết quả cao mặc dù nhiều khi học cũng gặp không ít khó khăn trong nền kinh tế thị trường. - Một yếu tố có tính quyết định là những chủ trương, chính sách thuận lợi khuyến khích ngành nghề nông thôn phát triển của Nhà nước và của tỉnh trong những năm qua ở mọi cấp lãnh đạo từ tỉnh đến huyện đến xã đều có chủ trương khuyến khích mạnh mẽ phát triển ngành nghề nông thôn, ở hầu các hộ gia đình ở các xã có nghề dù chưa cần đăng ký kinh doanh vẫn có thể hành nghề mà không phải nộp bất kỳ một khoản đóng góp bắt buộc nào. - Ngoài ra sự phát triển của làng nghề trong những năm qua còn do tốc độ phát triển chung của toàn nền kinh tế tác động lên, thị trường trong nước được mở rộng, cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh thuận tiện cho vận chuyển nguyên liệu, giao lưu buôn bán trong tỉnh và toàn quốc. 2. Những khó khăn và vướng mắc chủ yếu - Bên cạnh những thành tựu các làng nghề đã đạt được, sự hoạt động của các làng nghề trong những năm qua còn gặp không ít khó khăn, yếu kém. Mặc dù có tốc độ phát triển khá song thiếu sự ổn định, thiếu cơ sở vững chắc - thị trường trong nước còn nhỏ bé, thị trường quốc tế bị cạnh tranh mạnh mẽ một phần do sản phẩm của ta chưa thật sự đặc sắc, còn đơn điệu, khả năng tiếp thị giới thiệu sản phẩm của mình với khách hàng còn kém. Nhiều làng nghề phần lớn sản phẩm đang gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ làm cho sản xuất bị đình trệ cầm chừng. Sự phát triển mạnh của các DNTN Công ty TNHH có nhiều mặt tốt song còn có tình trạng chèn ép gây thiệt hại cho các hộ gia đình sản xuất nghề. Hình thức sản xuất chủ yếu của các cán bộ ngành nghề hiện nay là thực hiện gia công theo mẫu đặt hàng điều này làm hạn chế khả năng sáng tạo và việc nâng cao tay nghề người thợ. Hoạt động sản xuất còn mang tính tự phát bị chi phối mạnh của thị trường, bố trí sản xuất nhỏ lẻ phân tán, ở tầm vĩ mo mặc dù đã có những chiến lược cho phát triển ngành nghề nhưng chưa có biện pháp cụ thể và còn lúng túng trong triển khai thực hiện. Hơn nữa chưa có sự đồng bộ trong quản lý đối với ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Suốt một thời gian dài gần như không có một cơ quan quản lý và có trách nhiệm với các làng nghề thủ công. Có thể nói, từ sản xuất đến tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm đều do các doanh nghiệp tư nhân cá thể hoặc hộ gia đình tự lo liệu, xoay xở. Do vậy, diễn ra tình trạng khá phổ biến là cùng một mặt hàng hoặc sản phẩm nhưng làng nghề nào có được hợp đồng hoặc thị trường tiêu thụ sản phẩm thì nơi đó phát triển được và ngược lại thì ngày càng khó khăn sa sút. - Cả nước hiện nay đã có hàng trăm viện nghiên cứu nhưng không có nổi một viện thủ công mỹ nghệ, không có một trường dạy thủ công mỹ nghệ đào tạo hoặc nghiên cứu kinh tế kỹ thuật phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh sản phẩm thủ công mỹ nghệ có thể tương ứng với vị trí, vai trò và tiềm năng to lớn của ngành nghề truyền thống. Có thể nói các nghề thủ công và các làng nghề vẫn gần như nằm ngoài sự quan tâm của các chương trình khoa học và công nghệ. Mặc dù có chủ trương phát triển ngành nghề nhưng vẫn thiếu những cơ quan nghiên cứu, hướng dẫn và giúp đỡ đối với các làng nghề trong việc cải tiến công cụ đổi mới công nghệ góp phần nâng cao năng suất lao động và chât lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm truyền thống trên trường quốc tế. - Phần lớn các hộ ở nông thôn Thái Bình vẫn coi làm nghề tiểu thủ công nghiệp là một nghề phụ mặc dù có nghề mang lại thu nhập chính cho kinh tế gia đình. Điều này chứng tỏ người làm nghề chưa dám tin chắc rằng nghề tiểu thủ công nghiệp hứa hẹn một tương lai tốt hơn cho họ. - Một thực tế ở các làng nghề hiện nay là mặc dù thiếu vốn song họ không giám mạnh dạn vay vốn của các tổ chức tín dụng nguyên nhân chính của vấn đề này là do người sản xuất chưa tìm được phương án sản xuất kinh doanh khả thi và có lợi nhuận cao. Cũng chính vì điều đó nên việc du nhập nghề mới mở rộng nghề cũ rất khó khăn. - ở hầu hết các ngành TTCN hiệu có đầu tư vốn và thiết bị nói chung còn thấp, kỹ thuật sản xuất chủ yếu là thủ công. Trong điều kiện như vậy việc phát triển nghề hay bỏ nghề trở lại với nghề nông là