Các nước gọi là phát triển khác hẳn các nước khác chính ở chỗ là đã công nghiệp hoá. Vì công nghiệp hoá vẫn là “chìa khoá của sự phát triển”, là một phương tiện đặc biệt mạnh mẽ để tăng năng suất của con người, qua đó mà tăng số lượng sản phẩm, tính đa dạng và cả chất lượng sản phẩm nữa.
Như vậy , việc thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH không chỉ cho bản thân sự nghiệp đó mà cùng với nó là sự đi lên một trạng thái kinh tế mới,sự hoàn thiện bộ máy nhà nước , sự hoàn chỉnh của hệ thống quản lý xã hội và phát triển con nguòi một cách toàn diện .Đây thực sự là một công việc khó khăn , đòi hỏi sự nỗ lực của cả một dân tộc
Sau khi đọc xong đề tài nay tôi hy vọng bạn đọc sẽ hiểu rõ hơn về vấn đề CNH-HĐH của nước ta hiện nay như thế nào. Và vai rò tất yếu của nhà nước trong quá trình CNH-HĐH.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài :
Quá trình CNH-HĐH ở bất cứ quốc gia nào ,trong bất kì thời đại lịch sử nào cũng cần có sự chỉ đạo ,chi phối của những lực lượng nhất định. Loài người đã từng chứng kiến nhiều hình thức tác động ,điều tiết của các lực lượng khác nhau đối với các quá trình CNH-HĐH ở những quốc gia khác nhau ,trong những thời kì lịch sử khác nhau .
Đối với nước Việt Nam ta, quá trình CNH-HĐH được khởi đầu từ năm 1960, trên cơ sở thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ III của đảng. Đường lối CNH XHXN là một bộ phận chủ chốt trong đường lối cách mạng VIệt Nam do đảng vạch ra nhằm xây dựng CNXH ở miền Bắc, giải phóng miền Nam , thống nhất đất nước. Từ năm 1975, đất nước thống nhất ,tình hình trong và ngoài nước thay đổi nhiều, đảng ta đã bổ xung, điều chỉnh đường lối CNH-HĐH bằng các nghị quyết Đại hội lần IV và V. Nhưng do sự duy trì cơ chế quản lý kinh tế để CNH-HĐH vẫn trong những điều kiện và dưới sự tác động của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp . Do vậy vẫn còn có nhiều hạn chế trong quá trình CNH-HĐH .Từ đầu năm 1980 những hạn chế đó đã bộc lộ những yếu kém , cản trớ quá trình phát triển đất nước . Đại hội VI đã nhận định , việc duy trì quá lâu cơ chế này là một trong những nguyên nhân gây nên những khó khăn gay gắt về kinh tế – xã hội ở nước ta trong những năm đó .Nhận thức rõ những hạn chế ,tiêu cực của cơ chế cũ và những yêu cầu cấp bách của đất nước ,Đảng ta đã có nhiều tìm tòi ,thể nghiệm để đổi mới toàn diện đất nước . Nghị quyết Đại hội VI đã mở ra một thời kì đổi mới về mọi mặt đời sống xã hội ,trong đó có đổi mới cơ chế kinh tế. Các nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ ba và lần thứ sáu (khoá VI) đã xác định những nội dung chủ yếu của cơ chế mới ,đánh dấu những bước tiến rất cơ bản trong việc đổi mới cơ chế kinh tế .Tuy nhiên phải đến đại hội VII ,đảng ta mới xác định rõ cơ chế đó là “cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật , kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”. Thực tế những năm sau Hội nghị trung ương lần thứ sáu cơ chế mới đã bắt đầu hình thành và phát huy tác dụng điều tiết các quá trình kinh tế một cách có hiệu quả hơn.
Tóm lại, việc nâng cao vai trò quản lý của nhà nước có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.Bởi vì ,sự quản lý của nhà nước trong những năm tới không chỉ định hướng và thúc đẩy quá trình CNH-HĐH mà còn là một bộ phận cấu thành cơ chế vận hành nền kinh tế nước ta trong cả TKQĐ lên CNXH. Kinh nghiệm của những nước NIC cho thấy , trong những giai đoạn đầu của quá trình CNH-HĐH cơ chế thị trường chưa đồng bộ và hoạt động còn yếu nên nhà nước phải tích cực thực hiện chức năng “quản lý-xây dựng kinh tế “, can thiệp sâu vào các quá trình kinh tế , còn khi công nghiệp đã phát triển ,kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định , thị trường được mở rộng và hoạt động tốt thì nhà nước giảm bớt những chức năng “quản lý – xây dựng kinh tế “ , không cac thiệp trực tiếp vào quản lý kinh doanh nữa , mà chuyển về chuyên lo điều tiết vĩ mô nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối, bền vững của toàn xã hội cũng như của các cộng đồng đân cư khác.
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do thời gian có hạn và nội dung của đề tài chỉ được phép viết trong một số trang có hạn vì vậy bài này chưa thể nói hết đượctất vấn đề mà chỉ nêu ra một số vấn đề trong vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH và phương hướng giải quyết cùng một ít dẫn chứng cụ thể . Đề tài chỉ xoay quoanh thực trạng CNh_HĐH của nước ta trong thời gian gần đây và một số qui đinh , chính sách cũng như công cụ của nhà nước Việt nam nhằm thực hiện CNh-HĐH.
3.Bố cục đề tài
Chương 1:Lí luận chung về vai trò của nhà nước của nhà nước đối với CNH-HĐH
Chương 2:Thực trạng về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH trong thời gian qua và một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH ở nước ta
Nội dung
Chương 1:Lí luận chung về vai trò của nhà nước Đối với CNH-HĐH
Tính tất yếu khách quan về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH
Nội dung CNH-HĐH ở nước ta hiện nay:
Trước đây chúng ta cho rằng, công nghiệp hoá là quá trình trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá, biến một nước kém phát triển thành một nước có cơ cấu công nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Theo quan niệm của Liên Hợp Quốc, công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm nhịp độ tăng trưởng cao trong toàn bộ nền kinh tế và bảo đảm sự tiến bộ kinh tế và xã hội.
