Số còn lại được đầu tư vào các ngành khác như hoạt động quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng, đầu tư cơ sở hạ tầng cho các hoạt động thương mại và tư vấn.
Là một tỉnh có diện tích đất nông nghiệp 101.062 ha, và có những điều kiện thuận lợi về nhiều mặt cho phát triển sản xuất nông nghiệp, trong những năm qua, Hải Dương đã tiến hành nhiều dự án để nâng cấp hệ thống giống cây trồng, vật nuôi, xây dựng hệ thống sân phơi, nhà kho phục vụ sản xuất, hệ thống kênh mương tưới cho các đơn vị sản xuất giống lúa, đồng thời đầu tư trang thiết bị để nâng cao chất lượng đàn giống gia súc gia cầm, như: Nạc hoá đàn lợn, sind hoá đàn bò. Từng bước hoàn thiện hệ thống các trạm thú y, trạm bảo vệ thực vật, đưa các bác sĩ thú y về tận cấp xã.
Về lâm nghiệp, tuy không phải là một tỉnh miền núi, nhưng với diện tích đất rừng 13.975ha, trong đó rừng tự nhiên là 2398ha, đến nay, Hải Dương đã cơ bản phủ xanh đất trống đồi núi trọc thông qua các chương trình như: chương trình 327, chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng. Toàn tỉnh đã đầu tư trồng mới được 6763,4 triệu ha rừng tập trung, hơn 5500 ha rừng đồi, xây dựng một số cơ sở hạ tầng phục vụ cho trồng và chăm sóc, bảo vệ rừng tập trung ở hai huyện miền núi chí Linh và Kinh Môn.
99 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư vào Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế đều dạt mức tăng trưởng khá nên thu ngân sách nhà nước của địa phương qua các năm cũng có mức tăng đáng kể, cụ thể:
Bảng 10: Thu ngân sách nhà nước qua các năm 1997-2001.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng thu
517.631
674.301
575.261
714.740
842.772
Thu từ kinh tế địa phương
252.492
380.728
344.110
471.613
565.321
Thu từ kinh tế trung ương trong tỉnh
255.683
286.013
225.750
230.319
258.662
Thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
9.456
7.560
5.401
12.808
18.789
Nguồn: Niên giám thống kê 2001, Cục thống kê Hải Dương.
Trên đây là một số kết quả đạt được từ hoạt động đầu tư phát triển trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Nhìn một cách tổng thể, đó là những kết quả bước đầu khả quan trong việc thực hiện quy hoạch của tỉnh đến năm 2010 của tỉnh, thể hiện hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cũng như sự tác động của các hiệu quả đó tới phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Hơn nữa, đây cũng là một trong những yếu tố tạo nên một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn để tăng cường thu hút mọi nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế- xã hội trong thời gian tới.
3.2. Những thành tựu đạt được
Nhìn chung, bằng các nỗ lực của UBND tỉnh, các ban ngành trong tỉnh, sự quản lý của Sở Kế hoạch và đầu tư, hoạt động dầu tư trên đại bàn Hải Dương thời gian qua đã đạt được một số thành tựu đáng kể, cụ thể:
Tổng vốn đầu tư vào tỉnh liên tục tăng trong những năm qua, mặc dù đã có những biến động mạnh trong sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng tới tốc độ phát triển chung của cả nước. Điều đó cho thấy rằng, các nhà đầu tư đã có những đánh giá cao về khả năng tiếp nhận đầu tư của Hải Dương cũng như sự nỗ lực của cả tỉnh. Đầu tư luôn là động lực của sự tăng trưởng và phát triển của mọi nền kinh tế xã hội, chính vì vậy khi dần nâng cao được tổng mức đầu tư thì cũng đồng nghĩa với nó là mọi hoạt động kinh tế xã hội cũng được chú trọng phát triển hơn.
Về cơ cấu theo nguồn vốn đầu tư, trong thời gian qua, Hải Dương đã thu hút được ngày càng nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn của một nền kinh tế mở bao giờ cũng bao gồm đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đối với Hải Dương, mặc dù vẫn chú trọng phát huy nội lực cho phát triển, nhưng trong điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp thì đầu tư nước ngoài vẫn đóng vai trò quan trọng trong đầu tư phát triển. Trong thời gian qua, đầu tư nước ngoài vào tỉnh Hải Dương đã không ngừng tăng lên cả về quy mô lẫn cơ cấu. Mặc dù mới chỉ bắt đầu từ những năm đầu của thập kỉ 90, song tỉ trọng vốn nước ngoài trong tổng vốn đầu tư từ 33,5% năm 1996 đã tăng lên 54,4% vào năm 2000 và theo những báo cáo của tỉnh về đầu tư nước ngoài thì trong hai năm 2001, 2002 nguồn vốn này vẫn tiếp tục chiếm gần 50% tổng vốn của Hải Dương. Lĩnh vực thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài bao gồm công nghiệp, dịch vụ và một số ngành nghề trước đây còn ở dạng tiềm năng do chưa có đủ vốn và năng lực công nghệ. Như vậy, đầu tư nước ngoài đã góp phần phát huy những tiềm năng của tỉnh, tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh và hàm lượng công nghệ cao.
Về nội dung đầu tư, Hải Dương đã chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong những năm qua, cơ sở hạ tầng của tỉnh đã được cải tạo nâng cấp rõ rệt do tỉnh đã giành một tỉ trọng vốn đáng kể cho mở rộng, nâng cấp và mở rộng một số công trình như: Cầu, đường, các cơ sở giáo dục, y tế, phát triển khoa học công nghệ.... Cùng với việc nâng tổng mức đầu tư, hiệu quả đầu tư cũng được nâng cao thông qua việc phát huy tác dụng của các công trình trên đối với phát triển kinh tế xã hội. Đó là giao thông thuận lợi hơn, có nhiều dự án phát triển công nghệ được đưa vào áp dụng, công tác chăm lo đào tạo nguồn nhân lực được cải thiện, nâng cao các phúc lợi cho người dân...
Cùng với đầu tư phát triển cỏ sở hạ tầng, tỉnh cũng đã hướng vào phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, thông qua các chương trình đầu tư khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, hướng ra xuất khẩu. Là một tỉnh có số dân sống ở nông thôn cao thì đây là một việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó đã giúp cải thiện đời sống của người dân, hướng sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo nền kinh tế hàng hoá, áp dụng khoa học kỹ thuật và biện pháp quản lý tiên tiến hơn vào trong sản xuất nông nghiệp.
Hiệu qủa của hoạt động đầu tư đã thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, giải quyết vấn đề việc làm. Tính bình quân mỗi năm, toàn tỉnh đã giải quyết được 1-1,5 vạn lao động thông qua các hoạt động đầu tư mở rộng và đầu tư mới.
Trên đây là một số kết quả chủ yếu của hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian qua. Những đóng góp tích cực của nó vào phát triển kinh tế xã hội của tỉnh là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần phải khắc phục để đạt được kết quả cao hơn trong thời gian tới.
3.3. Một số mặt còn hạn chế
Thứ nhất, tuy tổng vốn đầu tư tăng qua các năm nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển của tỉnh. Điều này dẫn đến có một số dự án đã hoàn chỉnh nhưng chưa thể đi vào thực hiện do thiếu vốn, ảnh hưởng đến lợi ích của cả nhà đầu tư và của toàn tỉnh.
