Bên cạnh những tác động rất tích cực đối với quá trình phát triển kinh tế thì trong một số trường hợp khác, FDI cũng gây ra không ít tác động tiêu cực.
Về vấn đề ô nhiễm môi trường, các nhà kinh tế học đều cho rằng tốc độ gây ô nhiễm môi trường tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là các nước đang phát triển. Sự tăng trưởng các nước này chủ yếu dựa vào khai thác và bán tài nguyên. Do vậy, tốc độ tăng trưởng cao sẽ phải sử dụng, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và những chất thải từ hoạt động sản xuất là nguyên nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường. Hoạt động FDI chủ yếu được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và những chất thải nếu không được xử lý và kiểm soát chặt chẽ sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường.
Hơn nữa, hoạt động FDI ảnh hưởng tới quá trình phát triển đó là vấn đề nhập công nghệ thấp. Trên thực tế, với rất nhiều lợi ích mà các nước đầu tư nhận được khi chuyển giao các công nghệ lạc hậu như: đem lại nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu công nghệ, việc chuyển giao công nghệ cũ lạc hậu có thể kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm trong khi các nước tiếp nhận đầu tư đang tự biến mình thành những bãi rác thải công nghệ.
44 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 997 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thu hút FDI cho phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.2.1. Dân số và nguồn nhân lực của vùng
Nguồn nhân lực là yếu tố đầu vào quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của vùng. Nguồn nhân lực càng dồi dào, chất lượng nguồn nhân lực càng cao thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư đầu tư vào vùng.
Vùng KTTĐ Bắc Bộ có thế mạnh nổi trội về nguồn nhân lực, tập trung lượng dân khá đông, nguồn nhân lực dồi dào. Vùng là nơi có nguồn nhân lực có trình độ cao nhất cả nước.. Số lao động đã qua đào tạo của vùng chiếm 35% lao động cả nước và tập trung nhiều nhất các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, cơ sở dạy nghề được coi là cao nhất trong 3 vùng KTTĐ, lao động của vùng được coi có trình độ cao hơn so với các vùng khác.
Nguồn nhân lực của vùng chiếm khoảng 16.34% dân số cả nước. Trong đó, Hà Nội là thành phố đông dân nhất, trên 3 triệu dân. Tám tỉnh thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ có nguồn nhân lực dồi dào, năng suất lao động khá cao, chất lượng đào tạo nhân lực cao nhất cả nước. Đây là điều kiện thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, giúp vùng có khả năng thu hút vốn đầu tư FDI.
Bảng 1: Cơ cấu lao động theo trình độ của 3 vùng KTTĐ
Đơn vị: %
Vùng KTTĐ Bắc Bộ
Vùng KTTĐ Miền Trung
Vùng KTTĐ phía Nam
Cả nước
Trung học chuyên nghiệp
23,4
6,6
12,6
100
Cao đẳng, ĐH và trên ĐH
30,5
8,5
22,6
100
1.2.2. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng của vùng vừa thể hiện mức độ phát triển của vùng nhưng đồng thời cũng tác động đến khả năng thu hút vốn đầu tư
Cơ sở hạ tầng bao gồm những yếu tố thuộc về tài sản vật chất như: đường sá, cầu cống, trường trạm, khu chế xuất, khu công nghiệp phục vụ cho quá trình sản xuất
Giao thông trong vùng rất phát triển. Vùng có sân bay quốc tế Nội Bài, Cát Bi, sân bay ở Quảng Nin; đường quốc lộ lớn: quốc lộ 1A, quốc lộ 5các cảng biển lớn như: cảng Hải Phòng và cảng Cái Lân hoạt động với công suất lớn giúp cho việc vận chuyển hàng hóa nhanh nhất và chi phí thấp nhất, làm giảm chi phí sản xuất cho các nhà sản xuất và tạo lợi nhuận lớn.
1.2.3 Bối cảnh quốc tế và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước
Hiện nay xu thế mà các quốc gia đang hướng đến là hòa bình, ổn định, hợp tác để phát triển. Khu vực kinh tế châu Á – Thái Bình Dương là khu vực phát triển kinh tế năng động nhất. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do thương mại sẽ được đẩy mạnh, đầu tư, lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng được mở rộng. Xu thế này sẽ làm dịch chuyển nguồn vốn đầu tư từ nước này sang nước khác, từ vùng này sang vùng khác.
Việc nước ta mở cửa hội nhập với nền kinh tế quốc tế mà đặc biệt là Việt Nam gia nhập WTO có tác động mạnh mẽ đến tình hình thu hút vốn đầu tư vào nước ta nói chung và vùng KTTĐ Bắc Bộ nói riêng.
Khi trở thành viên của WTO thì các khuôn khổ chính sách đầu tư sẽ có tính bền vững hơn, bên cạnh đó là một thị trường mở góp phần làm cho hệ thống chính sách cũng như luật pháp của nước ta phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Đây chính là điều mà các nhà đầu tư mong muốn và họ sẽ đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam.
Đồng thời việc gia nhập WTO cũng làm đa dạng hóa các nhà đầu tư vào vùng cũng như đa dạng hóa các ngành nghề, và lĩnh vực thu hút đầu tư vào vùng. Vùng sẽ thu hút đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng mà trước đây chưa khuyến khích các nhà đầu tư như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, năng lượng
2. Nhân tố không thuận lợi
Bên cạnh những nhân tố thuận lợi, vùng còn tồn tại những điểm hạn chế và chính những điều này đã làm hạn chế khả năng thu hút FDI vào phát triển kinh tế của vùng
Thứ nhất, mặc dù vùng tập trung nguồn lao động khá đông, nhưng vẫn diễn ra tình trạng lao động thiếu tay nghề cao, phong cách và thói quen làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài. Người lao động vẫn chưa thực sự làm quen với tác phong công nghiệp, tư tưởng và phương thức làm việc vẫn mang nặng tư tưởng của nông dân.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, thô sơ chưa xứng với yêu cầu phát triển của vùng.Vùng còn thiếu nhiều các đường cao tốc nối liền Hà Nội với các tỉnh lân cận. Ví dụ, 6 trục giao thông xuyên tâm của Hà Nội còn kém, chưa có trục nào là đường cao tốc, các cửa ngõ ra vào thành phố liên tục bị ùn tắc. Hệ thống cảng biển phục vụ xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế. Cảng Hải Phòng mỗi năm bốc xếp 14 triệu hàng hóa, đã đạt đến ngưỡng và hoạt động hết công suất. Trong tương lai, khi nhu cầu tăng lên hàng chục, hàng trăm triệu tấn mỗi năm thì hệ thống cảng biển hiện nay của vùng sẽ trở nên quá tải.
Thứ ba, việc gia nhập WTO cũng có những tác động bất lợi tới khả năng thu hút vốn FDI vì nó đặt nền kinh tế trước sự cạnh tranh mạnh mẽ với các nước trong khu vực và các nước thành viên của WTO. Do vậy, các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần phải có những thay đổi và tạo mới các chính sách ưu đãi phù hợp để khuyến khích các nhà đầu tư. Nhưng sự thay đổi này không thể diễn ra trong một sớm một chiều mà là cả một quá trình và cần có thời gian. Điều này tạo tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư trong việc tạo ra quyết định đầu tư trong thời gian có sự thay đổi lớn trong chính sách.
Thực trạng thu hút FDI vào khu vực KTTĐ Bắc Bộ
1. Quy mô nguồn vốn FDI
Nước ta là một nước đang phát triển, chính vì vậy mà nguồn nội lực để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế. Vậy nên nguồn vốn đầu tư huy động trực tiếp từ nước ngoài là bổ sung cần thiết và quan trọng để đáp ứng nhu cầu phát triển vùng.