Kết hợp quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hội nghị lần thứ VII ban chấp hành TW Đảng khoá VII đã đưa ra quan niệm mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đây cũng chính là quan niệm được sử dụng một cách phổ biến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Theo tư tưởng này, “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Thực chất của công nghiệp hóa là chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân gắn liền với đổi mới công nghệ. Còn hiện đại hoá là quá trình cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại có trình độ văn minh cao hơn, có nền kinh tế phát triển, thể hiện tập trung ở nhịp độ tăng tổng sản phẩm chung tính theo đầu người. Như vậy hiện đại hoá bao gồm cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá. Công nghiệp hoá là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu. Đồng thời đây cũng là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Quá trình ấy phải có tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế- xã hội nhanh và ổn định. Vì vậy công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá. Xét trên góc độ kinh tế- kỹ thuật, hiện đại hoá là cái đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hoá.
Quá trình công nghiệp hoá là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nước. Đặc điểm của quá trình ấy là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu các ngành kinh tế. Và sự chuyển dịch này được thúc đẩy bằng công nghệ hiện đại. Về tổng thể, cơ cấu kinh tế của mỗi nước được cấu thành bởi ba loại ngành tổng hợp có quan hệ ràng buộc nhau. Đó là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong quá trình công nghiệp hoá chúng ta thấy rõ sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng nâng cao tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp
Công nghiệp hoá vừa là quá trình kinh tế- kỹ thuật vừa là quá trình kinh tế- xã hội. Quá trình ấy sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kỹ thuật, thấp kém về kinh tế, đồng thời cũng thủ tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội, nâng cao mức sống của dân cư, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Quá trình kinh tế- xã hội và quá trình kinh tế- kỹ thuật có quan hệ ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau.
Tính tất yếu khách quan về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH
Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội(CNXH) được thực hiện tuỳ theo điều kiện hoàn cảnh riêng biệt của từng nước .Đối với những nước mà điểm xuất phát là nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ tự cung tự cấp ,lại bị tàn phá qua nhiều cuộc chiến tranh như Việt Nam thì con đường đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ Tư bản(TB) là con đường đầy những gian nan vất vả . Vì thực tế, chúng ta chưa trải qua cuộc cách mạng kĩ thật như đã diễn ra trong thế kỷ XVIII , cuộc cách mạng thực hiện bứơc chuyển từ xản xuất thủ công sang sản xuất bằng cơ giới, xác lập sự xã hội hoá , chuyên môn hoá trong sản xuất , tạo ra môi trường tôi luyện người lao động có kĩ thuật cao để đưa xã hội cổ truyền sang xã hội hiện đại vớilực lượng sản xuất đang ở trình độ thấp,công cụ thô sơ , phương thức hợp tác giản đơn, phân công lao động chậm phát triển , vẫn còn quy tụ chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp , sản xuất hàng hoá chưa phát triển để thực hiện sự mở rộng giao lưu kinh tế , do đó vẩn còn cơ sở bảo tồn cho một nền kinh tế hiện vạt mang tính tự cung tự cấp. Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực này là phải xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội . Đây là một quy luật kinh tế mang tính phổ biến, xuất phát từ yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản như nước ta, sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội được thực hiện bằng con đường công nghiệp hoá.
Phát triển không đồng đều đã trở thành tính qui luật của sự phát
triển .Do đó , trong tiến trình thực hiện CNH-HĐH ở nước ta không nhất thiết phải thực hiện tính tuần tự trong phát triển cơ cấu kinh tế .Cần phải biết tận dụng thời cơ và chớp lấy thời cơ cho từng lĩnh vực .Phải biết chấp nhận sự phát triển không đồng bộ trong sản xuất .Từ sự phát triển không đồng bộ ,nhà nước tiến hành điều chỉnh ,kết hợp giữa cái truyền thống với cái hiện đại ,tạo ra sự độc đáo trong sự phát triển .Cho nên , cùng với việc thực hiện tiêu chuẩn hoá cần co vai trò của nhà nước trong sự chỉ đạo vùng tập trung sản xuất trọng điểm để đạt được những yêu cầu cao về tiêu chuẩn ,đảm bảo sản xuất xuất khẩu .Giám sát nghiêm ngặt việc thực hiện tiêu chuẩn hoá trong những nghành chủ lực để rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với thế giới.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác động một cách mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới làm biến đổi một cách sâu sắc cơ cấu lực lượng sản xuất và đặc biệt là cơ cấu kinh tế: tỷ trọng của các ngành sản xuất vật chất trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân ngày càng giảm, tỷ trọng các ngành dịch vụ và phi sản xuất vật chất khác ngày càng tăng nhanh hơn. Năng suất lao động tăng nhanh nhưng đi liền với đó là tính vô chính phủ trong phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản cũng bộc lộ ngày càng gay gắt. Điều đó nói lên rằng: những điều kiện vật chất mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra là to lớn nhưng vẫn chưa hội tụ đủ những yếu tố cần thiết cho một cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Do đó, một cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải hội tụ đủ yếu tố hiện đại của cách mạng khoa học và công nghệ, yếu tố cơ cấu của một lực lượng sản xuất ở trình độ cao và yếu tố kế hoạch để khắc phục cho tính vô chính phủ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, “cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ là nền sản xuất lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hoá cao, dựa trên trình độ khoa học công nghệ hiện đại, được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân”.
Một nước phát triển về kinh tế vẫn có thể là một nước kém phát triển về tinh thần, về trí tuệ và về xúc cảm như nhiều trường hợp ở phương Tây cho thấy. Nhưng không thể chối cãi đó là một nấc thang tất yếu trên con đường phát triển kinh tế và không chỉ kinh tế của các dân tộc. Công nghiệp hoá tạo ra nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật: năng suất lao động cao, cơ cấu sản phẩm đa dạng, công ăn việc làm phong phú, thu nhập quốc dân chung và tính theo đầu người cao hơn nhiều so với một nền kinh tế chưa công nghiệp hoá. Sự thật chính là ở những “nước công nghiệp mới”(NIC), là những nước đã thành công ở những mức độ khác nhau về công nghiệp hoá, và vị trí của chúng trong nền kinh tế thế giới đã được khẳng định vững chắc.Vì vây để tránh mắc phai những sai lầm như một số nước phương Tây đI trước đã mắc thì vai trò của nhà nước trongCNH-HĐH là tất yếu để chung ta co sự hoà nhập nhưng không bị hoà tan,không bị mất đI bản sắc dân tộc Việt Nam đã có từ ngàn xưa .
