Cần sự có mặt của các tổ chức xúc tiến thương mại trong hoạt động thương mại của các doanh nghiệp ở bên trong và bên ngoài đất nước. Trong đó, vai trò của tổ chức này là rất lớn khi tham gia xúc tiến, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam làm công tác xuất, nhập khẩu. Mặc dù đến nay chúng ta đã thành lập được cơ quan quản lý, chịu trách nhiệm về vấn đề này nhưng hiệu quả đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, một phần nguyên nhân là do trình độ quản lý, tổ chức cũ như kiến thức của các quan chức, nhân viên làm công tác này chưa cao, tác phong của họ còn mang nặng tính chất sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tư duy còn quan liêu, hách dịch và bảo thủ; thêm vào đó là trang thiết bị phục vụ công việc và thông tin liên lạc còn yếu, còn thiếu thốn. Như vậy, để hoạt động thương mại diễn ra thông thoáng, thuận lợi; công tác tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng, hiệu quả, buộc chúng ta phải đổi mới, đa dạng hoá loại hình xúc tiến phù hợp với từng vấn đề cần xúc tiến, hỗ trợ; đồng thời phối kết hợp với các cơ quan, bộ phận có liên quan khác cũng làm công việc này và thường xuyên cập nhật thông tin về điều luật, tối huệ quốc và các thủ tục liên quan tới giao dịch, buôn bán quốc tế. Đặc biệt là thông tin về các đối tác muốn làm ăn với Việt Nam và các thị trường tiềm năng cần khai thác, xâm nhập.
27 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế khu vực và xu thế toàn cầu hoá như hiện nay có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. Nó vừa là cơ hội lại vừa là thách thức, cơ hội thì rộng mở nhưng thách thức không ít mà hiện nay bài toán hóc búa, khó giải đang đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam là vừa phải tìm đầu ra cho các sản phẩm của mình ngay tại thị trường trong nước và một số thị trường truyền thống quốc tế. Điều đó có nghĩa là các sản phẩm mà chúng ta sản xuất ra đã và đang đối đầu, cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại có cùng chủng loại nhưng nó có nhiều ưu thế hơn các sản phẩm của ta, do đó mà sức cạnh tranh của các sản phẩm trong nước còn rất yếu; bên cạnh đó các sản phẩm xuất khẩu sang một số thị trường truyền thống quốc tế hiện đang có nhiều thay đổi và ngày càng khó tính hơn. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng phối hợp với chính phủ và các tổ chức có liên quan đưa ra các giải pháp hiệu quả nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm giúp các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh về sản phẩm và từng bước phát triển. Đây là một đòi hỏi cấp bách và cần thiết. Bởi tính cấp thiết như vậy nên em chọn đề tài:
"Một số giải pháp nhằm thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay".
Với kết cấu 3 chương:
Chương I: Lý luận về tiêu thụ sản phẩm.
Chương II: Thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Đề tài đã phản ánh phần nào "bức tranh" tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay và cho chứng ta thấy một số giải pháp tương đối hiệu quả; đồng thời giúp bạn đọc nâng cao tư duy lôgíc giữa lý luân và thực tiễn. Vì thời gian và kiến thức có hạn nên bài viết của tôi không tránh khỏi những sai sót, rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy và từ phía bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn !
Mục lục
Trang
Chương I: Lý luận về tiêu thụ sản phẩm và hàng hoá
I- Những quan điểm về tiêu thụ sản phẩm.
Theo Adam Smith - nhà kinh tế học người Anh thế kỷ 19 cho biết: Hàng hoá được trao đổi giữa người này với người khác là xuất phát từ lòng ích kỷ, nghĩa là họ chỉ muốn giành được thứ mình thích từ người khác do mình không có hoặc có những không hài lòng, cho nên hành vi trao đổi đã được hình thành từ đó. Hình thức trao đổi hàng lấy hàng ít nhiều cũng làm thoả mãn nhu cầu của cong người cho dù nhu câù đó chỉ là bột phát, chưa cần thiết phải đáp ứng.
ở đây tiêu thụ sản phẩm chỉ được hiểu mơ hồ, nôm na là động tác trao đổi hàng với hàng xuất phát từ nhu cầu các nhân. Xét về mặt chủ chuyển hàng hoá trong toàn bộ quá trình sản xuất thì đây là giai đoạn (khâu) cuối của quá trình. Điều đó được hiểu là sản phẩm hàng hoá sau khi được thu lượm hay sản xuất ra đã được chuyển quyền sử dụng từ người này sang người khác theo yêu cầu của họ và ngược lại. Phạm trù sở hữu hàng hoá ở đây còn nhạt mờ mà người ta chỉ hiểu là biết tới nguồn sử dụng (nghĩa là những gì mà người ta không thích nhưng người khác thích có thể đổi lấy những thứ mà người khác không thích nhưng ta lại muốn có).
