Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập. Điều kiện tiên quyết để một đất nước phát triển bền vững chính là nội lực bên trong của mình. Tuy nhiên để phát triển với một tốc độ nhanh và mạnh, để có thể bắt kịp các nước phát triển trên thế giới, ngoài nội lực bên trong, nước ta còn cần nhiều sự đầu tư từ các nước phát triển.Với những lợi thế của mình, Việt Nam đã và đang nhận được rất nhiều nguồn vốn gián tiếp lẫn trước tiếp từ nước ngoài, đặc biệt là Nhật Bản. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, tình hình sử dụng các nguồn vốn, nguồn hỗ trợ từ nước ngoài của Việt Nam đã xuất hiện một vài biểu hiện tiêu cực. Hy vọng rằng Nhà nước cũng như Chính phủ sẽ có nhiều giải pháp để ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực đó, để tình hình sử dụng vốn nước ngoài của Việt Nam trở nên tốt hơn nữa, để Việt Nam luôn là điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư, không chỉ riêng Nhật Bản mà còn của nhiều nước khác trên thế giới.
44 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1708 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 cũng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Nhật bản (Nhật Bản là một nước phải nhập khẩu 100% lượng dầu mỏ). Đứng trước tình hình như vậy nước này đã tìm hướng và thiết lập quan hệ ngoại giao với các khu vực khác.
Sang giai đoạn 1977-1988 Nhật càng mở rộng hơn nữa mối quan hệ của mình, để tăng cường ảnh hưởng của mình Nhật đã hệ thống hóa qua các kế hoạch trung hạn cho việc tăng cường viện trợ đến Châu Phi, Châu Mỹ, Trung Đông
Một điều đặc biệt là vào năm 1990 có sự thay đổi về kinh tế ở các nước Đông Nam á, Hàn quốc đã chuyển từ nước nhận ODA sang nước cung cấp, các nước Asean phát triển khá mạnh sắp đuổi kịp các nước công nghiệp mới.Trước tình hình này Chính phủ Nhật bản cho rằng khi nước tiếp nhận ODA đã phát triển rồi thì ODA sẽ cắt giảm để tập trung vào phát triển quan hệ thương mại. Do đó ODA cho các nước này phần lớn chỉ còn dưới dạng cho vay và hỗ trợ kỹ thuật.
Trong thời gian gần đây nền kinh tế Nhật gặp nhiều khó khăn nên tổng ODA của Nhật đã giảm đi, đây là lý do rất chính đáng, nhưng việc cắt giảm này cũng làm ảnh hưởng đến một số nước nhận ODA Nhật Bản.
Tóm lại Nhật Bản luôn dành cho ASEAN những ưu tiên trong cung cấp ODA cũng là điều dễ hiểu như đã nêu ở trên, ngoài ra mục đích của Nhật Bản còn để thu hẹp khoảng cách Bắc-Nam và khai thác thị trường nguyên liệu rẻ, phong phú, nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu dùng dễ tính của Asean...Theo xu thế quốc tế hóa để duy trì vị trí là một trung tâm kinh tế- tài chính của thế giới đòi hỏi Nhật phải tạo cho mình một thị trường tiêu thụ ổn định, Châu á nói chung và Asean nói riêng chính là mục tiêu của Nhật Bản. Như vậy một Châu á phát triển lành mạnh và ổn định sẽ là thị trường lớn cho hàng hóa của Nhật Bản.
Biểu1: Vốn ODA Nhật Bản cho ASEAN 10 vay đến 1998
Đơn vị: Tỷ yên
Nước
Vốn vay
Viện trợ
Hợp tác công nghệ
Tổng cộng
Inđônêxia
3.432,3
189,7
207,4
3.829,4
Philippin
1.772,6
211,6
129,6
2.113,8
Thái Lan
1.665,4
161,4
161,8
1.988,6
Malaysia
754,0
11,9
83,3
849,2
Việt Nam
520,2
77,3
22,1
619,6
Myanma
405,5
159,3
19,1
583,6
Lào
9,1
66,3
18,1
93,5
Campuchia
2,3
54,7
13,1
70,1
Xingapo
12,7
3,1
21,4
37,2
Brunây
0,0
0,0
39,3
39,3
(Nguồn: Bộ ngoại giao Nhật Bản)
4.1.2.Chính sách ưu tiên theo lĩnh vực:
ODA của Nhật Bản tập trung ưu tiên vào các lĩnh vực như là: Giao thông vận tải, năng lượng, y tế, giáo dục..Thúc đẩy nâng cao kỹ thuật và năng suất các ngành nông- lâm- ngư nghiệp
¨Ngành nông nghiệp:ODA nhằm giữ vững sự ổn định về cung cấp lương thực, thực phẩm cho người dân nước sở tại và đặc biệt chú ý tăng sản phẩm gia súc, gia cầm. Đối với các nước đang phát triển thì nông nghiệp được coi là một "ngành công nghiệp chính" vì thế việc thực hiện ổn định lương thực, thực phẩm được các nước cung cấp ODA coi như một tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá sự ổn định về tăng trưởng kinh tế. Do đó ODA Nhật Bản cũng nhằm thúc đẩy nông nghiệp và coi đó là một lĩnh vực ưu tiên trong kế hoạch phát triển kinh tế. Khoản ODA cho lĩnh vực này thường chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng ODA được cung cấp. Ví dụ năm 1993 ODA dành cho nông nghiệp chiếm 8,1%. Trong các nước ASEAN thì Inđônêxia là nước nhận nhiều nhất ODA Nhật Bản ở lĩnh vực nông nghiệp, mà chủ yếu là hỗ trợ cho trang trại chăn nuôi, phát triển nông nghiệp và xây dựng các làng trồng trọt...
Đây là ngành trụ cột ở hầu hết các nước đang phát triển, đặc biệt là trong các nước Asean phần đông dân số vẫn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Phát triển nông nghiệp góp phần rất quan trọng cho việc ổn định an ninh lương thực, thực phẩm ở nước tiếp nhận. Đây chính là tiêu chuẩn chủ đạo để đánh giá sự ổn định về tăng ttrưởng kinh tế cho một nước. ODA của Nhật Bản cho lĩnh vực này thường được thực hiện bằng viện trợ không hoàn lại và viện trợ tín dụng.
¨Lĩnh vực y tế: ODA sử dụng nhằm nâng cao sức khỏe của người dân, hỗ trợ xây dựng, nâng cấp bệnh viện, cung cấp máy móc y tế hiện đại...Thường ở dạng viện trợ không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật. Năm 1993 Nhật bản dành 14% tổng ODA cho y tế, trong đó 53,6% của số viện trợ này đưa vào Châu á. Ngoài ra Nhật Bản còn đóng góp vào các tổ chức quốc tế cho phong trào chống AIDS của toàn thế giới.
¨Giáo dục: Đây là lĩnh vực được các nước thực hiện ODA quan tâm và được coi như là phương tiện để thúc đẩy sự phát triển xã hội và nền kinh tế của nước nhận tài trợ. ở lĩnh vực này Nhật Bản thường thực hiện nhiều khoản viện trợ không hoàn lại. Ví dụ trong thời gian 1989-1993, ODA Nhật Bản đã giúp xây dựng 380 trường tiểu học và trung học... Đồng thời ODA Nhật còn chú ý vào dạng viện trợ hợp tác kỹ thuật để trang bị cho trường học. Ngoài ra Chính phủ Nhật Bản còn hỗ trợ các tổ chức phi Chính phủ của Nhật trong việc thực hiện các dự án xây dựng trường học cho các nước nhận ODA.
¨Lĩnh vực năng lượng: Nhật Bản chú trọng vào xây dựng các nhà máy điện, công nghệ sản xuất dầu, vì thế ODA của họ thường tập trung vào qui trình công nghệ tiết kiệm năng lượng và giúp các nước nhận ODA sử dụng năng lượng có hiệu quả hơn. Hơn nữa cũng phải ghi nhận kỹ thuật công nghệ làm giảm bớt sự ô nhiễm môi trường của Nhật Bản. ODA dành cho khu vực này từ 1989- 1993 chiếm khoảng 17% trong tổng số các khoản viện trợ và thường là viện trợ tín dụng. Ví dụ trong năm 1993 tổng ODA cho vay dành cho năng lượng là 297,551 tỷ yên chi cho 23 dự án của 9 nước là ấn Độ, Việt Nam, Inđônêxia, Thái Lan, Bangladesh, Malaysia, Trung Quốc, Sri Lan ca và Iran.