Thứ hai, về cơ cấu đầu tư. Vốn đầu tư có xu hướng phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn từ Trung ương, tuy giảm phụ thuộc vào nguồn ngân sách tập trung nhưng lại trông chờ nhiều vào nguồn tín dụng ưu đãi của nhà nước. Như vậy có nghĩa là đã giảm khả năng tự chủ và năng động trong các hoạt động đầu tư của tỉnh. Về cơ cầu theo nguồn vốn đầu tư, hoạt động đầu tư nước ngoài có vẻ chững lại trong một vài năm trở lại đây, tuy tỉ trọng vốn vẫn cao nhưng đó chủ yếu là do vốn của các năm trước. Các nhà đầu tư nước ngoài có vẻ dè dặt và thận trọng hơn trong việc ra quyết định đầu tư.
Thứ ba là nội dung và hiệu quả của hoạt động đầu tư.Tuy cơ sở hạ tầng đã được đầu tư nâng cấp song ở một số địa phương vẫn còn tình trạng các cơ sở trường trạm bị xuống cấp, hệ thống giao thông, điện nước còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các xã ở vùng sâu, vùng núi. Hiệu quả đầu tư vào các ngành vẫn chưa đạt được mức đề ra, cơ cấu nông nghiệp chậm chuyển đổi, công nghiệp tuy có những bước phát triển cao nhưng lại không ổn định.
Thứ tư là tiến độ thực hiện các dự án còn chậm, ảnh hưởng đến cơ hội đàu tư và hiệu quả hoạt động của dự án. Hai khâu còn gặp nhiều trở ngại nhất là chuẩn bị đầu tư và giải phóng mặt bằng.
Nguyên nhân của các hạn chế trên có nhiều và ở các góc độ khác nhau, song có thể kể đến một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Sự ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực và toàn cầu. Từ năm 1996 đến nay, nền kinh tế Việt Nam nói chung đã phải vượt qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế lớn, đó là khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực năm 97-98 và hiện nay là suy thoái kinh tế toàn cầu, bắt đầu từ Mỹ vao năm 2001, dẫn đến thị trường trong nước bị thu hẹp, đầu tư nước ngoài giảm do các công ti mẹ gặp nhiều khó khăn.
Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành còn thiếu chặt chẽ, chậm chuyển đổi, năng lực chuyên môn của các cán bộ quản lý đầu tư và xây dựng còn hạn chế.
Công tác quy hoạch của tỉnh còn gặp nhiều vấn đề bất cập trong việc lập và đưa ra các quy hoạch phát triển tổng thể.
Những quy định về đầu tư và xây dựng chưa được cụ thể, dẫn đến khó khăn cho các chủ đầu tư trong việc áp dụng.
Là một tỉnh nông nghiệp song tỉ lệ vốn đầu tư vào ngành này tại Hải Dương thời gian qua còn thấp, dẫn đến chưa phát huy hết lợi thế của tỉnh.
Công tác xúc tiến đầu tư chưa được rộng rãi. Đây là hoạt động quan trọng trong việc tiếp thị khả năng tiếp nhận đầu tư của tỉnh ra bên ngoài song trong thời gian qua, nó còn chưa được chú trọng, hiệu quả đem lại chưa cao.
Từ những hạn chế, xác định được những nguyên nhân của nó, tỉnh đã đề ra những biện pháp về mọi mặt để thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư trong thời gian tới, đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu đề ra trong quy hoạch phát triển đến năm 2010 và kế hoạch 5 năm 2001-2005.
chương III: Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn cho đầu tư phát triển của hải dương trong thời gian tới.
I. Phương hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
1. Phương hướng phát triển chung.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đã thông qua báo cáo chính trị và quyết định những vấn đề quan trọng về phát triển kinh tế xã hội, an ninh- quốc phòng, xây dựng Đảng và hệ thống Chính trị. Trong đó Đại hội đã đưa ra phương hướng phát triển kinh tế xã hội chung của tỉnh trong những năm tới, đó là tiếp tục sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỉ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, thông qua phương hướng phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể:
Tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn toàn diện và vững chắc nhằm khai thác mọi nguồn lực và tiềm năng để ổn định và nâng cao đời sống người lao động. Chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, trên cơ sở xác định sản phẩm mũi nhọn và có khối lượng lớn là rau quả, thịt lợn và lúa gạo, tăng cường chỉ đạo, tập trung đầu tư xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa mũi nhọn phù hợp với tiềm năng và lợi thế từng địa phương; Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, đưa các giống cây con có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất. Bố trí cơ cấu mùa vụ hợp lý để mở rộng khả năng tăng vụ và khai thác hết tiềm năng, năng suất cây trồng; Coi trọng việc phát triển chế biến nông sản phẩm. Thực hiện việc gắn kết chặt chẽ giữa việc xây dựng cơ sở chế biến với quy hoạch tổ chức vùng sản xuất nguyên liệu tập trung phù hợp trên cơ sở thị trường đã đươc định hướng.
Xác định công nghiệp trở thành ngành quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, đưa Hải Dương trở thành một tỉnh có nền kinh tế công- nông nghiệp giàu mạnh. Trên cơ sở đó, tập trung khai thác năng lực sản xuất công nghiệp của các cơ sở hiện có, thực hành tiết kiệm, tăng tĩch luỹ nội bộ và tranh thủ mọi nguồn vốn để đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn; Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hỗ trợ về vốn đào tạo, tư vấn kỹ thuật để các doanh nghiệp này phát triển các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ tại các vùng nông thôn; Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư để hình thành các khu, cụm công nghiệp theo quy hoạch được duyệt tại thành phố Hải Dương và một số huyện. Tăng cường hoạt động quản lý nhà nước để tránh lãng phí tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Phát triển thương mại, du lịch nhằm tạo đà cho kinh tế phát triển, theo hướng tăng dần tỉ trọng ngành dịch vụ ngang tầm với các tỉnh trong vùng và cả nước, khuyến khích khai thác, sử dụng có hiệu quả tiềm năng tài nguyên du lịch ở các vùng, đầu tư nâng cấp, cải tạo các vùng du lịch trọng điểm để thu hút khách trong và ngoài nước; Thương mại nhà nước củng cố theo hướng thu gọn đầu mối, Nhà nước chỉ nắm giữ một số ngành, mặt chủ yếu, quan trọng. Đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu, nhanh chóng nâng cao chất lượng hàng hoá để đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, nhất là các mặt hàng chủ lực, mũi nhọn. Tăng cường xuất khẩu lao động.
Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, tập trung vào lĩnh vực giao thông, bưu điện, phát triển nguồn và lưới điện, tập trung phát triển nguồn nhân lực, có chính sách thu hút nhân tài.
2. Định hướng đầu tư của tỉnh.
Từ phương hướng phát triển chung, Hải Dương đã đặt ra những mục tiêu đầu tư cụ thể cho giai đoạn tới. Trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, Hải Dương đã đặt ra những mục tiêu cụ thể: Vốn đầu tư trong 5 năm chủ yếu từ các nguồn: Ngân sách, quỹ hỗ trợ đầu tư, vốn của các doanh nghiệp, vốn huy động của nhân dân, vốn đầu tư nước ngoài và vốn viện trợ không hoàn lại. Toàn tỉnh phấn đấu thu hút được trên 16.500 tỉ đồng và tăng vốn đầu tư đăng kí của các dự án đầu tư nước ngoài từ 40 lên 50%, đảm bảo tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm từ 9% trở lên.