Xét về mặt bản chất thì đây chính là quá trình thay đổi quyền sở hữu hàng hoá, tài sản của chủ sở hữu, mặc dù động cơ của họ không vì lợi nhuận hay giá trị tăng thêm nào cả.
Còn theo Ricacdo - nhà kinh tế học người Anh cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ông cho rằng: Hàng hoá được con người sản xuất và trao đổi xuất phát từ lợi thế so sánh tương đối. Nghĩa là cùng một hàng hoá A đem so sánh lợi ích của việc sản xuất ra chúng ở hai khu vực I và khu vực II. Nếu lợi ích ở khu vực I lớn hơn lợi ích ở khu vực II thì khu vực I nên tập trung vào sản xuất hàng hoá A, ngược lại khu vực II nên tập trung vào sản xuất hàng hoá B có lợi ích nhiều hơn.
Xét về mặt chi phí sản xuất thì khu vực I sản xuất hàng hoá A có chi phí thấp hơn hàng hoá này khi được sản xuất ở khu vực II. Ngược lại, hàng hoá B được sản xuất có chi phí ở khu vực II rẻ hơn ở khu vực I. Xuất phát từ nhu cầu, hai sản phẩm hàng hoá ở hai khu vực khác nhau có thể trao đổi cho nhau.
Như vậy, ở đây Ricacdo đã đề cập tới giá trị của hàng hoá chứ không chỉ có giá trị sử dụng như quan điểm trao đoỏi sản phẩm của Adam Smith; giá trị hàng hoá theo ông hiểu dưới hình thức giá thành hay chi phí sản xuất bình quân nhiều hơn và việc trao đổi hàng hoá chỉ xảy ra khi xuất hiện nhu cầu và hàng hoá phải có giá thành rẻ hơn. Do đó, tiêu thụ sản phẩm theo Ricacdo được hiểu là động tác trao đổi những hàng hoá có lợi thế về mặt giá trị (giá thành rẻ hơn) và phù hợp với nhu cầu của người cần trao đổi (khách hàng).
Tóm lại, theo hai quan điểm điển hình trên thì tiêu thụ sản phẩm được các ông hiểu chỉ là sự (động tác) trao đổi quyền sử dụng hàng hoá này lấy hàng hoá khác khi xuất hiện nhu cầu và hàng hoá có lợi thế hơn mà chưa đề cập nhiều tới quyền sở hữu và chủ thể sở hữu hàng hoá; thêm vào đó tồn tại hình thức trao đổi hàng - hàng là chủ yếu chưa xuất hiện rõ hình thức trao đổi hàng - tiền - hàng (xét về mặt tiêu dùng); T-H-T' (xét về mặt thương mại).
Nhờ có sự xuất hiện của tiền là một loại hàng hoá đặc biệt, đứng ra làm vật trung gian để trao đổi các hàng hoá khác với nhau, đồng thời trong nền kinh tế thị trường con người đã phân biệt rạch ròi giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu; giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá; do đó, đã hình thành những quan điểm chính thống, hiện đại về tiêu thụ sản phẩm.
- Đối với sản xuất:
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho các nhà thương mại, các nhà kỹ nghệ (người gia công sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm) đồng thời nhận tiền về.
- Đối với nhà thương mại:
Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là quá trình chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho các nhà thương mại khác, cho người tiêu dùng cuối cùng đồng thời thu tiền về.
Xét về mặt bản chất của phạm trù tiêu thụ sản phẩm hàng hoá thì có có các nhà thương mại mới thực hiện trọn vẹn công tác này, trong đó giá trị sản phẩm hàng hoá mới được thực hiện đầy đủ.
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là quá trình chuyển quyền sở hữu sản phẩm hàng hoá từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác, đồng thời giá trị của nó cũng được thực hiện (thu tiền về).
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá chỉ là một khâu cuối cùng của quá trình sản xuất - kinh doanh, về mức độ thì khâu này chưa phải là khâu quan trọng nhất nhưng nó lại chịu ảnh hưởng rất lớn từ kết quả của khâu trước đó, các nhân tố bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp.
2.1. ảnh hưởng của các nhân tố bên trong (nhân tố nội sinh).
Một sản phẩm không thể có chỗ đứng trên thị trường nếu sản phẩm đó không thoả mãn được nhu cầu của thị trường về chất lượng, số lượng, tính an toàn, mẫu mã, chủng loại và giá cả... mà yêu cầu đặt ra đầu tiên và tối thiểu là doanh nghiệp đó phải đủ năng lực sản xuất và bán được số sản phẩm đó. Nghĩa là doanh nghiệp phải tập trung, hội đủ các yếu tố về nguồn lực như: lao động bao gồm lao động quản lý, lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh cả về số lượng lẫn chất lượng; nguồn lực vốn giành cho sản xuất, bán hàng, giành cho các chương trình marketing và các khoản giao dịch khác,...