¨Giao thông vận tải: Nhật Bản quan tâm khá nhiều đến lĩnh vực này, dành 20% lượng ODA cho giao thông vận tải. Phần lớn ngân sách ODA dành cho GTVT là cho vay vì nói chung đều là những dự án được thực hiện ở Châu á (chiếm khoảng 98% trên tổng số ODA dành cho GTVT), trong đó chủ yếu cho các nước ASEAN. Tuy nhiên, Nhật Bản cũng có thực hiện viện trợ không hoàn lại và viện trợ hợp tác kỹ thuật cho lĩnh vực này. Bên cạnh đó ODA Nhật Bản còn quan tâm đến việc giúp đỡ để đào tạo cán bộ kỹ thuật có chuyên môn trong việc quản lý và điều hành hệ thống giao thông vận tải.
¨Truyền thông và viễn thông, ODA Nhật Bản đã tỏ rõ sự quan tâm đặc biệt tới lĩnh vực này, do đặc điểm của thông tin truyền thông có hiệu quả tác động rất lớn tới công nghiệp, thương nghiệp, quản lý nhà nước, giáo dục, văn hóa và nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội vì thế Nhật Bản đã đưa vào Châu á từ năm 1989- 1993 là 78,4% vốn ODA cho vay trong tổng số ODA cho lĩnh vực truyền thông và viễn thông, 50% hệ thống vi sóng phủ 2500km ở Inđônêxia và 76% hệ thống này ở Jakarta được xây dựng từ nguồn ODA của Nhật Bản. Các khoản viện trợ không hoàn lại trong lĩnh vực này thường được đưa đến những vùng hẻo lánh để xây dựng cơ sở vật chất. Còn phần viện trợ hợp tác kỹ thuật được dùng vào việc nhận người đến đào tạo tay nghề tại Nhật Bản. Về lâu
dài ở lĩnh vực này Nhật Bản muốn tăng cường hợp tác với các nước nhận tài trợ để đào tạo những cán bộ kỹ thuật có trình độ hiểu biết và quản lý được hệ thống truyền thông hiện đại để thực hiện các cuộc tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật mới.
Biểu2:Vốn vay ODA của Nhật Bản cho bốn nước thành viên ASEANtới 1998
Đơn vị: tỷ yên
Lĩnh vực
Inđônêxia
Philippin
Thái Lan
Malaysia
Tổng
Giao thông
725,2
542,8
681,0
129,4
2.078,4
Năng lượng
616,5
244,7
296,3
372,4
1.529,9
Viễn thông
148,1
50,4
102,8
13,4
314,7
Công nghiệp
110,8
91,8
112,7
75,6
390,9
Nông nghiệp
408,5
138,2
164,8
0,0
711,5
Nghành khác
1.664,6
716,1
326,3
157,3
2.864,3
Tổng
3.673,7
1.784,0
1.683,9
748,1
7.889,7
( Nguồn: Bộ ngoại giao Nhật Bản- 2000)
4.2. Một số thay đổi gần đây về chính sách ODA.
4.2.1. ODA Nhật Bản từ vai trò kinh tế chuyển sang vai trò kinh tế chính trị:
ODA của Nhật Bản đã bước vào một thời kỳ mới, chính sách ODA của Nhật Bản đã nhấn mạnh vào phát triển kinh tế của các nước đang phát triển cho đến tận giữa những năm 1980, nhưng hiện nay mục tiêu và vai trò của nó đã được mở rộng hơn. Trong những năm 80, nền kinh tế Nhật Bản có được khoản thặng dư về tài khoản hiện hành khổng lồ và Nhật Bản bị đòi hỏi phải chuyển các khoản thặng dư này trở lại cho các nước đang phát triển. Cũng gần như cùng thời gian đó, vấn đề nợ lũy tiến đã nổi lên chủ yếu ở các nước Mỹ La Tinh. Toàn bộ hệ thống tài chính quốc tế sẽ bị đe dọa nếu như cộng đồng thế giới ở vào tình trạng phải đương đầu xử trí một cách thích đáng đối với cuộc khủng hoảng nợ này. Với tình hình tài chính như vậy, việc tái chu chuyển lượng tiền mặt tới các nước đang phát triển của Nhật Bản thực chất là sự cung cấp hàng hóa cho cộng đồng quốc tế, có nghĩa là làm ổn định hệ thống tài chính quốc tế.
Liên quan đến vấn đề trên Nhật Bản đã quyết định sẽ tăng những đóng góp của họ đối với các tổ chức tài chính đa phương và các tổ chức tài chính cùng với viện trợ của Nhật Bản hoặc các khoản cho vay và trợ cấp tương ứng. Trong giai đoạn này, chính sách viện trợ của Nhật Bản đã có một sự thay đổi đáng kể, nó bao gồm những mục tiêu và qui mô rộng lớn hơn, nhấn mạnh một cách rõ ràng vai trò toàn cầu và quốc tế của Nhật Bản. Do tác động của cuộc chiến tranh vùng Vịnh nổ ra ở Trung Đông vào 1990, chính sách viện trợ của Nhật Bản đã phát triển xa hơn những nguyên tắc cơ bản của nó, có tính đến cả các nền kinh tế chính trị. Hiến chương về viện trợ phát triển chính thức được hình thành từ tháng 6/1992 đã khẳng định, về mặt nguyên lý của nó, không chỉ nhằm vào các mục tiêu kinh tế mà còn nỗ lực nhằm tạo ra một xã hội đảm bảo tự do, quyền con người và nền dân chủ là những điều kiện tiên quyết. Về những nguyên tắc của viện trợ phát triển chính thức, bản Hiến chương cũng đã trích dẫn bốn điểm sau đây:
Sự tương ứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường
Không sử dụng quĩ viện trợ phục vụ cho các mục đích quân sự hoặc khuyến khích các cuộc xung đột quốc tế
Quan tâm thích đáng tới những xu hướng trong chi tiêu về mặt quân sự, phát triển hoặc chế tạo vũ khí phá hủy lớn, nhập khẩu và xuất khẩu vũ khí ở các nước nhận viện trợ.
Quan tâm thích đáng tới việc khuyến khích dân chủ hóa, những nỗ lực nhằm thực hiện một nền kinh tế hướng vào thị trường, và duy trì các quyền con người cơ bản tự do.
4.2.2.Điều chỉnh chính sách ODA trước những thay đổi trong nền kinh tế của Nhật Bản:
Trong những năm gần đây nền kinh tế Nhật Bản gặp rất nhiều khó khăn, hiện tượng suy thoái kéo dài, vì vậy đã có ảnh hưởng đến chính sách viện trợ ODA của Nhật Bản. Một loạt các biện pháp khuyến khích kinh tế dựa trên cơ sở những chi tiêu về tài chính và suy thoái kinh tế kéo dài làm cho thâm hụt ngân sách tăng lên một cách nhanh chóng. Tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP danh nghĩa đã vượt quá con số 6%, các khoản nợ trong và ngoài nước so với GDP danh nghĩa đạt tới 90%, đây là con số cao nhất trong các nước phát triển. Vì vậy, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định cắt giảm 10% tổng nguồn ODA của mình trong năm tài khóa 2003. Những thay đổi quan trọng tập trung vào tín dụng ODA. JBIC đã đưa ra chính sách trung hạn trong cung cấp ODA cho các nước đang phát triển đặc biệt là các nước trong ASEAN với một số nội dung chính như sau:
* Các mục tiêu trọng tâm của ODA Nhật Bản.
- Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế.Về lĩnh vực này quan tâm đến những vấn đề sau:
Hỗ trợ cho lĩnh vực tài chính và tài khóa.
Thúc đẩy công nghiệp và thương mại quốc tế.
Hỗ trợ xây dựng hệ thống luật pháp và quản lý
Hỗ trợ cho việc gia nhập WTO.
-Xây dựng và cải thiện cơ sở hạ tầng cho các lĩnh vực: Điện năng, giao thông vận tải và viễn thông
Tập trung ưu tiên cho việc xây dựng các kế hoạch phát triển các nhà máy điện, cải tiến mạng lưới truyền tải và phân phối điện.