Về cơ cấu vốn đầu tư, trong giai đoạn 2001-2005, toàn tỉnh phấn đấu thu hút 11.200 tỉ đồng vốn đầu tư trong nước và 5300 tỉ vốn đầu tư nước ngoài. Hải Dương cũng sẽ dặc biệt chú ý thu hút các nguồn vốn cho đầu tư phát triển với tổng số vốn khoảng trên 10.500 tỉ đồng, trong đó nguồn vốn trung ương hơn 4000 tỉ đồng, vốn đầu tư nước ngoài 500 tỉ đồng và vốn địa phương khoảng 1500 tỉ đồng. Đồng thời, để đạt được mục tiêu nâng cấp cơ sở hạ tầng, trong giai đoạn này, Hải Dương dành vốn đầu tư khoảng 900 tỉ đồng, trong đó vốn trung ương gần 2600 tỉ, vốn địa phương hơn 3000 tỉ và vốn nước ngoài là 250 tỉ
Về mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Hải Dương phấn đấu cấp giấy phép mới cho 40 dự án với tổng vốn đầu tư thêm 200 triệu USD , thu hút thêm 10.000 lao động trực tiếp tại các doanh nghiệp, đạt mức đóng góp từ 15-20% thu ngân sách địa phương và năm 2005. Riêng đầu tư cho phát triến sản xuất kinh doanh từ nguồn vốn trong nước, trong thời gian đến năm 2005, phấn đấu đăng kí kinh doanh mới cho trên 300 doanh nghiệp, chấp thuận đầu tư cho khoảng 60 dự án, nhằm thu hút trên 1000 tỉ đồng vốn đầu tư và tạo việc làm cho hơ 10.000 lao động từ các doanh nghiệp mới đăng kí kinh doanh và từ các dự án mới đựoc chấp nhận.
Tỉnh có chính sách ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp thuộc nhóm có công nghệ cao, có hiệu quả và nộp ngân sách lớn, nhóm công nghiệp sử dụng nhiều lao động, hiệu quả kinh tế không cao nhưng giải quyết được nhiều việc làm, thúc đẩy được các ngành sản xuất khác, nâng cao đời sống người dân lao động, nhất là nông dân, và ưu tiên phát triển các làng nghề truyền thống, làng nghề mới.
3. Các chương trình đề án phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Để đạt đươc mục tiêu đã đề ra, Hải Dương đã đề ra các chương trình đề án triển khai các hoạt động đầu tư, đảm bảo đạt được các chỉ tiêu phát triển trong kế hoạch. Cụ thể, tỉnh đã đưa ra 7 chương trình phát triển, mỗi chương trình được thực hiện thông qua một số đề án:
- Chương trình "phát triển nông nghiệp và kinh tế kinh tế nông thôn một cách toàn diện, theo hướng sản xuất hàng hoá", mục tiêu của chương trình là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn một cách toàn diện, phấn đấu gía trị nông nghiệp tăng bình quân từ 4,5-5%/năm, chương trình được thực hiện thông qua một số đề án:
+ Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm đạt giá trị sản xuất trên 36 triệu đồng/ha đất nông nghiệp vào năm 2005.
+ Hướng dẫn nông dân chuyển đổi ruộng từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn.
+ Kiên cố hoá 800-1000 km kênh mương tưới.
+Phát triển chăn nuôi thuỷ sản.
- Chương trình phát triển công nghiệp địa phương, với mục tiêu phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp đạt 7.760 tỉ đồng vào năm 2005, tăng bình quân13-14%/năm, thực hiện thông qua các đề án:
+ Phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm.
+Củng cố, sắp xếp các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh do tỉnh quản lý.
+ Phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh.
+ Mô hình tổ chức và quản lý điện nông thôn.
- Chương trình thu hút vốn đầu tư cho phát triển, thực hiện thông qua các đề án:
+Tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút mọi nguồn vốn trong và ngoài nước vào địa bàn tỉnh.
+Khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách.
- Chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, với mực tiêu là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong thời kì mới, thực hiện thông qua các đề án:
+ Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn.
+Xây dựng cơ sở hạ tầng các khu du lịch trọng điểm.
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng thành phố Hải Dương theo quy hoạch mới.
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp.
- Chương trình phát triển kinh tế dịch vụ đấp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống, mục tiêu của chương trình là đưa tỉ trọng dịch vụ chiếm 30% trong cơ cấu kinh tế, giá trị tăng 9-10%/năm, thực hiện thông qua các đề án;
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành thương mại.
+ Khai thác và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản thực phẩm và sản phẩm mũi nhọn của tỉnh.
+ Phát triển dịch vụ du lịch.
- Chương tình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, với mục tiêu là xây dựng nguồn nhân lực của tỉnh có đủ năng lực, phẩm chất, sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu của thời kì mới, thực hiện thông qua các đề án:
+ Phát triển sự nghiệp giáo dục đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực.
+ Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.
+ Thu hút và sử dụng nhân tài.
+ ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất và đời sống.
+ Phòng chống tê nạn xã hội.
-Chương trình giải quyết việc làm, nhằm đạt mục tiêu la mỗi năm tạo thêm việc làm cho 1,5-2 vạn lao động, đảm bảo 93-94% số lao động có việc làm, trong đó tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 25% vào năm 2005, thực hiện thông qua các đề án:
+ Vay vốn giải quyết việc làm.
+ Mở rộng, nâng cao các hoạt động dạy nghề gắn với giải quyết việc làm ở nông thôn trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra trong Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra, mà gần nhất là thực hiện các chương trình đề án trên, ngoài sự nỗ lực, cố gắng của cả tỉnh trong viêc phát huy các năng lực sản xuất hiện có, còn đòi hỏi một khối lượng vốn lớn trong thời gian tới. Vì vậy, cần có những giải pháp nhằm tang cường thu hút vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
II. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn cho đầu tư phát triển của hải dương
1. Tạo môi trường thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư đánh giá về môi trường đầu tư thông qua sự phát triển cơ sở hạ tầng và cơ chế tiếp nhận đầu tư cũng như các chính sách khuyến khích đầu tư. Nhằm tạo ra môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi hơn để thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư vào Hải Dương cần có những giải pháp nhằm nâng cấp cơ sở hạ tầng cũng như cải tiến các cơ chế chính sách, cụ thể:
1.1. Không ngừng nâng cấp cơ sở hạ tầng của tỉnh, thông qua một số biện pháp, như:
Giành tỉ lệ vốn thích đáng từ ngân sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Lĩnh vực này thường ít có các nhà đầu tư cá nhân tham gia vì yêu cầu số vốn đầu tư lớn và ít có hoặc chậm thu hồi vốn, nhưng lợi ích xã hội của nó lại rất cao có vai trò quan trọng trong việc định hướng đầu tư. Chính vì vậy, tỉnh cần dùng nguồn vốn từ ngân sách để phát triển khu vực này, một mặt nâng cấp các công trình hiện có, mật khác xây dựng một số công trình, dự án mới tại các vùng mà cơ sở hạ tầng còn kém phát triển, nhất là các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Để xác định được một tỉ lệ vốn hợp lý, trong các năm, các cơ quan trong tỉnh cần xem xét yêu cầu và quy hoạch phát triển từng vùng, từ đó thiết lập lên kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng và yêu cầu nguồn vốn. Cần chú ý rằng, các công trình này ảnh hưởng rất lớn và lâu dài tới phát triển kinh tế xã hội địa phương, vì vậy, ngay từ khâu lập dự án cần phải tính toán, xem xét kĩ các chỉ tiêu đưa ra các phương án có thể và thông qua thẩm định để lựa chọn phương án tối ưu nhất.