Trong bối cảnh thực hiện CNH-HĐH theo cơ chế thị trường , vai rò của nhà nước hết sức quan trọng trong việc xây dựng những phương án hợp lý về việc sử dụng các nguồn lực lao động kết hợp với nguồn lực tự nhiên .Chiến lược CNH trong từng giai đoạn phải sử dụng sự kết hợp những nguồn lực này trong sự phân vùng kinh tế ,với những chính sách bảo hộ có hiệu lực về mặt pháp lý đối với tài nguyên.Cơ cấu công-nông-lâm nghiệp phải được thực hiện theo nhiều cấp độ mới tạo ra sự kết hợp thống nhất cân đối hài hoà giữa hiệu quả kinh tế chính trị với hiệu quả sinh thái,xã hội
Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới châu á ( cũng như của Nhật Bản trước đây), cho thấy: dù có phát triển với tốc độ nhanh đến mức nào đi nữa, thì các nước đó vẫn phải đi từ trình độ này sang trình độ khác, không có chuyện “đốt cháy giai đoạn”. ở những nước này, quá trình phát triển từ trình độ kinh tế nông nghiệp sang trình độ kinh tế công nghiệp và đặt chân lên trình độ kinh tế hậu công nghiệp là mất 20- 30 năm. Con đường phát triển như vậy ở Tây Âu phải mất 200 năm và ở Nhật Bản cũng phải mất khoảng 100 năm.
Như vậy rõ ràng rằng: công nghiệp hoá đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, vẫn là một tất yếu lịch sử. Vấn đề đặt ra lúc này không phải ở chỗ có cần công nghiệp hoá hay không. Vấn đề là công nghiệp hoá trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, khi nền văn minh công nghiệp dần dần nhường chỗ cho nền văn minh hậu công nghiệp, đòi hỏi những nội dung và những bước đi thích hợp.
1.2Vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH
Quản lý Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá mang tính hệ thống, cái này là điều kiện của cái kia và ngược lại. Các chính sách kinh tế - xã hội phải là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết và chỉ huy nền kinh tế nước ta. Tất cả các chính sách đều phải nhằm thực hiện những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong quá trình đổi mới , Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế,nhiệm vụ then chốt là xây dựng đảng . Đó là quan điểm nhất quán của Đảng và đã được thể hiện trong văn kiện của các kì đại hội . Báo cáo chính trị tại đại hội IX đã dành riêng một phần để nói về Phát triển kinh tế –xã hội bằng con đường CNH-HĐH:
“Đẩy mạnh CNH-HĐH , xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ,đưa nước ta trở thành một nước cộng nghịêp” có thể nói đây là tư tưởng chiến lược hết sức quan trọng ,là mục tiêu cơ bản của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay ,bởi vì muốn tiến lên CNXH từ một nước nông nghiệp không kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa , chúng ta phải tiến hành CNH để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH .Nhưng CNH ở nước ta lại được tiến hành trong bối cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi,đặc biệt là sự phát triển rất nhanh về cả qui mô và chất lượng của lực lượng sản xuất trên nền tảng của một cuộc cách mạng mới về khoa học và công nghệ . Do đó con đường CNH-HĐH của nước ta đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn những mô hình và bước đi thật thích hợp, phát huy cao nhất những lợi thế của đất nước, trước hết là nguồn lực con người , phát triển mạnh giáo dục và đào tạo , khoa học công nghệ , tận dụng mọi khả năng tranh thủ đi tắt đón đầu để sớm đạt trình độ tiên tiến,hiện đại ở những nghành , những khâu , những lĩnh vực có điều kiện , rút ngắn thời gian CNH, từng bước phát triển kinh tế , thu hẹp khoảng cách với sự phát triển chung của thế giới.
“Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất , đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo địng hướng XHCN” Đại hội VI , Đảng ta đã rút ra bài học quan trọng là lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu , mà cả khi sản xuất phát triển không đồng bộ . Do đó , ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất là sự lựa chọn đúng quy luật . Muốn vậy , điều hết sức quan trọng là phải tìm cách khơi dậy mọi tiềm lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng đồng thời phải từng bước và kịp thời điều chỉnh , cải biến các yếu tố của quan hệ sản xuất cho phù hợp . ở đây cần lưu ý :Một mặt , tiêu chuẩn căn bản để xem xét một hình thức cụ thể nào đó của quan hệ sản xuât có phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất hay không là việc nó tác động đến đâu trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển . Mặt khác , trong nền kinh tế thị trường ở nước ta , việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phải đảm bảo được định hướng XHCN, nghĩa là , cùng với việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển , nó cũng phải góp phần đắc lực vào việc cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội , tạo cơ hội đồng đều cho mọi người lao động và các tầng lớp dân cư , các cộng đồng dân tộc trong việc thụ hưởng các thành quả của sự phát triển , cũng như tham gia đóng góp vào công cuộc phát triển của đất nước.
“phát huy cao độ nội lực , đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững “ Quá trình khu vực hoá toàn cầu hoá đang làm cho các nước , nhất là các nước chậm phát triển và đang phát triển đứng trước nhiều thời cơ mới đi đôi với nhiều thách thức mới , mà cách ứng sử hợp lý nhất là không tự cô lập mình và đứng ngoài quá trình ấy. Thực tế cho thấy , nước nào có chiến lược kinh tế đối ngoại thích hợp , sẽ vừa tranh thủ được ngoại lực vừa phát huy được nội lực để phát triển nhanh và bền vững.Ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng ,mặc dù lúc đó có viện trợ và vay vốn bên ngoài chủ yếu từ các nước trong XHCN , Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn :sự giúp đỡ từ bên ngoài chỉ như thêm vốn cho ta .’ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta , phát triển khả năng của ta . Song nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối không vì bạn ta giúp nhiều mà đâm ra ỷ lại’. Hiểu một cách thấu đáo là có phát huy cao độ nội lực mới sử dụng hiệu quả ngoại lực , kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững
“Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá , từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân đân , thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội bảo vệ và cải thiện môi trường” Chúng ta đã lựa chọn mô hình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN , gắn liền tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá , giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc , thực hiện ngay trong từng bước sự tiến bộ và công bằng xã hội , khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với giảm nghèo , từng bước cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân đân , chăm lo đúng mức việc bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên , cân bằng sinh thái .Tăng trưởng kinh tế phải đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội , kinh tế tăng trưởng đến đâu mức sống của người lao động được tăng đến đó , người lao động phấn khởi , nhiệt tình đẩy mạnh sản xuất kinh doanh hơn nửa tạo ra thêm nhiều của cải vật chất cho xã hội , bảo đảm nền kinh tế phát triển bền vững trên cả ba mặt :kinh tế , xã hội , môi trường.