không mấy khó khăn khi thị trường tiêu thụ còn những biến động đặc biệt là khi có biến động lớn. Trình độ lao động trong các làng nghề còn thấp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và tiếp thị thiếu công nghiệp làm chỗ dựa cho các hình thức hợp tác như gia công sơ chế.....Việc tích luỹ để đầu tư đổi mới công nghệ không được quan tâm. Sự giúp đỡ của Nhà nước bằng những giải pháp hiện có chưa mang lại hiểu quả mong muốn. Sự chỉ đạo của các cấp quản lý còn nhiều ách tắc, các hình thức sinh hoạt văn hoá quần chúng có tác dụng khuyến khích nghề chưa được hồi phục như hội nghề nghiệp, lễ hội tổ nghề, và chưa hướng chiều hoạt động của mình vào việc giúp đỡ nhau, trao đổi kinh nghiệm làm ăn hỗ trợ nhau lúc khó khăn. Một thực trạng hết sức lo ngại ở một số làng nghề đó là vấn đề ô nhiễm môi trường. Do công nghệ lạc hậu chưa có thiết bị xử lý chất thải lại sản xuất xen kẽ với dân cư nên tình trạng gây ô nhiễm nguồn nước, không khí ở một số nơi khá trầm trọng. Hiện nay ở các xã có nghề như dệt khăn ở Thái Phương (Hưng Hà) dệt đũi Nam Cao (Kiến Xương) chế biến lương thực thực phẩm xã Vũ Hội (Vũ Thư), chạm bạc Đồng Xâm (Kiến Xương) tình trạng ô nhiễm môi trường rất lớn nhất là các xã có sử dụng khâu tẩy, nhuộm in...Tình trạng làm cho hệ thống nước bị ô nhiễm rất nặng. Do đó để khắc phục tình trạng trên chúng ta cần phải tìm ra những biện pháp và giải pháp thích hợp để hạn chế xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường. Trước mắt nên cần tập trung những công đoạn có liên quan đến tẩy, nhuộm, mạ...Ra một khu để có biện pháp xử lý. Tuy nhiên vấn đề xử lý môi trường là vấn đề rất lớn cần sự quan tâm giúp đỡ và chỉ đạo của trung ương, của tỉnh cùng các ngành. Có như vậy mới bảo đảm cho nghề và làng nghề phát triển, đồng thời đảm bảo được sức khỏe và đời sống cho người dân trong khu vực làng nghề. Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển làng nghề ở Thái Bình. I. Một số quan điểm và phương hướng phát triển: Các quan điểm về phát triển làng nghề: - Trước hết cần đánh giá một cách đầy đủ vị trí và vai trò của làng nghề nông thôn và làng nghề trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội để có chủ trương và chiến lược phát triển đúng đắn. Lịch sử nghi nhận TTCN đã cùng nông nghiệp bảo đảm mọi nhu cầu đời sống của dân tộc từ buổi bình minh dựng nước đến nay. Những sản phẩm của ngành nghề truyền thống là bằng chứng về nền văn hoá, văn minh của dân tộc Việt Nam, dấu ấn vinh quang của lịch sử 4 ngàn năm dựng nước và giữ nước. Việc xây dựng một nền công nghiệp của đất nước không thể thiếu vị trí của TTCN. Ngay ở những nước công nghiệp tiên tiến như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật...vẫn hết sức coi trọng TTCN và tồn tại với tỷ lệ khá cao. Đối với nước ta chúng ta bắt đầu đi vào CNH HĐH nên càng phải đặc biệt quan tâm đến tiểu thủ công nghiệp đến ngành nghề truyền thống bởi vì nó có thể kết hợp với đại công nghiệp sản xuất ra một số lượng sản phẩm lớn cho nhu cầu xã hội đáp ứng kịp thời những nhu cầu đa dạng của đời sống kinh tế thị trường có khả năng thu hút nhiều lao động. - Các ngành nghề nông thôn là tiền đề cho phát triển mạnh công nghiệp nông thôn tiểu thủ công nghiệp cần vốn đầu tư ít thu lãi nhanh có sức sống linh hoạt mềm dẻo có khả năng chuyển hướng sản xuất khi thị trường biến động. - Khôi phục và phát triển làng nghề phải gắn với CNH HĐH các ngành nghề truyền thống ở nước ta rất đa dạng được phân bố rộng khắp các vùng trong nông thôn trong giai đoạn đất nước bước vào CNH HĐH đòi hỏi các ngành phải từng bước đổi mới trang thiết bị áp dụng những công nghệ tiên tiến vào sản xuất, dịch vụ. Do vậy sản xuất của các làng nghề cũng không nằm ngoài bối cảnh đó "hiện đại hoá công nghệ truyền thống truyền thống hoá công nghệ hiện đại" là một chủ trương lớn đã được khẳng định trong nghị quyết của trung ương Đảng, có đảm bảo được các nguyên tắc trên mới đáp ứng được yêu cầu vừa nâng cao sản xuất lao động, chất lượng sản phẩm vừa đảm bảo giữ nguyên được tính chất truyền thống và giá trị của các loại giá trị của các sản phẩm đặc thù này. - Khôi phục và phát triển các làng nghề phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm thước đo. Trước hết nhằm khôi phục lại sản xuất ở những làng nghề đã bị mai một, phát triển mạnh ở những làng nghề đang còn tồn tại duy trì và tăng số lượng các làng nghề tăng số hộ, số lao động trên cơ sở đó tăng sản lượng, sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và suất khẩu và mặt xã hội thì phát triển ngành nghề nhằm tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp trầm trọng ở nông thôn tạo điều kiện cho các hộ gia đình và người lao động tăng thu nhập ổn định và cải thiện đời sống...Khôi phục và phát triển các làng nghề cũng là quá trình đòi hỏi phải có biện pháp nâng cao năng xuất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm này trên thị trường. Thị trường tiêu thụ sản phẩm từng bước được ổn định và mở rộng lại là điều kiện và động lực quan trọng thúc đẩy và phát triển sản xuất trong các làng nghề. - Đi đôi với nâng cao sản xuất lao động và phát triển kinh tế của các làng nghề là quá trinh không ngừng nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động thông qua việc trú trọng công tác đào tạo kỹ thuật, tay nghề cho người lao động, bồi dưỡng kiến thức và kinh nghiệm quản lý kinh tế kiến thức thị trường cho đội ngũ những quản lý. Chú trọng nâng cao trình độ dân trí văn hoá cho lao động và dân cư các làng nghề đặc biệt là lớp trẻ, lớp con cháu của các hộ gia đình - đó là lực lượng nòng cốt để duy trì và phát triển các làng nghề trong tương lai. - Khôi phục và phát triển các làng nghề đi đôi với xây dựng và phát triển nông thôn mới, giữ dìn các thần phong mỹ tục, bảo vệ môi trường sinh thái. Các ngành nghề nông thôn phát triển sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng làng nghề theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành nghề và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng của các địa phương. Phát triển các làng nghề nhanh chóng tăng thu nhập của lao động của dân cư các địa phương góp phần xoá đói giảm nghèo đi lên giàu có. Thực tiễn cũng đã cho các địa phương có đời sống khá giả và giàu có đều là những nơi phát triển mạnh ngành nghề hoặc dịch vụ...khi kinh tế phát triển thu nhập, đời sống của người dân được nâng cao lại tạo điều kiện phát triển nhanh cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi, góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của các người dân. Những vấn đề trên hoàn toàn phù hợp với nội dung và tiêu chuẩn nông thôn mới đã được địa phương cụ thể hoá trong quá trình thực hiện nghị quyết TW5 với nội dung cơ bản là "chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống cho dân, xây dựng các công trình phúc lợi như giao thông, thuỷ lợi, điện, trường học, trạm xá bảo vệ sức khỏe cho người lao động và nâng cao dân trí, đồng thời củng cố các tổ chức Đảng chính quyền và các đoàn thể quần chúng, giữ dìn trật tự an ninh thôn xóm, góp phần bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa". - Khôi phục và phát triển các làng nghề góp phần biến đổi nhanh chóng đời sống kinh tế của dân cư thúc đẩy quá trình độ thị hoá ở các vùng nông thôn. Tuy nhiên cùng với tác động đa dạng nhiều chiều của cuộc sống công nghiệp hoá và ảnh hưởng của kinh tế thị trường...cũng dễ làm biến đổi nên nghĩ, lối sống và phong tục tập quán của người dân ở các địa phương trong đó có các làng nghề. Do vậy trong quá trình phát triển kinh tế, xây dựng nếp sống văn hoá mới phải rất trú trọng giữ dìn những bản sắc văn hoá dân tộc, phong tục tập quán gắn với các ngành nghề. - Mỗi ngành nghề, làng nghề đều có những nét riêng và đặc trưng tiêng cần được giữ dìn bảo tồn. Cùng với phát triển kinh tế, chú ý đến các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường bảo vệ phát triển đời sống nhân dân. Những phương hướng chủ yếu - Mục tiêu phát triển nghề và làng nghề góp phần làm cho công nghiệp - TTCN toàn tỉnh có tốc độ tăng trưởng khá. Phấn đấu 2000 - 2005 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 15% năm 2006 - 2010 là 15%/năm công nghiệp và xây dựng vươn lên đạt 35% GDP. - Từ nay đến 2010 mỗi năm cần giải quyết việc làm cho từ 5 - 7 ngàn người (trong đó chủ yếu là học sinh tốt nghiệp PTCS và PTTH không có điều kiện tiếp tục học lên) - Đến 2005 đối với các hộ sản xuất công nghiệp - TTCN phấn đấu có mức thu nhập là 700USD/người/năm, năm 2010 đạt 800USD/người/năm. Chủ trương của tỉnh mở rộng nghề hiện có như dệt đũi Nam Cao từ 15 - 20% hàng năm. Đưa nghề thêu ở Vũ Thư trở thành Trung tâm thêu của toàn tỉnh phấn đấu tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 10 - 12 %/năm. Tập trung nâng cao chất lượng nghề chạm bạc Đồng Xâm để xứng đáng với nghề truyền thống đã có hàng trăm năm của tỉnh. - Đối việc phát triển nghề mới trước mắt củng cố và phát triển một số nghề mới du nhập như: Làm lưỡi câu xuất khẩu, lông mi giả, đan lưới nilon, chế biến hành tỏi, đồ da ... Phương hướng chủ yếu + Khôi phục các làng nghề cũ, phát triển thêm các làng nghề mới, chuyển đổi những nghề mà sản phẩm hiện nay thị trường không có nhu cầu. Phương hướng trên đòi hỏi chúng ta phải điều tra phân loại đánh giá các nhóm nghề. Nhóm các làng nghề phát triển tốt thì khuyến khích nhân rộng ra các vùng khác. Đối với nhóm nghề phát triển cầm chừng chưa đổn định hoặc gặp nhiều khó khăn thì phải xem xét nguyên nhân đán giá cơ hội tồn tại. Tiến hành cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm hiện có hoặc đầu tư chuyển sang sản xuất các sản phẩm khác theo nhu cầu thị trường. Đối với nhóm nghề không còn cơ hội phát triển sản phẩm bị ứ đọng thì phải dất khoát chuyển đổi phương hướng sản xuất. + Đa dạng hoá các thành phần kinh tế tạo sự liên kết chặt chẽ trong quá trình tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của làng nghề. Khuyến khích các chủ hộ có khả năng thành lập doanh nghiệp tư nhân hoặc liên kết thành lập Công ty TNHH các tổ hợp tác để cung cấp nguyên liệu và lo bao tiêu sản phẩm cho bà con nông dân. + Tập trung phát triển mạnh những sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn, những mặt hàng có giá trị kinh tế cao, trú trọng những nghề thu hút được nhiều lao động. Cần có ưu tiên cho các làng nghề như trạm bạc Đồng Xâm, thêu Minh Lãng, dệt đũi Nam Cao, dệt may Đông Sơn. + Phát triển nguồn nhân lực của các làng nghề theo hướng, vừa tăng về số lượng, vừa nâng cao về chất lượng, đáp ứng nhu cầu mở rộng và phát triển sản xuất của các làng nghề trong giai đoạn CNH HĐH. Trong điều kiện mà tiến bộ khoa học kỹ thuật diễn ra rất nhanh chóng đòi hỏi các làng nghề cũng phải biết ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới kết hợp với công nghệ truyền thống trong quá trình sản xuất. Do đó chất lượng lao động cũng phải được nâng lên. Mặt khác việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá là một yêu cầu thường xuyên đối với các cơ sở sản xuất nếu muốn đứng vững được trong cạnh tranh thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế. + Tăng cường vai trò của Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương đối với sự nghiệp khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống. II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm khôi phục và phát triển các làng nghề ở Thái Bình. Tạo lập thị trường cho các làng nghề. Thị trường là vấn đề sống còn quyết định sự thành bại của các làng nghề thực tiễn những cơ sở những làng nghề đẩy mạnh và phát triển sản xuất đều là những nơi giải quyết được đầu ra. Trong những năm gần đây nhờ sự khai thông các thị trường xuất khẩu sang các nước lãnh thổ như Hà Quốc, Đài Loan, Singapo, Nhật Bản và một số nước Tây Âu, song nhìn chung vẫn chưa tạo lập được các thị trường ổn định và lâu dài. Hiện nay hầu hết các cơ sở sản xuất phải tự thân lo liệu tìm kiếm thị trường. Vì vậy hướng tới Nhà nước cũng như các cơ quan trong tỉnh phải có biện pháp hỗ trợ các làng nghề tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Chúng ta phải có chiến lược cụ thể, có kế hoạch và biện pháp tích cực chủ động tìm kiếm thị trường. Nhà nước cần coi trọng việc đầu tư và đầu tư thích đáng cho hoạt động tìm kiếm mở rộng thị trường coi đó là công tác đầu tư tạo việc làm. Đầu tư cho việc tìm kiếm mở rộng thị trường đòi hỏi một mặt phải tổ chức nghiên cứu cả thị trường trong nước lẫn nước ngoài để nắm vững thị hiếu người tiêu dùng trong nước, từng nước, từng khu vực trên cơ sở đó để sản xuất những sản phẩm phù hợp và đáp ứng nhu cầu thị trường. Đồng thời chúng ta cần quan tâm xem xét các mặt hàng cùng loại của