Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình trong điều kiện hiện nay

Trong những năm vừa qua được sự lãnh đạo chỉ đạo thường xuyên của tỉnh uỷ HĐND, UBND tỉnh, sự hỗ trợ có hiệu quả của Trung ương và nhất là Bộ tài chính và sự phấn đấu lỗ lực vượt bậc của đội ngũ cán bộ ngành tài chính ở địa phương nên công tác quản lý tài chính nói chung, quản lý tài chính Ngân sách xã nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển tình hình trong nông thôn sớm đi vào ổn định vững chắc tạo đà cho sự phát triển kinh tế xã hội phát triển trong những năm sau. Tuy nhiên công tác quản lý tài chính Ngân sách xã trong những năm qua cũng còn một số yếu kém nhất là những yếu kém trong nhận thức trong chỉ đạo điều hành tài chính Ngân sách xã của một số cán bộ cấp uỷ, chính quyền cơ sở ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân và hoạt động sản xuất của địa phương .

doc70 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 923 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình trong điều kiện hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hấy việc quản lý các khoản chi khác còn nhiều bất cập, đây là những khoản chi phát sinh đột xuất hay những khoản chi nhỏ mà không được bao quát hết trong dự toán duyệt. Ngoài ra việc bố trí cơ cấu các khoản chi vẫn chưa thật hợp lý như chi cho quản lý Nhà nước-Đảng-Đoàn thể còn ở mức cao. Năm 1999 chiếm 51,8% tổng chi thường xuyên và chiếm 41,5% tổng chi ngân sách xã; năm 2000 chiếm 48,6% tổng chi thường xuyên và chiếm 39,2% tổng chi ngân sách xã; năm 2001 chiếm 45,9% tổng chi thường xuyên và chiếm 29,7% tổng chi ngân sách xã. Việc phân định cơ cấu phân chia các khoản chi cho các lĩnh vực khác nhau cũng là vấn đề mà các nhà quản lý tài chính cần quan tâm là nên ưu tiên cho lĩnh vực nào cho phù hợp với tình hình của mình. Ví dụ như nên ưu tiên chi cho sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp y tế, sự nghiệp kinh tế đảm bảo cho các khoản chi này một tỷ lệ thích hợp để nâng cao tính hiệu quả cho những khoản chi này. Để có cái nhìn sâu hơn về công tác quản lý chi ngân sách xã trong những năm qua, ta đi phân tích một số khoản chi như: Sự nghiệp giáo dục; sự nghiệp kinh tế; chi quản lý Nhà nước-Đảng-Đoàn thể; chi đầu tư phát triển để thấy rõ được những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế còn tồn taị trong quản lý tài chính ngân sách xã và đưa ra những giải pháp khắc phục. * Đối với chi sự nghiệp giáo dục: Biểu số 7: Tình hình chi cho sự nghiệp giáo dục các xã ở Thái bình: ĐVT: 1000 đồng nội dung 1999 2000 2001 DT TH DT TH DT TH Tổng chi SN giáo dục: 9340000 9732685 9142000 9325592 8668000 8503727 So sánh TH/DT(%) 104.2 102 98.1 So sánh TH năm sau với năm trước(%) 95.8 91.2 Qua biểu số 7 ta thấy tình hình chi cho sự nghiệp Giáo dục ở các xã những năm qua có giảm. Năm 1999 đạt 9.732.685 ngàn đồng chiếm 10% trong tổng chi thường xuyên và chiếm 8,4% trong tổng chi ngân sách xã năm; năm 2000 tổng chi ngân sách xã cho sự nghiệp giáo dục là 9.325.592 ngàn đồng đạt 95,8% so với năm 1999 tương ứng với số giảm tuyệt đối là 407.093 ngàn đồng. Chi sự nghiệp giáo dục năm 2000 chiếm 8,9% tổng chi thường xuyên và chiếm 7,2% tổng chi ngân sách xã năm 2000. Năm 2001 tổng chi ngân sách xã cho sự nghiệp giáo dục là 8.503.727 ngàn đồng, bằng 98,1% dự toán năm và bằng 91,2% so với năm 2000. Chi cho sự nghiệp giáo dục các xã ở Thái bình khoảng 85% đến 90% là chi cho lương, sinh hoạt phí, phụ cấp và hoạt động, còn lại là chi phục vụ cho việc giảng dạy. Trong khi đó theo nghị quyết số 207/QĐ-TTg ngày 25/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp tổ chức tinh giảm biên chế hành chính sự nghiệp. Cho nên chi lương cho giáo viên cũng giảm dẫn đến tổng chi giáo dục giảm dần từ năm 1999 đến nay. Mặc dù việc chi cho sự nghiệp giáo dục giảm trong những năm qua song không vì vậy mà chất lượng đào tạo lại giảm xuống. Hàng năm số học sinh tốt nghiệp các cấp đạt 99% và số học sinh trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng và trung học dạy nghề ngày càng cao. Được sự quan tâm của Đảng, chính quyền các cấp, cùng phương châm đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển nên Nhà nước phối hợp cùng với nhân dân đẩy mạnh phong trào hiếu học đã có truyền thống từ lâu đời của Thái bình. Nhìn chung chi cho sự nghiệp giáo dục các xã ở Thái bình thời gian qua đạt hiệu quả rất đáng khích lệ. Song vẫn còn một số khó khăn cho giáo dục như một số xã nhất là các xã ven biển do người dân còn sống phân tán, các hộ gia đình thì cần lao động phổ thông, ngân sách xã còn khó khăn nên chi cho giáo dục gặp nhiều trở ngại. * Đối với chi cho sự nghiệp kinh tế: Biểu số 8: Tình hình chi cho sự nghiệp kinh tế các xã ở Thái bình ĐVT: 1000 đồng nội dung 1999 2000 2001 DT TH DT TH DT TH Tổng chi SN kinh tế: 1596000 2106776 2394000 2969331 3790000 4743637 So sánh TH/DT(%) 132 124 125 So sánh TH năm sau với năm trước(%) 140.9 159.7 Chi cho sự nghiệp kinh tế là chi cho sự phát triển kinh tế của địa phương, giúp địa phương từng bước đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Qua biểu số 8, ta thấy chi cho sự nghiệp kinh tế các xã ở Thái bình ngày càng tăng với tốc độ cao. Năm 2000 đạt 2.969.331 ngàn đồng tăng 40,9% so với năm 1999. Năm 2001 đạt 4.743.637 ngàn đồng, bằng 125% so với dự toán năm và tăng 59,7% so với năm 2000. Như vậy tốc độ chi cho sự nghiệp kinh tế ở Thái bình ngày càng tăng cao. Với đặc điểm là một tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ, là một tỉnh thuần nông, đời sống nhân dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp còn nhiều khó khăn. Cho nên đầu tư cho sự nghiệp kinh tế nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao từng bước đời sống nhân dân. Đây là những khoản chi cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng tích cực nhằm xã hội hoá kinh tế nông thôn, xây dựng những công trình giao thông, công trình thuỷ lợi như hệ thống kênh mương phục vụ cho nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên việc thực hiện chuyển đổi tiến hành còn chậm, quy chế chuyển đổi chưa được thực hiện thống nhất đồng bộ dẫn đến quản lý kém hiệu quả và phần nào vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. * Đối với chi quản lý Nhà nước- Đảng-Đoàn thể: Qua số liệu ở biểu số 9, ta thấy tình hình chi quản lý Nhà nước- Đảng-Đoàn thể tăng lên qua các năm. Năm 1999 tổng chi đạt 48.568.407 ngàn đồng bằng 101% dự toán, Năm 2000 tổng chi quản lý Nhà nước, Đảng, Đoàn thể là 50.941.642 ngàn đồng đạt 103,4% so với dự toán và bằng 104,9% so với năm 1999; năm 2001 tổng chi đạt 57.484.712 