“Kết hợp phát triển kinh tế , xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh” .Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội và tăng cường quốc phòng an ninh là một chủ chương lớn,nhất quán và xuyên suốt trong mọi hoạt động kinh tế xã hội . Phải có tiềm lực kinh tế mới tạo được nguồn lực và cơ sở vật chất – kĩ thuật cho việc tăng cường quốc phòng an ninh ; đồng thời quốc phòng an ninh mạnh sẽ tạo ra môi trường ổn định cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Trên thực tế, tất cả những nước công nghiệp mới ở châu á đều thành công trước hết là ở khâu hoạch định chiến lược. Công việc này đòi hỏi một sự tập trung trí tuệ lớn của nhiều chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt của những “công trình sự” kinh tế có trình độ cao. Như vậy, ở những mức độ quan trọng, một Nhà nước hùng mạnh, tập trung là hết sức cần thiết cho công nghiệp hoá, nhất là trong giai đoạn đầu của nó. Điều đó có thể hiểu là một người thuyền trưởng tài giỏi, có trách nhiệm tập trung, không lơ đễnh trong quá trình điều khiển con tàu của mình , đồng thời có một lực lượng những thuỷ thủ giỏi rất thông minh, nhanh nhẹn thì chắc chắn sẽ đến đích an toàn và nhanh hơn những con tàu khác. Vì khi đó mọi yếu tố nguy hiểm cho con tàu đều được quan sát và dự phòng kỹ càng, bên cạnh đó cũng có thể tận dụng những điều kiện thuận lợi giúp con tàu kết thúc lộ trình một cách bình an.
Trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, yếu tố thời gian có ý nghĩa quyết định. Vậy nên sự tập trung trí tuệ được thực hiện càng sớm, thì thành công càng được đảm bảo. Chưa bao giờ tốc độ lại được coi trọng như hiện nay: “thế giới sẽ được chia thành những nước nhanh hơn và những nước chậm hơn. Mỗi đơn vị thời gian được cứu thoát khỏi sự chậm trễ có giá trị hơn một đơn vị thời gian trước đây”. Do đó những con tàu công nghiệp hoá này cần phải tận dụng triệt để thời cơ nếu có và không ngừng nỗ lực làm việc để đạt được mục đích của mình nhanh nhất, tránh bị tụt xa so với những con tàu đã đi trước
Từ những lý luận trên, ta có thể thấy được vai trò của Nhà nước là rất quan trọng và quyết định đến thành bại của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước.
Các bài học của các nước đi trước cho thấy: quá trình công nghiệp hoá ở các nước về khách quan gắn liền với quá trình xây dựng xã hội công dân và Nhà nước pháp quyền ở đó. Cũng tức là gắn liền với quá trình dân chủ hoá từng bước từ trên xuống dưới và từ dưới lên ở đó. Đó chính là kinh nghiệm của các nước Đông á, kể từ Nhật Bản trở đi: họ đều tiến hành công nghiệp hoá thành công là do đáp ứng được những nhu cầu ngày càng tăng của người dân, khơi được tính chủ động của mỗi thành viên xã hội với tư cách công dân của họ. Qua đó ta thấy được sự hình thành của xã hội công dân và Nhà nước pháp quyền, cơ sở của chế độ dân chủ, là điều kiện kiên quyết để các nước này tiến hành công nghiệp hoá thành công.
Trong quản nhà nước , sản xuất phải gắn liền với thực hành tiết kiệm , chống tham ô lãng phí , quan liêu . Sản xuất phải có kế hoạch , có phân công để làm ra nhiều sản phẩm tốt .Nhưng làm ra sản phẩm mà xa sỉ, hoang phí bừa bãi thì như nước rót vào tùng thủng đáy . Vì vậy sản xất phải đi đôi với tiết kiệm , như hai chân của côn người . Chủ Tịch Hồ CHí Minh nhắc lại lời của Stalin về bọn tham ô như’những con lợn sục vào vườn rau của nhà nướcvà ngoạm một cách trơ trẽn’.Vai trò của nhà nước là phải thấy được điều đó . Phát biểu trong cuộc họp cuối năm 1966 của hội đồng chính phủ, chủ tich Hồ Chí Minh chỉ rõ:’ một việc nữa rất quan trọng mà làm chưa tốt là công tác lưu thông phân phối . Có khi vật tư hàng hoá không thiếu , mà phân phối không đúng , thì gây ra căng thẳng không cần thiết . Trong công tác lưu thông phân phối , có hai quan điểm quan trọng phải luôn nhớ:
Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên’
Rõ ràng là vai trò quản lý của nhà nước - đặc biệt là kinh tế tài chính là rất lớn . Hồ Chủ tịch nhắc lại lời Lênin :’kinh tế và tài chính phải do nhà nước thiết thực quản lý , giám đốc thống kê và điều chỉnh , cần qui định cách phân phối sức lao động cho đúng đắn , quí trọng sức dân , tuyệt đồi không lãng phí sức dân , cái gì cũng phải tiết kiệm’.
ở nước ta, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước không tách rời sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước phải làm cho giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và nhân dân lao động nhận thức một cách đầy đủ sự cần thiết khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Đồng thời cũng chỉ có Đảng mới có đủ năng lực pháp lý cũng như đủ tư cách trong sạch để có được sự ủng hộ, sự tin tưởng của nhân dân để tiến hành chỉ cho toàn dân nhận biết được những thách thức gay gắt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để thấy quyết tâm chiến lược của Đảng, của toàn dân ta. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác sức mạnh tổng hợp các nguồn lực của các miền, các vùng, các địa phương và của mọi tầng lớp dân cư. Đó chính là sức mạnh, là ý chí, là nguyện vọng của toàn Đảng và toàn dân cho sự nghiệp tiến tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
1.3 Kinh nghiệm của một số nước về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH
Khác với các nước CNH cao ở phương Tây , các nước trong khu vực châu á- TháI Bình Dương thường xuyên nhấn mạnh vào hoạt động sản xuất , chế tạo hơn là vào nghiên cứu cơ bản và triển khai thực nghiệm . Vì vậy các nước CNH châu á có những hạn chế nhất định về năng lực nghiên cứu và phát triển. Tuy nhiên , trong qua trình liên doanh , cũng như với những nỗ lực đào tạo nghiên cứu khoa học , kỹ sư và công nhân lành nghề , nhân lực các nước này đã tăng lên cả về số lượng và chất lượng .