Hỗ trợ xây dựng hệ thống giao thông vận tải.
Ưu tiên phát triển hệ thống mạng lưới thông tin và công nghệ viễn thông c.Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Giáo dục sức khỏe và dịch vụ y tế.Trong lĩnh vực giáo dục, tập trung vào giáo dục tiểu học. Tiếp tục đa dạng hóa hợp tác trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng, cải tiến phương pháp chữa bệnh.
Bảo vệ môi trường. Trong lĩnh vực này ưu tiên theo các hướng sau:
Bảo vệ môi trường tự nhiên đặc biệt là bảo vệ rừng.
Bảo vệ môi trường ở đô thị.
Chương II :Vai trò của ODA Nhật Bản với nền kinh tế Việt Nam
I. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Việt Nam.
1. ODA của Nhật bản với Việt Nam.
Việt Nam và Nhật Bản chính thức lập quan hệ ngoại giao ngày 21/9/1973; Năm 1992, Nhật Bản quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam-Nhật Bản phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực và đã bước sang giai đoạn mới về chất và đi vào chiều sâu. Các mối quan hệ kinh tế chính trị, giao lưu văn hóa không ngừng được mở rộng; đã hình thành khuôn khổ quan hệ ở tầm vĩ mô; sự hiểu biết giữa hai nước không ngừng được tăng lên.
Nhật Bản bắt đầu cung cấp ODA cho Việt Nam vào năm 1975. Tuy nhiên trước 1975 chính phủ Nhật bản cũng đã cung cấp tín dụng ODA cho chính quyền Sài Gòn với khối lượng rất nhỏ bên cạnh khoản bồi thường chiến tranh trị giá 13 tỷ Yên. Sau một thời gian dài thực hiện chính sách "đóng băng" đến 1992 Nhật Bản nối lại hoàn toàn viện trợ cho Việt Nam, ODA của Nhật Bản tăng dần và hiện nay đang đứng đầu các nhà tài trợ cho Việt Nam kể từ 1995.
1.1.Giai đoạn 1975-1978:
Trong giai đoạn này hoạt động ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam chỉ gồm các khoản viện trợ không hoàn lại dưới dạng máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hóa.
Trong hai năm 1975-1976, chính phủ Nhật Bản quyết định cung cấp viện trợ không hoàn lại đầu tiên cho Việt Nam thông qua việc cung cấp máy đào, xúc, san nền trị giá 8,5 tỷ yên. Sang năm 1976, Nhật Bản tiếp tục tài trợ không hoàn lại cho Việt Nam 5 tỷ yên dưới hình thức cung cấp thiết bị và nguyên liệu cho một nhà máy sản xuất xi măng có tổng trị giá là 5 tỷ yên. Tổng số 13,5 tỷ yên này là không lớn và theo các nhà nghiên cứu khoản viện trợ này chính là khoản bồi thường chiến tranh cho Việt Nam, mà có lẽ nó phải được thực hiện trước đó rất lâu. Mặc dù khi các nhà kinh tế đưa ra những nhận định như trên Chính phủ Nhật Bản không chính thức thừa nhận như vậy. Song điều quan trọng hơn cả là chương trình tài trợ trong hai năm 1975-1976 đã có ý nghĩa như là điểm mốc đánh dấu sự khởi đầu cho mối quan hệ Nhật- Việt.
Tháng 4/ 1978, Chính phủ Nhật Bản tài trợ không hoàn lại số thiết bị và hàng hóa (sợi bông, sợi tổng hợp, thiết bị phân phối điện) trị giá 4 tỷ yên cho Chính phủ Việt Nam. Đồng thời Nhật Bản muốn gắn trách nhiệm hoàn trả 15,5 tỷ yên mà chính quyền Sài Gòn vay trước đó cho Chính phủ Việt Nam. Sau hai năm thương lượng, bàn cãi, cuối cùng hai nước cũng đã đạt đến một thoả thuận, ký kết một ghi nhớ về "hoàn trả tín dụng và nợ". Sau khi bản ghi nhớ này được ký kết tình hình diễn ra rất thuận lợi. Tháng 7/1978 một khoản tín dụng hàng hóa 10 tỷ yên cho Chính Phủ Việt Nam đã được thực hiện dưới dạng phân bón, sợi, thiết bị điện tử, dụng cụ sản xuất, thuốc, xi măng, hóa chất và cao su.Thế nhưng việc Việt Nam giúp nhân dân Campuchia tiến hành cuộc chiến tranh xóa bỏ chế độ diệt chủng Pônpốt là lý do trì hoãn việc cung cấp ODA của Nhật Bản cho Việt Nam.
Biểu 12:ODA Nhật Bản dành cho Việt Nam giai đoạn 1975-1978:
Đơn vị: tỷ yên
Năm
Tài trợ không hoàn lại
Tài trợ tín dụng
1975
8,5
0
1976
5
0
1977
0
0
1978
4
10
( Nguồn: Japan Annual Report : 1978)
Như vậy trong 4 năm tổng ODA Nhật Bản cho Việt Nam chỉ đạt 27,5 tỷ yên, con số này rất thấp so với 3 nước đã nêu trên. Điều này chứng tỏ giai đoạn đầu cung cấp ODA cho Việt Nam, Nhật Bản rất "dè chừng" có rất nhiều lý do giải thích nhưng lý do khách quan nhất là bởi vì Việt Nam vừa mới thống nhất, nền kinh tế còn nghèo nàn, Nhật bản chưa rõ hướng đi của Việt Nam, vì vậy Nhật Bản chưa tin tưởng vào sức phát triển của Việt Nam trong tương lai.
1.2. Giai đoạn 1979- 1991.
Chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách "đóng băng" hoạt động cung cấp ODA cho Việt Nam. Tuy nhiên trong suốt giai đoạn này, Nhật Bản vẫn duy trì cung cấp cho Việt Nam thông qua các khoản viện trợ nhân đạo với khối lượng rất nhỏ. Thực chất các khoản viện trợ nhân đạo này mang tính chất "duy trì" các quan hệ ngoại giao nhiều hơn. Dẫu sao thì các khoản viện trợ nhân đạo và việc duy trì các cuộc tiếp xúc ngoại giao giữa hai nước trong suốt hơn một thập kỷ trước khi nối lại viện trợ ODA chính thức vẫn là những chất xúc tác làm ấm một phần quan hệ song phương vốn bị lạnh cóng do chính sách "đóng băng" của Nhật Bản.
1.3.Giai đoạn 1992 đến nay:
Đây được coi là giai đoạn phát triển nhất trong suốt quá trình thực hiện ODA của Nhật Bản tại Việt Nam. Nhật Bản và ASEAN có mối quan hệ khá khăng khít về mọi mặt kinh tế- chính trị- văn hóa xã hội. Bộ trưởng ngoại giao Nhật còn tuyên bố trong chuyến đi thăm Inđônêxia rằng "Nhật Bản chỉ nối lại tài trợ cho Việt Nam sau khi tham khảo ý kiến của ASEAN ". Trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu 90 đã có những cuộc thăm viếng đều đặn của lãnh đạo hai nước, điều này thể hiện thiện chí và nỗ lực của cả hai phía nhằm nối lại hoạt động cung cấp ODA cho Việt Nam. Từ 1992-2000 viện trợ của Nhật Bản cho Việt Nam gia tăng đều đặn, tổng gía trị ODA đạt 744 tỷ yên (số cam kết), giá trị này gồm vốn vay ODA: 525 tỷ yên; viện trợ không hoàn lại: 59 tỷ yên; hỗ trợ kỹ thuật: 33 tỷ yên. Chương trình hỗ trợ cho Việt Nam đặt ưu tiên để tạo điều kiện phát triển bền vững và hỗ trợ xóa đói giảm nghèo. Để theo đuổi mục tiêu trên, đã đề ra năm lĩnh vực ưu tiên như sau:
Phát triển nguồn nhân lực và thể chế.
Phát triển cơ sở hạ tầng.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn
Phát triển giáo dục và y tế.
Bảo vệ môi trường.