Lấy ví dụ: Để tiêu thụ sản phẩm trên thị trường truyền thống Cocacola phải tăng cường lực lượng phân phối, xúc tiến bán hàng và các dịch vụ sau bán hàng về mặt chất, nghĩa là phải đầu tư nhiều vào con người và trang thiết bị kèm theo để tăng năng lực phục vụ của họ nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng trong bối cảnh tâm lý tiêu dùng ngày càng có nhiều thay đổi và giao động; đồng thời cập nhật thông tin phản hồi nhanh hơn, chính xác hơn. Điều đó đồng nghĩa với việc phải tăng chi phí cho đào tạo, tập huấn và mua sắm các trang thiết bị, phương tiện đi làm, gây áp lực về vốn đầu tư cho chiều sâu.
Ví dụ khác: Để tiêu thụ sản phẩm mới trên thị trường hay đưa sản phẩm vào thị trường mới thì các doanh nghiệp thường phải giành những khoản tiền lớn cho các hoạt động marketing như nghiên cứu thị trường, sản xuất thử, quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại,...
Như vậy, một doanh nghiệp có nguôn lực về lao động, vốn hạn hẹp, nhỏ bé, yếu thế không thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp có nguồn lực dồi dào trong việc khẳng định chỗ đứng sản phẩm cùng loại trên thị trường, công việc tiêu thụ sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn và sự tồn tại của nó là rất mong manh. Vì khách hàng thường chỉ mua những thứ mà mình cần, mình biết chứ không mua những thứ mà doanh nghiệp có; nghĩa là sản phẩm nào nhanh chóng tới người tiêu dùng và thoả mãn nhu cầu của họ về: chất lượng, số lượng, tính an toàn, mẫu mã, chủng loại, giá cả,... thì sản phẩm đó sớm chiếm được cảm tình từ phía khách hàng, đồng thời khẳng định chỗ đứng của mình trước các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường.
Thêm vào đó, để công tác tiêu thụ sản phẩm diễn ra thuận lợi không chỉ phụ thuộc vào nguồn lực của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào các biện pháp, phương pháp xúc tiến, hỗ trợ khác như:
- Xây dựng và triển khai hiệu quả các chương trình, dự án liên quan đến quá trình thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm gồm dự án đầu tư khả thi về sản phẩm mới, chương trình marketing hỗn hợp...
- Doanh nghiệp chủ động tham gia các hiệp hội, các tổ chức liên quan tới hoạt động thương mại trong và ngoài nước. Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp kỹ nghệ (doanh nghiệp lấy sản phẩm đầu ra làm nguyên liệu cho đầu vào để gia công tiếp). Kết hợp với các tổ chức kinh tế khác để phát triển sản phẩm truyền thống đặc trưng và có lợi thế; phối hợp với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để bảo vệ bản quyền và thương hiệu sản phẩm.
Lấy ví dụ: Vào năm 2002, tên hiệu cà phê Trung Nguyên bị một số đối tượng kinh doanh xấu ăn cắp tên hiệu và biến thành của chúng. Qua đấu tranh, cộng với sự phối hợp với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà thương hiệu Trung Nguyên trở về tay người chủ kinh doanh cà phê của nó. Từ đó, công tác tiêu thụ sản phẩm này diễn ra trôi chảy, công việc kinh doanh mới được thuận lợi, khách hàng ngày càng tin tưởng vào sản phẩm chỉ cần thông qua tên hiệu.
2.2. ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài (nhân tố ngoại sinh).
* Nhóm nhân tố thị trường:
Hiện nay các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận đều tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tuỳ theo quy mô, trình độ chuyên môn hoá, trình độ công nghệ,.. của từng doanh nghiệp mà ảnh hưởng của thị trường có khác nhau. Mặc dù vậy, nhân tố thị trường là nhân tố đầu tiên, cũng đồng thời là nhân tố cuối cùng quyết định sự tồn tại hay không tồn tại sự sống của một sản phẩm. Nó ảnh hưởng rất lớn, chi phố quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Có thể xét trên 3 yếu tố sau đây của thị trường:
- Nhu cầu của thị trường về sản phẩm hàng hoá.
Cầu thị trường về sản phẩm hàng hoá phụ thuộc vào các yếu tố như giá bán, giá bán của hàng hoá thay thế, giá bán của hàng hoá bổ sung; phụ thuộc vào thu nhập dân cư, sở thích, tâm lý, trào lưu, giới tính, độ tuổi,... Do đó, một sản phẩm hàng hoá cớ thể tiêu thụ được phải thoả mãn các yêu cầu của thị trường như: bán sản phẩm ở những khu dân cư, những nơi có nhu cầu về sản phẩm đó và phải có khả năng thanh toán (có thu nhập để tiêu dùng).