Một số nước châu á đã quan tâm nhiều đến việc xây dựng các chính sách và biện pháp phát triển nguồn nhân lực , đặc biệt là khuyến khích kiều dân ở nước ngoài tham gia xây dựng vào nền kinh tế trong nước
Tại Singapore, do mức tiền lương trong nước khá cao (chỉ đứng sau Nhật Bản ở châu á) nên hiện tượng di chuyển nhân lực ra ngoài biên giới là rất ít , trong khi quá trình ngược lại rất mạnh vì lương cao và môi trường lao động thuận lợi , nhưng quan trọng hơn cả là do chính sách khuyến khích của nhà nước .Cục khoa học –công nghệ quốc gia cùng với các cơ quan trung ương khác đã có chính sách khuyến khích các tài năng nghiên cứu và phát triển , người nước ngoài đến làm việc và và sinh sống ở Singapore .Những người này mang theo những kinh nghiệm từ nước ngoài tham gia tích cực vào hoạt động nghiên cứu và đào tạo các tài năng bản xứ.
Tại Trung Quốc , để khuyến khích luồng trí tuệ và tài chính của cộng đồng người Hoa từ nước ngoài , ngoài những chính sách lớn , Nhà nước đã quy định nhiều điều cụ thể , chẳng hạn:Hoa kiều ở nước ngoài khi về nước không phải xin thị thực nhập xuất cảnh . Chính phủ chủ trương ‘khuyến khích người ra đi hợp pháp , hoan nghênh người trở về, đi và về tự do’.Đã thực hiện chế độ một giá dich vụ cho hoa kiều như người trong nước tham quan , giải trí … có thể nói ,Trung Quốc đã thực hiện khá thành công chính sách thu phục nhân tâm trước , khai thác sử dụng sau.
Trong trường hợp Đài Loan, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong các chủ trương, chính sách là chính phủ chủ động đứng ra chăm lo bồi dưỡng , củng cố tiềm lực cộng đồng ,kiều dân và sau đó khai thác những thế mạnh của họ phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước . Đài Loan đã bỏ ra công sức và tiền của rất nhiều cho việc tìm kiếm các nhà khoa học giỏi , tiếp xúc ,vận động và ‘kéo tay họ về’. chính phủ Đài Loan xác định mục tiêu đầu tiên là phát triển các nghành công nghệ mới thông qua tập trung nghiên cứu triển khai và có trương trình chuyển giao công nghệ tới các thành phần kinh tế tư nhân .Mục tiêu thứ hai là xác định và thành lập các nghành công nghiệp chiến lược được đánh giá là sẽ mang lại khả năng cạnh tranh cho Đài Loan trên trường quốc tế.
ấn Độ có khoảng trên một triệu người làm công tác khoa học ở nước ngoài . Riêng số nhà khoa học phuc vụ cho công nghệ cao là 25000 người . Chính phủ chủ trương vận động kéo một số ấn kiều là những nhà đầu tư lớn, nhà khoa học đầu ngành nổi tiếng về đầu tư và xây dựng các nghành khoa học mũi nhọn . Cố tổng thống Nêru đã mời nhà khoa học nguyên tử Bhabha(ở Mĩ ) về xây dựng và và phát triển trung tâm nghiên cứu năng lượng nguyên tử Kỹ nghệ hàng không , vận tải biển , hoá dầu, phần mềm vi tính đều do các nhà khoa học ấn kiều về nước xây dựng .
Chương 2:thực trạng về vai trò của nhà nước đối với cnh-hđh trong thời gian qua và một số giảI pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà nước đối với cnh-hđh ở nước ta trong thời gian tới
2.1 Thực trạng về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH
2.1.1 Nhà nước thực hiện các các chính sách về kinh tế và xã hội đối với CNH-HĐH:
Một trong những nguồn nhân lực quan trọng nhất của đất nước ta hiện nay là đội ngũ trí thức . Theo thống kê năm 1995 của bộ khoa học công nghệ và môi trường cho thấy , so với một số nước có thu nhập thấp ở mức ngang bằng thì lực lượng lao động có trình độ chuyên môn , nghiệp vụ được đào tạo ở nước ta là tương đối lớn. Lực lượng này bao gồm khoảng 9300 tiến sĩ và phó tiến sĩ , 930000 người có trình độ đại hoc và cao đẳng , trên 3,5 triệu cán bộ kĩ thuật và công nhân kĩ thuật .Đội ngũ trí thức Việt Nam đã có những cống hiến to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ ,góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay . Đội ngũ cán bộ khoa học mang bản sắc dân tộc :thông minh , khiêm tốn , hiếu học khả năng tiếp thu và ứng dụng công nghệ mới nhanh. Điều này được các chuyên gia nước ngoài đánh giá rất cao. Nhiều công trình kĩ thuật hiện đại , phức tạp của thế giới như trong các lĩnh vực điện tử , viễn thông dầu khí hoặc lắp đặt những công trình công nghiệp lớn(thuỷ điện , nhiệt điện , xi măng..)cán bộ khoa học công nghệ cũng như công nhân nước ta đã tiếp thu và vận hành một cách nhanh tróng , có hiệu quả , thậm chí còn cải tiến ,nâng ccao.Theo đánh giá mới đay nhất , 1/3 giá trị gia tăng GDP hàng năm của nền kinh tế nước ta là do hoạt đọng của khoa học và công nghệ mang lại . Đúng như Đại hội lần thứ VIII đã đánh giá ‘hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội , thích nghi dần với kinh tế thị trường’.
Bước đầu tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật trong các ngành kinh tế quốc dân, nhất là trong công nghiệp. Vốn đầu tư vào công nghiệp luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư cho khu vực sản xuất vật chất nói riêng và cho nền kinh tế quốc dân nói chung, vì vậy tỷ trọng công nghiệp trong thu nhập quốc dân được nâng lên: 18,2% (1960); 25,3% (1976); 28,1% (1986); 23,0% (1990); 27,9% (1992). Một số ngành, một số công trình, một số sản phẩm có tác dụng quan trọng đến phát triển chung của nền kinh tế quốc dân như điện, khai thác dầu mỏ xi măng, luyện kim đã được chú trọng đầu tư và năng lực sản xuất tăng nhanh qua các năm: Năm 1976 trong cơ cấu giá thị tổng sản lượng công nghiệp ngành điện lực chỉ chiếm 3,66%; cơ khí 9,65%; hoá chất phân bón, cao su:8,26% thì năm 1990 tỷ trọng tương ứng của các ngành đó là: 5,1%; 15,9%; 9,4%.