Với việc hoạch định rõ ràng năm lĩnh vực như trên vào năm 1992 Nhật Bản tài trợ cho Việt Nam tổng số là 46,7 tỷ yên, đưa Nhật Bản lên vị trí số 1 trong số các nước cung cấp viện trợ ODA cho Việt Nam. Trong đó tài trợ không hoàn lại là 1,2 tỷ yên và tài trợ tín dụng là 45,5 tỷ yên. Một số dự án lớn được cấp tài trợ không hoàn lại là: Dự án phục hồi và nâng cấp bệnh viện Chợ Rẫy- thành phố Hồ Chí Minh: 840 triệu yên; dự án cung cấp thiết bị y tế cho bệnh viện Hai Bà Trưng Hà Nội: 351 triệu yên; dự án trồng rừng ở Đắc Lắc: 333 triệu yên; dự án cung cấp thiết bị thể dục cho bộ văn hóa: 49 triệu yên; và 4 dự án nhỏ khác trị giá 14 triệu yên.
Năm 1993 có tổng số 16 dự án- chương trình được nhận tài trợ ODA của Nhật Bản.Trong đó có 8 dự án được cấp tín dụng đó là: Xây dựng nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ (giai đoạn I): 26942; xây dựng nhà máy nhiệt điện Phả Lại: 730; Xây dựng nhà máy thủy điện Hàm Thuận- Đa Mi: 1463; Nâng cấp đường quốc lộ số I (giai đoạn I): 3870; khôi phục cầu trên tuyến đường sắt Hà Nội- thành phố Hồ Chí Minh (giai đoạnI): 4042; Nâng cấp cảng Hải Phòng (giai đoạn I): 3975; Tín dụng hàng hóa: 2500. Ngoài ra có 8 dự án được nhận viện trợ không hoàn lại: Tiếp tục khôi phục và nâng cấp bệnh viện chợ Rẫy: 803; cải thiện hệ thống cung cấp nước ở khu vực Gia Lâm- Hà Nội (giai đoạnI): 984; cung cấp thiết bị dạy học cho khoa Nông nghiệp thuộc Đại học Cần Thơ: 788; cải thiện hệ thống cung cấp nước khu vực Gia Lâm- Hà Nội (giai đoạnII): 65; Tài trợ không dự án: 3000; cải thiện thiết bị y tế cho thành phố Hà Nội: 565; các dự án nhỏ khác: 19 (Đơn vị : triệu yên).
Năm 1994 tổng tài trợ không hoàn lại là 79,64 ttriệu USD. Tài trợ tín dụng vẫn tiếp tục cung cấp cho các dự án từ năm trước. Trong đó có 9 dự án nhận tài trợ không hoàn lại với tổng trị giá là 5672 triệu yên: Tiếp tục khôi phục và nâng cấp bệnh viện Chợ Rẫy: 877; cải thiện thíêt bị y tế cho bệnh viện Hà Nội: 1126; cải thiện hệ thống cung cấp nước cho khu vực Gia Lâm- Hà Nội (giai đoạnIII): 1512; xây dựng các trường tiểu học (giai đoạn I): 1446; xây dựng cảng cá Vũng Tàu: 379; cung cấp thiết bị âm nhạc cho nhạc viện Hà Nội: 43; cung cấp hệ thống thực nghiệm ngôn ngữ cho đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh: 42; một số dự án nhỏ khác: 12 (Đơn vị: triệu yên).
Từ năm 1995 đến nay Chính phủ Nhật Bản đã tài trợ không hoàn lại cho Việt Nam với tổng trị giá là : 11947 triệu yên. Phân bổ cho xây dựng cảng cá Vũng Tàu (giai đoạnII): 238 triệu yên; dự án tiêm chủng mở rộng toàn quốc. Đồng thời là khoản tín dụng 70 tỷ yên để xây dựng các công trình thuộc hạ tầng kinh tế. Nhật Bản luôn đứng ở vị trí số một trong số các nhà tài trợ ODA cho Việt Nam.
Biểu13:Tổng ODA của Nhật Bản cho Việt Nam giai đoạn 1992 – 2000
Cần phải nhấn mạnh rằng, những thành công trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, trên thực tế đã tạo ra một hình ảnh tích cực và một niềm tin cho các đối tác của Việt Nam, trong đó có Nhật Bản. Thêm vào đó là việc Việt Nam thực hiện chính cách đổi mới, mở cửa nền kinh tế, đa phương hóa trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Đây là chính sách mang tính hai mặt hỗ trợ cho nhau. Mở rộng đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại là một chính sách phù hợp với xu thế của toàn cầu hóa đang diễn ra trên thế giới, bởi chính hướng đi này đã phá tan chính sách bao vây cấm vận từ bên ngoài, thiết lập từng bước quan hệ hiểu biết và phụ thuộc lẫn nhau tạo môi trường thuận lợi để hợp tác phát triển kinh tế.
2. Những thành tựu đạt được từ nguồn ODA của Nhật Bản.
Kể từ khi chính thức nối lại viện trợ cho Việt Nam vào năm 1992. Nhật Bản đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế thị trường cũng như vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Đất nước. Tính theo tổng vốn ODA, Nhật Bản trở thành nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam kể từ năm 1995. Đồng thời với quan hệ hợp tác kinh tế Nhật Bản, Việt Nam cũng trở thành nước tiếp nhận viện trợ chiến lược quan trọng nhất. Tính theo số liệu giải ngân dòng, Việt Nam đứng vào hàng thứ tư (Sau Inđônêxia, Trung Quốc và Thái Lan) trong các nước tiếp nhận ODA của Nhật Bản vào năm 1999 và đứng thứ hai sau Inđônêxia vào năm 2000.
Từ năm 1992 đến nay, ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đạt gần 14 tỷ USD, chiếm 30% tổng ODA của cộng đồng quốc tế cam kết với Việt Nam. Đặc biệt từ năm 2005 tới nay, tổng số viện trợ ODA của Nhật Bản luôn đạt hơn 100 tỷ yên mỗi năm. Từ năm 2001, Nhật Bản cắt giảm 10% ngân sách ODA nhưng vẫn giữ và tăng kim ngạch ODA cho Việt Nam. Năm 2003, mặc dù cắt giảm 5,8% ODA cho các nước nói chung, nhưng ODA cho Việt Nam vẫn là 91,7 tỷ yên, giảm khoảng 1.2% so với năm 2002. ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đến năm 2007 là 1492,5 tỷ yên, trong đó có các khoản cho vay là 1291,1 tỷ yên, cấp viện trợ là 123,8 tỷ yên và hợp tác kỹ thuật là 77,6 tỷ yên. Năm 2007, ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam chiếm khoảng 20% tổng ODA cho Việt Nam.
Cơ cấu vốn ODA được Nhật Bản cung cấp cho Việt Nam từ 1991 - 2007
Nguồn vốn ODA của Nhật Bản trong những năm qua đã góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. ODA được sử dụng trong nhiều lĩnh vực:từ cơ sở hạ tầng kinh tế đến hạ tầng xã hội (Các nghành công nghiệp, nông nghiệp , tài chính tín dụng) nâng cấp và xây dựng mới hàng loạt các dự án có qui mô lớn trong các lĩnh vực giao thông, điện, thủy lợi, cấp thoát nước, y tế, giáo dục đào tạo. Một loạt các đường quốc lộ ( QL15, QL18, QL10, QL 10, QL1A) được xây dựng và đưa vào sử dụng đem lại hiệu quả kinh tế rất cao. Bên cạnh đó cải cách hầu hết các loại hình đào tạo chủ yếu: Tiểu học, trung học, cao đẳng, đại học, dạy nghề, cải thiện các dịch vụ y tế, kế hoạch hóa gia đình, phát triển dân số, cải tạo và phát triển các nhà máy cấp thoát nước ở hầu hết các thành phố, thị xã... Đó là những lĩnh vực đầu tư có tính "xúc tác" vừa có tác dụng trước mắt, đồng thời là cơ sở lâu dài cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật Bản chú trọng hơn vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn nhờ vậy đã góp phần gia tăng sản lượng nông nghiệp với nhịp độ phát triển tương đối cao trong thời gian qua
Thông qua viện trợ không hoàn lại Chính phủ Nhật Bản đã giúp Việt Nam xây dựng một số công trình hạ tầng kinh tế- xã hội có qui mô lớn như: Khôi phục bệnh viện chợ Rẫy, xây dựng cảng cá Cát Lở (Vũng Tàu), nâng cấp bệnh viện Bạch Mai, xây dựng hệ thống cấp nước Gia Lâm, xây dựng các cầu nhỏ ở nông thôn, xây dựng hơn 200 trường tiểu học vùng bão, mở rộng hệ thống cấp nước tỉnh Hải Dương, xây dựng hệ thống thủy lợi Tân Chi, xây dựng trung tâm hợp tác nguồn nhân lực tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh...