ngàn đồng bằng 109,9% dự toán và bằng 112,8% so với năm trước. Đây là khoảng chi lớn và ổn định qua các năm, với tỷ trọng 45,9% tổng chi thường xuyên và 29,67% tổng chi ngân sách xã năm, với những khoản chi như chi cho quản lý Nhà nước; Đảng; Mặt trận tổ quốc; Đoàn thanh niên CS HCM; Hội phụ nữ việt nam; Hội cựu chiến binh việt nam; Hội nông dân việt nam. Khoản chi này tăng lên và chiếm tỷ trọng cao như vậy chủ yếu là do chi quản lý Nhà nuớc tăng lên bao gồm chi phụ cấp, sinh hoạt phí cho cán bộ xã, hội nghị, tiếp khách, công tác phí và chi khác. Nhiều xã thực hiện chi đúng, chi đủ và có hiệu quả. Tuy nhiên vẫn còn một số xã chi không đúng mục đích, hiệu quả không cao như chi hội nghị, tiếp khách, công tác phí ngày càng tăng; vẫn còn tình trạng phô trương hình thức, lãng phí thời gian và kinh phí. Đối với các đoàn thể quần chúng trong những năm trước đây hoạt động ở các xã yếu, chưa thu hút được đông đảo quần chúng tham gia. Đứng trước tình hình đó, Đảng uỷ, chính quyền các xã đã tập trung chỉ đạo, củng cố, hoàn thiện các đoàn thể quần chúng một cách có hệ thống từ thôn xóm đến xã đối với tất cả các tổ chức đoàn thể như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binhĐến nay hầu hết ở các xóm đều có các chi đoàn thanh niên, chi hội phụ nữ hoạt động rất có hiệu quả. Nhiều phong trào hoạt động rất sôi nổi và đem lại hiệu quả thiết thực như: Phong trào thanh niên tình nguyện, phong trào dân số kế hoạch hoá gia đình... Bên cạnh đó ở một số xã do ngân sách xã còn yếu kém nên các hoạt động trên chưa đáp ứng được yêu cầu. Song điều không thể phủ nhận những thành tựu đã đạt được trong chi quản lý Nhà nước, Đảng, Đoàn thể đã giúp cho chính quyền cấp xã ổn định và quản lý sâu sát hơn tới nhân dân. * Đối với chi đầu tư phát triển: Chi đầu tư phát triển là các khoản chi dùng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất do xã quản lý như: Trường học, đường giao thông, trạm y tế, nhà văn hoá, trụ sở uỷ ban, điện thắp sáng... đây là khoản chi giữ vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng chi ngân sách xã. Nhằm trang bị cơ sở vật chất cho chính quyền cấp cơ sở được vững mạnh, đảm bảo sự phát triển chung của xã cũng như đất nước; thời gian qua hầu hết các xã đều đã chú trọng đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, trang thiết bị cho xã và bước đầu đã đạt đuợc những thành tựu rất khả quan. Biểu số 10: Tình hình chi đầu tư phát triển các xã ở Thái bình: ĐVT: 1000 đồng nội dung 1999 2000 2001 DT TH DT TH DT TH Tổng chi 16365000 22421123 23988000 25188271 35459000 68453749 So sánh TH/DT(%) 137 105 193 So sánh TH năm sau với năm trước(%) 112.3 271.7 Nhìn vào biểu số 10 ta thấy tình hình chi cho đầu tư phát triển ngân sách xã tăng lên rất nhanh qua các năm. Năm 2000 chi đầu tư phát triển đạt 25.188.271 ngàn đồng tăng 12,3% so với năm 1999; năm 2001 với tổng số chi đầu tư phát triển là 68.453.749 ngàn đồng đạt 193% so với dự toán đề ra và tăng 171,7% so với năm 2000, Với tổng số chi đầu tư phát triển chiếm 35,3% tổng chi ngân sách xã năm 2001. Như vậy tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển ngày càng tăng, đây là khoản chi có ý nghĩa rất thiết thực, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và sớm hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ cấp cơ sở. Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" trong năm qua, tỉnh đã chỉ đạo nhiều chương trình nhằm đổi mới bộ mặt nông thôn. Nguồn vốn dùng để chi cho đầu tư phát triển chủ yếu được huy động từ: Ngân sách cấp trên cấp theo chương trình mục tiêu, huy động sức đóng góp của nhân dân, từ các nhà đầu tư nước ngoài... với nguồn vốn huy động đó được sử dụng đầu tư chủ yếu là để xây dựng mới và nâng cấp các công trình đã cũ cần tu sửa. Mạng lưới điện thắp sáng ngày được nâng cấp theo hướng điện khí hoá nông thôn. Năm 2001 thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thông tư liên tịch số 06/2001/TTLB-BCN-BTC gnày 23/8/2001 của Bộ công nghiệp và Bộ tài chính hướng dẫn giao nhận và hoàn trả vốn lưới điện trung áp nông thôn. Đến nay Thái bình đã hoàn thành việc bàn giao lưới điện trung áp nông thôn cho ngành điện quản lý và tiếp nhận nguồn vốn từ Trung ương chuyển về để hoàn vốn theo giá trị còn lại của lưới điện trung áp nông thôn cho các xã, thị trấn là 40.690 triệu đồng. Đến nay trong toàn tỉnh 100% số xã có hệ thống điện tương đối hoàn chỉnh phục vụ cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân. Hệ thống trường học được nâng cấp cải tạo và trang bị thêm trang thiết bị mới phục vụ cho công tác giảng dạy, đến nay đã có trên 95% số xã đã có trường cao tầng, không còn tình trạng phải học 3 ca. Đặc biệt hệ thống giao thông nông thôn đã thay đổi hoàn toàn, 100% đường liên xã được đổ nhựa, hệ thống đường liên thôn, liên xóm được xây gạch hoặc bê tông hoá; các công trình phúc lợi được nâng cấp, sửa chữa, nạo vét kênh mương thuỷ lợi, nâng cấp đường giao thông... Bên cạnh đó, một số xã vùng biển còn trú trọng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất giúp cho việc nuôi trồng thuỷ hải sản cũng tương đối cao và đạt hiệu quả. Một số xã có số đầu tư cho phát triển cao như: Nam Phú- Tiền Hải 3.928.254 ngàn đồng, Thuỵ Dũng- Thái Thuỵ 1.051.659 ngàn đồng, Tự Tân-Vũ Thư 890.433 ngàn đồng, thị trấn Đông Hưng 829.888 ngàn đồng, Minh Khai-Vũ Thư 855.723 ngàn đồng... Với đặc điểm là một tỉnh thuần nông, nguồn thu chủ yếu dựa vào nông nghiệp, vì vậy việc dành được 35% số chi cho đầu tư phát triển là cố gắng lớn của ngân sách xã trong thơì gian qua.Tuy nhiên việc thực hiện chi cho đầu tư phát triển lại vượt dự toán ở mức tương đối cao. Điều đó cho thấy công tác lập dự toán cho chi đầu tư phát triển chưa tốt, chưa bao quát hết chương trình đầu tư, chưa tính toán chính xác chi phí cho các công trình dẫn đến khi duyệt quyết toán thường xuyên phải điều chỉnh lại dự toán được duyệt. Do vậy cần phải có kế hoạch đầu tư chi tiết, cụ thể hơn nữa, đảm bảo đúng trình tự thủ tục đầu tư quy định. Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát quá trình thi công thực hiện cũng như phải thành lập ban quản lý dự án do nhân dân bầu ra, tham gia giám sát quá trình thực hiện nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư. Tổ chức thanh toán và quyết toán phải trung thực, công khai, bảo đảm mọi người dân đều biết, có như vậy phương trâm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” mới phát huy hiệu quả. 2.2.3- Về cân đối thu- chi ngân sách xã: Thái bình là một tỉnh nông nghiệp, nguồn thu của ngân sách xã chủ yếu từ nông nghiệp lại bị ảnh hưởng của sự biến động giá nông sản thực phẩm nên số thu không ổn định trong khi nhiệm vụ chi của ngân sách xã ngày càng tăng đã làm cho tình hình cân đối ngân sách của phần lớn các xã gặp nhiều khó khăn. Nguồn thu tại xã chỉ đáp ứng được một phần nhiệm vụ chi thường xuyên. Cả tỉnh chỉ có thị trấn Hưng Hà là tự cân đối được thu chi ngân sách; có 20 xã chiếm 7% số xã có số thu thường xuyên đảm bảo chi thường xuyên; còn 264 xã chiếm 92,6% tổng số xã là thu thường xuyên không đảm bảo cân đối chi thường xuyên tại xã. Công tác huy động nguồn lực, nhất là huy động sự đóng góp của nhân dân để đầu tư, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế-xã hội còn nhiều bất cập so với yêu cầu. Vì vậy cần phải có cơ chế, tạo điều kiện mọi mặt để xã vươn lên chủ động cân đối ngân sách bảo đảm các hoạt động thường xuyên và phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn. 2.3- Thực trạng công tác quản lý tài chính ngân sách xã ở Thái bình trong những năm qua: 2.3.1- Về kiện toàn bộ máy quản lý tài chính Ngân sách xã: Bộ máy quản lý tài chính ngân sách xã đã được củng cố và kiện toàn đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở: ở tỉnh: Đã thành lập phòng quản lý ngân sách xã có nhiệm vụ tham mưu cho lãnh đạo Sở trong công tác quản lý tài chính- ngân sách xã, trực tiếp triển khai kiểm tra công tác quản lý tài chính- ngân sách xã theo luật NSNN trên địa bàn. Phòng quản lý ngân sách xã đi vào hoạt động theo quy định của Luật NSNN. ở huyện, Thị xã: Các phòng tài chính thương mại đã thành lập tổ quản lý ngân sách xã có nhiệm vụ trực tiếp hướng dẫn và kiểm tra việc chấp hành chế độ quản lý tài chính- ngân sách xã trên địa bàn theo Luật NSNN. ở xã: Tát cả các xã đều có Ban tài chính xã đảm bảo đủ các chức danh và phân định cụ thể các chức năng, nhiệm vụ của từng chức danh, tạo điều kiện cho Ban tài chính xã từng bước củng cố và tăng cường công tác quản lý tài chính- ngân sách xã ở địa phương; 100% cán bộ trong Ban tài chính xã được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tài chính- ngân sách xã và các kiến thức quản lý Nhà nước; đội ngũ kế toán ngân sách xã cơ bản được ổn định, chất lượng ngày một nâng cao; đến nay có 257 kế toán ngân sách xã có trình độ đại học và trung cấp kế toán; 28 kế toán ngân sách xã đang theo học các lớp tại chức. Mặc dù bộ máy quản lý tài chính ngân sách xã đã được củng cố kiện toàn nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao. Chất lượng Ban tài chính xã chưa đồng đều, một số nơi còn yếu kém, chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của mình nên vai trò tham mưu kiểm soát các nghiệp vụ kinh tế phát sinh còn hạn chế. 2.3.2- Công tác lập dự toán, chấp hành, quyết toán NSX: * Công tác lập dự toán: Do nhận thức được vị trí, vai trò của công tác lập dự toán, cấp uỷ, chính quyền cơ sở đã chủ động chỉ đạo xây dựng dự toán. Dự toán đã dựa vào tình hình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương và căn cứ vào các căn cứ luật cho phép. Công tác lập đảm bảo dân chủ, công bằng, đúng trình tự, chất lượng dự toán từng bước được nâng cao, nội dung thu chi tương đối sát với thực tế phát sinh, đảm bảo đúng mục lục ngân sách. Tuy nhiên, dự toán thu chưa bao quát hết các nguồn thu, chưa sát thực tế, cơ cấu chi còn bất hợp lý, chưa chấp hành đúng nguyên tắc cân đối thu chi ngân sách xã. Vẫn còn nhiều xã khi lập chưa căn cứ vào định mức, tiêu chuẩn luật định, làm cho công tác điều hành thực hiện dự toán bị động, phải điều chỉnh, bổ sung nhiều gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan tài chính. * Công tác chấp hành dự toán: Đối với thu: Các khoản thu do xã quản lý và tổ chức thực hiện đều đảm bảo sát với nội dung kinh tế phát sinh, thu đúng, thu đủ, đôn đốc nộp kịp thời vào Kho bạc Nhà nước, nhiều xã không những khai thác tốt nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn mà còn chú trọng khai thác tận thu các khoản có tỷ trọng nhỏ, để có nguồn chủ động đáp ứng nhiệm vụ chi hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở. Nhìn chung thực hiện dự toán thu ngân sách xã hầu hết các xã đều thực hiện tốt dự toán đề ra và khai thác tốt các nguồn thu tại xã. Tuy nhiên việc thực hiện khai thác nguồn thu chưa triệt để, vẫn còn nhiều xã còn coi thường nguồn thu có tỷ trọng nhỏ; một số xã tổ chức đấu thầu nhiều năm thu tiền một lần làm giảm thu những năm sau... Đối với chi: Đa số các xã điều hành chi ngân sách đã đảm bảo tuân thủ dự toán được duyệt và chấp hành chế độ ưu tiên trả sinh hoạt phí chi hoạt động đã được kiểm soát chặt chẽ, có hiệu quả, đúng chính sách chế độ của Nhà nước. Một số xã đã tiết kiệm một phần chi thường xuyên giành cho chi đầu tư phát triển nguồn thu, đầu tư chuyển dịch cơ cấu giống cây, giống con và phát triển ngành nghề tại địa phương. Tuy nhiên vẫn còn nhiều xã chi không đúng dự toán, chi thường xuyên cao hơn định mức được duyệt, chưa đúng mục đích, không đảm bảo trật tự ưu tiên. * Công tác quyết toán: Cùng với tổ chức triển khai thực hiện Luật NSNN, việc triển khai thực hiện chế độ kế toán kép theo quyết định số 827/1998/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ tài chính; đến nay cán bộ kế toán ngân sách xã đã hạch toán, ghi chép vào sổ sách kế toán có nề nếp. Việc thực hiện chế độ báo cáo kế toán được chấp hành nghiêm túc, chất lượng báo cáo ngày càng tiến bộ, đảm bảo số liệu khớp đúng, phản ánh đúng mục lục ngân sách Nhà nước, từng bước đáp ứng yêu cầu kiểm tra, kiểm soát, tổng hợp và phân tích, đánh giá các hoạt động tài chính của chính quyền cơ sở. Mặc dù đạt được những thành tựu khả quan trên, song việc quyết toán ngân sách xã vẫn còn một số hạn chế nhất định. Một số xã chưa phản ánh chính xác kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, việc sử dụng chứng từ thu còn tuỳ tiện, công tác quản lý, theo dõi tài sản còn yếu kém, chất lượng báo cáo và thời gian gửi báo cáo còn chưa đáp ứng được yêu cầu. 2.3.3- Công tác kiểm tra chấp hành các chế độ quản lý tài chính ngân sách xã: Những năm qua, cán bộ quản lý tài chính- ngân sách xã các cấp đã tích cực đi cơ sở vừa hướng dẫn cán bộ Ban tài chính xã chấp hành Luật NSNN đồng thời thực hiện giám sát các hoạt động tài chính tại cơ sở. Thông qua thẩm định dự toán thu- chi ngân sách xã đã kiểm tra các căn cứ xây dựng dự toán bảo đảm thu đúng, thu đủ, không bỏ sót các nguồn thu, định hướng cho cơ sở bố trí cơ cấu chi đúng chế độ, tiết kiệm, hiệu quả. Thông qua kiểm soát chi tại kho bạc Nhà nước đã phát hiện các khoản chi sai, thu sai từ đó có giải pháp uốn nắn kịp thời. Qua công tác kiểm tra chấp hành chế độ kế toán, thẩm định quyết toán đã phát hiện và uốn nắn kịp