Theo quy luật tiêu dùng, cứ thu nhập càng cao thì nhu cầu về hàng xa xỉ và hàng có chất lượng cao càng lớn. Đối với nhóm dân cư có trình độ văn hoá càng cao thì nhu cầu về hàng hoá càng khắt khe, đòi hỏi càng khó tính.
Do vậy, các doanh nghiệp muốn tiêu thụ tốt sản phẩm phải nắm bắt những nhu cầu trên cở thu thập và cơ cấu dân cư.
- Cung sản phẩm hàng hoá là yếu tố quan trọng trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp phải tìm hiểu khả năng sản xuất loại sản phẩm của minhf tức là phải tìm hiểu nắm bắt các đối thủ cạnh tranh. Đặc biệt lưu ý về giá bán và chất lượng sản phẩm; ngoài ra, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến giá bán của sản phẩm thay thế, sản phẩm bổ sung và giá cả đầu vào.
- Giá cả, đây là một yếu tố rất quan trọng, là thước đo sự cân bằng cung cầu trong nền kinh tế thị trường, nó cho phép ta biết với giá cả đó thì công việc kinh doanh có lãi hay không khi đem so sánh với giá thành sản xuất hoặc giá mua vào.
Trong tiêu thụ sản phẩm để quyết định giá bán cần chú ý đến các loại sản phẩm:
+ Loại sản phẩm cao cấp: Thông thường giá cả tăng lên thì cầu lại giảm.
+ Loại sản phẩm thay thế: Khi giá cả của sản phẩm này tăng lên thì nhu cầu về sản phẩm thay thế có thể tăng lên.
Ví dụ: Khi giá xe máy hiệu Suzuki tăng lên thì nhu cầu về xe máy của các hiệu Yamaha, Honda, Lifan,... tăng lên.
Hoặc khi giá thịt tăng lên thì nhu cầu về cá (các sản phẩm có thể thay thế thịt) tăng lên.
+ Loại sản phẩm bổ sung: Là những sản phẩm mà khi sử dụng một loại sản phẩm này phải sử dụng kèm theo loại sản phẩm khác. Ví dụ: Khi giá xăng dầu tăng lên thì nhu cầu về xe máy (các phương tiện sử dụng xăng) có thể giảm xuống.
* Nhóm nhân tố về cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ:
- Các nhân tố về cơ sở vật chất - kỹ thuật bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng như đường sá giao thông và phương tiện thiết bị vận tải, hệ thống bến cảng kho bãi, hệ thống thông tin liên lạc,... Hệ thống này đóng vay trò quan trọng trong việc bảo đảm lưu thông nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm an toàn cho việc tiêu thụ sản phẩm.
- Các nhân tố về kỹ thuật và công nghệ sản xuất và tiêu thụ đặc biệt quan trọng trong việc tăng khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Đối với các sản phẩm công nghiệp thì công nghệ sản xuất tiên tiến, phù hợp sẽ tạo ra một loạt các sản phẩm có độ chính xác cao về kỹ thuật, tăng năng suất lao động, đồng nghĩa với việc hạ giá thành sản xuất, tăng sức cạnh tranh giúp tiêu thụ sản phẩm được thuận lợi. Đối với các sản phẩm nông nghiệp thì sử dụng công nghệ chế biến công nghệ sau thu hoạch vừa tránh được sự hao hụt mất mát trong quá trình thu hoạch, vừa tăng thêm chất lượng và giá trị sản phẩm.
* Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bị chi phối bởi các quy luật như cung, cầu, giá cả,... Song sự tác động của Nhà nước tới thị trường có ý nghĩa to lớn và giúp cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Các chính sách vĩ mô của Nhà nước có liên quan đến tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm:
- Chính sách nhiều thành phần kinh tế.
Hiện nay, nước ta đang tồn tại 5 thành phần kinh tế cơ bản đó là: kinh tế Nhà nước, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế hợp tác xã và kinh tế hộ gia điình. Mỗi thành phần kinh tế đều có vị trí, vai trò nhất định trong nền kinh tế quốc dân, do đó để khuyến khích sản xuất xã hội phát triển thì chính phủ cần có chính sách thoả đáng, thích hợp nhằm phát huy sức mạnh của mỗi thành phần kinh tế; đồng thời hạn chế, đi đến bãi bỏ những điều luật, chính sách phân biệt đối xử giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh, khi đó các thành phần kinh tế được cạnh tranh lành mạnh, công tác tiêu thụ sản phẩm diễn ra thuận lợi.
- Chính sách tiêu dùng: Chính sách tiêu dùng sản phẩm nhằm hướng vào việc khuyến khích tiêu dùng, các sản phẩm trong nước tạo nên thói quen và tập quán tiêu dùng sản phẩm nội địa; ngoài ra, chính sách tiêu dùng còn liên quan tới việc tăng thu nhập cho các tầng lớp dân cư, đặc biệt là dân cư nông nghiệp, nông thôn. Từ đó làm tăng sức mua trong dân cư.