Từ 1988 – 2005 toàn vùng đã thu hút được 1543 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 18049,1 triệu $ chiếm 27,8% so với cả nước, trong đó vốn pháp định FDI là 6378,6 triệu $ chiếm 26,2 % so với cả nước. Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và Vĩnh Phúc là những địa phương có nhiều dự án FDI nhất trong vùng, trong đó Hà Nội có 816 dự án (FDI: 4248,6 triệu $); Hải Phòng 232 dự án ( 820,2 triệu $); Quảng Ninh 125 dự án (363,4 triệu $); Vĩnh Phúc 111 dự án (275,5 triệu $).
Trong thời gian qua, nước ta nói chung và vùng KTTĐ Bắc Bộ nói riêng đã có những biện pháp nhắm tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, mà tình hình huy động nguồn vốn này trong thời gian qua ở Việt Nam nói chung và vùng KTTĐ nói riêng đã đạt được những kết quả đáng kể. Lượng FDI thu hút vào vùng liên tục tăng qua các năm. Điều đó thể hiện rõ nét qua bảng sau:
Bảng 2: Quy mô nguồn vốn FDI của vùng KTTĐ Bắc Bộ
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
2001-2005
2006
2007
Cả nước
TĐBB
Cả nước
TĐBB
Cả nước
TĐBB
Tổng số
240,44
52,93
398,9
78,6
466,71
90,19
Vốn ĐTNN
39,9
11,12
57,6
17,3
67,5
21,69
%
16,6
21
14,44
22
14,46
24,05
Nguồn: Bộ Kế hoach đầu tư
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, lượng FDI bình quân giai đoạn 2001-2005 của vùng chỉ là 11,12 nghìn tỷ đồng, chiếm 27,87% tổng lượng FDI thu hút vào cả nước thời kỳ này, và chiếm 21% so với tổng lượng vốn thu hút vào vùng. Nhưng 2006, lượng vốn này tăng lên 17,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 22% tổng lượng vốn đầu tư vào vùng, tức là tăng 55,58% giai đoạn 2001-2005 tương ứng là 6,8 nghìn tỷ đồng. Đến năm 2007, lượng vốn FDI tăng đột biến, lượng FDI vào vùng là 21,69 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,05 trong tổng nguồn vốn đầu tư của vùng và chiếm 32,13% tổng lượng vốn FDI của cả nước.Tức là tăng 25,38% so với 2006, tương ứng là 4,39 nghìn tỷ đồng.
Tốc độ FDI của vùng giai đoạn 2006-2007 tăng cao hơn tốc độ tăng của cả nước. Việc gia tăng của nguồn vốn FDI này không những khắc phục được tình trạng sụt giảm tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài của cả nước ( giai đoạn 2001-2005, tỷ lệ FDI của cả nước là 16.6%, năm 2006 là 14,44%; 14,46% năm 2007 ). Mà còn bổ sung được nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu phát triển của vùng.
2. Thu hút vốn vào sản xuất kinh doanh các khu công nghiệp
Giai đoạn qua, số lượng doanh nghiệp trong vùng tăng lên nhanh chóng khoảng 17%/năm. Nhiều doanh nghiệp ở các địa phương đang dần lớn mạnh, mở rộng quy mô sản xuất, đóng góp không nhỏ vào phát triển kinh tế và ngân sách của tỉnh và thành phố. Đến năm 2005, toàn vùng có 23426 doanh nghiệp đang hoạt động ( chiếm 25,5% tổng số doanh nghiệp trong cả nước). Tổng số vốn sản xuất kinh doanh hàng năm của các doanh nghiệp trong vùng là 378,5 nghìn tỷ đồng ( chiếm 19,3% so với cả nước). Doanh thu thuần của các doanh nghiệp là 451,1 nghìn tỷ đồng.
Địa phương có số lượng doanh nghiệp nhiều nhất là Hà Nội (15068 DN); Hải Phòng (2625 DN); Hà Tây(1260 DN); Quảng Ninh (1202 DN). Các doanh nghiệp có vốn đầu tư lớn hơn 200 tỷ đồng tập trung chủ yếu là Hà Nội ( 241 DN); Hải Phòng (43 DN); Quảng Ninh (29 DN).
2.1. Cơ cấu nguồn vốn FDI theo lãnh thổ
Tuy các tỉnh và địa phương trong vùng có những điểm tương đồng nhất định về điều kiện kinh tế - xã hội nhưng mỗi tỉnh lại có tiềm năng thế mạnh riêng nên khả năng thu hút FDI vào mỗi tỉnh là khác nhau. Nguồn vốn này tập trung vào một số tỉnh, địa phương có điều kiện thuận lợi. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài của các tỉnh được thể hiện qua bảng:
Bảng 3: Nguồn vốn đầu tư vào vùng phân theo tỉnh giai đoạn 2001-2006
Đơn vị: tỷ $
Số DA
Vốn FDI
% so với vùng
Hà Nội
949
4,6
61,7
Vĩnh Phúc
134
0,35
4,7
Bắc Ninh
67
0,161
2,14
Hà Tây
76
0,47
6,3
Hải Dương
135
0,47
6,3
Hải Phòng
266
0,89
11,93
Hưng Yên
88
0,14
18,8
Quảng Ninh
135
0,38
5,1
Tổng
1850
7,46
100
(Nguồn: Xử lý số liệu từ Niên giám thống kê 2001-2006)
Vùng KTTĐ Bắc Bộ, tính đến năm 2006 có 1850 DA có vốn FDI còn hiệu lực với tổng vốn FDI thu hút vào là 7,46 tỷ $. Tuy nhiên khả năng thu hút giữa các tỉnh là khác nhau.
Từ bảng số liệu ta thấy, Hà Nội là tỉnh đứng đầu về thu hút nguồn vốn FDI trong giai đoạn qua, với 949 DA, thu hút 4.6 tỷ $, chiếm 61,6% so với toàn vùng. Và đứng cuối cùng trong bảng xếp hạng là Hưng Yên, với 88 DA, và rất khiêm tốn chỉ chiếm 5,1% trong toàn vùng
Tại Hà Nội, đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố có xu hướng gia tăng. Dự kiến trong quý I/2008, Hà Nội thu hút được 72 dự án với tổng số vốn đăng ký lên đến 584,8 triệu $, trong đó cấp mới là 67 dự án với vốn đăng ký là 542 triệu $ so với cùng kỳ năm ngoái, số dự án bằng nhau nhưng số vốn đầu tư tăng 162%.
Biểu đồ 1: Cơ cấu nguồn vốn FDI phân theo địa phương giai đoạn 2001-2006
Cơ cấu nguồn vốn FDI theo ngành
Trong thời gian qua, FDI thu hút vào vùng được chú trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Lượng vốn đầu tư vào hai ngành này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng. Cơ cấu đầu tư năm 2007 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4: Cơ cấu nguồn vốn FDI theo ngành của vùng KTTĐ BB năm 2007
Đơn vị:%
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Tỷ trọng
1,7
50,6
47,7
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Dựa vào bảng ta nhận thấy, lượng vốn đầu tư FDI trong lĩnh vực công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (50,6%), chủ yếu thông qua hình thức đầu tư vào các KCN – KCX.
Kế đến là lượng vốn FDI đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ (47,7%), chủ yếu tập trung vào các ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểmVà cuối cùng, thấp nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, chỉ chiếm 1,7% tổng lượng vốn đầu tư vào vùng. Chủ yếu ở lĩnh vực chế biến và nuôi trồng thủy sản, hải sản.
Đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư FDI
Những kết quả đạt được.