Huy động những đóng góp của nhân dân để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Như đã nêu ra ở trên, ngân sách cần trích một khoản hàng năm để nâng cấp cải tạo cơ sở hạ tầng, vì đây là yếu tố rất quan trọng khi các nhà đầu tư xem xét tới các yếu tố thuộc môi trường đầu tư của tỉnh. Nhưng nếu chỉ có như vậy, trong khi nguồn vốn ngân sách nhà nước còn quá hạn hẹp so với yêu cầu phải đầu tư thì sẽ có sự hạn chế trong phát triển hệ thống này, nhất là các vùng ở xa trung tâm . Vì vậy, giải pháp thiết thực nhất là huy động nhân dân đóng góp để xây dựng các cơ sở ngay tại nơi họ đang sinh sống, như: khuyến khích các xóm tự bỏ tiền ra xây dựng đường giao thông thôn xóm, các hộ góp công để xây dựng các công trình giao thông, lưới điện do nhà nước bỏ vốn đầu tư. Làm như vậy, cần thông qua các đoàn, đội, hội như: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân tập thể phát động phong trào đối với các thành viên, như mỗi Đoàn viên góp một ngày công, phong trào giao thông ngõ xóm... Tuy đây chỉ là những biện pháp tại chỗ và có đóng góp không lớn, song không phải là không cần thiết khi mà nếu hoạt động này phát triển rộng rãi trong toàn tỉnh, sẽ tạo được một bộ mặt mới cho nông thôn của tỉnh, từ đó tiết kiệm nguồn vốn từ ngân sách, dành cho đầu tư phát triển các công trình quan trọng khác, đồng thời góp vào phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Tỉnh cần đa dạng hoá các hình thức đầu tư như: BOT, BT, đổi đất lấy công trình, đầu tư và chuyển giao công nghệ... BOT, BT trong thời gian qua chủ yếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chính vì vậy, cần tăng cường các hình thức này nhằm khai thác trước hết là phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng của tỉnh, hơn nữa còn tạo điều kiện cho các nhà đầu tư đầu tư vốn cho các cơ sở sản xuất kinh doanh khác, vì hầu hết mục đích cần đạt tới của họ không phải là các công trình này, mà là ưu đãi cho các dự án đầu tư tiếp theo.
Tranh thủ tối đa các nguồn viện trợ, ODA, nguồn từ NGO, và từ các quỹ phát triển khác của các tổ chức và liên hợp quốc. Hàng năm, các tổ chức này thường xuyên đưa nguồn vốn viện trợ, bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho vay phát triển ưu đãi vào Việt Nam. Vì vậy, Hải Dương cũng cần tăng cường thu hút tối đa các nguồn này cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh thông qua một số biện pháp như: Có các dự án phát triển khả thi, thường các nguồn này thường đầu tư cho đường giao thông, hệ thống cơ sở phúc lợi công cộng, các dự án phát triển nguồn nhân lực, cho nên cần lập các dự án khả thi thuộc các lĩnh vực này, làm sao để có thể thu hút được các nhà đầu tư vào tỉnh. Nói như vậy không có nghĩa là cứ phải trông chờ vào viện trợ mà có nghĩa là khi có thể tranh thủ thì cần tranh thủ một cách tối đa. Bên cạnh đó, nâng cao công tác giám sát đầu tư và đưa dự án vào hoạt động hiệu quả, nhất là các dự án thuộc nguồn vốn này đã đầu tư vào tỉnh từ trước để các nhà đầu tư thấy rằng, đưa vốn đầu tư vào Hải Dương sẽ phát huy được nhiều nhất những hiệu quả của nguồn vốn ấy, đạt được mục tiêu là thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Đẩy mạnh chủ trương xã hội hoá ngành giáo dục, y tế, văn hoá thông tin, thể dục thể thao... Khuyến khích các cá nhân, đơn vị đầu tư vào các lĩnh vực này để khuyến khích nhân dân tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
1.2. Tạo ra một quy trình tiếp nhận dự án đơn giản cho các nhà đầu tư, thông qua một số biện pháp:
Cải tiến thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư, cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, thẩm định dự án, ra quyết định đầu tư. Thực tế hiện nay, việc chấp nhận đăng kí kinh doanh (đối với các dự án đầu tư trong nước) và cấp phép đầu tư hoặc thẩm định ra quyết định đầu tư (đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài) diễn ra rất chậm chạp, mực dù Chính phủ đã có những quy định cụ thể về thời gian tối đa cho các công tác trên. Điều này hạn chế rất nhiều, trước hết là tiến trình đưa vốn vào đầu tư, thứ hai là làm cho các nhà đầu tư e ngại khi phải chờ đợi quá lâu, có thể sẽ làm mất cơ hội đầu tư. Vì vậy, cần thiết phải giảm bớt các thủ tục rườm rà, phấn đấu rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư, cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, thẩm định dự án, ra quyết định đầu tư thấp hơn so với mức quy định của Chính phủ. Hiện nay ở Hải Dương, cơ quan quản lý trực tiếp vấn đề này là Sở Kế hoạch và đầu tư, vậy cần nâng cao tiến độ thực hiện công việc ở đây như phòng thẩm định đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, trình UBND tỉnh quyết định, phòng kinh tế đối ngoại xem xét các dự án đầu tư nước ngoài và thực hiện thẩm định cùng phòng đầu tư phát triển một cách cụ thể, khách quan, song phải làm sao giải quyết được nhanh chóng, tránh tình trạng "ùn tắc" các hồ sơ xin cấp phép và dự án chờ thẩm định.
Rút ngắn quá trình thẩm tra phương án tài chính, phương án vay trả để triển khai nhanh quá trình chi vay. Trong quá trình thực hiện thẩm tra các phương án tài chính, cần tính toán các chỉ tiêu cụ thể như NPV, NFV, IRR... để cụ thể hoá các chỉ tiêu đáng gía dự án, đối với các phương án vay trả, dựa trên các chỉ tiêu cụ thể như thời gian thu hồi vốn, phương án khấu hao... Như vậy sẽ đảm bảo chất lượng thẩm tra các phương án, vừa nâng cao tiến độ thực hiện thẩm tra, giúp các nhà đầu tư nhanh chóng được vay vốn.
Về các thủ tục chuẩn bị đầu tư, tỉnh tiếp tục thực hiện cơ chế "một cửa" và có những bước cải tiến quy trình này. Hiện nay, Hải Dương vẫn đang áp dụng cơ chế này cho hoạt động đầu tư nước ngoài và đến ngày 15/4/2003 áp dụng cho một số lĩnh vực đầu tư trong nước. Tuy vậy, cơ chế này vẫn bộc lộ một số thiếu sót trong việc phối hợp giữa Sở Kế hoạch Đầu tư và một số ban ngành trong tỉnh, đôi khi các công việc này còn tiến hành chậm trễ. Vì vậy, trong thời gian tới cần xây dựng một quy trình mới về cơ chế một cửa, theo đó, cần quy định ró ràng sự phối hợp và quyền hạn trách nhiệm của mỗi cơ quan trong tỉnh trong việc thực hiện cơ chế này.
1.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xúc tiến, vận động đầu tư.