thời các vi phạm góp phần đưa công tác quản lý tài chính ngân sách xã đi vào nề nếp theo luật định. Thông qua hoạt động thanh tra tài chính và thanh tra nhân dân đã phát hiện và đề nghị chính quyền cơ sở điều chỉnh bổ sung các khoản thu, đình chỉ những khoản chi chưa hợp lý. Mặc dù vậy, nhưng công tác kiểm tra thực hiện Luật NSNN và các quy định quản lý tài chính khác chưa được tiến hành thường xuyên, việc thẩm định xét duyệt dự toán thu- chi chưa kịp thời. Vai trò kiểm soát thu- chi của cán bộ Trưởng ban tài chính xã còn nhiều yếu kém, cá biệt có nơi không kiểm soát được hoạt động thu- chi ngân sách xã. 2.3.4- Việc thực hiện dân chủ, công khai tài chính- ngân sách xã: Trong thời gian qua hầu hết các xã tổ chức công khai trực tiếp toàn bộ dự toán, quyết toán trước và trong các cuộc họp của Đảng bộ, HĐND, UBND và thông báo trên loa truyền thanh của xã; đa số các xã tổ chức niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã và công khai trực tiếp trong các cuộc họp của xóm, hội nghị các đoàn thể. Đặc biệt trong điều kiện những năm qua, nhiều xã đã biết kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa việc triển khai thực hiện dân chủ, công khai tài chính cơ sở với việc thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", tổ chức huy động nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng có hiệu quả, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Kết quả là giúp cho cán bộ và nhân dân trong xã nắm được những thuận lợi, khó khăn về nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách xã, từ đó tạo điều kiện để nhân dân tham gia giám sát quá trình điều hành các hoạt động tài chính- ngân sách xã trên địa bàn của chính quyền cơ sở, đồng thời tự giác thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước và cộng đồng dân cư tại xã. Thông qua triển khai thực hiện dân chủ, công khai tài chính ở cơ sở đã phát huy quyền làm chủ của các tổ chức, cá nhân, củng cố mối liên hệ chặt chẽ giữa Nhà nước và nhân dân, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực hiện dân chủ công khai vẫn tồn tại một số hạn chế. Một số cán bộ Ban tài chính xã năng lực còn yếu, chưa nắm vững các nội dung cơ bản về Luật NSNN, chế độ thu, chế độ chi nên chưa giải trình kịp thời, cụ thể ngay trước nhân dân, gây hoài nghi, thắc mắc, làm giảm ý nghĩa tác dụng của quy chế dân chủ, công khai tài chính ở cơ sở. 2.3.5- Nguyên nhân dẫn đến những yếu kém trên: - Nguyên nhân chủ quan: Tuy đã có chủ trương, chính sách, chế độ đuợc ban hành nhưng chưa đồng bộ, chưa sát thực tiễn, chưa cụ thể, chưa kịp thời, gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện của các cấp, các ngành nhất là cơ sở. Một số cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ, công khai tài chính ở cơ sở nên chưa quan tâm, chưa tích cực giám sát quá trình thực hiện quy chế này trong công tác quản lý tài chính- ngân sách xã. Chưa tích cực tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, cộng đồng dân cư tại xã. Điều kiện tự nhiên, biến động giá cả trên thị trường đã tác động trực tiếp đến sự phát triển của ngân sách xã cả về quy mô lẫn tốc độ tăng trưởng. - Nguyên nhân chủ quan: Một số cán bộ xã còn chưa xác định rõ chức năng nhiệm vụ của mình nên chưa tham mưu có hiệu quả cho cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở trong quản lý và điều hành tài chính xã. Công tác kiểm tra, kiểm soát của cơ quan cấp trên đối với hoạt động tài chính-ngân sách xã chưa xử lý nghiêm minh các vi phạm dẫn đến cán bộ xã coi thường kỷ luật tài chính, cá biệt có nơi còn tuỳ tiện trong quản lý điều hành thu-chi ngân sách xã. Tư tưởng lãnh đạo của nhiều cán bộ ở một số xã còn chậm được đổi mới; chưa giám tiếp cận nhanh với khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất và việc đưa các loại giống mới vào sản xuất... nên không tạo ra những đột biến trong sản xuất, hạn chế nguồn thu mới cho ngân sách xã. Nhận thức của một số cán bộ chủ chốt về chấn chỉnh công tác quản lý tài chính- ngân sách xã theo luật NSNN và nghị quyết của Tỉnh uỷ còn hạn chế, chậm thích ứng với cơ chế quản lý mới nên công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành thực hiện Luật NSNN, củng cố tăng cường công tác quản lý tài chính ở cơ sở chưa kịp thời, chưa thường xuyên, chưa đồng bộ, chưa coi việc điều hành thu chi qua Kho bạc Nhà nước là biện pháp tích cực nhằm lập lại kỷ cương trong quản lý tài chính- ngân sách xã. Xuất phát từ những thành công cũng như những hạn chế trong quá trình quản lý của ngân sách xã ở Thái bình, một vấn đề đặt ra là những khả năng tiềm tàng hiện nay của các xã về đất đai, mặt nước ao hồ, lao động và các ngành nghề truyền thống, thì việc tìm ra định hướng, biện pháp để phát huy những mặt mạnh hạn chế những mặt yếu kém tăng cường tổ chức quản lý và phát triển ngân sách xã một cách ổn định vững chắc là một yêu cầu thiết thực góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới, tạo điều kiện cho kinh tế xã hội trong tỉnh nói chung và cho cơ sở xã, phường nói riêng. Từng bước rút ngắn dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. chương BA: phương hướng - mục tiêu - giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý ngân sách xã ở thái bình trong thời gian tới 3.1. Phương hướng - mục tiêu Ngân sách xã là công cụ tài chính quan trọng, là phương tiện vật chất cho chính quyền cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ phuc vụ mục tiêu “do dân, vì dân, giải quyết các mối liên hệ giữa nhà nước và nhân dân”. Vì vậy Ngân sách xã là cấp ngân sách cơ sở có mối liên hệ trực tiếp với dân, do dân, vì dân. Để thực hiện mục tiêu “Dân giầu nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn minh” đồng thời đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.Trong giai đoạn vừa qua những thực trạng đã được phân tích ở chương 2 có thể nói công tác quản lý ngân sách xã sau 5 năm thực hiện luật Ngân sách Nhà nước đã tương đối bám sát chủ trương, chính sách của Nhà nước và bước đầu cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên cũng còn bộc lộ một số những tồn tại hạn chế trong công tác quản lý thu chi Ngân sách xã. Về phần thu vẫn còn một số xã chưa chủ động bao quát hết nguồn thu và chưa tận dụng hết các lợi thế của địa phương để huy động nguồn thu. Về phần chi cơ cấu chi nhiều nơi ít biến đổi và còn chưa hợp lý, dành chủ yếu cho chi thường xuyên còn cho chi đầu tư phát triển hạn chế. Nhiều nơi quản lý chi còn lãng phí và hiệu quả không cao. Vì vậy trong thời gian tới để khắc phục tình trạng trên chính quyền các cấp đã đưa ra các định hướng cho công tác quản lý Ngân sách Nhà nước