- Chính sách đầu tư và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật về sản xuất: Chính sách này nhằm hỗ trợ những khu vực ngành nghề còn yếu về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, còn thấp về trình độ khoa học kỹ thuật giúp họ có một bước đệm vững chắc để đối mặt với cạnh tranh, trong sản xuất nông nghiệp thì nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu phù hợp với nhu cầu thị trường.
- Chính sách giá cả, bảo trợ sản xuất và tiêu thụ:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc vào trình độ và năng lực tổ chức của cán bộ quản lý doanh nghiệp; nghệ thuật và khả năng tiếp thị, marketing, tổ chức hệ thống tiêu thụ sản phẩm đến người tiêu dùng. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý mà trước hết là đội ngũ cán bộ làm công tác tiêu thụ sản phẩm là hết sức quan trọng.
- Chính sách khuyến khích xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu:
Chính sách thay thế nhập khẩu mục đích nhằm bảo hộ hàng trong nước trước sự xâm nhập của hàng ngoại trong một thời gian nhất định, tạo điều kiện thích nghi dần của các mặt hàng nội địa khi ra môi trường cạnh tranh quốc tế.
Chính sách khuyến khích xuất khẩu, mục đích nhằm phát huy mặt hàng có lợi thế, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, đồng nghĩa với công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp xuất khẩu dễ dàng, từng bước hoà nhập với kinh tế khu vực và quốc tế.
Tóm lại, công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mặt dù là khâu cuối cùng, chưa phải là khâu quan trọng nhất nhưng để khâu này diễn ra thuận lợi, dễ dàng, giúp doanh nghiệp nhanh chóng thu hồi vốn và tái đầu tư, giảm thời gian chu chuyển vốn đồng thời chủ động được thời gian cho sản xuất kinh doanh thì cần phải phát huy tốt các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm và tìm ra những nhóm nhân tố nào có ý nghĩa quyết định trong khoảng thời gian dài.
Chương II: Thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
1. Đặc điểm chung về công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
1.1. ảnh hưởng bởi đặc điểm của doanh nghiệp Việt Nam.
Kinh tế Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường chưa lâu, thêm vào đó vốn tích luỹ cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp Nhà nước không nhiều do chiến tranh và cơ chế kinh tế cũ để lại, cho nên các doanh nghiệp Việt Nam có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ; lượng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh còn ít, do đó nó qui định lượng đầu ra ở mức khiêm tốn ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ sản phẩm, nhất là lượng sản phẩm dự trữ cho lưu thông nhiều khi còn bị thiếu hụt gây bất ổn giá cả thị trường, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thứ hai, thành phần kinh tế có ảnh hưởng tương đối tới công tác tiêu thụ sản phẩm. Mặc dù các doanh nghiệp hiện nay đều có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh, độc lập và làm chủ về tài chính, chịu trách nhiệm trên tài sản và quyền hạn của mình nhưng vẫn còn sự ưu tiên, nhượng bộ cho các doanh nghiệp quốc doanh trong công tác tiêu thụ sản phẩm nhất là chính sách về thành phần kinh tế và chính sách khuyến khích xuất khẩu.
1.2. ảnh hưởng bởi tâm lý tiêu dùng và thói quen mua sắm của người Việt Nam.
Hiện nay, phần lớn người Việt Nam có thu nhập trung bình, ngân sách dùng cho chi tiêu hạn chế, thêm vào đó thói quen sử dụng tiền mặt đi mua sắm còn phổ biến trong dân, kể cả chủ các doanh nghiệp, các quan chức cấp cao; đồng thời người Việt Nam chưa hình thành và xây dựng kế hoạch mua sắm như các nước tư bản phát triển ở phương Tây mà thường có thói quen mua sắm theo ngân sách và cảm hứng. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm thường tổ chức tiêu thụ sản phẩm thông qua các kênh phân phối ngắn, trực tiếp cho nên năng lực tập trung cho bán hàng của các doanh nghiệp thường rất cao, nhất là lực lượng bán hàng trực tiếp và chăm sóc khách hàng, song hiệu quả vẫn chưa cao. Đây là một đặc điểm khó khắc phục một sớm, một chiều mà bản thân từng doanh nghiệp phải có phương án kế hoạch bố trí, sắp xếp để hiệu quả bán hàng được tăng lên.
1.3. ảnh hưởng bởi đặc điểm của đặc trưng sản phẩm.