Thúc đẩy được quá trình thay đổi và phát triển cơ cấu kinh tế từ giản đơn, lạc hậu, trì trệ kém hiệu quả dần dần tiến tới một cơ cấu có nhiều ngành, nhiều thành phần. Lạm phát từ mức 3 con số: 1986 là 587,2%; 1987 là 416,7%; 1988 là 410,9% giảm xuống còn 2 con số: 1989 là 30%; 1990 là 52,8%. Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và đa dạng hoá các loại hình tổ chức kinh doanh: công nghiệp quốc doanh năm 1976 chiếm 68,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp cả nước thì năm 1989 chiếm 57,0%, còn công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 31,4% (1976); 43% (1989). Phát triển nhanh các ngành có lợi thế so sánh, các ngành có tác động tích cực đối với sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân: ngành dầu khí có sự phát triển vượt bậc; ngành than bước vào thị trường thế giới với khối lượng xuất khẩu vượt 1,6 triệu tấn; ngành sản xuất điện phát triển mạnh; ngành dệt và may phát triển khá phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm đã có bước tiến mới góp phần đưa sản lượng gạo xuất khẩu đạt 2 triệu tấn.
Thế nhưng thực chất đội ngũ cán bộ trí thức Việt nam , đặc biệt cán bộ trí thực bậc cao đang là vấn đề cần quan tâm.
+Thứ nhất , sự già hoá của đội ngũ trí thức. Trong các viện và trung tâm khoa học, tuổi bình quân tiến sĩ là 52,8;phó tiến sĩ là 48,1;giáo sư 59,5;cấp viện trưởng là 55, cấp viện phó là 50. như vậy đến năm 200 , hơn 80%số người có học hàm ,học vị sẽ đến tuổi về hưu. Từ đó gây nên tình trạng hẫng hụt cán bộ khoa học kế cận .Với tình trạng này, từ sau năm 200 sự thiếu hụt của nguồn lực cao cấp là một thực trạng đáng báo động.
+Thứ hai ,việc đầu tư cho khoa học và công nghệ cũng như giáo dục đào tạo chưa đủ để phát triển nguồn nhân lực .Chúng ta muốn nhanh tróng trở thành một nước công nghệp , muốn hôi nhập với thế giới phát triển , giáo dục đào tạo nguồn nhân lực , nhân tài phải luôn được coi là quốc sách hàng đầu . Đảng và chính phủ ta đã có những cố gắng lớn tăng nguồn đầu tư tài chính cho giáo dục , đào tạo .Tỉ trọng ngân sách nhà nước chi cho GD -ĐT tăng hàng năm và tăng nhanh trong những năm gần đây , từ 5,83% năm 1986 với mức chi 120 tỉ đồng , đến năm 1990 tăng lên 8,9%với mức chi là 9186 tỉ, và năm 1996 là 70000 tỉ . Tuy vậy tỉ lệ này còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực .
+Thứ ba,cơ cấu nguồn nhân lực cuă nước ta chưa hợp lí 1 đại hoc/1,6 trung học chuyên nghiêp,/3 công nhân(ở các nước trong khu vực tỉ lệ này là 1/4/10)tỉ lệ lao đọng đã qua đào tạo ở nước ta mới chỉ đạt 10%so với tổng số lao động là quá thấp.
+Thứ tư, hiện nay hiện tượng chảy máu chất xám đã và đang xảy ra ngay trong đội ngũ cán bộ trí thức. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận cán bộ khoa học và công nghệ không còn hào hứng với công việc của mình , xin được chuyển sang những ngành không phải được đào tạo, phần lớn là những người trẻ khoẻ(dưới 45 tuổi)và có năng lực
Trong những năm đầu của quá trình đổi mới công nghiệp hoá đã mang sắc thái mới, đã có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và bước đầu đồng bộ hoá, cụ thể hoá bằng cơ chế và chính sách. Do vậy công nghiệp hoá đã được tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện, khả năng trong nước, các tiềm năng, nguồn lực của đất nước bước đầu được khơi dậy, kinh tế phát triển thực chất hơn.
2.1.2 Nhà nước đưa ra những công cụ của mình để CNH-HĐH theo đúng định hướng XHCN
CNH-HĐH nền kinh tế là một xu hướng phát triển tất yếu .Kinh nghiệm và thực tiễn của những nước có nền kinh tế phát triển đã chỉ ra rằng ,quá trình CNH-HĐH nền kinh tế đòi hỏi phải có những tiền đề và điều kiện nhất định về vốn ,khoa học-công nghệ, con người và sự quản lý của nhà nước . Do những đặc điểm và điều kiện của nền kinh tế Việt Nam , quá trrình CNH_HĐH gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn. Chiến lược đó đối với Việt Nam hiện nay là tập trung nỗ lực vào phát triển những ngành cần ít vốn đầu tư , thu hút được nhiều lao động , có khả năng xâm nhập vào thị trường khu vực và quốc tế .Muốn vậy nhà nước phải đề ra một số chính sách kinh tế vĩ mô nhằm phát triển nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH:
-Chính sách thị trường và cơ chế thị trường : Từng bước đổi mới hệ thống tín dụng ngân hàng , đa dạng hoá các hình thức huy động tiền nhàn dỗi trong xã hội với lãI suất linh hoạt theo nguyên tắc thương mại.Xúc tiến thành lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam , trước hêt là ở các thành phố lớn Hà Nội ,thành phố Hồ Chí Minh.Khai thác tối đa các tiềm lực phát triển kinh tế của đất nước , có sự hỗ trợ thoả đáng về mọi mặt để các nhà sản xuất trong nước đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.Mở rộng thị trường xuất khẩu , khai thác lợi thế so sánh, khuyến khích các doanh nghiệp liên kết trong sản xuất và xuất khẩu.Chính phủ cần chủ động và sẵn sàng can thiệp vào thị trương xuất khẩu bằng các công cụ kinh tế , quyền cấp giấy phép nhằm tăng trưởng xuất khẩu , nâng cao hiệu quả kinh tế trong nước.Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích các nhà kinh doanh trong nước bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất tham gia xuất nhập khẩu .
-Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ :Tăng cường, củng cố tài chính quốc gia thông qua chính sách thuế và thu chi ngân sách hợp lý.Chính sách thuế của nhà nước ta chưa có sự phân biệt rõ ràng đối với sản xuất cho xuất khẩu và sản xuất cho tiêu dùng trong nước . Vì vậy , việc xây dựng biểu thuế ưu tiên cho sản xuất xuất khẩu là một việc làm hết sức cần thiết có ý nghĩa quan trọng hiện nay. Đối với việc nhập khẩu , cần có sự phân biệt giữa nhập phuc vụ sản xuất và phục vụ tiêu dùng nội địa.Nhà nước đang từng bước thay thế chế độ phân phối cô-ta thành chế độ thuế quan để điều tiết cơ cấu xuất nhập khẩuvà hạn chế những tiêu cực trong việc cấp cô-ta trong xuất nhập khẩu;Tăng cường tài chính doanh nghiệp theo hướng khuyến khích và nâng cao khả năng tự tích luỹ của các đơn vị cơ sở ,định hướng bằng những chính sách kinh tế cụ thể , có khuyến khích , có hạn chế rõ ràng , hợp lý trong sở dụng các nguồn tài chính của doanh nghiệp;Mở rộng các hình thức huy động vốn xã hội và vốn nươc ngoài vào phát triển kinh tế .Nhà nước phải có cơ chế và chính sách hợp lý nhằm động viên mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế . trước mắt , cần tập trung phát triển các cơ sở kinh tế theo hình thức đa sở hữu, đảm bảo về tính pháp lý đối với vốn và tá sản của công dân.
- Chính sách kinh tế đối ngoại:Trong bối cảnh kinh tế quốc tế ngày nay, thương mại quốc tế được xem là một “cứu cánh” cho các nước đi sau, chậm phát triển. Một trong những định hướng đúng đắn đối với những nước này là thúc đẩy chiến lược xuất nhập khẩu phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Chiến lược xuất nhập khẩu của mỗi nước được phản ánh trong cơ cấu xuất nhập khẩu cụ thể mà mỗi nước xác định.
Đối với nước ta, định hướng xuất nhập khẩu phải chú ý một số vấn đề sau: Giảm tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô, chưa qua chế biến, tăng dần các sản phẩm đã qua chế biến; Nâng tỷ trọng nhập khẩu thiết bị, công nghệ nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của nền kinh tế hiện đại hoá; Tăng cường kiểm soát xuất - nhập khẩu để một mặt bảo hộ sản xuất trong nước, mặt khác tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
-Chính sách giáo dục và đào tạo:Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước đòi hỏi phải có một lực lượng lao động mạnh cả về số lượng cũng như chất lượng. Để tạo ra lực lượng lao động có chất lượng mới, Nhà nước cần phải có chiến lược toàn diện trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Chiến lược đó phải được thực hiện thông qua các chính sách và giải pháp cụ thể của Nhà nước.
Trong hoàn cảnh hiện nay, trước mắt cần phải làm tốt một số việc sau đây: Phải có chính sách quốc gia trong việc ưu tiên đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo; Tập trung mọi nỗ lực của Nhà nước vào việc đào tạo nhân tài cho đất nước; Tăng cường đầu tư, nâng cấp các cơ sở đào tạo bồi dưỡng hiện có của đất nước; Ưu tiên, khuyến khích những người làm việc trong các cơ quan nghiên cứu đào tạo.
2.1.3 Những thuận lợi và khó khăn của nhà nước đối với CNH-HĐH:
Các mô hình công nghiệp hóa đã hình thành trong lịch sử trước hết tuỳ thuộc vào những điều kiện quốc tế cụ thể của từng thời kỳ lịch sử nhất định. Đồng thời các mô hình này cũng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên, lịch sử cụ thể sẽ tạo ra một mô hình công nghiệp hoá tương ứng với nó. Lịch sử nhân loại cho đến nay đã chứng kiến những mô hình công nghiệp hoá chủ yếu sau đây:
- Mô hình công nghiệp hoá cổ điển của nước Anh và Châu Âu.
- Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu trước những năm 1970.
- Mô hình công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu.
- Mô hình công nghiệp hóa theo hướng hội nhập quốc tế.
Vấn đề của nước ta là chọn lựa cho đúng mô hình CNH-HĐH ,và sau đó việc Việt Nam thực hiện các hành động tham gia vào các tổ chức quốc tế đã đưa đến quyết định chọn một mô hình công nghiệp hoá đúng đắn , đó là mô hình công nghiệp hoá theo hướng hội nhập quốc tế. Đó là bởi vì:
Xu hướng toàn cầu hoá sẽ là xu hướng phát triển có ảnh hưởng nhiều mặt tới sự phát triển của thế giới trong các thập kỷ tới, dù người ta muốn hay không muốn, dù người ta phê phán các mặt hoạt động tiêu cực của nó. Một nền kinh tế toàn cầu, một thị trường toàn cầu không biên giới đang xuất hiện với những hình ảnh phôi thai của nó là Liên minh kinh tế châu Âu (EU), khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)v.v..
Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá Xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian qua còn nhiều tồn tại, nhược điểm chủ yếu là:
Thứ nhất là quá trình công nghiệp hoá diễn ra quá chậm.
Thứ hai là phân công lao động xã hội phát triển chậm chạp. Cơ cấu kinh tế thiếu năng động, hiệu quả thấp, chứa đựng nhiều bất hợp lý, nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng. Chưa kết hợp tốt cơ cấu ngành với cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ trong một trạng thái đồng bộ năng động có hiệu quả để thực hiện tốt nhất mục tiêu chung của phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba là trình độ kỹ thuật công nghệ thấp kém, mất cân đối, đổi mới chậm.
Thứ tư là sự nghiệp công nghiệp hoá phải đương đầu với nhiều khó khăn, mâu thuẫn do sai lầm trước đây để lại và do thách thức mới đưa tới. Đó là: Tỷ lệ thất nghiệp còn cao, đời sống thấp, tỷ lệ tích luỹ và đầu tư thấp, sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn về vốn và thị trường
Thứ năm là chúng ta khó lòng có thể chen chân được vào thị trường của các nước phát triển , công nghệ tiên tiên đã bị những nước tiên tiến chiếm hữu .Vì vậy cần phải có những chính sách đúng đắn của nhà nước để chúng ta có thể thu hút được những nhà khoa học , những công nghệ tiên tiến chảy vào nước ta.