Cần có những giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xúc tiến, vận động đầu tư. Đây là việc làm hết sức quan trọng trong việc giới thiệu cho các nhà đầu tư về cơ hội đầu tư vào tỉnh, xây dựng được sự tin tưởng đối với các nhà đầu tư. Nó bao gồm những công việc như: Giới thiệu về tiềm năng của tỉnh thông qua các phương tiện thông tin, gặp gỡ với các nhà đầu tư, vận động đầu tư nhằm thu hút các nguồn vổn trong nước và nước ngoài. Trong thời gian qua, công việc này ở Hải Dương chưa được coi trọng đúng mức với vai trò của nó trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư, để đẩy mạnh công tác này cần thực hiện một số giải pháp cụ thể:
Có kế hoạch tuyên truyền toàn diện, sâu rộng về đầu tư trong nước và ngoài nước tại tỉnh thông qua các phương tiện thông tin đại chúng địa phương, mục đích nhằm nâng cao sự hiểu biết và nhận thức của người dân về Đường lối, chính sách của Đảng đối với các thành phần kinh tế. Trong thời gian của những thập kỉ trước, người dân thường trực trong tiềm thức của họ một cái nhìn phiến diện về phát triển kinh tế và vai trò của các thành phần kinh tế trong sự phát triển ấy. Theo đó, họ chỉ công nhận vai trò của kinh tế Nhà nước và mọi chính sách chỉ nhằm hỗ trợ cho thành phần kinh tế này. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước đã chính thức công nhận sự tồn tại và phát triển bình đẳng của các thành phần kinh tế khác nhau, dù công việc này đã được thực hiện từ lâu song cũng vẫn phải duy trì và tiếp tục thực hiện. Chính vì vậy, cần tuyên truyền sâu rộng cho ọi người thấy rằng mọi người và mọi thành phần kinh tế đều được tạo điều kiện phát triển và bình đẳng trong các chính sách, để từ đó họ mạnh dạn đưa vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh mà không còn lo lắng về chính sách có bất lợi cho họ. Việc thực hiện tuyên truyền có thể thực hiện thông qua báo Hải Dương, đài phát thanh và truyền hình tỉnh, không chỉ bằng các bài báo, phóng sự mà còn thông qua các hình thức sinh động khác như: Nêu gương làm ăn giỏi, các cuộc thi làm giàu...
Đưa trang Web của tỉnh đi vào hoạt động. Trong xu thế phát triển công nghệ thông tin như hiện nay, hầu hết các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đều tiếp xúc với tài nguyên thông tin thông qua Internet. Vì vậy, để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xúc tiến và vận động đầu tư, tỉnh cần nhanh chóng hoàn thiện hơn nữa và thường xuyên cập nhật các thông tin mới về kinh tế xã hội của tỉnh trong trang Web. Để làm được như vậy tỉnh cần có cơ quan chịu trách nhiệm trực tiếp về hoạt động này, bao gồm những cán bộ có năng lực chuyên môn, được đào tạo một cách toàn diện và có hệ thống.
Tỉnh cử người tham gia cùng các Đoàn xúc tiến, vận động đầu tư của Chính phủ, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư để thu hút vận động đầu tư tại các tỉnh khác và tại nước ngoài. Để tăng cường thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam nói chung, Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư thường xuyên có các đoàn ra nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài về đầu tư trong nước. Trong những cơ hội như vậy, Hải Dương cần có mặt trước hết là nắm bắt thông tin về các nhà đầu tư, sau đó là tìm cơ hội giới thiệu về môi trường đầu tư riêng của Hải Dương. Khi có các đoàn làm việc, tỉnh có kế hoạch bố trí và có kế hoạch xúc tiến đầu tư cụ thể. Bên cạnh đó, tỉnh cũng cần thành lập đoàn vận động, xúc tiến đầu tư riêng của tỉnh, tiếp xúc với các nhà đầu tư nước ngoài thông qua thông qua việc đoàn trực tiếp đến các nước hoặc gián tiếp thông qua Đại diện ngoại và thương mại của họ. Mục đích của việc này ngoài việc giới thiệu về môi trường đầu tư, còn nhằm thiết lập những mối quan hệ về đàu tư giữa các nước, để một khi có vốn, họ sẽ ưu tiên cho tỉnh trước tiên cũng như nhằm tranh thủ các nguồn viện trợ của nước ngoài và của các tổ chức quốc tế.
Định kì tổ chức các cuộc gặp gỡ với các doanh nghiệp trong và ngoài nước trên dịa bàn tỉnh. Một mặt nhằm xem xét lại tình hình đầu tư trong tỉnh của một thời gian nhất định, mặt khác có những biên pháp khuyến khích các doanh nghiệp gắn bó hơn với tỉnh thông qua tuyên dương, khen thưởng đối với các doanh nghiệp hoạt động tốt và có đóng góp lớn cho tỉnh, đồng thời có hình thức xử lý đối với các doanh nghiệp không tuân thủ các quy định của pháp luật nói chung và của Hải Dương nói riêng. Các cuộc gặp gỡ có thể tiến hành hàng năm và có mhữmg cuộc đánh giá quy mô sau khi thực hiện các kế hoạch lớn như: Các kế hoạch 5 năm, một số chương trình phát triển.
Có nguồn ngân sách ổn định cho công tâc xúc tiến, vận động đầu tư. Vấn đề mấu chốt để thực hiện những biện pháp trên là phải có nguồn kinh phí, mà nguồn này không thể có ở đâu ngoài ngân sách của tỉnh. Vì vậy, trong các kế hoạch ngân sách hàng năm, tỉnh cần có một tỉ lệ nhật định cho công tác này, để nó có thể được thực hiện thường xuyên và có hiệu quả, nhằm thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư đến Hải Dương.
1.4. Lập và công bố các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Quy hoạch của tỉnh bao gồm các quy hoạch tổng thể và chi tiết, quy hoạch đất đai. Đối với các quy hoạch tổng thể, tỉnh cần nâng cao chất lượng công tác lập quy hoạch, làm sao để quy hoạch đó phù hợp với tình hình phát triển chung và mục tiêu của tỉnh. Để làm được như vậy, trước hết, thực hiện việc lập quy hoạch theo hướng từ dưới lên, có nghĩa là, hàng năm, các địa phương tổng hợp tình hình kinh tế xã hội của mình, trình lên các sở , ban ngành quản lý trực tiếp thuộc UBND tỉnh, đến lượt các sở quản lý ngành lại lập yêu cầu phát triển của ngành mình, trình UBND tỉnh. Như vậy, vừa đảm bảo tính tập trung dân chủ trong quản lý, vừa làm cho các quy hoạch phù hợp với tình hình chung. Khi thực hiện các quy hoạch này, cần phải "chia nhỏ" nó ra, có nghĩa là tránh tình trạng đưa ra các mục tiêu mang tính chung chung, cần phải cụ thể hoá thông qua các kế hoạch, chương trình, dự án.