Cùng với cơ chế quản lý đặc biệt và cơ sở hạ tầng ngày càng được cải thiện nâng cấp, các khu công nghiệp đã thực sự thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp đầu tư vào vùng là các doanh nghiệp liên doanh liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ngày càng gia tăng. Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của các dự án đầu tư nước ngoài tập trung vào các ngành đòi hỏi nhiều lao động, và có tỷ lệ xuất khẩu cao như dệt may, công nghiệp chế biến thực phẩm. Trong các vùng kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là khu vực thuận lợi về cơ sở hạ tầng cho phát triển công nghiệp cũng như trao đổi với các nước có thị trường tiêu thụ sản phẩm lớn nên thu hút được nhiều dự án vào khu công nghiệp . Do vậy, trong thời gian qua, nước ta nói chung và vùng KTTĐ Bắc Bộ nói riêng đã có những biện pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, tình hình sử dụng nguồn vốn này trong thời gian qua đã đạt được những kết quả sau:
Làm tăng quy mô và tốc độ phát triển kinh tế của vùng
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế chung của cả nước, nền kinh tế của vùng cũng đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Về quy mô, vùng KTTĐ Bắc Bộ có quy mô đứng thứ hai trong cả vùng KTTĐ, là nơi có nền kinh tế - văn hóa phát triển của cả nước. Nền kinh tế của vùng không ngừng tăng trưởng. Quy mô kinh tế của vùng KTTĐ Bắc Bộ so với cả nước được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 5: Tỷ trọng đóng góp vào GDP của vùng KTTĐ giai đoạn 2001-2005
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
2001
2002
2003
2005
2006
2007
Cả nước
481,3
535,8
613,4
837,9
983,6
1076,5
Vùng KTTĐ BB
81,53
93,18
112,3
162,13
206,56
241,47
Tỷ trọng của vùng so với cả nước(%)
16,94
17,39
18,31
19,35
21
22,43
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư
Trong thời gian qua, tỷ trọng đóng góp của vùng vào GDP của cả nước tăng đều qua các năm. Theo số liệu bảng trên, giai đoạn 1996-2001, tỷ trọng GDP của vùng so với cả nước chỉ đạt 14.39% nhưng sang giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng này tăng lên đến 18.33%, tức là tăng 4.28% so với giai đoạn trước. Tỷ trọng này tăng lên đến 21% năm 2006 và đến 2007 là 22.43%. Năm 2007, GDP của vùng tăng 16.9% so với năm 2006, tương ứng là 34.91 tỷ đồng. Tỷ trọng đóng góp của vùng vào GDP có xu hướng tăng dần qua các năm. Đây là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế của vùng có sự tăng trưởng, các ngành kinh tế trong vùng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Đây là dấu hiệu của việc huy động hiệu quả nguồn vốn đầu tư vào vùng.
Biểu đồ 2: Đóng góp GDP của vùng KTTĐ Bắc Bộ vào cả nước
Về tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong những năm qua, vùng đã có sự tăng trưởng nhanh, là động lực cơ bản cho nền kinh tế của cả miền Bắc. Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2001-2005 đạt 8.6%/năm, bằng 1.06 lần so với tốc độ tăng trưởng của vùng đồng bằng sông Hồng và bằng 1.15 lần so với cả nước. Trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 13.2%, gấp 1.5 lần so với tốc độ tăng bình quân chung của cả nước.
Như vậy, trong thời gian qua, quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng có thể nói là khả quan, sự phát triển của vùng đã góp phần tích cực cho sự phát triển chung của cả nước.
Đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu ngành
Cơ cấu kinh tế của vùng KTTĐ Bắc Bộ, nhìn chung trong thời gian qua đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa nhanh hơn nhiều so với những vùng khác trong cả nước và đã tạo ra nhiều sản phẩm chủ lực cho phát triển chung của cả miền Bắc nói riêng và cả nước nói chung. Trong cơ cấu ngành, giá trị sản xuất của ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm một tỷ trọng lớn. Điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 6: Cơ cấu ngành kinh tế của vùng KTTĐ Bắc Bộ (2005-2006)
Đơn vị: %
Ngành KT
2005
2006
Công nghiệp
42
42,7
Nông nghiệp
12,6
11,3
Dịch vụ
45,4
46
Nguồn: Xử lý số liệu của Tổng cục Thống kê
Công nghiệp của vùng đa dạng với các ngành nổi bật: lắp ráp điện tử bán dẫn, tin học, nhiệt điện, khai thác than, thép, cơ khí chế tạo, đóng và lắp ráp phương tiện giao thông đường thủy, đường sắt, lắp ráp ô tô, xe máy, hàng tiêu dùng cao cấp, dệt may, da giầy, chế biến thực phẩm rượu bia
Ngành dịch vụ của vùng cũng không ngừng phát triển, đi trước các vùng khác đặc biệt về dịch vụ du lịch, tài chính, ngân hàng phát triển khá nhanh. Các dịch vụ khác như: dịch vụ vận tải hàng hải, dịch vụ hàng không, dịch vụ xây dựng, dịch vụ khách sạn, nhà hàng đều có những bước phát triển, tạo điều kiện thuận lợi kéo theo các ngành sản xuất khác cùng phát triển.Ví dụ, dịch vụ vận tải hàng hải sẽ kéo theo ngành sản xuất và lắp ráp tàu thủy, thuyền bè phát triển; dịch vụ khách sạn, nhà hàng phát triển sẽ kéo theo các ngành công nghiệp xây dựng
Nông nghiệp của vùng thiên về sản xuất hàng hóa, cây công nghiệp, và cây ăn quả. Vùng có những nơi với những nông sản nổi tiếng, là đặc sản chung của vùng như: vải thiều( Hải Dương), nhãn lồng ( Hưng Yên), thâm canh có nơi dạt đến 40-50 triệu/ha.
Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của vùng KTTĐ Bắc Bộ trong thời gian qua được coi là khả quan, phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu của một vùng phát triển, đó là công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp. Công nghiệp và dịch vụ luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP của vùng.
Vùng sử dụng ngày càng hiệu quả cơ sở vật chất
Vùng KTTĐ Bắc Bộ có mạng lưới kết cấu hạ tầng tốt hơn so với các vùng khác ở miền Bắc, trong thời gian qua, kết cấu hạ tầng của vùng đã được nâng lên đáng kể. Các trục giao thông liên vùng cơ bản đã được nâng cấp, xây dựng mới nhiều trục đường giao thông quan trọng, nhờ đó làm thời gian đi lai giảm nhiều so với trước đây. Điều đó giúp cho các doanh nghiệp giảm được chi phí vận chuyển. Ví dụ, nhờ có đầu tư nâng cấp tuyến đường nối Hà Nội – Hải Phòng mà thời gian đi lại từ Hà Nội đến Hải Phòng giảm được khoảng 50%.