2.2 Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH ở nước ta trong thời gian tới:
Xuất phát từ những yêu cầu của quản li nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN, căn cứ vào định hướng xây dựng cơ chế quản lý do đại hội VII đề ra và từ những kinh nghiệm quản lý kinh tế của nhà nhà nước trong cơ chế cũ , có thể xác định những giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với quá trình CNH_HĐH đất nước với những nội dung chủ yếu sau:
-Giữ vững ổn định chính trị xã hội xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thể chế pháp luật , mở rộng quan hệ quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho các cá nhân và pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước được tham gia bình đẳng vào sự nghiệp CNH-HĐH đất nước , cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài được đầu tư thuận lợi vào sản xuất kinh doanh ở nước ta trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi
-Đổi mới công tác kế hoạch hoá , xây dựng hoàn chỉnh các chiến lược và kế hoạch định hướng phát triển công nghiệp và các nghành kinh tế quốc đân; đồng thời phát triển hệ thống thông tin kinh tế , thông tin thị trường để mọi pháp nhân và thể nhân trong cả nước và ngoài nước đều tích cực tham gia vào thực hiện các kế hoạch kinh tế , các chương trình quốc gia về CNH-HĐH .
-Xây dựng hoàn chỉnh và thực hiện nhất quán các chính sách quốc gia nhằm mục tiêu thống nhất và thúc đẩy quá trình CNH_HĐH đất nước.Trong đó cần đặc biệt chú ý các chính sách :chính sách phát triển nguồn nhân lực , chính sách phát triển khoa học công nghệ quốc gia ; chính sách huy động quản lý và sử dụng các nguồn vốn, chính sách tiền tệ tài chính tín dụng,chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh …Đồng thời nhà nước phải sử dụng đúng đắn các công cụ kinh tế như ngân sách nhà nước hỗ trợ miễn giảm thuế , tín dụng ưu đãi ….
-Nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội các hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà nước .Muốn vậy trước hết phải xác định các lĩnh vực , các nghành nhà nước cần đầu tư kinh doanh .Nhà nước cần tập trung vào phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất và đời sống , kinh doanh những hàng hoá và dịch vụ công cộng thiết yếu, đàu tư phát triển các nghành công nghiệp then chốt .Mặt khác phải sắp xếp tổ chức lại các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh , xác định loại doanh nghiệp nào thuộc nghành công nghiệp nào nhà nước cần tiếp tục nắm , loại nào cần chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể ,đồng thời đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh của cơ chế thị trương.Để nâng cao hiệu lưc và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với quá trình CNH-HĐH cần giải quyết tốt hai vấn đề có tính chất cấp bách là cải cách hệ thống bộ máy hành chính quốc gia, xoá bỏ một số thủ tục phiền hà , cửa quyền ,và triệt để loại trừ tệ tham nhũng , làm trong sạch bộ máy nhà nước và lập lại kỉ cương trong quản lý nhà nước.
-Hoàn thiện bộ máy quản lý kinh tế và nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý kinh tế.Cần nhận thức rõ rằng ,Chiến lược trong cạnh tranh quốc tế gay gắt là vấn đế nhân tài..Sự cạnh tranh tổng hợp của một đất nước trong thời đại hiện nay không tách rời khỏi việc bồi dưỡng nhân tài , càng không tách rời việc nâng cao , phát huy năng lực nội sinh . Vì thế công tác cán bộ phải là vấn đền cấp thiết hàng đầu . Người cán bộ phải biết rõ vị trí của mình , trên cơ sở đó phát huy được năng lực cá nhân. Các thế hệ đi trước phải tôn trọng nâng đỡ thậm chí cả học hỏi lớp trẻ , vì công việc chung.Cần nhanh chóng có kế hoạch đào tạo , bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học và quản lý nhấtt là cán bộ đầu đàn .
Kết luận
Hiện nay ở nước ta, tiến trình phát triển lịch sử khắc nghiệt từ trạng thái kinh tế truyền thống,kế hoạch hóa sang trạng thái kinh tế hiện đại bắt buộc người ta phải đụng tới CNH-HĐH dù muốn hay không,vì chỉ có CNH_HĐH mới đưa một đất nước trở thành nước phát triển.
Các nước gọi là phát triển khác hẳn các nước khác chính ở chỗ là đã công nghiệp hoá. Vì công nghiệp hoá vẫn là “chìa khoá của sự phát triển”, là một phương tiện đặc biệt mạnh mẽ để tăng năng suất của con người, qua đó mà tăng số lượng sản phẩm, tính đa dạng và cả chất lượng sản phẩm nữa.
Như vậy , việc thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH không chỉ cho bản thân sự nghiệp đó mà cùng với nó là sự đi lên một trạng thái kinh tế mới,sự hoàn thiện bộ máy nhà nước , sự hoàn chỉnh của hệ thống quản lý xã hội và phát triển con nguòi một cách toàn diện .Đây thực sự là một công việc khó khăn , đòi hỏi sự nỗ lực của cả một dân tộc
Sau khi đọc xong đề tài nay tôi hy vọng bạn đọc sẽ hiểu rõ hơn về vấn đề CNH-HĐH của nước ta hiện nay như thế nào. Và vai rò tất yếu của nhà nước trong quá trình CNH-HĐH.
Tài liệu tham khảo
1.Nghiên cứu lí luân( số 4/1999)
2.văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
3.Tổ chức nhà nước (số 2 /2001)
4.Hồ Chí Minh toàn tập(tập 8, 12).NXB chính trị quốc gia
5.Lí luận chính trị (số 4/2002,số 10/2001)
6.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ IX
7.Tạp chí kinh tế và phát triển
8. Tạp chí cộng sản(số 21/2001)
9. Triết học(số 9/2001)
10.Tạp chí quản lý nhà nước(số 4/1999)
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 1
1.Tính cấp thiết của đề tài : 1
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 2
3.Bố cục đề tài 2
Nội dung 3
Chương 1:Lí luận chung về vai trò của nhà nước Đối với CNH-HĐH 4
1.1.Tính tất yếu khách quan về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH 4
1.1.1.Nội dung CNH-HĐH ở nước ta hiện nay: 4
1.1.2.Tính tất yếu khách quan về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH 6
1.2Vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH 9
1.3 Kinh nghiệm của một số nước về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH 15
Chương 2:thực trạng về vai trò của nhà nước đối với cnh-hđh trong thời gian qua và một số giảI pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà nước đối với cnh-hđh ở nước ta trong thời gian tới 18
2.1 Thực trạng về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH18
2.1.1 Nhà nước thực hiện các các chính sách về kinh tế và xã hội đối với CNH-HĐH: 18
2.1.2 Nhà nước đưa ra những công cụ của mình để CNH-HĐH theo đúng định hướng XHCN 21
2.1.3 Những thuận lợi và khó khăn của nhà nước đối với CNH-HĐH: 24
2.2 Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH ở nước ta trong thời gian tới: 25
Kết luận 28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34623.doc