Việc đưa ra các quy hoạch phát triển từng ngành cần công khai và phổ biến rộng rãi tới các nhà đâù tư. Mặt khác, các quy hoạch này cần phải đưa ra một khoảng thời gian để đảm bảo tính ổn định của nó, tức là việc lập quy hoạch phải tạo cho các nhà đầu tư tâm lý ổn định khi đầu tư vào tỉnh, tránh sự thay đổi quy hoạch. Để làm được như vậy, cần thực hiện nghiên cứu kĩ tình hình phát triển ngành trong khoảng thời gian ít nhất là 5 năm trở lại, dùng kĩ thuật thống kê để phân tích các điều kiện trong và ngoài nước , phương hướng phát triển của tỉnh để đưa ra các mục tiêu phát triển cho giai đoạn sau. Đặc biệt, cần xác định rõ cơ cấu từng ngành, vùng ưu tiên phát triển của từng ngành nhỏ trong ngành đó. Ví dụ như để xác định quy hoạch phát triển công nghiệp Hải Dương từ nay đến năm 2010, thì trước hết cần xác định phương hướng phát triển các ngành công nghiệp chủ yếu, các ngành được ưu tiên phát triển, tiếp đó là xác định cơ cấu từng lĩnh vực và đẩy mạnh lĩnh vực nào. Khi đã có được cái nhìn tổng thể về định hướng phát triển chung cũng như từng ngành trong tỉnh, các nhà đầu tư sẽ chủ động đầu tư vào từng ngành nghề cụ thể.
Xây dựng quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đề các nhà đầu tư vào. Sự hình thành các khu công nghiệp xuất phát từ nhu cầu tích tụ, tập trung hóa sản xuất và sử dụng có hiệu quả cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, đất đai... Thực tế ở Hải Dương hiện nay việc quy hoạch các khu, cụm công nghiệp chưa được hình thành rõ nét nên chưa tập trung được các nhà đầu tư, vì vậy cần nhanh chóng hoàn chỉnh một số khu, cum công nghiệp của tỉnh (thành phố Hải Dương, Nam Sách, Phú Thái...), tạo điều kiện tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng của các khu công nghiệp nhằm thu hút các nhà đâù tư.
Công bố quy hoạch đất đai trong toàn tỉnh, tránh tình trạng các cơ sở đẫ xây dựng lên lại phá bỏ đi do nằm trong diện giải toả. Mặt khác, việc cho các nhà đầu tư toàn cảnh quy hoạch sử dụng đất của tỉnh sẽ giúp họ trong việc xác định tiềm năng, từ đó xác định ngành nghề và vùng đầu tư.
Bên cạnh đó, cần thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch tổng thể và chi tiết cho phù hợp với tình hình thực tế. Rõ ràng là một quy hoạch phát triển phải đảm bảo tính nhất quán và ổn định của nó, song thực tế luôn luôn thay đổi đòi hỏi cần phải điều chỉnh các quy hoạch này cho phù hơp. Song, chú ý rằng, sự điều chỉnh, bổ sung ấy chỉ nằm trong giơí hạn không làm thay đổi các điểm cơ bản của quy hoạch, tức là vẫn đảm bảo tính thống nhất của nó.
Công bố các chương trình đầu tư đến năm 2005 để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia. Trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, Hải Dương có 7 chương trình đầu tư phát triển lớn, được thực hiện thông qua một số đề án cụ thể. Việc đưa ra và cụ thể hoá các chương trình là bước quan trọng trong việc tiến hành từng bước để đạt được mục tiêu chung trong kế hoạch. Việc công bố các chương trình đầu tư có thể thông qua các cuộc gặp mặt, hội thảo giữa nhà quản lý với các nhà đầu tư hoạc công bố trong các văn bản của tỉnh.
1.5. Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện để các doanh nghiệp có thể vay vốn trong thời gian nhanh nhất để nhanh chóng đi vào sản xuất. Hiện nay, không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng tự bỏ vốn của mình ra để sản xuất kinh doanh mà hầu hết là sử dụng nguồn vốn đi vay từ hệ thống ngân hàng. Trên địa bàn Hải Dương hiện nay có một số ngân hàng chủ yếu như: Ngân hàng Công thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, để có thể thực hiện cho vay vốn đối với các doanh nghiệp được nhanh chóng,cần triển khai một số biện pháp như: Rút gọn các thủ tục vay vốn, công tác thẩm định dự án để cấp vốn vay cần được tiến hành nhanh chóng nhưng vẫn phải đảm bảo hiệu quả, muốn vật cần cải tiến quy trình thẩm định, nâng cao năng lực của các cán bộ thẩm định thông qua việc đào tạo và đào tạo lại, khi thẩm định cần dựa trên các chỉ tiêu cụ thể và có thể lượng hoá được, nhất là các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án.
Cần có những chính sách hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh, ngoài các chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư, cần có những biện pháp hỗ trợ trực tiếp đối với các doanh nghiệp, cụ thể như: Hỗ trợ về hoạt động quảng cáo cho các doanh nghiệp. Hiện nay thì quảng cáo là một hoạt động có vai trò rất quan trọng trong việc giới thiệu về doanh nghiệp và định hình sản phẩm của doanh nghiệp đối với khách hàng. Hoạt động này vẫn thường xuyên được thực hiện thông qua báo Hải Dương, Đài phát thanh và truyền hình tỉnh. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tỉnh cần hỗ trợ trước hết thông qua việc giảm chi phí cho các hoạt động thông tinh quảng cáo cho các sản phẩm, có thể có một số sản phẩm được miễn phí trong giai đoạn đầu, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ triển lãm hàng Việt Nam hoặc tổ chức các cuộc trưng bày giới thiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp trong tỉnh.
Đảm bảo cấp điện 24/24 giờ cho các doanh nghiệp. Hiện tỉnh vẫn cố gắng thực hiện biện pháp này nhằm đảm bảo ổn định sản xuất và giảm thiểu những thất thoát mà doanh nghiệp có thể gánh chịu khi xảy ra sự cố mất điện. Tuy nhiên, cũng cần phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của công ti điện lực, nếu cắt điện trong trường hợp bất khả kháng thì cần phải thông báo trước cho các doanh nghiệp để họ chủ động trong sản xuất.
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại những vùng có điều kiện kinh kinh tế xã hội khó khăn, cơ sở hạ tầng yếu kém. Một mặt để khuyến khích các nhà đầu tư vào các vùng này để phát triển kinh tế, mặt khác nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đang hoạt động. Các chính sách hỗ trợ có thể gồm: Giảm tiền điện nước cho các doanh nghiệp, giảm tiền thuê đất trong một khoảng thời gian khi doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, hỗ trợ về chi phí đào tạo lao động...
Đối với các khu công nghiệp, có chính sách ưu đãi riêng về giá thuê đất, về thuế và hỗ trợ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tâng nhằm khuyến khích các nhà đầu tư vào triển khai dự án vào các khu công nghiệp.
Là một tỉnh nông nghiệp, chủ trương phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm là hoàn toàn đúng đắn, tuy nhiên, hiện nay ngành này tại Hải Dương vẫn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của nó do có ít các nhà đầu tư chú trọng vào lĩnh vực này. Để thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư, trước hết cần xác định mấu chốt của vấn đề, đó là sự ổn định của sản xuất và thị trường đầu ra. Vì vậy, tỉnh cần có chủ trương hình thành một số vùng nguyên liệu tập trung, như vùng sản xuất rau, vùng trồng cây ăn qủa... và cũng có một số biện pháp nhằm tạo ra thị trường ổn định cho sản xuất.