Với các dự án hợp tác kỹ thuật, Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ lập các qui hoạch tổng thể phát triển các nghành như: điện lực, giao thông, nghiên cứu khả thi, lập thiết kế chi tiết, khảo sát về môi trường... Đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý tại Nhật Bản, cử chuyên gia tư vấn, cán bộ tình nguyện...Trong những năm gần đây,Chính phủ Nhật Bản chú trọng sử dụng hỗ trợ kỹ thuật để hỗ trợ quá trình chuyển đổi kinh tế, xây dựng pháp luật, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, tăng cường năng lực thể chế...
Về tín dụng ưu đãi, kể từ khi Chính phủ Nhật Bản chính thức nối lại việc cung cấp ODA cho Việt Nam tháng 11/1992 cho đến năm 2001, hai Chính phủ đã ký 69 hiệp định vay tín dụng ưu đãi của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC). Tổng số tín dụng, bao gồm cả tín dụng ưu đãi thường niên và tín dụng đặc biệt đồng Yên, tín dụng Miyazawa mà phía Nhật Bản đã cam kết cho đến nay là 726,3 tỷ Yên. Trong số đó 45,5 tỷ Yên tín dụng bắc cầu để thanh toán nợ cũ (của chính quyền Sài Gòn), phần còn lại để triển khai thực hiện 38 công trình và chương trình phát triển kinh tế lớn của nước ta trong các lĩnh vực chủ yếu sau: Năng lượng (xây dựng các nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 1, nhiệt điện Phả Lại 2, cụm thủy điện Hàm Thuận- Đami, nhiệt điện Ô môn, phục hồi các nhà máy nhiệt điện Cần Thơ và thủy điện Đa Nhim, xây dựng đường dây tải điện 500 KV Phú Mỹ- Nhà Bè- Phú Lâm), Giao thông vận tải.
3. Một số dự án đầu tư nổi bật của Nhật Bản vào Việt Nam:
3.1. Cầu Bãi Cháy
Dự án cầu Bãi Cháy được thực hiện bằng vốn vay ODA Nhật Bản và vốn đối ứng trong nước với tổng mức đầu tư 2.140 tỷ đồng. Dự án do TEDI lập báo cáo nghiên cứu khả thi và được Viện Cầu và Kết cấu Nhật Bản (JBSI) xem xét và hoàn chỉnh lại năm 1997). Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 634/QĐ-TTg ngày 20/7/1998 phê duyệt đầu tư Dự án, sau đó được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Quyết định số 1305/QĐ-TTg ngày 1/10/2001.
Ngày 02 tháng 12 năm 2006, Dự án cầu Bãi Cháy bắc qua eo biển Cửa Lục trên vịnh Hạ Long sau hơn 3 năm xây dựng đã được chính thức cắt băng khánh thành và thông xe. Đây là cây cầu bê tông dự ứng lực một mặt phẳng dây đầu tiên được xây dựng tại Việt Nam, đồng thời, cũng lập kỷ lục thế giới mới về chiều dài nhịp chính đối với kết cấu cầu loại này (435m).
Cầu Bãi Cháy nằm trên Quốc lộ 18 nối liền 2 khu vực trung tâm văn hóa – kinh tế của tỉnh Quảng Ninh là Hòn Gai và Bãi Cháy. Cầu Bãi Cháy sau khi hoàn thành sẽ thay thế bến phà Bãi Cháy hiện tại, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông nội đô thành phố Hạ Long và nối thông toàn bộ Quốc lộ 18 – trục giao thông huyết mạch của tam giác kinh tế: Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của toàn bộ vùng Đông Bắc đất nước.
3.2. Dự án xây dựng nhà ga hành khách quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất
Dự án này được Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ tài chính trong khuôn khổ vốn vay đặc biệt của Chính phủ Nhật Bản và Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA). Ông Masayuki Karasawa - Trưởng đại diện Văn phòng JICA tại Hà Nội cho rằng: ""Dịch vụ hàng không là ngành có tính cạnh tranh toàn cầu. Nhà ga mới này sẽ cung cấp đầy đủ những dịch vụ để sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất có thể cạnh tranh với các sân bay lớn hiện đại trong khu vực"
JICA đã cung cấp một khoản vay ODA trị giá 22,768 tỷ yên (khoảng 200 triệu USD) cho việc xây dựng, mua sắm trang thiết bị và các dịch vụ tư vấn cho Dự án này. Khoản vay có thời gian trả nợ 40 năm, ân hạn 10 năm. Vốn vay JICA chiếm 85% tổng giá trị đầu tư của dự án, số còn lại được tài trợ từ ngân sách của cơ quan chủ quản là Cụm cảng hàng không miền Nam, thuộc Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Đơn vị thiết kế và giám sát thi công là Công ty Tư vấn sân bay Nhật Bản (JAC) và đơn vị trúng thầu thực hiện dự án (bao gồm cả mua sắm thiết bị và xây lắp) là liên doanh Kajima, Tasei, Obayashi và Maeda.
Ngày 17/12/2007, nhà ga hành khách quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất đã chính thức khánh thành sau 3 tháng hoạt động thử nghiệm.Theo kế hoạch, nhà ga hành khách quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất sẽ hoạt động vào cuối năm 2006. Với diện tích 92.920m2, nhà ga này có đầy đủ trang thiết bị đồng bộ hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế gồm: 10 bộ băng chuyền hành lý, 8 bộ ống lồng đôi dẫn khách dùng cho máy bay cỡ lớn, 8 hệ thống băng tải cho người đi bộ, 20 cầu thang cuốn, 18 thang máy, hệ thống bảng thông tin chuyến bay và hệ thống an ninh.Đây là nhà ga đầu tiên tại Việt Nam có hệ thống phân loại hành lý tự động theo các chuyến bay, giúp hành khách thuận tiện trong việc làm thủ tục (làm thủ tục ở bất cứ quầy nào) và rút ngắn thời gian chuẩn bị cho một chuyến bay
3.3. Hầm qua đèo Hải Vân
Dự án xây dựng Hầm đường bộ qua đèo Hải Vân được Thủ tướng phê duyệt đầu tư tại Quyết định số 905/QĐ-TTg ngày 30/9/1998, được khởi công ngày 27/8/2000 và chính thức bước vào xây dựng tháng 10/2000. Dự án được chia làm 10 gói thầu: 1 gói thầu Tư vấn, 5 gói thầu xây dựng và 4 gói thầu cung cấp lắp đặt thiết bị phục vụ vận hành và khai thác đường hầm. Dự án được đầu tư bằng nguồn vốn vay ODA của Chính phủ Nhật Bản thông qua Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) và vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam do Ban Quản lý dự án 85 thuộc Bộ Giao thông Vận tải làm đại diện Chủ đầu tư.
Đây là hầm đường bộ lớn nhất được xây dựng ở Việt Nam và là một trong 30 hầm lớn và hiện đại nhất của thế giới với hệ thống đường hầm hoàn chỉnh có tổng chiều dài 15,1 km. Hầm Hải Vân được trang bị và lắp đặt các hệ thống thiết bị điện, thông gió... đạt chuẩn của Nhật Bản, Phần Lan với tính năng tự động hóa cao. Tổng vốn đầu tư xây dựng hầm Hải Vân hơn 127,9 triệu USD. Trong đó vốn ODA chiếm hơn 75%.
Việc thông xe công trình hầm đường bộ qua đèo Hải Vân đã cải thiện cơ bản điều kiện giao thông qua lại trên đoạn đường đèo hiểm trở, thường xuyên xảy ra tình trạng ách tắc và tai nạn giao thông; giảm quãng đường phải chạy xe qua đèo từ 22 km xuống còn 10 km bằng tuyến đường hầm an toàn, thuận lợi và hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra, mở đường hầm là tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội của cả nước, nhưng trực tiếp là của miền Trung. Mở đường hầm là điểm đầu và điểm cuối của con đường hành lang Đông - Tây, là con đường mà các nước ASEAN và các nước vùng sông Mê Kông coi đây là một trong những dự án quan trọng.