nói chung và công tác quản lý Ngân sách xã nói riêng. Với mục tiêu từ nay đến 2005, Thái Bình phải củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính- Ngân sách xã theo luật Ngân sách Nhà nước, nâng cao hiệu quả việc thực hiện quy chế dân chủ công khai tài chính ở cơ sở, làm cho quy mô thu chi Ngân sách xã ngày càng ổn định và phát triển bền vững. Nguồn thu Ngân sách xã bảo đảm nhiệm vụ chi cho hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở, thực hiện tốt chính sách xã hội, đồng thời dành một phần vốn thích đáng để duy trì và tăng cường cơ sở hạ tầng tại xã, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn, phát triển và mở rộng ngành nghề, tạo thêm việc làm tăng thu nhập cho nông dân, khuyến khích nhân dân thực hiện tốt chương trình xã hội hoá các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, đầu tư mở rộng và phát triển nguồn thu cho Ngân sách xã góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn. Để đạt được những mục tiêu trên cần tập trung xây dựng Ngân sách xã đủ mạnh từ thực lực nền kinh tế của xã bảo đảm nguồn thu ổn định lâu dài để đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới có cơ chế phân cấp phân quyền rõ ràng phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở để từng bước lành mạnh nền tài chính củng cố ban tài chính xã đủ khả năng quản lý và phát triển Ngân sách xã. Với những mục tiêu và phương hướng trên trong công tác quản lý thu chi Ngân sách xã cần thực hiện tốt các công việc cụ thể sau: 3.1.1. Về khai thác khoản thu cho Ngân sách xã Các khoản thu phải thực hiện theo đúng phân cấp của luật Ngân sách Nhà nước có vận dụng theo điều kiện thực tế của địa phương nhằm phát huy tính chủ động tự chịu trách nhiệm trước nguồn thu được phân cấp. Các khoản thu phân chia theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước, thông tư hướng dẫn của bộ tài chính thì việc phân định tỉ lệ nguồn thu Ngân sách xã hưởng được cụ thể quy định đến từng xã, song do cơ sở vật chất và điều kiện thực tế chưa thể thực hiện được. Vì vậy việc phân chia nguồn thu có thể áp dụng theo khu vực cho phù hợp với thực tế theo đó mà sở Tài chính -Vật giá trình UBND tỉnh quy định cụ thể tỉ lệ phần trăm nguồn thu mà Ngân sách xã được hưởng theo Luật định. Đối với nguồn huy động đóng góp của nhân dân thì đây là nguồn có ý nghĩa rất lớn, phu hợp với chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước để phát huy nội lực tạo nguồn lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nứơc. Cần phải quán triệt sâu rộng đến nhân dân khi huy động cần phải có phương án kế hoạch cụ thể, công khai xin ý kiến nhân dân trước khi trình UBND xã phê chuẩn cụ thể. Việc thu các khoản đóng góp phải có biên lai thu tiền do Bộ tài chính ban hành nếu thu bằng tiền phải nộp vào Kho bạc Nhà nước quản lý, sử dụng đúng mục đích thực hiện quy trình công khai theo đúng quy định của chính phủ. Về nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu: Cần tập trung khai thác thế mạnh phù hợp với từng địa phương tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế về cây trồng vật nuôi, kết hợp với ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật để phát triển kinh tế địa phương. Những xã nào có điều kiện tự nhiên phù hợp với giống cây trồng vật nuôi nào cần có chủ trương phát triển và nhân ra diện rộng. Những xã ven sông có lợi thế về bến bãi đò cần khai thác sử dụng triệt để. Qua đó đầu tư phát triển thêm ngành nghề phụ, nghề gia truyền, phát triển tiểu thủ công nghiệp nâng cao đời sống nhân dân góp phần tăng thu cho ngân sách xã. 3.1.2. Về nhiệm vụ chi ngân sách xã. Đối với chi đầu tư phát triển, trong những năm tới ngoài việc tăng cường đầu tư để hoàn thiện các công trình cơ sở vật chất của xã như trường học trạm xá, đường liên thôn xóm ...thì cần phải tập trung vào những công việc trọng tâm trọng điểm có tính chất cấp bách. Và một nhiệm vụ quan trọng của Ngân sách xã là phải tiếp tục đầu tư để duy tu sửa chữa, bảo dưỡng những công trình mà xã đã đầu tư xây dựng trong những năm qua nay cần phải giữ gìn và phát huy hiệu quả. Nếu những công trình này không được duy tu bảo dưỡng thì chỉ trong một thời gian ngắn nữa những thành quả mà chúng ta đã đạt được thời gian qua sẽ không còn phát huy tác dụng. Bên cạnh đó cũng cần phải chú trọng phương trâm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” từ đó hỗ trợ cho Ngân sách xã phần nào trong việc đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Tuy nhiên khi chi đầu tư phát triển cần phải đảm bảo đủ nguồn để chi thường xuyên, trong đó cần phải ưu tiên chi cho sinh hoạt phí và các khoản phụ câp cho cán bộ xã. Các xã cần xem kĩ lưỡng các khoản chi, đảm bảo đúng dự toán, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao, hạn chế tối đa các khoản chi ngoài dự toán, xem xét và giảm khoản chi khác trong chi thường xuyên ở mức thấp có thể chấp nhận mà vẫn đảm bảo hiệu quả. Đối với các khoản chi phát sinh đột suất cấp bách như khắc phục thiên tai hoả hoạn cứu đói ...sẽ được giải quyết kịp thời theo quyết định của Chủ tịch UBND huyện phê duyệt . 3.1.3. Về công tác quản lý. Đối với công tác quản lý Ngân sách xã trong hệ thống Ngân sách Nhà nướ, cần thực hiện quản lý thu chi Ngân sách xã qua Kho bạc Nhà nước. Trong 5 năm qua từ khi thực hiện luật Ngân sách Nhà nước, công tác quản lý thu chi Ngân sách xã được quy định cụ thể tại điều 34 và 35 luật Ngân sách Nhà nước, nên công tác quản lý thu chi Ngân sách xã có nhiều thuận lợi, chấp hành tốt quy trình thu chi Ngân sách xã. Tuy nhiên ở mỗi khâu của quy trình quản lý Ngân sách xã cũng còn nhiều tồn tại nên cần phải bám sát những phần việc sau: Đối với lập dự toán thu chi Ngân sách phải đươc xây đựng một cách tích cực bám sát điều kiện kinh tế xã hội của xã, nguồn thu phải được bao quát rộng khắp, nhiệm vụ chi phải bảo đảm mối quan hệ hài hoà, tiết kiệm, hiệu quả. Đối với khâu chấp hành dự toán phải bảo đảm tính chính xác thu đúng, thu đủ, kịp thời theo chế độ của Nhà nước, thực hiện chi đúng theo dự toán đảm bảo tiết kiệm hiệu quả. Đặc biệt chú trọng đến chi để nuôi dưỡng nguồn thu tại xã, từng bước khẳng định vai trò cấp Ngân sách xã. Ban tài chímh xã phải có trách nhiệm ghi chép kế toán phản ánh kết quả kịp thời về thu chi, kiểm tra giám sát kịp thời các hoạt động tài chính để đưa ra những kiến nghị cho UBND xã và cơ quan tài chính cấp trên. Đối với đội ngũ cán bộ tài chính thì để công tác quản lý tài chính ngày càng nâng cao thì các xã phải thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ, thường xuyên phối hợp với cơ quan tài chính cấp trên để từ đó tham gia học hỏi kinh nghiệm quản lý cũng như nghiên cứu sâu sắc hơn những chính sách chế độ mới của Nhà nước và tỉnh ban hành. Cán bộ xã cũng phải thường xuyên chau rồi kiến thức quản lý cũng như chế độ tài chính, kế toán mới qua đó mà thực hiện cho phù hợp hiệu quả . 