Góp phần quan trọng vấn đề giải quyết việc làm và nâng cao mức sống cho người dân
Trong điều kiện thất nghiệp ở Việt Nam còn cao và có xu hướng gia tăng như hiện nay, việc thu hút hàng chục vạn lao động vào các khu công nghiệp, khu chế xuất trong đó có một phần đáng kể là lao động nông thôn, lao động phổ thông là một đóng góp lớn về mặt xã hội
Nhìn chung đời sống của nhân dân trong vùng phát triển hơn nhiều so với các vùng khác. Điều đó thể hiện một phần qua GDP/người. Tỷ lệ GDP/người của vùng KTTĐ Bắc Bộ so với các vùng khác được thể hiện rõ nét qua bảng sau:
Bảng 7: GDP bình quân đầu người của vùng và cả nước giai đoạn 2001-2007
Đơn vị: Triệu đồng/người
Năm
Vùng KTTĐ BB
Cả nước
2001
7,47
6,34
2002
7,96
6,72
2003
9,08
7,49
2004
10,35
7,79
2005
12,08
8,05
2006
14,1
9,25
2007
16,5
11,89
Nguồn: Xử lý số liệu của Tổng cục Thống kê
Đời sống của người dân trong vùng ngày càng cao và cao hơn mức trung bình chung của cả nước, điều đó thể hiện qua GDP/ người không ngừng tăng qua các năm và cao hơn so với cả nước ở cùng thời điểm. Theo số liệu bảng trên, năm 2001 GDP/người của vùng là 7.47 triệu đồng, trong khi cả nước mới chỉ là 6.34 triệu đồng, gấp 1.2 lần so với cả nước. Năm 2006, thu nhập bình quân đầu người của vùng là 14.10 triệu đồng/năm, tăng 50.16% so với bình quân giai đoạn 2001-2005 tương ứng là 4.71 triệu đồng. Đến năm 2007, GDP/người tăng lên 16.5 triệu đồng, gấp 1.5 lần so với cả nước ( cả nước là 11.89 triệu đồng). GDP/người tăng 75.71% so với bình quân giai đoạn 2001-2005 và tăng 17.02% so với năm 2006. Tốc độ tăng của vùng nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng của cả nước(Tốc độ tăng bình quân của vùng là 12%/năm trong khi của cả nước là 4.59%/năm).
Giai đoạn 2006-2007, GDP/người tăng cao hơn hẳn so với giai đoạn trước do nền kinh tế của vùng hoạt động hiệu quả hơn, tạo ra nhiều giá trị hơn. Đây cũng là dấu hiệu của việc gia tăng lượng vốn FDI huy động sử dụng vào các ngành sản xuất, dịch vụ trong vùng. Sự gia tăng tỷ lệ GDP/người phần nào phản ánh hiệu quả của việc huy động và sử dụng vốn đầu tư của vùng ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước.
Hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế
Bên cạnh những kết quả khả quan đạt được, hoạt động thu hút vốn đầu tư FDI của vùng còn nhiều bất cập và hạn chế
Công tác quy hoạch còn thiếu đồng bộ
Trong thời gian qua, số lượng các KCN được thành lập tăng lên nhanh chóng, điều đó phản ánh tiềm năng thu hút đầu tư tại đây. Tuy nhiên đối chiếu với mục tiêu lâu dài của sự nghiệp CNH – HĐH của nước ta hiện nay chưa phải là nhiều. Tuy nhiên điều đáng quan tâm là ở chỗ việc phân bổ các KCN giữa các vùng còn bất hợp lý, thành lập quá nhiều KCN trong một vùng trong khi khả năng thu hút đầu tư còn hạn chế như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.
Nhiều địa phương còn chạy theo phong trào thành lập KCN và thu hút đầu tư vào KCN không phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của vùng, quy hoạch phát triển KCN cả nước. Hơn nữa, công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch chưa ăn khớp với nhau. Nhiều quy hoạch đã được phê duyệt, thậm chí đã đi vào xây dựng kết cấu hạ tầng thì địa phương lại thay đổi quy hoạch về diện tích, gianh giới, làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và hiệu lực của các cơ quan quản lý nhà nước.
Tình trạng tự phát trong công việc thu hút vốn đầu tư còn diễn ra khá phổ biến
Hiện nay đang nổi lên một thực tế là các địa phương ra sức ganh đua, cạnh tranh để thu hút các nguồn vốn đầu tư vào các KCN. Ở địa phương mình, nhiều địa phương đã ban hành những ưu đãi riêng “ xé rào” để thu hút đầu tư làm ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước, thậm chí còn dẫn đến tình trạng chen lấn, ngáng chân nhau, làm giảm hiệu quả hoạt động của các KCN, KCX và không tận dụng được lợi thế của địa phương.
Đại diện cho Bộ Thương mại, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch thống kê Nguyễn Văn Thụ cũng thừa nhận, mối liên kết ngang trong vùng (giữa các tỉnh với nhau) còn lỏng lẻo và tự phát. Ông cho VnExpress biết, 3 lĩnh vực quan trọng nhất cần có sự phối hợp chặt chẽ là quy hoạch, thông tin và quản lý, nhưng các địa phương đều chưa làm được.
Cơ cấu đầu tư trong các KCN còn nhiều bất cập
Trong những năm gần đây, xu hướng đầu tư vào các KCN, của các doanh nghiệp trong và ngoài nước có xu hướng ngày càng tăng. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất cập. Hầu hết các dự án hoạt động trong các khu công nghiệp đều là các dự án công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, tiêu dùng như dệt may, sợi, da giầyCòn các dự án đầu tư vào những ngành công nghiệp nặng hay những ngành đòi hỏi công nghệ tiên tiến hiện đại như điện, điện tử, vật liệu mới còn quá ít. Đây là một vấn đề rất đáng lưu tâm vì nếu không thu hút và phát triển được những ngành đòi hỏi công nghệ cao thì chúng ta mãi mãi là người tụt hậu, và gia công cho nước ngoài.
Mặc dù, hiện nay đã có trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào các KCN Việt Nam, nhưng phần lớn là châu Á ( chiếm gần 80%), còn những quốc gia châu Âu, Bắc Mỹ thì lại khá khiêm tốn. Một trong những nguyên nhân chính là chúng ta chưa có hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ.
Thiếu lao động có trình độ cao
Tuy nhiên, có một nghịch lý đó là: mặc dù đầu vào của các trường đại học, cao đẳng trong vùng luôn cao nhất trong cả nước, nhưng tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp lại thất nghiệp tại vùng cao hơn và có thể nói là cao nhất trong cả nước. Ngoài ra, sau khi ra trường thì năng suất lao động của sinh viên trong vùng lại thấp hơn, mức độ năng động và sáng tạo trong công việc lại kém hơn so với sinh viên các trường phía nam. Đây có lẽ là một bài toán nan giải về bài toán giáo dục của Việt Nam, đào tạo rất nhiều sinh viên cử nhân, kỹ sư nhưng họ lại không có việc làm. Một dấu hỏi được đặt ra ở đây là cơ hội công việc rất nhiều thì tại sao họ lại thất nghiệp nhiều đến như vậy? Có thể giải thích rằng họ không thể đáp ứng được nhu cầu của các nhà tuyển dụng, họ cần những cử nhân có trình độ chuyên môn vững , kỹ sư có tay nghề cao, nhưng sinh viên nhà ta lại không thể đáp ứng được. Vì vậy, đây cũng chính là nguyên nhân khiến các nhà đầu tư còn chưa dám hoặc do dự đầu tư vào Việt Nam, đồng thời người lao động cũng mất đi cơ hội được tiếp cận kỹ thuật mới, hiện đại và nguồn thu nhập tương đối cao.
Quản lý và sử dụng đất trong vùng còn nhiều hạn chế
Trong các KCN ở nước ta hiện nay, việc phát triển hạ tầng kỹ thuật vẫn được tiến hành theo hình thức Nhà nước giao đất cho doanh nghiệp phát triển hạ tầng, thuê đất để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc thuê cơ sở hạ tầng. Doanh nghiệp muốn đầu tư vào KCN phải thuê lại đất đã xây dựng hạ tầng của doanh nghiệp phát triển hạ tầng. Do đó, giá thuê đất tại các KCN, bao gồm giá đất thô cộng với chi phí giải tỏa, chi phí đầu tư phát triển hạ tầng và lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó không tính được quyền cho thuê đất thô( của nhà nước) với quyền cho thuê hạ tầng( của doanh nghiệp phát triển hạ tầng), dẫn đến hiện tượng một số doanh nghiệp đầu cơ đất. Điều này làm cho nhà nước không thể chi phối được giá cho thuê đất, và khi nhà nước có chính sách thu hút bằng việc miễn, giảm tiền thuê đất thì khó có thể can thiệp một cách trực tiếp và cụ thể.