Đặc điểm này được biểu hiện rõ rệt ở các sản phẩm ngành nông nghiệp bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản. Những đặc điểm đó là: Sản phẩm và thị trường sản phẩm màn tính chất vùng và khu vực do điều kiện tự nhiên quy định, nó tạo ra lợi thế so sánh tuyệt đối về sản phẩm giữa các vùng với nhau; hai là do tính chất mùa vụ có tác động tới cung - cầu và giá cả thị trường về sản phẩm này nên cần phải tổ chức tốt các công tác chế biến, bảo quản và dự trữ sản phẩm để công tác tiêu thụ sản phẩm được thông suốt, giá cả được ổn định; ba là sản phẩm nông nghiệp rất đa dạng, phong phú là nhu cầu tối thiểu hàng ngày của mỗi người do đó tiêu thụ phải hết sức linh hoạt. Thêm vào đó là sản phẩm cồng kềnh, tươi sống khó bảo quản, vì vậy cần tổ chức các chợ nông thôn, cửa hàng lưu động, kèm theo đó là các phương tiện chuyên dùng riêng.
2. Thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Những năm gần đây, nhờ có sự ổn định về an ninh, chính trị nên sản xuất vật chất của Việt Nam vẫn tăng trưởng đều và ổn định, các doanh nghiệp chủ động tận dụng thời cơ phát triển sản xuất, kinh doanh, mở mang mặt hàng, từng bước bội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Trong đó, công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp vẫn diễn ra đều, lớn dần về số lượng, tăng dần về chất và ngày càng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nội địa lẫn nhu cầu của các hạn hàng truyền hệ thống quốc tế. Song thực tế hiện nay công tác này vẫn còn tồn tại và phát sinh một số vấn đề cũng như khó khăn mới.
Những tồn tại và một số khó khăn phát sinh mới trong công tác tiêu thụ sản phẩm:
- Một là, quy mô sản phẩm của hầu hết các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp quốc doanh đều nhỏ do quy mô các yếu tố đầu vào và công tác dự trữ, bảo quản, phân phối của chúng ta còn nhỏ và yếu. Một thực tế hiện nay là các doanh nghiệp sau khi sản xuất xong sản phẩm thường phân phối, tiêu thụ ngay, trực tiếp tới người tiêu dùng (bán buôn, bán lẻ và tiêu dùng cuối cùng), thêm vào đó trình độ tổ chức, quản lý ở nhiều doanh nghiệp còn yếu. Do đó, mở rộng quy mô sản phẩm tổ chức các kênh phân phối, lập kế hoạch dự trữ, ứng dụng công nghệ bảo quản,... là những đòi hỏi có tính bắt buộc, khẩn cấp khi chúng ta đề cập tới một sản xuất hàng hoá.
- Hai là, chất lượng sản phẩm hàng hoá của ta còn chưa cao. Thể hiện ở những điểm sau:
+ Đối với các sản phẩm công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng thì chất lượng sản phẩm thường tập trung ở độ chính xác về các chỉ số kỹ thuật độ thích ứng với các tác nhân ngoại cảnh (trong đó có độ bền, độ chịu nhiệt, chịu xung lực kéo, lực cản,...) và độ an toàn trong sản xuất, trong tiêu dùng. Các yêu cầu về chất lượng này thì hầu như các sản phẩm mà chúng ta sản xuất ra còn thấp, chưa thể đáp ứng được với yêu cầu của sản xuất với tốc độ cao, độ chính xác gần như tuyệt đối; yêu cầu về sự tiện ích cũng như an toàn với người sử dụng. Cho nên, các sản phẩm công nghiệp mà các doanh nghiệp của ta đang tổ chức tiêu thụ chủ yếu là các sản phẩm gia công tiếp và hoàn chỉnh từ các sản phẩm dở dang hay mua các linh kiện của nước ngoài về lắp ráp để tiêu thụ hoặc các sản phẩm công nghiệp mà chúng ta sản xuất ra phần nhiều là ở dạng thô, chưa hoàn thiện phải nhờ một hay hai nước trung gian có trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến gia công, tinh chế nốt. Chẳng hạn như dầu thô, một số chi tiết của ô tô, các khối quặng,...
+ Đối với các sản phẩm nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp lâm nghiệp và thuỷ sản, chất lượng sản phẩm thể hiện ở tính có ích hương vị, màu sắc và độ sạch của sản phẩm. Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động trong ngành này đã và đang nhanh chóng đưa quản lý chất lượng vào kinh doanh. Bên cạnh đó, một số vấn đề chưa được giải quyết triệt để như: chất lượng các nguyên liệu đầu vào các sản phẩm nông nghiệp cho chế biến còn chưa đồng đều, công tác thu hoạch, bảo quản, dự trữ còn yếu nên sản phẩm sau thu hoạch còn bị hao hụt mất độ hoàn hảo về hình thức, giảm hương vị, màu sắc,... độ an toàn vệ sinh thực phẩm còn thấp nhất là các sản phẩm hoa quả tươi, thuỷ sản,... Do vậy, để đảm bảo chất lượng, độ tươi ngon của sản phẩm cần có giải pháp hữu hiệu, kịp thời, trong đó tổ chức tiêu thụ cũng là một trong các nguyên nhân quan trọng. Ví dụ: Để giữ cho sản phẩm tươi, ngon, giảm hao hụt thì nên tổ chức kênh phân phối ngắn, trực tiếp hay sử dụng các hình thức mua tận gốc, bán tận ngọn...