các nước trong khu vực để có chiến lược cạnh tranh hợp lý Một biện pháp quan trọng hàng đầu là bản thân các làng nghề phải tự nâng cao được mẫu mà chất lượng sản phẩm của mình. Phát triển các hình thức liên doanh liên kết với các doanh nghiệp của trung ương và địa phương để tranh thủ khả năng mở rộng thị trường Nhà nước cần hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất trong việc giới thiệu quảng bá các sản phẩm của mình thông qua việc tổ chức các hội chợ triển lãm, hội làng nghềHơn nữa cũng cần xem xét trợ giúp các làng nghể trong việc làm thủ tục xuất nhập khẩu nguyên liệu và hàng hoá của mình. Đối với các cơ sở có khả năng nên cho pháp được xuất khẩu trực tiếp với đối tác nước ngoài không cần qua các khâu trung gian Đối với thị trường trong nước cần có biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn hàng nhập lậu vào thị trường nội địa để bảo vệ sản xuất .Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền kêu gội và khuyến khích dùng hàng nội .Có chính sách khuyến khích mọi tổ chức và cá nhân quan tâm và chú trọng đến công tác tiệp thị ( tạo mẫu mã hàng hoá, chào hàng ký kết các hợp đồng xuất khẩu). Những tổ chức, cá nhân tìm được hoặc môi được hợp đồng sẽ được ưu tiên xuất khẩu hoặc được trích thưởng một tỷ lệ thích đáng trong tổng giá trị hợp đồng được ký kết thực hiện Cùng với kế hoạch tiêu thụ cũng cần quan tâm tới việc bảo đảm nguồn vật tư ổn định lâu dài tại điạ phương. Một nguồn nguyên kiệu sản có tại chỗ có chất lượng chắc chắn sẽ tạo ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Mối quan hệ giữa người cung cấp nguyên liệu và người sản xuất cũng phải củng cố theo nguyên tắc đôi bên cùng có lơị 2 Đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất Qua thực tế cho thấy nhưng trang thiết bị, công cụ sản xuất trong các làng nghề nhìn chung là thô sơ và đơn giản dùng nhiều sức lao động nên có ưu điển tận dụng được nhân công rẻ giá thành hạ. Công cuộc công nghiệp hoá đất nước tất yếu đòi hỏi phải từng bước đổi mới trang thiết bị trong các làng nghề. Chỉ đổi mới công nghệ sản xuất mới giũp các làng nghề nâng cao năng suất chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường mới giúp cho các làng nghề đứng vững và cạnh tranh được với hàng công nghiệp. Nhưng cũng cần lưu ý rằng việc đổi mới thiết bị và công nghệ mới phải kết hợp chặt chẽ với công nghệ truyền thống thì mới giữ được nét đặc sắc của sản phẩm. Tính truyền thống của các làng nghề thủ công không chỉ có giá trị đôí với sản xuất thủ công nó còn có tác dụng mạnh mẽ đối với việc xác định phong cách của các sản phẩm công nghiệp. Những sản phẩm công nghiệp nếu tiếp thu và kế thừa được những phong cách của các sản phẩm thủ công truyền thống sẽ trở nên phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng trong nước và quốc tế Để giúp cho các cơ sở sản xuất có thể đổi mới thiết bị và công nghệ ngoài sự hỗ trợ về vốn để người sản xuất có điều kiện đầu tư mua sắm trang thiết bị Nhà nước cần có sự hỗ trợ trong việc nghiên cứu hoàn thiện công nghệ mới chế tạo máy móc thiết bị mới hướng dẫn cung cấp thông tin về thiết bị công nghệ ngoại nhập để người sản xuất có điều kiện chon lọc cho phù hợp Tổ chức các trung tâm tư vấn chuyển giao công nghệ và các hoạt động hỗ trợ về mặt kỹ thuật và công nghệ cho các lạng nghề. Các trung tâm này sẽ tư vấn cho các làng nghề nên sử dụng công nghệ gì đổi mới ở khâu nào sử dụng kỹ thuật ra sao để giúp các làng nghề có thể áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm Môi giới tổ chức khâu nối các quan hệ hợp tác giữa làng nghề với các cơ quan nghiên cứu khoa học để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Cần khuyến khích mối quan hệ chắt chẽ giữa nhưng cơ sở nghiên cứu với các làng nghề .