1.6. Giải phóng mặt bằng thích hợp và nhanh nhất.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc đưa dự án vào thực hiện. Hiện nay, hầu hết các dự án đều bị chậm tiến độ ở khâu giải phóng mặt bằng, nguyên nhân của vấn đề này chủ yếu là do các hộ dân trong diện giải toả không muốn trao trả đất vì cho rằng mình được đền bù chưa xứng đáng, cố gắng trông chờ một số tiền đền bù cao hơn. Để giải quyết vấn đề này, cần có những biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện giải phóng mặt bằng, cụ thể: Công khai và ấn định mức giá đền bù cho từng loại đất ở từng khu vực cụ thể một cách hợp lý, kiên quyết không tăng giá đền bù đối với những hộ cố tình không trao trả đất, gắn trách nhiệm của địa phương với công tác giải phóng mặt bằng, đồng thời tạo điều kiện để các hộ trong diện di dời nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất. Đối với những dự án lớn cần thiết phải xây dựng khu định cư mới cho các hộ này.
2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Khi đã có vốn đầu tư thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng những đồng vốn đó là biện pháp nhằm phát huy những hiệu quả sử dụng vốn, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, có thể thông qua một số biện pháp như:
2.1. Tăng cường công tác quản lý đầu tư , thông qua công tác quản lý các quy hoạch, kế hoạch phát triển.
Tăng cường công tác quản lý quy hoạch, nhất là quản lý các quy hoạch phát triển đô thị, quản lý đất đai để các dự án đầu tư đi đúng hướng, coi trọng công tác bảo vệ môi trường và đảm bảo phát triển bền vững. Việc lập nên các quy hoạch chỉ giải quyết được một mặt của vấn đề, mặt còn lại là làm sao thực hiện được các quy hoạch đó, trong khi nhà đầu tư mới là người quyết định đầu tư vào đâu và đầu tư bao nhiêu. Chính vì vậy, công tác quản lý quy hoạch cần phải được tăng cường. Trong quản lý quy hoạch đô thị và đất đai, cần phải kiên quyết không chấp nhận các dự án không nămg trong quy hoạch và có biện pháp khuyến khích các dự án đầu tư theo đúng chủ trương. Thực tế ở Hải Dương hiện nay đang diễn ra tình trạng các doanh nghiệp tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất, lấn chiếm đất, xây dựng các công trình, kinh doanh ngành nghề không nằm trong quy hoạch phát triển. Vì vậy, trong thời gian tới việc quản lý cần sát sao hơn, có những biện pháp xử lý mạnh và kiên quyết đối với những trường hợp vi phạm.
Phát triển bên vững là một khái niệm được sử dụng khá phổ biến, hiểu đơn giản nhất thì đó là sự phát triển kinh tế mà không xâm phạm tài nguyên của các thế hệ sau. Công tác lập và quản lý các quy hoạch phát triển cũng cần chú ý đến vấn đề này, thể hiện thông qua việc chú ý tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Công tác xây dựng kế hoạch cần đi trước một bước, đây là một vấn đề rất quan trọng giúp chủ động trong việc thu hút vốn đầu tư. Điều đó thể hiện ở hai mặt, trước hết là đối với nhà quản lý của địa bàn tiếp nhận đầu tư, việc xác định trước các kế hoạch sẽ giúp cho họ chủ động hơn trong công tác quản lý cũng như việc đề ra các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, nói một cách đơn giản hơn thì kế hoạch đầu tư giúp họ nhìn thấy được họ sẽ phải làm gì và mục tiêu đề ra là như thế nào. Mặt khác, kế hoạch đầu tư cũng giúp cho nhà đầu tư chủ động trong việc quyết định đầu tư khi mà họ đã có được cái nhìn tổng thể về đầu tư của cả tỉnh. Vì vậy, việc xây dựng các quy hoạch phải được thực hiện trước khi đưa ra mọi biện pháp, chính sách thu hút đầu tư, kế hoạch của năm sau phải được chuẩn bị từ quý II năm trước dựa trên cơ sở là các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội và phương hướng đầu tư của tỉnh.
Tăng cường công tác giám sát từ khâu lập dự án, để đảm bảo dự án nhanh chóng đi vào hoạt động, tránh thất thoát vốn đầu tư. Lập dự án là bước đầu của quá trình đầu tư, tăng cường giám sát ở khâu này giúp nhanh chóng loại bỏ những dự án không khả thi mà không gây lãng phí nguồn lực vì ở khâu này, chi phí mà các nhà đầu tư bỏ ra không cao. Khi các nguồn lực luôn nằm trong sự hạn hẹp thì đây là một biện pháp tốt để ưu tiên cho các dự án có hiệu quả, phù hợp với quy hoạch được duyệt. Vì vậy, tỉnh cần có công tác tư vấn cho các nhà đầu tư khi họ muốn đầu tư vào địa bàn tỉnh, đồng thời, phải xem xét yếu tố đảm bảo tính khả thi ngay từ khi dự án mới hình thành.
Chủ động triển khai công tác quy hoạch mặt bằng các khu, cụm công nghiệp, tăng cường vốn đầu tư từ nguồn xây dựng cơ sở hạ tầng cho công tác này, để các nhà đầu tư khi có dự án thì có thể dưa vào hoạt động ngay, giúp đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Khi đưa ra quy hoạch các khu, cụm công nghiệp cần tiến hành giải phóng mặt bằng và thực hiện quy hoạch đất đai nay, phân chia rõ ràng các vùng đất với mục đích sử dụng cụ thể cho từng loại hình đầu tư vào từng lĩnh vực.
2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan quản lý đầu tư và xây dựng.
Không ngừng kiện toàn bộ máy quản lý đầu tư và xây dựng. Bộ máy quản lý này bao gồm đội ngũ cán bộ và công tác tổ chức, sắp xếp cơ cấu tổ chức của bộ máy. Không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý đầu tư một mặt nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn, mặt khác, tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư khi họ được đặt dưới sự quản lý của một bộ máy bao gồm những người am hiểu về pháp luật cũng như có trình độ chuyên môn. Để thực hiện được điều này, trước hết cần nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ quản lý thông qua việc đào tạo cho đội ngũ cán bộ đang làm việc, gíup họ tiếp cận với những vấn đề mới thuộc chuyên môn của mình, đồng thời tổ chức thi sát hạch thường xuyên để khuyến khích các cán bộ tự nâng cao trình độ chuyên môn của mình và phát hiện những vấn đề khó khăn chung để đào tạo kịp thời. Hàng năm tổ chức thi tuyển đội ngũ sinh viên mới ra trường về các cơ quan này làm việc vì đây là lực lượng trẻ, nhạy bén trong tiếp thu các kiến thức mới. Cùng với nó là thực hiện việc tổ chức cho các cán bộ học các chính sách pháp luật mới của nhà nước, các văn bản này hàng năm rất nhiều, vì vậy nên tổ chức học theo đợt hoặc phát tài liệu tới từng phòng ban, để các phòng tự tổ chức cho nhân viên của mình nắm bắt các quy định mới.
Nâng cao hoạt động của ban quản lý các khu công nghiệp của tỉnh. Như đã nói ở trên, cần thiết phải hình thành các cụm, khu công nghiệp, theo quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Hải Dương đến năm 2010, tỉnh dự kiến xây dựng một số khu, cụm công nghiệp như :Khu công nghiệp Nam Sách, Khu công nghiệp Phả Lại- Hoàng Tiến, Khu công nghiệp Phú Thái, cụm công nghiệp phía nam thành phố Hải Dương ..., vì vậy, ban quản lý các khu công nghiệp càng trở lên quan trọng . Cho nên cần phải sớm ban hành các quy định và hướng dẫn thực hiện cụ thể về quy trình cấp đất, cho thuê đất, các chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, để các nhà đầu tư hiểu rõ quy trình đầu tư và rút ngắn quy trình thực hiện các thủ tục chuẩn bị đầu tư để sớm tổ chức triển khai dự án.