4.Một số tồn tại trong thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Việt Nam.
4.1.Những tồn tại trong thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Việt Nam
¨Mặc dù Việt Nam được nhận viện trợ ODA từ Nhật Bản khá sớm, nhưng chỉ thực sự bắt đầu có hiệu quả từ năm 1993, vì vậy chúng ta còn phải từng bước vừa làm vừa tự tìm ra lối đi thích hợp cho mình, cho nên thời gian rút vốn thường bị kéo dài, tốc độ giải ngân chậm so với các nước khác trên thế giới. Trong thời gian gần đây mức độ giải ngân ODA có xu hướng tăng lên.
¨ Khó khăn trong việc tiếp nhận nguồn ODA một phần xuất phát từ bên cung cấp viện trợ. Đôi khi nhà tài trợ đặt ra quá nhiều những yêu cầu chi tiết và chuẩn mực trong khi Việt Nam lại vừa mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, chưa có đủ kinh nghiệm tiếp nhận và kỹ thuật cần thiết để đáp ứng những nhu cầu đó. Hoặc thủ tục giải ngân do các nhà tài trợ đề ra khá phức tạp: Các khoản vay đều có ràng buộc về mua sắm, đấu thầu, chọn tư vấn...Đồng thời một số dự án do các nhà tài trợ thiết kế không sát với tình hình thực tế ở Việt Nam, nênphía Việt Nam lại phải mất nhiều thời gian để điều chỉnh cho phù hợp hơn.
¨Ngoài ra những qui trình, thủ tục pháp lý của nước chủ nhà (Việt Nam) và nhà tài trợ có nhiều vấn đề còn "chênh" nhau, nhiều khi phải điều chỉnh nhiều lần mới di đến thống nhất , đặc biệt đối với những vấn đề nhạy cảm như: di dân, tái định cư bắt buộc...
¨ Những nguyên nhân trên làm cho tiến độ giải ngân ODA bị chậm lại; đây là một thiệt thòi trong quá trình vận động nguồn vốn từ nước ngoài khi chúng ta còn trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng, mặt khác còn ảnh hưởng đến niềm tin của các nhà tài trợ về khả năng thu hút vốn ODA của Việt Nam. Do đó việc nâng cao mức độ giải ngân, tăng khả năng hấp thụ nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA đang là vấn đề quan trọng và cấp bách đặt ra trước mắt chúng ta.
¨Ngoài ra quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA ở Việt Nam còn đang mới mẻ, chúng ta vừa học tập- vừa thực hành trong điều kiện có nhiều khác biệt về qui định giữa trong nước và nước ngoài, có nhiều điều khác biệt trong thủ tục cung cấp ODA giữa các nhà tài trợ... chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót trong khâu tiếp nhận và sử dụng ODA nói chung và ODA Nhật Bản nói riêng.
¨Cơ chế quản lý và sử dụng nguồn viện trợ còn nhiều điểm chồng chéo, rườm rà nên đôi lúc dẫn đến tình trạng chậm chễ trong việc thành lập các Ban quản lý dự án. Ví dụ như một dự án thuộc lĩnh vực lâm nghiệp khi đã có hiệu lực ba tháng mà vẫn không mở được tài khoản do thiếu nhân sự, sau 5 tháng dự án này mới rút được một khoản tiền tạm ứng để hoạt động. Hoặc dự án "Xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn" do thiếu cán bộ gửi đi đào tạo nên thời gian triển khai dự án bị chậm lại.
¨Về năng lực và khả năng làm việc của các nhân viên trong môi trường ODA. Theo đánh giá của nhiều nhà phân tích trong và ngoài nước, mặc dù ta đã qua thời gian khá dài tiếp nhận nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, nhưng nhân sự trong công tác điều hành- sử dụng nguồn vốn ODA ở những cấp khác nhau hiện đang thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, họ còn quá yếu so với yêu quốc tế và yêu cầu của các nhà tài trợ. Đây là một vấn đề đã được nhiều người quan tâm xem xét, nhưng tốc độ khắc phục những yếu kém này còn quá chậm. Dẫn đến hậu quả là các khâu trong quá trình tiếp nhận và sử dụng viện trợ đều có những sai lầm lặp lại nhiều lần, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn vay và uy tín của Việt Nam trong việc huy động và tiếp nhận ODA.
4.2.Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình hình này. Có thể chỉ ra một số nguyên nhân cụ thể như sau :
- Một là,Một số giới lãnh đạo của Chính phủ, của chính quyền địa phương và chủ đầu tư có quan điểm nhìn nhận chưa đúng về nguồn vốn tài trợ ODA. Đúng là trong nguồn vốn ODA có một phần là viện trợ không hoàn lại, song phần này chỉ chiếm khoảng 20-30%, phần còn lại là vốn vay. Do thời hạn vay dài, thời hạn ân hạn dài, lãi suất thấp, áp lực trả nợ chỉ phát sinh sau thời gian dài sau này nên dễ tạo nên sự chủ quan trong quyết định, lựa chọn nguồn tài trợ ODA. Ngoài ra, cơ quan đàm phán trực tiếp với nhà tài trợ thường là các bộ, ngành trong Chính phủ nên chủ đầu tư chưa thấy hết tác động của những điều kiện khó khăn mà nhà tài trọ ràng buộc.
- Hai là, “phải quản lý dựa vào kết quả” là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất trong quản lý nguồn ODA, lại không phải luôn có sự đồng tình từ phía các cơ quan chủ quản và chủ đầu tư các DA ODA. Các chuyên gia của Chương trình nâng cao năng lực toàn diện về quản lý ODA tại Việt Nam đã tiến hành thăm dò ý kiến của 24 cơ quan chủ quản và quản lý vốn ODA, kết quả chỉ có 70,2% tán đồng quan điểm trên, số còn lại không đồng ý hoặc không có ý kiến. Điều này cho thấy sự mơ hồ trong nhận thức và phương cách quản lý của một số cơ quan chủ quản.
- Ba là, chưa có chiến lược vận động và sử dụng ODA một cách rõ ràng và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thủ tướng Chính phủ cũng đã giao trách nhiệm hoạch định chiến lược nợ dài hạn, soạn thảo danh mục các chương trình, DA được đầu tư từ nguồn vốn vay nước ngoài hàng năm của quốc gia. Song thiết nghĩ như thế là chưa đủ. Cách thức huy động và đầu tư bằng vốn ODA có những điểm đặc thù rất khác biệt. Do đó, Chính phủ cần phải hoạch định chiến lược vận động sử dụng ODA một cách phù hợp, dù đây là vấn đề khó khăn phụ thuộc phần nhiều vào ý định, khả năng của các nhà tài trợ.
- Bốn là, khuôn khổ thể chế pháp lý chưa hoàn thiện và đồng bộ. Nhìn chung, Chính phủ chưa xây dựng được cơ chế thống nhất giữa nợ trong nước và nợ nước ngoài của quốc gia . Các quy định pháp lý quản lý nợ nói chung, nguồn ODA nói riêng chủ yếu điều chỉnh và kiểm soát các quan hệ trước và trong quá trình đầu tư. Còn giai đoạn sau đầu tư, các chế định pháp lý hầu như còn rất sơ lược, có thể nói là còn bỏ ngỏ.
- Năm là, cơ chế vận động và sử dụng nguồn ODA quá phức tạp liên quan đến nhiều cấp bộ ngành, địa phương. Hơn nữa, điều này còn phụ thuộc vào cách thức của từng nhà tài trợ. Do vậy, một dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA không thành công (không tìm kiếm và vận động được nhà tài trợ, thủ tục chậm, vốn bị thất thoát, công trình vận hành và khai thác không hiệu quả) thường liên quan đến trách nhiệm nhiều cấp, nhiều bộ phận khác nhau. Do vậy, chúng ta gặp khó khăn khi muốn xác định nguyên nhân đích thực để có biện pháp tháo gỡ kịp thời.