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là việc giải phóng mặt bằng ở các KCN, trong thời gian qua còn nhiều bất cập và hạn chế. Vừa phức tạp, vừa tốn thời gian, tiền bạc nhiều KCN vừa phải mất 2-3 năm mới đền bù giải tỏa xong. Điều này đã đẩy chi phi xây dựng tăng lên, dẫn đến giá cho thuê đất tăng cao, làm giảm tính hấp dẫn của KCN.
Mặt khác, tại các KCN không được xử lý tốt sẽ làm cho môi trường bị ô nhiễm trên diện rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống, sức khỏe con người lao động và nhân dân trong vùng. Tuy nhiên, do sự phát triển các KCN, KCX không đúng quy hoạch, phát triển nóng, thậm chí cạnh tranh nhau không lành mạnh đã làm cho vấn đề ô nhiễm môi trường ở các KCN trở nên nhức nhối.
Cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ của vùng còn nhiều bất cập, thiếu hợp lý.
Nhiều ngành, lĩnh vực mặc dù được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và khuyến khích phát triển, ví dụ như ngành nông nghiệp và lĩnh vực nghiên cứu khoa học.nhưng lượng vốn đầu tư lại rất ít và chiếm tỷ trọng nhỏ. Nguồn vốn FDI chủ yếu tập trung vào những lĩnh vực công nghiệp, nhưng trong nội bộ ngành công nghiệp cũng có những hạn chế. Vốn đầu tư chỉ mới chú trọng tập trung vào những ngành công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động. Tỷ lệ đầu tư vào các ngành công nghệ cao, hiện đại còn thấp, thậm chí có xu hướng giảm.
Nguồn vốn đầu tư phân bố không đều giữa các tỉnh, địa phương trong vùng, dẫn đến sự phát triển của các tỉnh không đồng đều, gây nên sự chênh lệch giữa các tỉnh.
Đời sống của người lao động tại các khu công nghiệp còn khó khăn
Tình trạng thiếu nhà ở, trường học, chợ, trung tâm giải trí cơ sở y tế cho người lao động là phổ biến tại các KCN. Người công nhân tự bươn chải lấy mà sống.
Tình trạng lao động di cư về các KCN, lao động ngoại tỉnh thường phải thuê nhà ở các khu xung quanh các KCN để cư trú với điều kiện tạm bợ, hết sức khó khăn. Với mức lượng trung bình của người công nhân ở các khu công nghiệp là 1,5 triệu đồng/ tháng, số tiền đó họ phải chi cho tiền thuê nhà, chi tiêu tiết kiệm trong ăn uống sinh hoạt chi tiêu hàng ngày mới có thể đảm bảo được cuộc sống ( đó là chưa nói đến những người có con nhỏ). Điều đó ảnh hưởng đến chất lượng làm việc và lâu dài sẽ ảnh hưởng đến chất lượng lao động của lực lượng lao động. Do vậy, những áp lực đối với chính quyền địa phương và nhà nước trong việc cung cấp nhà ở, các công trình công cộng như giao thông, trường học, bệnh viện, nơi vui chơi giải trí.
Vấn đề bảo đảm đời sống văn hóa tinh thần của công nhân các KCN nổi lên như một vấn đề xã hội bức xúc, hiện chưa có giải pháp khả thi. Các thiếu thốn về sinh hoạt văn hóa, thiếu các cơ chế chính sách đầu tư phát triển đời sống văn hóa tinh thần cho công nhân, cộng với bức xúc về mặt xã hội như lương thấp, bảo hiểm xã hội không đầy đủ, thiếu chỗ ở , mất cân bằng giới trong lực lượng lao động đã và đang là vấn đề nổi cộm ở các khu công nghiệp.
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI
CHO VÙNG KTTĐ BẮC BỘ
Mục tiêu, định hướng thu hút FDI vào vùng KTTĐ Bắc Bộ đến 2020.
Quan điểm thu hút đầu tư FDI vào vùng
Trong quá trình phát triển, với những mục tiêu và phương hướng phát triển của vùng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, vùng đã xây dựng một hệ thống các quan điểm thu hút nguồn vốn FDI vào vùng để thực hiện các mục tiêu phát triển đặt ra:
- Tập trung thu hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực tận dụng tối đa nguồn lực của vùng, hướng vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với các mục tiêu xã hội, phát huy tiềm năm và lợi thế so sánh của vùng.
- Trong giai đoạn 2006-2010, tiếp tục quy hoạch đầu tư xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề, tập trung thu hút vốn FDI vào các khu, cụm công nghiệp
-Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình xúc tiến, kêu gọi đầu tư nước ngoài, nhằm thu hút các tập đoàn công nghiệp lớn với công nghệ cao đầu tư vào vùng. Phấn đấu thực hiện mục tiêu đa dạng hóa các nhà đầu tư vào vùng.
- Khuyến khích các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và các tỉnh có điều kiện khó khăn. Đối với ngành nông nghiệp, vùng chủ trương: cần thu hút cho mục tiêu tạo dựng một nền nông nghiệp hàng hóa mạnh, hiệu quả, nông nghiệp là lĩnh vực cần được ưu đãi đầu tư, có kế hoạch chung cho ngành và cụ thể cho từng ngành hàng chủ yếu.
- Tăng cường đối thoại trực tiếp giữa cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn kịp thời trong quá trình đầu tư cũng như sản xuất kinh doanh.
Định hướng thu hút FDI của vùng đến năm 2020.
- Điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn FDI gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế của vùng và xây dựng thành công các ngành, lĩnh vực đột phá theo hướng CNH – HĐH
- Đầu tư vào phát triển khoa học công nghệ để tăng cường năng lực khoa học và công nghệ đủ sức làm chỗ dựa và động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
- Đâu tư thỏa đáng cho phát triển nguồn lực chất lượng cao. Kiên quyết tập trung sức để làm dứt điểm việc đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển của vùng trong điều kiện hội nhập, và đây cũng là điều kiện để tăng cường thu hút nguồn vốn FDI.
- Thu hút nguồn vốn vào phát triển cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường để hạn chế các ngành gây ô nhiễm môi trường, phá hủy môi trường sinh thái, đặc biệt là vùng Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Định hướng thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp sạch, có hàm lượng kỹ thuật cao để không ảnh hưởng đến cảnh quan du lịch và môi trường trong Vùng
- Hướng nguồn vốn FDI vào phát triển cơ sở sản xuất xuất khẩu và tạo nguồn nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu.
- Chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp và sản phẩm công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp với công nghệ hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Thu hút đầu tư vào các ngành dịch vụ, một số loại hình dịch vụ đuổi kịp các nước trong khu vực như bưu chính, viễn thông, tài chính ngân hàng, thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng và dịch vụ nhà ở.
III. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư của vùng KTTĐ Bắc Bộ
Trong thời gian tới, mục tiêu đặt ra cho sự phát triển vùng KTTĐ Bắc Bộ là khá cao. Theo Bộ Kế hoach đầu tư, đến năm 2010: công nghiệp trong Vùng tăng 1,7% trong cơ cấu so với năm 2005. Năm 2020. tỷ lệ này tăng lên đến 4% so với năm 2005. Để đạt được mục tiêu đó thì ngoài việc huy động nguồn vốn trong nước, chúng ta cần huy động một lượng vốn FDI vào vùng là rất lớn, cụ thể theo như dự báo như sau:
Bảng 8: Dự báo nhu cầu vốn đầu tư cần thu hút vào vùng đến năm 2020
Đơn vị: Nghìn tỷ đồng
2008
2009
2010
2020
Tổng số
102,14
112,35
123,59
291,42
Nguồn vốn FDI
27,67
35,97
46,67
110,74
Tỷ lệ FDI (%)
27,09
32,02
37,83
38
Lượng vốn này được phân bổ cho các ngành tương ứng với xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành của vùng, lượng vốn FDI thu hút cho các ngành được dự báo như sau:
Bảng 9: Dự báo nhu cầu FDI cho các ngành của vùng KTTĐ Bắc Bộ
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
2008
2009
2010
2020
Nguồn FDI
27,67
35,97
46,76
110,74
Nông, lâm, thủy sản
2,21
2,75
3,41
4,43
Công nghiệp
11,63
15,24
19,97
49,83
Dịch vụ
13,83
17,98
23,38
56,47
Nguồn: Bộ Kế hoạch đầu tư
Để có những kết quả gần với kết quả dự báo, thì vùng cần có những biện pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn FDI vào phát triển kinh tế trong Vùng.