Đồng thời trong mối quan hệ này cũng cần tạo ra sự liên kết trao đổi thông tin công nghệ giữa các làng nghề với các hình thức tổ chức thích hợp để liên kết chính ngay những người sản xuất trong các làng nghề với nhau Tuy nhiên, cần phải căn cứ vào từng điều kiện cụ thể của từng ngành nghề để lựa chọn phương hướng đổi mới công nghệ cho phù hợp. Cần phải đổi mới công nghệ ở cả phần cứng và phần mềm. Có nghĩa là song song với việc nhập máy móc thiết bị cần phải nâng cao khả năng tiếp thu sử dụng thiết bị cho người lao động. Trong đổi mới công nghệ nên theo hướng lựa chọn những công nghệ thích hợp là chủ yếu Cùng với các hoạt động nhằm đổi mới hoặc cải tiến công nghệ sản xuất các cơ sở ngành nghề phải kết hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương để có biện pháp xử lý tình trạng ô nhiễm một cách tốt nhất 3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho các làng nghề Để có thể vừa tăng nhanh về số lượng vừa nâng cao được trình độ kỹ thuật tay nghề cho người lao động đáp ứng yêu cầu mở rộng phát triển sản xuất của các làng nghề đòi hỏi trước hết Nhà nước cần phải mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng các hình thức dạy nghề thành lập các trường dạy nghề truyền thống ở bậc Cao đẳng nhằm tạo ra được một đội ngũ những người quản lý những cố vấn kỹ thuật những giám đốc xí nghiệp nhỏ trong các làng nghề. Thành lập các viện nghiên cứu về nghề truyền thống tổ chức các dịch vụ tư vấn giúp đỡ các cơ sở về mặt kỹ thuật quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc pháp luật Hàng năm tỉnh nên dành một phần kinh phí đầu tư phát triển để hỗ trợ cho việc đào tạo dạy nghề. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể có thể dùng các hình thức sau đây - Các trung tâm tự dạy nghề do tư nhân tự mở lớp đào tạo nghề cho những người có nhu cầu - Khuyến khích các nghệ nhân thợ giỏi dạy nghề truyền nghề - Các hiệp hội nghề nghiệp có thể tổ chức ra các trường lớp đào tạo về kỹ thuật quản lý ở trình độ cao nhằm nhằm tạo ra nhưng người có trình độ sản xuất kinh doanh giỏi. Có khả năng tiếp nhận những nghề mới, cải tiến nghề cũ làm hạt nhân cho các làng nghề ở những vùng thuần nông nên lựa chọn hình thức thích hợp để “cấy nghề “. Hướng dạy nghề là là dạy cho một số hộ làm điểm sáng để lôi kéo những hộ khác trong làng làm theo theo nguyên lý “vết dầu loang” Đối với những nghệ nhân là những người tâm huyết với nghề nắm vững bí quyết và kỹ thuật sản xuất phải có chính sách ưu đãi đặc biệt. Hàng năm hoặc vài năm cần tổ chức xét và công nhận trao tặng danh hiệu cao quý tôn vinh nghề nghiệp cũng như thưởng vật chất xứng đáng cho những người thợ giỏi, nghệ nhân, những nhà kinh doanh có tài làm ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao xuất khẩu nhiều cũng như những người có phát minh sáng kiến cải tiến máy móc thiết bị công nghệ sản xuất góp phần nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm Nâng cao trình độ văn hoá chung cho dân cư trong toàn tỉnh nói chung và các làng nghề nói riêng. Cần nghiên cứu kết hợp dạy văn hoá với dạy nghề ở những năm học cuối cấp II,III sao cho họ có thể sống được bằng nghề đó khi thôi không đi học Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh các chủ cơ sở ngành nghề nhất là kiến thức về thị trường 4. Giải pháp về vốn Vốn là yếu tố đầu tiên của nguồn vật chất để làm ra sản phẩm vì nếu không có vốn thì không thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Mặc dù yêu cầu về vốn sản xuất cho các làng nghề không phải là lớn nhưng với quy mô sản xuất nhỏ nguồn vốn hạn hẹp nhiều doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể gặp hó khăn về vốn trong đầu tư trang thiết bị công nghệ mới Để có vốn sản xuất kinh doanh thì vấn đề đặt ra là người sản xuất phải dám mạnh dạn vay vốn phải có phương án kinh doanh khả thi có lãi đó là điều quan trong nhất. Trong bối cảnh nền kinh tế đang thiếu vốn như hiện nay thì giải pháp hữu hiệu nhất để giải quyết bài toán vốn cho phát triển ngành nghề là phải đa dạng các nguồn lực tài chính trong nội bộ ngành công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp trong nội bộ khu vực nông thôn kết hợp hài hoà với chính sách thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài đáp ứng tối đa nhu cầu vốn đặt ra cho mỗi ngành. Như vậy vốn đầu tư cho các làng nghề có thể huy động từ các nguồn sau: Thứ nhất, huy động vốn tự có của người lao động của nhân dân, theo thống kê hiện nay mức huy động vốn nhàn rối trong dân mới chỉ đạt 36%. ở những làng đã xã nghề tuy mức huy động cao hơn song ta có thể thấy rằng vẫn còn một lượng rất lớn vốn nhàn rỗi chưa được huy động. Vấn đề ở đây là tạo được niền tin