3. Tranh thủ mọi nguồn vốn từ nội lực của tỉnh.
Mở rộng các hình thức huy động vốn như phát hành trái phiếu, tín phiếu, các doanh nghiệp cổ phần phát hành cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn còn nằm phân tán trong dân. Thường thì các hình thức phát hành traí phiếu kho bạc và cổ phiếu công ti là phổ biến nhất vì nó đảm bảo tính ổn định trong sản xuất, tín phiếu kho bạc chỉ phát hành trong trường huy cần huy động nhanh một lượng vốn vì thời hạn của nó rất ngắn, thường chỉ là một năm. Hàng năm hoặc định kì, kho bạc nhà nước tỉnh tổ chức phát hành rộng rãi trái phiếu với thời hạn từ 1-10 năm với các mức lãi suất và hình thức hoàn vốn hợp lý khi đáo hạn để thu hút vốn đầu tư cho phát triển từ các nguồn đầu tư nhỏ lẻ trong dân. Để tăng tính hấp dẫn của hình thức này có thể có một số chính sách như: trả lãi trước, có thể hoàn vốn trước thời hạn để tăng tính thanh khoản của trái phiếu. Đối với cổ phiếu công ti, hiện nay trong tỉnh có 7 doanh nghiệp cổ phần, trên thực tế thì cổ phiếu công ti chủ yếu do các thành viên trong công ti nắm giữ, chưa phát hành rộng rãi ra công chúng và những hiểu biết của người dân về hình thức huy động vốn này còn hạn chế. Vì vậy,cần phải: Tuyên truyền rộng rãi thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về cổ phiếu và các hình thức ưu đãi, để người dân trong tỉnh hiểu và tham gia thị trường này. Mở các lớp về thị trường chứng khoán tại tỉnh, mục đích tạo ra một hình thức đầu tư mới cho các nhà đầu tư, thường là các cá nhân. Các công ti cổ phần đăng kí niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán để có thể phát hành rộng rãi các loại chứng khoán ra công chúng, huy động vốn phục vụ đầu tư phát triển sản xuất.
Khuyến khích các ngân hàng đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Một trong những nghiệp vụ của các ngân hàng là sử dụng nguồn vốn huy động được đem đầu tư vào một số dự án thông qua góp vốn cổ phần hoặc liên doanh. đây là biện pháp nhằm đẩy nhanh vòng quay vốn của các ngân hàng. Các ngân hàng này là nơi tập trung và tích tụ nhiều nhất nguồn vốn trong dân thông qua tiết kiệm tiền gửi, vì vậy cần có những biện pháp khuyến khích họ tham gia đầu tư vì tăng số vòng quay của vốn cũng là một biện pháp tăng lượng vốn trong lưu thông phục vụ phát triển kinh tế. ở đây ngân hàng được coi là một nhà đầu tư độc lập nên các chính sách khuyến khích đàu tư cũng như các nhà đầu tư khác, ngoài ra, cần thực hiện giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc (tới mức có thể đảm bảo an toàn) để các ngân hàng này có nhiều điều kiện đem vốn đi đầu tư hơn.
Trên đây là một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn cho đầu tư phát triển của Hải Dương, các giải pháp này cần thực hịên một cách đồng bộ và áp dụng tuỳ theo từng điều kiện của tỉnh cũng như tình hình kinh tế cả nước và kinh tế thế giới nói chung.
5. Giải pháp về tổ chức thực hiện.
Xây dựng các chương trình đề án trên từng lĩnh vực. Để cụ thể hoá các quy hoạch đã đề ra, cũng như việc đảm bảo thực hiện từng bước vững chắc tới các mục tiêu kinh tế xã hội, tỉnh cần chỉ đạo xây dựng các chương trình đầu tư cụ thể như: Chương trình phát triển nguồn nhân lực, chương trình cải thiện môi trường đầu tư..., từ các chương trình này, tỉnh chỉ đạo cho các cấp, các ngành lập các đề án và triển khai việc thực hiện.
Thực hiện việc giao kế hoạch cụ thể tới các cấp các ngành trên cơ sở sự phân cấp đã đươc quy định rõ rầng, từ đó khuyến khích các cơ sở này chủ động lập các kế hoạch và phương án đầu tư cụ thể cho phù hơpj với điều kiện của mình, trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh phê duyệt. Như vậy, vừa giảm được sự tập trung ở tỉnh, vừa đảm bảo sự phù hợp của các phương án đầu tư cho từng đơn vị trong tỉnh.
Thành lập ban xúc tiến và kêu gọi đầu tư nước ngoài, thành lập các đoàn công tác và có kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn để làm việc với các cơ quan ngoại giao, cơ quan thương mại một số nước để kêu gọi đầu tư vào tỉnh.
Trên đây là một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn để đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Các biện pháp này yêu cầu phải được thực hiện một cách đồng bộ và lâu dài, tuy nhiên cùng với sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hôi, việc tổ chức thực hiện cần phải linh hoạt cho phù hợp, nhằm tới mục tiêu cuối cùng là thực hiện các nhiệm vụ, các chỉ tiêu đã đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Kết luận
Trên đây là một số vấn đề trong thực tế phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hải Dương trong thời gian qua cũng như vai trò của đầu tư trong sự phát triển ấy. Có thể thấy rằng, mục tiêu phát triển không phải là của riêng một nền kinh tế mà nó là xu thế chung trong mọi giai đoạn của nền kinh tế thế giới. Đối với Hải Dương, các quy hoạch, chương trình phát triển và các chính sách nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra nhìn chung là phù hợp với điều kiện và khả năng của tỉnh.
Trong khi các nguồn lực trong tỉnh còn hạn hẹp thì việc tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài rất quan trọng, cũng như cần phải nâng cao hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực ấy. Chính vì vậy, cần phải có những biện pháp thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư vào tỉnh, đây là vấn đề mang tính quản lý vĩ mô, nếu chỉ riêng một đề tài này thì không thể nói hết và đầy đủ mọi khia cạnh của vần đề đã được đặt ra, mà đây chỉ là những kiến nghị mang tính chủ quan và được đưa ra thông qua nhìn nhận của cá nhân. Còn rất nhiều công việc mà tỉnh cần thực hiện để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Chỉ trong đề tài này, em không có tham vọng thay đổi những chính sách cũng như các biện pháp mà tĩnh đã và đang thực hiện, em chỉ mong muốn qua những hiểu biết của mình có thể nhìn nhận vấn đề theo đúng hướng để có một số ý kiến nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế đầu tư, TS Nguyễn Ngọc Mai, Nhà Xuất bản Giáo Dục, 1997.
Giáo trình quản lý dự án đầu tư, TS Nguyễn Bạch Nguyệt, Bộ môn Kinh tế đầu tư, Nhà xuất bản Giáo Dục, 2000.
Các Chương trình, Đề án thực hiện nghị quyết Đại Hội Đảng Bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII, Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Hải Dương, 2000.
Niên Giám Thống Kê 2000, 2001, Cục Thống Kê Hải Dương.
Báo cáo tình hình đầu tư theo Nghị Quyết Trung Ương IV, Khoá 8, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương, 2001.
Báo cáo về tình hình đầu tư trong nước, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương,2001.
Dự kiến đầu tư trên địa bàn Hải Dương 2003, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương, 2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0068.doc