Các giải pháp
Giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong KTTĐ Bắc Bộ.
Nâng cao chất lượng quy hoạch các KCN.
Quy hoạch KCN phải đảm bảo mối quan hệ gắn kết nhiều chiều giữa quy hoach KCN với quy hoạch ngành, vùng, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội địa phương và cả nước. Quy hoạch phải được tính toán trên cơ sở khai thác tốt nhất, hiệu quả nhất các nguồn lực và lợi thế của vùng trên cơ sở dự báo dài hạn về nhu cầu thị trường và thành tựu mới của khoa học công nghệ.
Xây dựng, phát triển các KCN phải tuân thủ quy hoạch đã được phê duyệt và gắn với việc thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật khu vực. Việc quy hoạch, phát triển các KCN phải đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, đảm bảo tính bền vững trong phát triển. Gắn việc xây dựng chi tiết từng KCN với quy hoạch nhà ở, công trình công cộng phục vụ đời sống của công nhân
Xây dựng và triển khai quy hoạch KCN phải đặc biệt chú trọng tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong các KCN. Thực tế xây dựng KCN thời gian qua cho thấy tầm quan trọng của việc công bố quy hoach, kế hoạch sử dụng đất nhằm cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân, đặc biệt là người dân trong có đất trong vùng quy hoạch. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh với chính quyền xã, phường, thị trấn nơi có đất trong quy hoach KCN, Từ đó, có thể hạn chế tranh chấp, khiếu nại của người dân khi thu hồi đất tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết nhanh việc giải phóng mặt bằng, đền bù. Đây là vấn đề mà hiện nay các KCN không làm được.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện những chính sách đất đai KCN đã áp dụng. Đồng thời, hỗ trợ hơn nữa cho các doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN trong đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng hạ tầng nhằm giảm chi phí đầu tư, giảm giá thuê lại đất, thực hiện mục tiêu thu hút vốn vào KCN. Bên cạnh đó, giải quyết thỏa đáng mối quan hệ về quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng và các doanh nghiệp sản xuất trong các KCN.
Tạo sự liên kết phát triển KCN trong phát triển kinh tế Vùng.
Do sự phân bổ không đều nguồn vốn FDI vào các tỉnh trong vùng, việc này gây lãng phí đất. Vì vậy, tính đến năm 2020, cần phải quy hoạch lại việc bố trí các dự án vào các tỉnh theo hướng:
Đối với các KCN lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh: ưu tiên tập trung thu hút các dự án có trình độ kỹ thuật, công nghệ hiện đại, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, các dự án công nghệ sạch, công nghệ sinh học
Đối với các tỉnh khác như: Hưng Yên, Bắc Ninhcần tập trung ưu tiên thu hút các dự án đầu tư sử dụng nhiều lao động, gia công sản phẩm, dự án công nghiệp công nghiệp phụ trợđể tạo sự cân bằng, đồng đều về phát triển các khu công nghiệp trong vùng.
Trên cơ sở quy hoạch phát triển các KCN được Thủ tướng chính phủ phê duyệt, việc phát triển các KCN trong vùng cần phải xây dựng cơ chế đặc thù để tăng cường sự liên kết vùng và quản lý vùng, phát huy lợi thế so sánh của từng tỉnh trong liên kết chung của vùng. Trước tiên, cần giảm bớt sự tập trung phát triển quá mức vào thành phố Hà Nội bằng cách giãn bớt hoặc di chuyển các KCN sang các vùng lân cận như Hưng Yên, Bắc Ninhđồng thời hoàn thiện cơ sở hạ tầng tại các tỉnh này, giúp tỉnh có thể hòa nhập chung vào sự phát triển của vùng.
Các tỉnh có KCN phải cùng phối hợp, liên kết chặt chẽ với nhau để xác định, phân bố các dự án đầu tư một cách đồng đều vào các tỉnh. Những tỉnh, thành phố nào ưu tiên thu hút các dự án công nghệ cao thì nên xem xét, giới thiệu các dự án có công nghệ thông thường, sử dụng nhiều lao động, đầu tư vào các tỉnh khác trong vùng nhằm đảm bảo sự phát triển hiệu quả của các KCN trong vùng, hạn chế tình trạng mất cân đối giữa các tỉnh.
Tiếp tục xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng, hình thành các khu đô thị vệ tinh bên cạnh các KCN.
Xu hướng xây dựng các KCN, phải gắn liền và đồng bộ khu dân cư, trong đó khu dân cư phải có hệ thống hạ tầng hoàn chỉnh như: trường học, trung tâm thương mại, giải trí, tài chính ngân hàng vì vậy hướng giải quyết đặt ra bao gồm:
- Bố trí quỹ đất hợp lý cho quy hoạch xây dựng nhà ở cho người công nhân và tái định cư. Đến năm 2020, nhu cầu nhà ở cho người lao động, chủ đầu tư và các chuyên gia là rất lớn, vì vậy các tỉnh, thành phố cần bố trí quỹ đất để thực hiện công tác quy hoạch này.
- Xây dựng các trung tâm giải trí, tụ điểm sinh hoạt văn hóa – nghệ thuật cho người lao động như: trung tâm chiếu phim, rạp hátHạn chế các quán nước, trung tâm tự phát của người dân quanh vùng, việc này gây mất mỹ quan, làm ô nhiễm môi trường xung quanh, và trật tự an ninh.
- Xây dựng các trung tâm dịch vụ phục vụ người lao động như: ngân hàng, trung tâm thương mại, internet, dịch vụ y tế.nhằm đảm bảo nhu cầu cơ bản , cần thiết cho người lao động.
- Xây dựng mạng lưới giao thông vận tải công cộng: như các tuyến xe buýt, xe đưa đón nhân viên của công ty để phục vụ việc đi lại nhằm giãn bớt dân, giải quyết vấn đề đông dân cư tập trung ở các khu công nghiệp trong các thành phố lớn.
Bên cạnh đó, trong tương lai chúng ta cần xây dựng hệ thống các khu đô thị vệ tinh cho thành phố Hà Nội. Nhằm chuyển các khu công nghiệp, các nhà máy sang các khu đô thị vệ tinh, từ đó có thể giải quyết vấn đề cấp bách hiện nay cho thành phố Hà nội là tình trạng ùn tắc giao thông vào mỗi giờ tan sở. Mặt khác, điều này cũng giúp cho các tỉnh kém phát triển hòa chung nhịp với toàn vùng.
Hướng tới tập trung đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào các KCN.
Tập trung vào quảng bá hình ảnh đầu tư của Vùng trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua Internet, trên các kênh truyền hình nổi tiếng của thế giới theo hướng có trả phí. Khuyến khích các cơ quan công quyền phối hợp với các cơ quan xúc tiến đầu tư đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư và giới thiệu đầu tư theo quy hoạch đã được phê duyệt.