để thu hút nguồn vốn tốn đọng đó đầu tư vào sản xuất kinh doanh Thứ hai, có thể đi vay từ các tổ chức tín dụng ngân hàng, các quỹ hỗ trợ của nhà nước. Mở rộng hệ thống dịch vụ tín dụng cho khu vực nông thôn tổ chức các quỹ tín dụng chuyên doanh phục vụ phát triển TTCN nông thôn . Tăng vốn cho vay từ các nguồn vốn tín dụng đầu tư , quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia quỹ quốc gia xúc tiến việc làm Ngân hàng người nghèo và các ngân hàng thương mại quốc doanh. Hàng năm tỉnh nên có kế hoạch dành một phần vốn nhất định từ nguồn vốn đầu tư phát triển cho vay với lãi suất ưu đãi cho các cơ sở sản xuất TTCN, các làng nghề mới khôi phục Đơn giản hoá thủ tục cho vay vốn của các ngân hàng, các quỹ tín dụng hiện nay các thủ tục cho vay vốn còn nhiều phiền hà tốn nhiều thời gian. Trong khi đó thời hạn cho vay thường ngắn, lượng vốn cho vay nhỏ thường chỉ đáp ứng được nhu cầu của người sản xuất theo kiểu gia công . Một số cơ sở sản xuất có như cầu vốn tương đối lớn phục vụ nhu cầu đầu đầu tư thường không được đáp ứng do thiếu tài sản thế chấp. Trong các làng nghề hiện nay nên phát triển hình thức cho vay qua các tổ chức đoàn thể ở địa phương thực tế cho thấy đây là mô hình cho vay có hiệu quả. Các ngân hàng thương mại và các quỹ đầu tư phát triển cần phải nâng cao trách nhiệm và tao điều kiện cho các làng nghề vay vốn để phát triển sản xuất trên cơ sở thẩm định hiệu quả của các dự án Giải pháp cuối cùng rất quan trọng là Nhà nước cần tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định mà trưóc hết là” hâm nóng lại nền kinh tế”tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Ngoài việc tăng thêm vốn đầu tư của Ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất cần tranh thủ sự đầu tư giúp đỡ của các tổ chức quốc tế qua các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn 5.Nhà nước cần hỗ trợ các làng nghề trong việc giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường Sự phát triển sản xuất của các làng nghề đã và đang làm ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái ở nông thôn. Trước mắt cần hỗ trợ kinh phí để sử lý môi trường ở các điểm nóng như : xã Thái phương – Hưng Hà, Nam Cao, Hồng Thái – Kiến xương . Không giống như các cơ sở công nghiệp thành thị chúng ta không thể chỉ dùng biện pháp hành chính để sử lý tình trạng ô nhiễm mà trước hết phải tuyên truyền giáo dục cho người dân hiểu để cùng hợp tác tìm biện pháp giải quyết. Thông thường trong các làng nghề thường chỉ một vài công đoạn có gây ra ô nhiễm vd làng dệt đũi Nam cao và dệt khăn Phương La thì gây ô nhiễm chủ yếu ở khâu tẩy, nhuộm còn làng chạm bạc Hồng Thái thì chủ yếu ở khâu mạ bạc. Tình trạng ô nhiệm hiện nay chủ yếu do công nghệ sử dụng thủ công quá lạc hậu chính vì thế về lâu dài cần nghiên cứu thay thế những công nghệ ít ô nhiễm hơn. tuy nhiên trong điều kiện còn nhiều hạn chế trong các làng nghề các biện pháp ít phức tạp đỡ tốn kém như đưa khâu mạ bạc ra ngoài cánh đồng, xử lý nguồn nước ô nhiễm qua các ao hồ bằng phương pháp tự nhiên vẫn được coi trọng 6. Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật tạo môi trường lành mạnh cho các làng nghề tồn tại và phát triển Tăng lượng vốn đầu tư cho nông thôn nói chung và cho công nghiệp nông thôn nói riêng. Nhà nước dành ngân sách đầu tư thích đáng cho các chương trình khuyến công, hỗ trợ các hộ cơ sở trong các vấn đề ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nâng cao năng lực quản lý cho chủ hộ và các nhà doanh nghiệp, đào tạo tay nghề cho người lao động, hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nâng cao chất lượng của hệ thống giao thông , điện, nước, thông tin liên lạc Cần có chính sách miễn giảm thuế cho những cơ sở ngành nghề nông thôn mới được thành lập, hoặc mới được phục hồi tuỳ thuộc vào loại nghề loại sản phẩm . có biện pháp khuyến khích các chủ đầu tư người thành phố hoặc ngươid nước ngoài bỏ vốn đầu tư cho công nghiệp nông thôn Chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho cho việc thuê đất để phát triển ngành nghề nông thôn giải quyết việc làm cho người lao động Xây dựng và thực hiện các chương trình tổng quan phát triển nghề và làng nghề ở nông thôn trong thời