3.2. Các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã. Để thực hiện tốt luật Ngân sách Nhà nước củng cố và hoàn thiện công tác quản lý tài chính-Ngân sách xã. Việc tăng nhanh và ổn định Ngân sách xã là một nhiệm vụ hết sức cần thiết và quan trọng để đáp ứng nhiệm vụ kinh tế xã hội trước yêu cầu đổi mới của cơ sở. Trong thời gian qua một loạt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã phần nào giải quyết được yêu cầu đó, nhưng để đi đến thực hiện hoàn chỉnh góp phần tạo thế ổn định vững chắc, sớm đưa Ngân sách xã trở thành một cấp Ngân sách hoàn chỉnh trong hệ thống Ngân sách Nhà nước. Đòi hỏi cần phải có những lý giải và giải pháp có tính khả thi trong quá trình thực hiện. Cụ thể cần tập trung tổ chức thực hiện một số biện pháp sau : 3.2.1. Làm tốt công tác quản lý và điều hành thu-chi Ngân sách xã và các hoạt động tài chính tại xã . Công tác quản lý điều hành Ngân sách xã phải bảo đảm trình tự lập, chấp hành dự toán và quyết toán Ngân sách xã. Dự toán thu chi Ngân sách xã phải được xây dựng trên cơ sở các căn cứ, định mức, tiêu chuẩn luật định và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Dự toán sát thực tế, bảo đảm chất lượng đúng mục lục Ngân sách Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chính quyền xã chủ động trong điều hành và nâng cao hiệu quả kiểm tra kiểm soát của cơ quan tài chính. Quá trình triển khai thưc hiện dự toán phải đề ra các biện pháp cụ thể cho từng khoản thu chi và bám sát dự toán Ngân sách xã và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đã được duyệt . 3.2.1.1. Về điều hành thu . Chính quyền cấp xã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn cấp trên để quản lý chặt chẽ các nguồn thu trên địa bàn, theo dõi quản lý và đôn đốc thu nộp kịp thời vào Ngân sách Nhà nước theo tiến độ nghiệp vụ kinh tế phát sinh, thu và thanh toán trực tiếp đến từng đối tượng phải nộp Ngân sách, thực hiện nghiêm túc chế độ chứng từ thu theo quy định của Bộ tài chính. Đồng thời nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng tư vấn thuế xã, phường để làm tốt vai trò tham mưu cho chính quyền trong quá trình quản lý điều hành thực hiện dự toán thu Ngân sách xã. Nội dung tổ chức quản lý và thực hiện Ngân sách xã: Về phân định nhiệm vụ tổ chức thu Ngân sách: cơ quan thuế trực tiếp thu các khoản: Thuế môn bài, thu chuyển quyền sử dụng đất; các khoản thu này cơ quan thuế trực tiếp thu và viết biên lai thuế cho từng đối tượng nộp thuế, trực tiếp víêt giấy nộp tiền vào Ngân sách Nhà nước. Cơ quan thuế trực tiếp quản lý tổ chức thu hoặc uỷ quyền cho cán bộ uỷ nhiệm thu do UBND xã giới thiệu tổ chức thu các khoản: thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất. Cán bộ chuyên quản thuế có trách nhiệm trực tiếp tổ chức quản lý thu, cán bộ uỷ nhiệm thu có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh theo hợp đồng đã ký với cơ quan thuế. UBND xã chỉ đạo ban tài chính xã phối hợp chặt chẽ với cán bộ chuyên quản thuế trong công tác quản lý đôn đốc tổ chức thu nộp và giám sát việc tổ chức thực hiện theo luật. Ban tài chính xã có nhiệm vụ tổ chức thu các khoản thu Ngân sách xã còn lại theo luật định. Ban tài chính thu trực tiếp của các đối tượng phải nộp Ngân sách, viết biên lai hoặc phiếu thu theo quy định đối với từng khoản thu cho từng đối tượng nộp và trực tiếp viết giấy nộp tiền vào Ngân sách Nhà nước, đồng thời có nhiệm vụ thanh quyết toán biên lai với các cơ quan thuế. Về thực hiện và quản lý các khoản thu Ngân sách xã: đối với nguồn thu quỹ đất 5% và hoa lợi công sản hiện nay ở hầu hết các xã trong tỉnh đều có đất công, đầm, ao, hồ và những tài sản công khác trên địa bàn xã. UBND xã phải căn cứ vào kết quả kiểm kê định kỳ xác định lại theo từng loại cho sát với thực tế bởi đây là nguồn thu ổn định lâu dài và chủ yếu nhất ở xã. Luật Ngân sách Nhà nước quy định UBND xã trực tiếp quản lý quỹ đất 5%, quỹ đất quốc gia công thổ, các xã có biện pháp tích cực tổ chức khai thác nguồn thu này, tăng thu cho Ngân sách xã. Nghiêm cấm bán quỹ đất 5%, đấu thầu dài hạn thu tiền trước nhiều năm làm cạn kiệt nguồn thu Ngân sách xã các năm sau. Đối với nguồn thu từ phí và lệ phí cần tổ chức thu tốt các loại phí và lệ phí như: đò, đường, chợ, lễ hội bến bãi... có biện pháp quản lý chặt chẽ và thực hiện đúng quy định của UBDN Tỉnh về mức thu, đảm bảo thu đúng thu đủ theo chế độ hiện hành, đảm bảo chế độ thống nhất giữa các xã. Đối với nguồn thu từ thuế môn bài chưa được quản lý chặt chẽ nên vẫn thường xảy ra tình trạng trốn lậu thuế gây thất thu cho Ngân sách. Phải kiểm tra rà soát lại các hộ kinh doanh, qua đó buộc các hộ phải có giấy phép đăng ký kinh doanh, thường xuyên kiểm tra kiểm soát các hoạt động kinh doanh xem có thực hiện đúng cam kết không. Đồng thời phải có biện pháp xử lý thích đáng đối với những hộ cố tình trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế hoặc nợ đọng thuế kéo dài. Qua đó mà việc quản lý thuế môn bài được chặt chẽ và hiệu quả. Đối với nguồn thu nhân dân đóng góp: Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm cho lên đây là khoản thu có ý nghĩa quan trọng nhằm huy động sức dân để xây dựng cơ sở hạ tầng cho địa phương, phục vụ cho chính lợi ích của người dân là chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước (được quy định tại nghị định số 29/1998/NĐ-CP và nghị định số 24/1999/NĐ-CP của Chính phủ và thông tư của Bộ tài chính) tạo niềm tin trong nhân dân để nhân dân tự giác thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, tích cực tham gia đóng góp xây dựng kinh tế xã hội của địa phương. Để quản lý tốt khoản thu này cần phải xây dựng dự toán cụ thể đối với từng công trình, biện pháp tổ chức thực hiện, tổ chức lấy ý kiến của nhân dân về mức đóng góp đối tượng thu, phương thức và thời gian thu. Quá trình thực hiện phải thành lập ban quản lý công trình, ban giám sát công trình do dân bàn và quyết định cử ra, có trách nhiệm giám sát toàn diện tất cả các mặt các khâu của việc huy động quản lý và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân, giám sát việc nghiệm thu và bàn giao quyết toán công trình. Ngoài ra còn có một số khoản thu khác thì các cơ quan chức năng tổ chức thu phải thường xuyên phối kết hợp để huy động, khai thác triệt để bảo đảm nguồn thu cho Ngân sách xã. Đối với các hoạt động tài chính khác ở xã: Những khoản đóng góp