- Thương hiệu sản phẩm và hình thức trao đổi.
Thương hiệu sản phẩm, đây là một phạm trù không phải là mới mẻ trên thế giới, song nó lại là vấn đề bức xúc , quan trọng ở Việt Nam hiện nay. Thực chất, vấn đề này đã xuất hiện và tồn tại rất lâu ở các doanh nghiệp kinh doanh có uy tín trong nước và một số thị trường khu vực như: Bia Sài Gòn, nước mắm Phú Quốc, nước mắm Phan Thiết, May 10, May Việt Thắng, giấy Bãi Bằng,...
Những thế mạnh kinh doanh này chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm và chăm sóc, cho nên khi giao dịch, trao đổi hay buôn bán với các bạn hàng nước ngoài thường phải qua một hay nhiều trung gian với cái tên của họ hay cái tên khác mà họ áp đặt, đương nhiên sản phẩm do công sức, trí tuệ của mình nhiều năm gây dựng lại rơi vào tay kẻ khác. Chính vì hình thức trao đổi hàng hoá qua đại diện, qua trung gian như vậy đã biến hàng của ta thành hàng của họ làm công tác tiêu thụ sản phẩm của chúng ta gặp trở ngại, phụ thuộc nhiều vào bên đại diện, đồng thời thiệt hại rất lớn về lợi ích kinh tế.
- Mối liên hệ giữa các nhà sản xuất trong cùng ngành với nhau. Hiện nay, chính phủ Việt Nam cho phép phát triển tất cả các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mà luật pháp không cấm. Cho nên, mấy năm gần đây những hộ kinh doanh thoả sức làm giàu, xuất hiện nhiều gương mặt trẻ trong kinh doanh. Song một thực tế đặt ra họ phải đương đầu với các tập đoàn kinh tế, các hiệp hội kinh tế, các tổ chức kinh tế kinh doanh phát đạt nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam hay thông qua buôn bán hai chiều, họ có đủ những kiến thức, trình độ và năng lực để đối phó với những gì mà họ quan tâm, trong đó lợi ích từ các doanh nghiệp Việt Nam giờ còn non nớt về kinh nghiệm, yếu về trình độ quản lý, chưa sâu về luật pháp. Chưa thoáng về các thủ tục giao dịch và buôn bán quốc tế; ngoài ra, các doanh nghiệp của ta còn gặp khó khăn lớn về vốn. Đây là điểm yếu mà họ có thể khai thác về ta. Như vậy, nếu các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề của chúng ta không biết liên kết, hợp tác, trao đổi và hỗ trợ cho nhau thì ắt hẳn gặp nhiều khó khăn, thất bại trong các cuộc chiến sắp tới. Tuy nhiên, công tác tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều trở ngại, đồng thời thiệt hại nặng nề về kinh tế và các lợi ích kinh tế khác.
Lấy ví dụ điển hình vừa qua những người nuôi cá da trơn (cá tra, cá ba sa) của Việt Nam bị thất bại trong vụ tranh chấp thương mại với hiệp hội nuôi cá nheo của Mỹ. Đây là một bài học "xương máu" cho những nhà sản xuất, kinh doanh trong nước khi không biết lợi dụng, phát huy thế mạnh liên kết, hợp tác trong cùng ngành nghề để tồn tại và phát triển.
- Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức thương mại.
Trong thời buổi bây giờ, khi mà nền kinh tế đã bước vào "guồng máy" của kinh tế thị trường với bao cơ hội nhưng không thiếu thách thức. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển không thể nằm ngoài môi trường đó, qui luật đó; đồng thời phải chịu sự điều tiết bởi cơ chế và các qui tắc đối xử của pháp luật; Nghị định của chính phủ và chịu sự kiểm soát của cơ quan làm công tác thương mại, quản lý thị trường. Ngoài ra, còn phải tham gia vào các tổ chức thương mại, phối hợp với các cơ quan quản lý thương mại trong nước và quốc tế nhằm các mục tiêu sau:
- Được tham gia vào môi trường kinh doanh ổn định, lành mạnh, không có tranh chấp phi lý làm tổn hại tới lợi ích mỗi bên.
- Nhận sự hỗ trợ về: Kiến thức quản lý, kiến thức pháp luật, thông tin kinh tế, vốn cho kinh doanh, giá tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giá các yếu tố đầu vào; giúp đỡ trong xúc tiến thương mại và hội nhập thương mại quốc tế,...
- Định hướng và vạch đường đi, nước bước cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được thuận lợi, hạn chế va vấp, thất bại.