kỳ dài cho toàn tỉnh, cho từng làng nghề Cần nâng cao vai trò, năng lực của đội ngũ cán bộ ở các xã vì thực tế cho thấy đây là lực lượng có quyết định rất lớn tới sự phát triển của các làng nghề và nhất là việc xây dựng mới làng nghề Kết luận và khuyến nghị Các làng nghề ở Thái bình nói riêng và cả nước nói chung là những “tài sản” vô giá không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn chứa đựng trong đó những giá trị văn hoá văn minh của dân tộc Việt nam. Tuy nhiên bước đường phát triển của nó cũng trải qua những bước thăng trầm khác nhau, Khi có điều kiện thuận lợi thì các làng nghề phát huy đựoc những tiềm năng to lớn vốn có, nhưng khi gặp khó khăn trở ngại thì đa số các làng nghề lại rơi vào tình trạng suy thoái , mai một. Sự đổi mới cơ chế quản lý cũ sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước từ năm 1986 đã tạo ra bước ngoặt quan trọng để phát triển sản xuất nói chung và ngành nghề nông thôn nói riêng. Trong những năm qua các làng nghề đã có đóng góp to lớn cho công cuộc phát triển kinh tế xây dựng đất nước. Phát triển ngành nghề ở nông thôn là một bước nhằm thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn tạo việc làm cho lực lượng lao động dư thừa đông đảo ở nông thôn, thu hẹp và tiến tới xoá bỏ đói nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dichj vụ giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng “ly nông bất ly hương “ hạn chế di dân tự phát ra thành phố xây dựng nông thôn có đời sống vật chất, văn hoá đầy đủ và phong phú Hiện trạng công nghiệp nông thôn còn nhỏ bé và đang đứng trước những khó khăn lớn như : khả năng tiếp thị yếu, công nghệ và thiết bị lạc hậu thiếu vốn, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động còn thiếu hiệu quả doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH còn ít và non trẻ Mặt khác nghành nghề nông thôn có tiềm năng rất lớn như bề dày các làng nghề truyền thống, tiềm năng về nguyên liệu, lao động dồi dào Nếu tạo điều kiện và môi trường thuận lợi bằng các chính sách đồng bộ và các giải pháp vĩ mô, ngành nghề nông thôn sẽ phát triển mạnh mẽ UBND tỉnh cần phải tổ chức lại bộ máy quản lý nghành nghề TTCN từ tỉnh đến huyện, xã . Xác định rõ chức năng nhiệm vụ của các sở ngành từ tỉnh xuống tránh chồng chéo như hiện nay. Tăng cường chỉ đạo trực tuyến và quản lý Nhà nước giúp các địa phương phát triển TTCN và làng nghề Tỉnh nên xem xét ban hành tiêu chuẩn cụ thể về công nhận làng nghề, xã nghề, nghĩa vụ và những chính sách ưu đãi đối với làng nghề xã nghề. Chỉ đạo và cấp kinh phí cho các huyện thị xây dựng chương trình dự án đầu tư cụ thể nhằm khai thác tiềm năng của địa phương và thu hút nguồn lực từ bên ngoài Hàng năm tỉnh dành một phần kinh phí để hỗ trợ cho việc du nhập nghề mới, mở rộng và phát triển nghề, đào tạo dạy nghề tìm kiếm mở rộng thị trường Một số kiến nghị cụ thể Miễn thuế từ 2-5 năm đầu cho những cơ sở ngành nghề nông thôn mới được thành lập . Đối với chủ đầu tư thành phố hoặc người nước ngoài đầu tư vào TTCN ở nông thôn sau thời gian miễn thuế sẽ được giảm thuế 50% cho 2-3 năm tiếp theo. Để khuyến khích đổi mới công nghệ thiết bị, giá trị gia tăng do đổi mới công nghệ , thiết bị không phải chịu thuế 2-3 năm đầu Thành lập các trung tâm phát triển công nghiệp nông thôn để hỗ trợ việc đào tạo dạy nghề chuyển giao công nghệ giới thiệu sản phẩmcung cấp thông tin thị trường, môi giới Tài liệu tham khảo chính 1.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,VII,VIII của Đảng cộng sản Việt Nam 2. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “ Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam” Tổ chức phát triển Liên Hợp Quốctháng 8/1996 3. Vũ Huy Phúc : Làng nghề và thời đại mới,1996 4. Nguyễn văn Đại, Trần Văn Luân: Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển làng nghể truyền thống.NXB Nông nghiệp1997 5. Kết quả của cuộc điều tra ngành nghề nông thôn Việt nam.1997 6. các Báo cáo của sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở công nghiệp, Sở khoa học công nghệ và môi trường tỉnh Thái Bình 7. Số liệu Niên giám thống kê Thái Bình 1995, 1996, 1997

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0137.doc
Tài liệu liên quan