- Sáu là, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý ODA - như đã nêu qua ở trên là khá yếu kém chưa đáp ứng được nhu cầu. Năng lực của đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực này ở các bộ ngành còn tương đối khả dĩ do được chuyên môn hóa, được đào tạo bồi dưỡng và có điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin cần thiết một cách thường xuyên.Còn ở các địa phương, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý ODA chưa được chuyên môn hóa, ít được bồi dưỡng và không có điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin chuyên biệt. Nếu có chăng cũng chỉ là cho từng dự án một, trong khi trình độ của cán bộ địa phương lại không đồng đều nên gặp khá nhiều khó khăn. Chẳng hạn ở Bắc Giang, để triển khai một dự án xóa đói giàm nghèo do WB tài trợ, địa phương đã mất hơn 2 năm cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý của cán bộ địa phương.
- Bảy là, vấn đề bất cập trong phân cấp quản lý vốn ODA giữa trung ương và địa phương. Nguồn ODA là của Chính phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế dành cho Việt Nam qua Chính phủ nên Chính phủ phải thống nhất quản lý.Song, rõ ràng Chính phủ không thể trực tiếp quản lý toàn bộ các dự án ODA, nên nhất thiết phải có sự phân cấp cho chính quyền địa phương. Song hiện nay, chúng ta chưa có hệ thống tiêu chí phân cấp rõ ràng, chỉ mới dựa vào qui mô của dự án để quyết định phân cấp: Chính phủ trực tiếp quản lý các DA lớn, còn chính quyền địa phương được phân cấp quản lý một số DA qui mô nhỏ. Sự không rõ ràng trong phân cấp quản lý vốn ODA là một trong những nguyên nhân gây nên sự chậm trễ và đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau giữa các cấp.
II.Triển vọng thu hút ODA nhật bản trong thời gian tới.
Trong tình hình kinh tế xã hội như hiện nay, nhu cầu vốn ODA mà nước ta cần là một lượng rất lớn. Bởi vì xu thế toàn cầu hóa yêu cầu các nước đang phát triển phải đạt tới một trình độ nhất định về mọi mặt như: kinh tế- chính trị- văn hóa- xã hội. Vì vậy trong thời gian nước ta cần một lượng ODA khá lớn để tiếp tục phát triển kinh tế ổn định lâu dài. Tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu này, không chỉ nhờ nguồn ODA Nhật Bản mà cần có sự cung cấp của nhiều nhà tài trợ khác nữa.
Như vậy để phát triển kinh tế- xã hội, Việt Nam chủ trương huy động mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực trong nước có tính chất quyết định, nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quyết định.
Tổng nhu cầu nguồn vốn đầu tư phát triển trong 5 năm 2001-2005 dự kiến khoảng 60 tỷ USD, trong đó nguồn vốn trong nước khoảng 40 tỷ USD, nguồn vốn huy động từ bên ngoài 20 tỷ USD. Trong nguồn vốn ngoài nước, Việt Nam dự kiến thực hiện khoảng 11 tỷ USD FDI và 9 tỷ ODA.Nguồn vốn ODA tiếp tục ưu tiên sử dụng để hỗ trợ đạt được các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ(MDGs), đặc biệt là xóa đói, giảm nghèo, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển thể chế và bảo vệ môi trường...Như vậy, từ nguồn vốn ODA, trong thời kỳ 2001-2005 bình quân hàng năm cần giải ngân khoảng 1,8 tỷ USD. Theo tính toán, để đạt được mức giải ngân này, hàng năm Việt Nam cần có cam kết ODA khoảng trên 2 tỷ USD/năm.
Trong hai năm 2001- 2002, bình quân một năm giải ngân được khoảng 1,5 tỷ USD, mới đạt khoảng 80% nhu cầu giải ngân bình quân một năm thời kỳ 2001-2005. Thực tế này đòi hỏi các cơ quan liên quan Việt Nam cần có các biện pháp có hiệu quả để cải thiện tốt hơn tình hình giải ngân nguồn vốn ODA.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ cùng với các đối tác phát triển nhằm hoàn thiện và đồng bộ hóa các văn bản pháp qui, cải thiện qui trình và thủ tục quản lý, sử dụng ODA.Việc sử dụng ODA sẽ tiếp tục định hướng vào việc thực hiện các mục tiêu sau: dành khoảng 15% vốn ODA cho các ngành nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản, kết hợp với mục tiêu phát triển nông nghiệp- nông thôn và xóa đói giảm nghèo; khoảng 25% cho ngành năng lượng, công nghiệp; khoảng 25% cho ngành giao thông, bưu điện, cấp thoát nước và đô thị. Coi trọng sử dụng nguồn vốn ODA trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, xã hội, y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ và bảo vệ môi trường.
Như vậy trong thời gian tới để giải quyết nhu cầu vốn ODA lớn như vậy đòi hỏi Việt Nam phải có sự nỗ lực hơn nữa để vừa cải thiện môi trường chính sách cũng như đưa ra biện pháp hợp lý để tăng cường khả năng thu hút và sử dụng nguồn ODA ngày càng hiệu quả hơn.
Chương III. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng ODA của Nhật bản ở Việt Nam.
1. Về cơ chế chính sách:
Phải tiến hành xây dựng chính sách tổng thể về quản lý, giám sát vay và trả nợ nước ngoài được hoạch định trong mối tương quan chặt chẽ với các chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô; trong việc quản lý vay và trả nợ Nhật Bản phải tính đến các chỉ tiêu cơ bản về nợ nước Nhật như: Khả năng hấp thụ vốn vay Nhật Bản (tổng số nợ/ GDP); chỉ tiêu khả năng hoàn trả nợ (tổng nghĩa vụ trả nợ/ thu nhập xuất khẩu); chỉ tiêu khả năng vay thêm từng năm.
Phải nhanh chóng hoàn chỉnh các chính sách, chế độ về vay và quản lý vay nợ của Nhật Bản nói riêng và của nước ngoài nói chung.
Hài hòa qui trình và thủ tục ODA là một việc làm rất cần thiết. Bởi vì: Hài hòa trước hết là sự minh bạch về qui trình và thủ tục ODA của cả hai phía- nước tiếp nhận và đối tác tài trợ. Trên cơ sở này, hoạt động hài hòa sẽ diễn ra nhằm tạo ra qui trình và thủ tục ODA thông suốt. Tôn trọng sự đa dạng và tính đặc thù của nhà tài trợ là một yêu cầu đảm bảo tính khả thi của hài hòa qui trình và thủ tục ODA.
Cần rà soát lại định mức, xóa bỏ các định mức lạc hậu, xây dựng các định mức đảm bảo khoa học tiên tiến phù hợp với thực tiễn. Cần xem lại qui trình đấu thầu, xét thầu, giao thầu để giảm sự khác biệt giữa trong và ngoài nước, tuy nhiên nó phải phù hợp với điều kiện Việt Nam, phải đơn giản hóa thủ tục hành chính, không rườm rà, phức tạp ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân ODA .
Quản lý vay nợ cần xác định rõ trách nhiệm của người vay và người sử dụng vốn vay, chống ỷ lại vào Nhà Nước. Đồng thời phải quản lý chất lượng các khoản vay ODA. Đặc biệt là khâu xây dựng dự án; nâng cao trách nhiệm cá nhân (vật chất, hành chính, hình sự...) của người ra quyết định đầu tư. Cụ thể là:
Ban hành các thông tư hướng dẫn thật cụ thể để thực hiện tốt các nghị định của Chính Phủ về quản lý vay và trả nợ nước ngoài, hoàn chỉnh hình thành quĩ tích lũy trả nợ nước ngoài nhằm tạo nguồn trả nợ cho Chính Phủ, đảm bảo trả nợ đúng hạn, không rơi vào nợ chồng chất, không có khả năng thanh toán.
Ban hành các qui chế chung cho vay lại nguồn vốn vay nước ngoài, khuyến khích sự tham gia của các nghành, địa phương, các cơ sở vào khai thác nguồn vốn ODA, nhằm khắc phục tình trạng lộn xộn hiện nay trong xác định các điều kiện cho vay lại.