Phát triển kênh thông tin xúc tiến đầu tư trên Internet như xây dựng nhiều Website giới thiệu về KCN. Trên các website cần công bố công khai quy hoạch KCN, diện tích KCN, bản đồ KCN qua các thời kỳ, số liệu đầu tư, số liệu doanh nghiệp, các chủ trương, chính sách thu hút vốn đầu tư của tỉnh, thành phố
Tiếp tục đẩy mạnh thủ tục hành chính trong việc quản lý và cấp phép đầu tư.
Để tiếp tục đẩy mạnh công tác này, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền cho các địa phương toàn quyền xử lý. Trong quá trình phân cấp, ủy quyền cần thống nhất đầu mối xử lý công việc, tránh sự chồng chéo hoặc ôm đồm giữa các cơ quan liên quan. Bên cạnh đó, công tác cải cách thủ tục hành chính phải kết hợp với cải cách đội ngũ cán bộ, công chức có liên quan theo hướng:
- Tinh giản đội ngũ công chức theo hướng lựa chọn người tài, sa thải người không đủ năng lực, giảm thiểu chế độ làm việc hợp đồng tại cơ quan quản lý nhà nước. Thường xuyên thi tuyển công chức mới để lựa chọn người tài, đủ năng lực.
- Có chế độ đãi ngộ, khuyến khích làm việc như lương, thưởng đối với cán bộ công chức quản lý nhà nước nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, giảm thiều tham nhũng. Bên cạnh đó, tăng cường công tác đào tạo về chuyên môn, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, xúc tiến đầu tưcho các cán bộ.
Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, tạo sự rõ ràng, minh bạch trong việc ban hành các văn bản pháp quy.
Minh bạch hóa hoạt động kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động đầu tư nước ngoaì. Đây là một yếu tố thuộc về “cơ sở hạ tầng mềm” có ảnh hưởng đến ý định và hành vi của các nhà đầu tư. Một trong năm nguyên tắc lớn của WTO là minh bạch hóa chính sách. Tổ chức này nhấn mạnh đến tính rõ ràng, minh bạch, cụ thể, dễ dự đoán của chính sách để giúp các nhà doanh nghiệp nắm được và thực hiện đầu tư.
Banh hành thống nhất các Luật và văn bản hướng dẫn pháp luật về đầu tư, môi trường, tài chínhliên quan hoạt động của các KCN. Chính phủ cần quy định rõ chức năng, trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ quan, bộ, ngành để hạn chế sự chồng chéo, lấn quyền, tập quyền vào một số cơ quan nào đó.
Chuyên viên hóa đội ngũ chuyên gia xây dựng Luật, hướng tới việc xây dựng luật không phải do các chuyên gia của từng bộ, ngành thực hiện mà hình thành các tổ chức chuyên nghiệp xây dựng Luật và các văn bản hướng dẫn luật nhằm đảm bảo tính minh bạch của hệ thống luật.
Xây dựng các trường đào tạo nghề cho người lao động, tập trung vào đào tạo nghề bậc cao để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho Vùng và cho các vùng lân cân.
Song song với việc phát triển các KCN, thì nhu cầu đào tạo lao động lành nghề, đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp trong các KCN đang là một đòi hỏi cấp thiết không chỉ đối với các doanh nghiệp, mà còn là sự phát triển chung của cả xã hội. Vì vậy, từ nay đến năm 2020 vấn đề đào tạo nghề cho người lao động tập trung vào các vấn đề sau:
- Hình thành các trung tâm dạy nghề chuyên sâu, đào tạo nghề bậc cao cho người lao động để có thể đáp ứng được yêu cầu về nhân lực trình độ cao của các doanh nghiệp công nghệ kỹ thuật cao tại các KCN tại Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh Tiến tới năm 2020 đào tạo được những lao động bậc cao thay thế lao động nước ngoài tại Việt Nam.
- Tăng cường phối hợp giữa các trường đào tạo nghề với các trường đại học, viện nghiên cứu nhằm phối hợp đào tạo giữa lý luận và thực tiễn cho người lao động một cách hoàn chỉnh đạt chất lượng cao.Tiến tới xây dựng các trường đại học hướng nghiệp trong vùng.
- Tại các địa phương tập trung nhiều KCN, cần xây dựng một hoặc một vài trường đào tạo nghề để đáp ứng nhu cầu đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động ngay trong địa phương và cung cấp lao động cho các địa phương lân cận.
Một số giải pháp định hướng chung tăng cường thu hút vốn đầu tư
Chính sách khuyến khích đầu tư vào các KCN.
Các chính sách khuyến khích đầu tư vào KCN cần được đồng bộ và nhất quán, bao gồm những nội dung sau:
- Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN.
Nhà nước cần xem xét các chính sach ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển hạ tầng, nhất là cơ chế tạo vốn ( miễn giảm tiền thuê đất, hỗ trợ vốn vay ưu đãi, lới lỏng điều kiện cho vay, khuyến khích huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau). Phí sử dụng hạ tầng có thể xây dựng phù hợp với từng giai đoạn, phù hợp với mức độ hoàn thiện của kết cấu hạ tầng, điều kiện phát triển hạ tầng bên ngoài, trình độ phát triển kinh tế của từng địa phương. Giai đoạn đầu có thể xác định lấy việc thu hút đầu tư trong nước là chính nên mức phí hạ tầng thấp và tăng dần trong những năm sau, nhưng không vượt quá khung giá quy định, tính toán dựa trên: cơ sở vốn đầu tư kết cấu hạ tầng, khả năng chi thuê đất và các chi phí khác.
Quy định các doanh nghiệp đầu tư hạ tầng phải dành một tỷ lệ đất cho thuê để ưu tiên bố trí các doanh nghiệp trong nước ( ví dụ tối thiểu 30% diện tích đất trong vùng cho thuê).
- Chính sách hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào KCN.
Chính sách đất đai: Cải cách thủ tục hành chính trong việc cấp chứng nhận quyền sử dụng đất và các giao dịch liên quan đến đất đai. Thực hiện dứt điểm các vấn đề về bồi thường và giải phóng mặt bằng. Công tác phê duyệt, thẩm định, quy hoạch các KCN ở địa phương phải được các cấp chính quyền có thẩm quyền ở địa phương phê duyệt, song nhất thiết phải có chính sách thu hồi đất sớm tránh tình trạng giá đất tăng theo thời gian và càng để lâu càng khó giải phóng mặt bằng.
Mặt khác phải đảm bảo quyền lợi thống nhất giữa công ty phát triển hạ tầng với doanh nghiệp sản xuất trong các KCN.
Bên cạnh đó, cần phải thống nhất chính sách khuyến khích đầu tư đối với các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế đầu tư vào KCN.
Chính sách tài chính, thuế.
Từ những vướng mắc xoay quanh các chính sách thuế, thuế suất, công tác tổ chức quản lý thu thuế, một số giải pháp nhằm hỗ trợ về thuế cho các doanh nghiệp trong KCN có nội dung như sau:
- Tiếp tục duy trì hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp thông qua hình thức văn bản trả lời vướng mắc về thuế cho các doanh nghiệp, kể cả hình thức trả lời qua điện thoại, tiếp xúc trực tiếp và thư điện tử, tiến tới thành lập trung tâm tư vấn miễn phí cho doanh nghiệp đầu tư vào các KCN.
- Hoàn chỉnh website Cục thuế ở các địa phương giúp cho các doanh nghiệp tiện theo dõi. Mục tiêu đến năm 2010, đại bộ phận doanh nghiệp trong KCN phải hiểu biết đầy đủ các luật thuế và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước.
Song song với các hoạt động trên, việc áp dụng thuế ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ cao, sử dụng công nghệ mới.
- Các dự án đầu tư nước ngoài có quy mô vốn lớn, sử dụng công nghệ mới sản xuất sản phẩm có giá trị tăng cao được khuyến khích bằng cách được hưởng ưu đãi về tài chính, thuế nhiều hơn so với các dự án khác.