của nhân dân do thôn xóm, tổ dân phố đứng ra huy động và tổ chức thực hiện để sử dụng vào những mục đích nhất định có liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân sở tại: không phản ánh vào Ngân sách xã nhưng các tổ chức đứng ra huy động phải công khai kết quả thu và sử dụng. Các quỹ hợp pháp ngoài ngân sách ở xã như quỹ từ thiện quỹ phòng chống thiên tai... không phản ánh vào Ngân sách xã nhưng phải hạch toán và quản lý theo chế độ hiện hành, phải công khai với dân. Các quỹ trên phải mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước. 3.2.1.2. Về điều hành chi Việc chấp hành dự toán chi Ngân sách phải tuân thủ theo nguyên tắc bám sát dự toán chi được duyệt, bảo đảm trật tự ưu tiên - ưu tiên trả sinh hoạt phí, và các khoản phụ cấp cho cán bộ xã, phấn đấu theo tháng không để tình trạng nợ sinh hoạt phí và các khoản phụ cấp kéo dài. Mọi khoản chi phải đúng mục tiêu-tiền nào việc đấy; đúng định mức chế độ của Nhà nước; tiết kiệm hiệu quả và phải được quản lý qua kho bạc Nhà nước. Việc phân bổ dự toán chi Ngân sách xã phải chi tiết cụ thể, bảo đảm công bằng đáp ứng yêu cầu chi thường xuyên và dành một phần thích đáng cho đầu tư phát triển. Nghiêm cấm các xã tự ý đặt ra các khoản chi trái với luật định. Về quản lý điều hành chi thường xuyên: + Khảo sát và ban hành định mức chi tổng hợp theo quy mô từng loại xã để làm căn cứ phân bổ dự toán chi cho Ngân sách xã. +Ban hành các định mức chi cụ thể cho từng lĩnh vực: quản lý hành chính, chi cho hoạt động của Đảng, các đoàn thể, sự nghiệp văn hoá, y tế, giáo dục, an ninh quốc phòng ... để các xã có căn cứ phân bổ dự toán và kiểm soát chi đối với các bộ phận trực thuộc được thụ hưởng Ngân sách xã . Về quản lý điều hành các khoản chi không thường xuyên: Việc bố trí các khoản chi Ngân sách xã để đầu tư phát triển kinh tế chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, mở rộng và phát triển nguồn thu cho Ngân sách xã những năm tiếp theo trong điều kiện Ngân sách xã còn hạn hẹp là việc làm khó khăn đòi hỏi cấp uỷ chính quyền xã phải có nhận thức đúng đắn, đồng tâm nhất trí trên cơ sở nắm vững nguyện vọng thiết thực của đại đa số nhân dân xác định rõ cơ cấu đầu tư có trọng tâm, trọng điểm trong từng thời kỳ phù hợp khả năng nguồn lực của địa phương thì mới mang lại hiệu quả và lợi ích thiết thực. 3.2.2. Thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán kế toán tăng cường công tác quản lý công sản Theo quyết định số 141/2001/ QĐ-BTC ngày 21/12/2001 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban hành chế độ kế toán Ngân sách xã được thực hiện từ ngày 01/01/2002 thay thế cho quyết định số 827/1998/QĐ-BTC ngày 04/07/1998 đưa Ngân sách xã hạch toán tổng hợp vào hệ thống Ngân sách Nhà nước. Chủ tịch UBND nhân dân xã phường phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh các quy định trong chế độ kế toán Ngân sách xã. Cán bộ ban tài chính xã phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn về quản lý tài chính - Ngân sách xã và tổ chức thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán Ngân sách xã theo quy định của Bộ tài chính. Ban tài chính và kế toán xã phải thường xuyên phối hợp với Phòng tài chính thương mại, chi cục Thuế, Kho bạc Nhà nước huyện để tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình quản lý, hạch toán kế toán bảo đảm hoạt động bình thường. Cán bộ kế toán xã thường xuyên phải được kiểm tra đánh giá chất lượng từ đó có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn. Cấp uỷ Đảng và chính quyền phải có thái độ nghiêm khắc với những cán bộ kế toán có tinh thần trách nhiệm kém, năng lực yếu, cố tình vi phạm kỷ luật tài chính. Tăng cường công tác quản lý tài sản công của xã kể cả tài sản của nhà nước, tài sản vắng chủ trên địa bàn xã chưa rõ cơ quan nào quản lý. Trước hết nghiêm túc thực hiện chế độ đăng ký mở sổ sách theo dõi cả về hiện vật và giá trị đối với mọi tài sản, đồng thời có biện pháp sử dụng tiết kiệm có hiệu quả, có kế hoạch bảo dưỡng sửa chữa nhằm mục đích tăng năng lực sử dụng của tài sản. Đối với tài sản không cần dùng, không còn sử dụng được phải được xử lý, thanh lý kịp thời theo đúng quy định. Toàn bộ số tiền thanh lý sau khi trừ chi phí nộp vào Ngân sách theo chế độ . 3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động tài chính Ngân sách xã . Nâng cao chát lượng hoạt động của đại biểu HĐND xã trong việc quyết định dự toán, phê chuẩn quyết toán, giám sát quá trình điều hành hoạt động thu-chi tài chính của UBND xã và thực hiện các nghĩa vụ tài chính của các công dân trên địa bàn. Các ngành trong khối tài chính phải có kế hoạch kiểm tra thường xuyên việc chấp hành luật Ngân sách Nhà nước tại xã về các lĩnh vực quản lý và đôn đốc thu nộp các khoản thu chấp hành các định mức, chế độ chi tiêu, thực hiện chế đô kế toán và báo cáo kế toán, quản lý công sản thực hiện chức năng nhiệm vụ của cán bộ Ban tài chính xã, đồng thời phối hợp chặt chẽ để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra kiểm soát trước trong và sau các hoạt động thu chi tài chính xã. Qua đó phát hiện và uốn nắn kịp thời những vi phạm kỉ luật tài chính, từng bước đưa công tác quản lý tài chính-Ngân sách xã đi vào nề nếp. Hàng quý các xã phải lập dự toán và báo cáo gửi Phòng tài chính thương mại để thẩm định dự toán, thẩm duyệt quyết toán. Có kế hoạch thanh tra, kiểm tra đột xuất hoạt động tài chính-Ngân sách xã, kết luận và xử lý nghiêm minh kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật. 3.2.4. Tiếp tục củng cố và kiện toàn bộ máy quản lý tài chính Ngân sách xã từ tỉnh đến cơ sở. Trong điều kiện hiện nay nguồn thu Ngân sách xã ngày càng phong phú đa dạng, nội dung chi cũng ngày càng lớn và gia tăng với tốc độ nhanh thì đòi hỏi cần phải có đội ngũ cán bộ đủ năng lực để nắm bắt, ghi chép hạch toán đầy đủ, chính xác nội dung thu-chi Ngân sách xã là điều tất yếu. Để làm được điều đó đòi hỏi phải làm tốt các vấn đề sau: Chủ tịch xã với tư cách là người đứng đầu chính quyền cấp xã, là chủ tài khoản của Ngân sách xã cho nên chủ tịch xã cần phải có sự am hiểu nhất định về quản lý kinh tế nói chung và quản lý tài chính Ngân sách xã nói riêng, do đó chủ tịch xã cần phải được đào tạo về quản lý tài chính và thường xuyên được bồi dưỡng huấn luyện nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý. Bộ máy quản lý Ngân sách xã phải thường xuyên củng cố theo hướng chuyên trách, theo biên chế phục vụ lâu dài đồng thời công tác kế toán phải được thực hiện thống nhất theo chế độ kế toán Nhà nước đã ban hành. Các huyện phải thường xuyên mở các lớp tập huấn cho cán bộ quản lý Ngân sách xã để họ hiểu đúng và thực hiện đúng pháp luật. Định kỳ hàng quý hàng năm nên tổ chức các buổi sơ kết tổng kết đánh giá tình hình quản lý Ngân sách. Qua đó có những giải pháp tình thế kịp thời phát huy những mặt tích cực và nghiêm khắc loại bỏ những hạn chế ở những quý, năm tiếp theo. Để làm tốt những việc trên các cơ quan quản lý cấp trên cũng phải có thái độ đúng mực với cấp Ngân sách xã qua đó tác động tích cực vào bộ máy quản lý Ngân sách xã. Cụ thể: UBND các huyện, thị xã phải có kế hoạch tăng cường và bố trí đủ cán bộ có năng lực cho công tác quản lý tài chính Ngân sách xã. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ này kiên quyết thay thế các cán bộ không đáp ứng yêu cầu. UBND tỉnh ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền của chủ tài khoản chức năng nhiệm vụ của các cán bộ trong ban tài chính xã, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức thực hiện và làm căn cứ kiểm tra xử lý các trường hợp vi phạm. 3.2.5. Thực hiện tốt quy chế dân chủ công khai tài chính xã. Nếu thực hiện tốt công tác quản lý tài chính Ngân sách xã theo luật Ngân sách Nhà nước và làm tốt việc dân chủ công khai tài chính xã thì nội bộ Đảng đoàn kết, nhân dân tin tưởng, chính trị ổn định, kinh tế xã hội phát triển. Vì vâỵ trước hết phải tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân làm cho nhân dân hiểu đúng ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ công khai tài chính trong đời sống xã hội để họ tự giác thực hiện các nghĩa vụ của mình và tham gia giám sát quá trình tổ chức thực hiện các nội dung công khai. Việc tổ chức thực hiện dân chủ công khai tài chính xã cần tập trung vào các vấn đề cụ thể sau: Nội dung công khai các lĩnh vực: thu, chi Ngân sách xã; xây dựng cơ bản và các khoản đóng góp của nhân dân; công khai đối tượng nộp, mức đóng góp và hình thức đóng góp. Hình thức công khai: Công khai trên loa truyền thanh, công khai trực tiếp trong các cuộc họp - Đảng bộ, Đảng uỷ, HĐND, hội nghị cán bộ chủ chốt xã, hội nghị đại biểu nhân dân, họp các xóm tổ dân phố...và niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã. Thời điểm công khai : trước khi triển khai tổ chức thu trước khi lập dự toán, sau khi báo cáo kết quả và báo cáo quyết toán được duyệt. Biểu mẫu công khai phải rõ ràng các chỉ tiêu phải dễ hiểu, số liệu phải trung thực, cụ thể, chi tiết, tránh tình trạng làm lướt, làm ẩu, nội dung các chỉ tiêu chung chung, quá tổng hợp, khó hiểu dễ gây nghi ngờ thắc mắc. 3.2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục thực hiện pháp luật. Nhằm nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của công tác quản lý tài chính Ngân sách xã, thẩm quyền quyết định các nội dung về tài chính Ngân sách xã theo luật Ngân sách Nhà nước cho cán bộ cấp uỷ, HĐND, UBND các xã. Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng và cập nhật kiến thức về pháp luật, về quản lý kinh tế xã hội. Chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước, quản lý tài chính phải được coi là bắt buộc trong chương trình đào tạo cán bộ cơ sở nhất là đội ngũ cán bộ chủ tịch UBND xã, thường trực Đảng uỷ, HĐND, trưởng ban tài chính xã. Nâng cao hiệu quả sử dụng tủ sách pháp luật tại xã, tổ chức phát động phong trào sâu rộng trong cán bộ Đảng và nhân dân về tìm hiểu và làm theo pháp luật các lĩnh vực thuế, các quỹ tài chính và quy chế dân chủ công khai, tài chính ở cơ sở. Qua đó tăng cường tính tự giác chấp hành và kiểm tra giám sát thực hiện các chế độ quản lý tài chính tại địa phương. 3.3. Giải pháp điều kiện Để các biện pháp tăng cường quản lý Ngân sách xã đã đưa ra đi vào thực tiễn cuộc sống cần phải có các điều kiện sau : - Tỉnh cần có biện pháp tuyên truyền, vận động để các cấp, các ngành và nhân dân thấy rõ vai trò và tầm quan trọng của Ngân sách xã. Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện để tăng cường hiệu lực pháp luật, pháp chế của chính quyền Nhà nước cấp xã với nhân dân. Nhà nước cần có các giải pháp, đòn bẩy kinh tế tài chính, các chế độ chính sách để phát huy khai thác các tiềm năng sẵn có trên địa bàn. Công tác quản lý Ngân sách xã phải được coi trọng, đối với cán bộ quản lý Ngân sách xã Nhà nước cần phải có chế độ đãi ngộ cho phù hợp với công việc mà họ đảm nhận. Theo luật Ngân sách Nhà nước, thông tư 118/2000/TT-BTC về hướng dẫn quản lý Ngân sách xã, phường, thị trấn; Quyết định số 141/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001 của Bộ trưởng Bộ tài chính về ban hành chế độ kế toán Ngân sách xã, áp dụng từ ngày 01/01/2002 thay thế cho Quyết định số 827/1998/QĐ-BTC ngày 04/07/1998, thì Ngân sách xã là một cấp Ngân sách hoàn chỉnh được quản lý qua Kho bạc Nhà nước. Đây là điều kiện khó khăn cho đội ngũ kế toán xã. Vì vậy tỉnh phải có kế hoạch đào tạo, tâp huấn đội ngũ kế toán, cán bộ theo dõi Ngân sách xã ở tỉnh, huyện để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Kết luận Trong những năm vừa qua được sự lãnh đạo chỉ đạo thường xuyên của tỉnh uỷ HĐND, UBND tỉnh, sự hỗ trợ có hiệu quả của Trung ương và nhất là Bộ tài chính và sự phấn đấu lỗ lực vượt bậc của đội ngũ cán bộ ngành tài chính ở địa phương nên công tác quản lý tài chính nói chung, quản lý tài chính Ngân sách xã nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển tình hình trong nông thôn sớm đi vào ổn định vững chắc tạo đà cho sự phát triển kinh tế xã hội phát triển trong những năm sau. Tuy nhiên công tác quản lý tài chính Ngân sách xã trong những năm qua cũng còn một số yếu kém nhất là những yếu kém trong nhận thức trong chỉ đạo điều hành tài chính Ngân sách xã của một số cán bộ cấp uỷ, chính quyền cơ sở ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân và hoạt động sản xuất của địa phương . Để công tác quản lý Ngân sách xã ngày một tốt hơn, thúc đẩy sự nghiệp kinh tế xã hội phát triển, qua phân tích tình hình thực hiện công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình trong thời gian vừa qua, từ những thành tựu cũng như những tồn tại để rút ra “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình trong điều kiện hiện nay” góp phần hạn chế những tồn tại trong quản lý Ngân sách xã từ đó làm thay đổi bộ mặt nông thôn trong tình hình mới . Là một sinh viên kiến thức lý luận chưa vững và thực tế còn hạn chế, hơn nữa đây là bước khởi đầu trong nghiên cứu khoa học nên những vấn đề trình bày trong bài luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong được sự góp ý cụ thể thiết thực của các thầy cô giáo, cán bộ ngành tài chính và bạn đọc để bài luận văn được hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0175.doc
Tài liệu liên quan