2. Tổ chức thực hiện:
Xác định rõ trách nhiệm hơn nữa của từng cơ quan quản lý và của người vay vốn ODA trong việc huy động vốn vay và sử dụng, quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại phải được đồng bộ, thống nhất qua đầu mối là Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính thực hiện cho vay lại hoặc ủy quyền cho Ngân hàng Thương mại cho vay theo qui định.Khi xây dựng hạng mục các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư của Nhà nước cần chỉ rõ thứ tự ưu tiên theo từng chương trình, dự án để làm căn cứ vận động vốn vay nước ngoài.
Các nguồn vốn viện trợ cho từng tĩnh vực cần phải phân bố theo trật tự ưu tiên với cơ cấu cụ thể, kết hợp với những khả năng và nhu cầu vốn đối ứng có tính toán cụ thể. Phải xác định rõ vốn đối ứng ngay từ khi bắt đầu, đảm bảo tính khả thi. Nhà nước chỉ bố trí vốn đối ứng cho những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Các dự án còn lại, chủ đầu tư cần có phương án bố trí vốn đối ứng chắc chắn hơn mới đưa vào kế hoạch sử dụng vốn ODA. Đây là vấn đề then chốt cho yêu cầu sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn tài trợ bên ngoài.
Kiện toàn bộ máy quản lý vay và trả nợ trong các cơ quan thực hiện quản lý nợ nước ngoài. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lập và quản lý dự án ở các bộ, nghành. địa phương nhằm đảm bảo khả năng lập kế hoạch, lập dự án và quản lý các dự án của các bộ, nghành. Nâng cao trình độ thẩm định để xét duyệt, quyết định đối với các dự án ngay ở từng bộ, nghành, địa phương cũng như huy động các nguồn vốn đối ứng trong nước nhằm làm cho việc hấp thụ nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả cao hơn nữa.
Tăng cường công tác quản lý, giám sát nợ nước ngoài ngay từ khâu đàm phán, giám sát việc đấu thầu, mua sắm thiết bị, tư vấn, ký kết các hợp đồng, thực hiện rút vốn, sử dụng vốn, quyết toán nợ và bố trí nguồn trả nợ.
Tăng cường hoàn thiện hệ thống thống kê, kế toán về nợ nước ngoài, đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với các đối tác tài trợ để họ hiểu thêm về thể chế điều phối và quản lý vay nợ nước ngoài, nguồn ODA.
Các cơ quan hữu quan Việt Nam hợp tác chặt chẽ với các đối tác trong việc đánh giá định kỳ các chương trình, dự án ODA. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với các nhà tài trợ song phương và đa phương đánh giá thường niên cả gói ODA. Những kết quả đánh giá rất hữu ích đã góp phần nâng cao hiệu quả ODA. Ngoài ra việc chia sẻ thông tin về tình hình thực hiện ODA cũng được cải thiện giữa các cơ quan liên quan Việt Nam và các nhà tài trợ. Bên cạnh đó cần nâng cao năng lực theo dõi và đánh giá dự án của các cơ quan hữu quan Việt Nam.
3. Về sử dụng ODA.
Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế Hoạch và Đầu tư trực tiếp quản lý việc sử dụng nguồn ODA, đồng thời kiên quyết thực hiện nguyên tắc "Ai vay người ấy trả trong khu vực kinh tế Nhà nước".
Sử dụng vốn vay ưu đãi ODA phải coi trọng hiệu quả kinh tế, không được sử dụng hết tất cả các khoản thu nhập ròng đã có mà cần phải giữ lại một phần để hoàn trả lại vốn, lãi kịp thời nhằm đảm bảo uy tín quốc tế.
Lựa chọn lĩnh vực sử dụng vốn ODA trong từng thời kỳ thích hợp để đem lại hiệu quả kinh tế cáo nhất.
Hiện nay ở Việt Nam để nền kinh tế đạt kết quả trên diện rộng dựa vào luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lâu dài thì việc cải thiện cơ sở hạ tầng đã trở thành nhiệm vụ cấp bách. Do đó trong thời kỳ đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam cần tập trung vốn đặc biệt là vốn ưu đãi nước ngoài ODA để đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo nhiều việc làm, các dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước từng thời kỳ phát triển: Nghành điện, xi măng, sắt thép, cấp thoát nước, dầu mỏ, tầu đánh cá xa bờ.
Về lâu dài thì chiến lược sử dụng vốn vay phải theo hướng: Sử dụng vốn vay nước ngoài kết hợp với công cuộc cải cách ngày càng sâu sắc hơn, tăng cường xuất khẩu hàng hóa, điều chỉnh chiến lược thay thế hàng nhập khẩu.
Xây dựng hệ thống kiểm soát, đánh giá việc sử dụng nguồn vốn ODA.
Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã được thẩm định phê duyệt, quán triệt phương châm vốn vay phải được sử dụng toàn bộ vào mục đích đầu tư phát triển, không dùng trang trải nhu cầu tiêu dùng.
Xác định khả năng trả nợ cả gốc và lãi trong tương lai để xây dựng kế hoạch trả nợ các khoản viện trợ tín dụng, đặc biệt là tín dụng ưu đãi trong những năm đầu mới đưa vào sử dụng chưa bộc lộ khó khăn cho người tiếp nhận. Cùng với thời gian, khoản nợ đến hạn phải trả sẽ là gánh nặng cho đơn vị nếu hiệu quả đầu tư không cao. Do đó khi Chính phủ áp dụng những cơ chế tài trợ khác nhau, cho các lĩnh vực khác nhau, cũng đồng nghĩa với việc mỗi ngành, địa phương phải tự xác định hiệu quả sử dụng vốn để có kế hoạch tạo các khoản tích lũy, sau này trả nợ nước ngoài thông qua bộ tài chính
Thủ tục quản lý chặt chẽ, nhưng phải thuận lợi cho người sử dụng trong việc rút vốn và sử dụng vốn. Không gây phiền hà làm giảm tốc độ dải ngân. Phải đặt các hạn mức sử dụng và kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu, theo dõi quá trình thực hiện và quản lý giải ngân dự án. Bộ Tài Chính nên tiếp tục nghiên cứu và ban hành, hướng dẫn về mẫu biểu báo cáo thống nhất, chế độ thông tin, báo cáo định kỳ sử dụng vốn vay của các dự án phải được thực thi nghiêm chỉnh, đặc biệt cho biết cụ thể các khoản do Nhà nước tài trợ trực tiếp (chi chuyên gia, chi đào tạo, khảo sát ở nước ngoài..) đối với từng dự án để Chính phủ nắm bắt cập nhật được đầy đủ thông tin trong và ngoài nước về biến động của những nhân tố có khả năng tác động đến nguồn vốn vay như: giá cả các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất, giá cả thị trường, biến động của thị trường tài chính (về vấn đề tỷ giá chẳng hạn)... để phục vụ cho các hoạt động điều phối và giám sát đánh giá tính hiệu quả của các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA, nhất là việc đánh giá sau dự án, chuẩn bị cho các dự án, chương trình sắp tới. Đồng thời tiến hành xử lý kịp thời và có những quyết định vay vốn thích hợp, linh hoạt, tránh tình trạng lỗ do tác động của các nhân tố khách quan khi dự án đã đi vào hoạt động.
KẾT LUẬN
Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập. Điều kiện tiên quyết để một đất nước phát triển bền vững chính là nội lực bên trong của mình. Tuy nhiên để phát triển với một tốc độ nhanh và mạnh, để có thể bắt kịp các nước phát triển trên thế giới, ngoài nội lực bên trong, nước ta còn cần nhiều sự đầu tư từ các nước phát triển.Với những lợi thế của mình, Việt Nam đã và đang nhận được rất nhiều nguồn vốn gián tiếp lẫn trước tiếp từ nước ngoài, đặc biệt là Nhật Bản. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, tình hình sử dụng các nguồn vốn, nguồn hỗ trợ từ nước ngoài của Việt Nam đã xuất hiện một vài biểu hiện tiêu cực. Hy vọng rằng Nhà nước cũng như Chính phủ sẽ có nhiều giải pháp để ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực đó, để tình hình sử dụng vốn nước ngoài của Việt Nam trở nên tốt hơn nữa, để Việt Nam luôn là điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư, không chỉ riêng Nhật Bản mà còn của nhiều nước khác trên thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25602.doc