- Mở rộng phạm vi và đối tượng cho vay vốn ưu đãi đầu tư, trong đó có đầu tư đổi mới công nghệ (hiện nay mới chỉ có ưu đãi đối với hàng xuất khẩu).
- Các doanh nghiệp tự chủ trong khấu hao tài sản, khấu hao nhanh tài sản cố định để đổi mới công nghệ.
- Ưu tiên cho các doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu, cải tiến kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Quy định thời gian được hoàn thuế trong thời gian ngắn nhất, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất và tiến hành đầu tư theo chiều sâu.
- Khuyến khích sản xuất các phụ tùng linh kiện, tăng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm cơ khí, điện tử.
Chính sách ngân hàng, tiền tệ, quản lý ngoại hối.
Tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt đối với nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Không ngừng hoàn chỉnh pháp chế và chính sách xóa bỏ mọi yếu tố có tính cản trở trong chinh sách cho vay hỗ trợ tài chính Nhà nước, đặc biệt là luật khuyến khích đầu tư nước ngoài. Đồng thời, xóa bỏ những thủ tục mang tính hành chính để khu vực tư nhân dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi của Nhà nước.
Các ngân hàng thương mại cần tiếp tục đổi mới cơ cấu đầu tư, nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp trong KCN. Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển, nên chưa thực sự trở thành một kênh tài trợ vốn cho nền kinh tế, vì vậy kênh ngân hàng vẫn là kênh quan trọng hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp..Đây là một thị trường tín dụng mà các ngân hàng cần quan tâm khai thác. Để thực hiện mục tiêu này, ngân hàng cần phải có kế hoạch huy động vốn trung và dài hạ. Để thực sự xâm nhập vào khu vực các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại có thể thành lập các ngân hàng “con”, hoặc các quỹ cho vay thuộc ngân hàng chuyên hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN.
Nhà nước cần thực hiện những khuôn khổ pháp lý về cho vay, thế chấp, tín dụng cho thuê tài chínhđể giúp các khu vực tư nhân ngày càng tiếp cận hơn với nguồn vốn tín dụng. Duy trì các hình thức cho vay truyền thống và phát triển hình thức tín dụng mới là tín dụng cho thuê tài chính (không ràng buộc thủ tục cho vay thế chấp).
Xây dựng và ban hành luật KCN.
Kinh nghiệm xây dựng KCN thành công ở một số nước châu Á như: Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loanđều ban hành luật KCN, nó tác động chi phối hoạt động trong KCN. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài rất cần thiết một môi trường pháp lý minh bạch, ổn định và có hiệu lực.
Quy chế quản lý doanh nghiệp và đầu tư trong các KCN cần được thể chế hóa thành điều lệ quản lý, tạo điều kiện cho các cơ quan chủ quản nắm tình hình theo dõi, giúp đỡ và kiểm tra thực hiện của các doanh nghiệp, từ quá trình xây lắp đến sản xuất kinh doanh.
Quy định rõ và cụ thể việc phát triển các chương trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội ngoài hàng rào phục vụ hoạt động các KCN. Thực hiện cơ chế đăng ký với thủ tục hành chính đơn giản thay thế cho chế độ xét từng trường hợp cấp phát như hiện nay. Mềm hóa các quy định đối với doanh nghiệp chế xuất, ví dụ có thể coi doanh nghiệp có tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm lớn hơn 70% là doanh nghiệp xuất khẩu.
Cần có những ưu đãi, khuyến khích các ngành sử dụng nguyên liệu trong nước, đổi mới công nghệ.
Mở rộng và linh hoạt hơn việc trao đổi hàng hóa giữa KCN, doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa.
Ma trận SWOT
Cơ hội(O)
- Xu thế hội nhập kinh tế, mở ra nhiều cơ hội
- VN có cơ chế thông thoáng trong CS thu hút FDI.( CS thuế, tài chính)
- Nhà nước hỗ trợ trong việc XDCSHT trong Vùng.
Thách thức (T)
- VN gia nhập WTO nên khả năng cạnh tranh giữa các nước trong việc thu hút FDI lớn.
Điểm mạnh (S)
- Vị trí địa lý thuận lợi (thủ đô Hà Nội,
và tiếp giáp với nhiều nước)
- Tiềm năng về du lịch (Vịnh Hạ Long,
Bãi cháy, Đồ Sơn )
- Vùng có nguồn TNTN phong phú,
trữ lượng lớn(than,cao lanh)
- Nguồn nhân lực dồi dào (chiếm 35%
lao động cả nước)
- Cơ sở hạ tầng khá phát triển: sân bay,
cảng biển, đường quốc lộ..
- Đẩy mạnh xúc tiến thu hút FDI vào phát triển ngành dịch vụ, du lịch.
- Phát triển các ngành công nghệ kỹ thuật cao (điện tử, máy móc)
- Tạo lợi thế so sánh của Vùng so với các vùng khác trong cả nước ( do có nguồn TNTN phong phú, nhân lực dồi dào).
Điểm yếu (W)
- Đội ngũ cán bộ địa phương có trình
độ kém.
- Lao động thiếu tay nghề cao, không có
tác phong công nghiệp
- Cơ sở hạ tầng còn yếu kém
- Quy hoạch vùng thiếu đồng bộ
- Quản lý và sử dụng đất còn hạn chế.
- Tình trạng thu hút tự phát giữa các tỉnh
- Thu hút FDI vào XDCSHT trong Vùng
- Nâng cao chất lượng quy hoạch các KCN.
- Tạo sự liên kết các KCN trong phát triển kinh tế Vùng.
- Đơn giản thủ tục hành chính trong cấp phép đầu tư.
- Hoàn thiện hệ thống luật, tạo minh bạch rõ ràng.
- Xây dựng trường đào tạo nghề cho người lao động
- Thông thoáng trong CS thuế, tài chính.
- Xây dựng ban hành luật KCN.
- Nhà nước có thể đào tạo hộ hoặc gửi cán bộ có trình độ chuyên môn xuống các địa phương trong Vùng.
- Nhà nước tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các KCN trong Vùng.
- Nhà nước ban hành luật quy hoạch KCN, và hỗ trợ các doanh nghiệp trong xây dựng cơ sở hạ tầng doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Giai đoạn 2002-2007 kết thúc, đánh dấu thành công vượt bậc của công tác thu hút vốn đầu tư vào các KCN ở vùng KTTĐ Bắc Bộ đã góp phần thúc đẩy các thành phần, các ngành kinh tế của Vùng phát triển.
Các KCN trong Vùng đã bổ sung nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế xã hội, tạo thêm năng lực sản xuất mới đáp ứng phần nào nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, thu hút được nhiều công nghệ mới góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế tạo tiền đề cho ngành công nghiệp mới ra đời.
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN của Vùng cũng bộc lộ những hạn chế trong công tác quy hoạch, kinh doanh cơ sở hạ tầng, thu hút vốn đầu tư, công tác đền bùNgoài ra, sự phát triển KCN, cũng có những tác động tiêu cực đến xã hội.
Để sự phát triển các KCN trong Vùng ngày càng đạt được những thành tựu rực rỡ, cần phải tiến hành đồng bộ những giải pháp từ cấp chính quyền. Qúa trình thu hút nguồn vốn FDI vào các KCN trong Vùng đã mang lại những kinh nghiệm quý báu cho sự phát triển của các KCN, KCX trong cả nước, và là cơ sở cho Chính phủ hoạch đinh và hoàn chỉnh chính sách phát triển KCN, chính sách thu hút đầu tư trong tương lai, đáp ứng xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.
MỤC LỤC
ĐỀ ÁN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Tên đề tài: Một số giải pháp thu hút FDI cho phát triển vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5980.doc