- Bảo vệ bản quyền sản phẩm, công nghệ sản xuất và thương hiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp trước tình trạng ăn cắp, nhái, giả đang diễn ra phổ biến và đầy ác liệt như hiện nay.
Song thực tế hiện nay, mối quan hệ này chưa được doanh nghiệp thúc đẩy, phát triển mà nó còn tồn tại một vài trở ngại , ngăn cản vô hình làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như kết quả của công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam.
Qua thực trạng và những khó khăn còn tồn tại và mới phát sinh trong công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đòi hỏi chúng ta phải đưa ra những giải pháp phù hợp, hiệu quả nhằm thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm được thuận lợi dễ dàng.
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
1. Các căn cứ để đề xuất giải pháp.
Để đề xuất các giải pháp có tính khả thi và hiệu quả phải căn cứ vào những mặt sau đây:
- Căn cứ vào thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
- Căn cứ vào chủ trương, chính sách khuyến khích xuất khẩu và ưu tiên cho những ngành hàng cơ bản, truyền thống nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của chính phủ Việt Nam.
- Căn cứ vào xu hướng liên kết, hợp tác kinh tế trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra nhanh chóng.
2. Các giải pháp nhằm thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
2.1. Các giải pháp bên trong.
Hiện nay, Nhà nước và chính phủ Việt Nam đã cho phép tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh trên những ngành nghề, lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Đồng thời giao quyền chủ về mặt tài chính, chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản và quyền hạn của mình khi tham gia kinh doanh. Do đó, những vấn đề giải quyết nội bộ không cần sự can thiệp của chính phủ thì tự doanh nghiệp phải chủ động bàn bạc và đề xuất hướng giải quyết, đó là quyền tự chủ về mặt kinh doanh. Trong đó, để thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm thì các doanh nghiệp phải đưa ra những giải pháp phù hợp với doanh nghiệp của mình và đem lại hiệu quả cao nhất.
Các giải pháp từ phía doanh nghiệp.
Một là, các doanh nghiệp cần nhanh chóng xây dựng và triển khai hiệu quả các kế hoạch, chương trình nâng cao vị thế của sản phẩm truyền thống (sản phẩm đã có mặt trên thị trường trong khoảng thời gian dài); giới thiệu, quảng bá và đi vào tâm trí khách hàng mục tiêu những sản phẩm mới hay ở những thị trường mới. Cụ thể là:
- Đối với các sản phẩm truyền thống, doanh nghiệp có thể áp dụng những biện pháp như khi mới đưa sản phẩm ra thị trường. Mục đích chính là nhằm nổi bật, đánh bóng thương hiệu sản phẩm của mình, bắt khách hàng phải thừa nhận sự tồn tại và đặc trưng riêng của nó trên thị trường, do đó mà vị thế cũng như ý nghĩa của sản phẩm mới được khẳng định, đồng thời khách hàng mới thoả mãn và yên tâm khi tiêu dùng. Như thương hiệu cà phê Trung Nguyên chẳng hạn. Song để thực hiện được mục đích đó ngoài việc quan tâm, triển khai các biện pháp làm nổi bật sản phẩm thì doanh nghiệp không thể coi thường hay lơ là đến các yếu tố làm nên giá trị đích thực của sản phẩm đó là: chất lượng cũng như hương vị đặc trưng của sản phẩm đối với sản phẩm liên quan đến sản xuất nông nghiệp.
Chất lượng cũng như độ chính xác, an toàn khi sử dụng đối với các sản phẩm công nghiệp; hình thức, mẫu mã, chủng loại tạo nên sự hấp dẫn bên ngoài của sản phẩm giúp khách hàng có quyền lựa cọhn hàng hoá trong phạm vi rộng và tạo trí tưởng tượng của khách khi đi mua hàng. Ngoài ra, một yếu tố rất quan trọng trong cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại, đó là giá thành sản xuất, nghĩa là giá thành sản xuất còn thấp thì sức cạnh tranh còn cao nhưng không đồng nghĩa là cứ giảm giá thành là được ngay đâu; vì nó còn phụ thuộc vào giá mua các yếu tố đầu vào của sản xuất, phụ thuộc vào năng suất lao động vào công tác hoạch toán giá thành và quản lý tổ chức trong doanh nghiệp.
Như vậy, để tăng sức tiêu thụ sản phẩm truyền thống thì doanh nghiệp cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
Thứ nhất, thúc đẩy công tác quảng bá, sản phẩm; đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng về các thông tin liên quan tới sản phẩm và có các chương trình, dịch vụ hỗ trợ khách hàng trước và sua khi mua hàng.
Thứ hai, nâng cao giá trị thương hiệu sản phẩm thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm; thay đổi mẫu mã, chủng loại cho phù hợp với thị hiếu, tâm lý khách hàng; đồng thời giảm giá thành sản xuất để thích ứng với "túi tiền" của đại bộ phận dân cư còn thu nhập thấp hay khách hàng có lượng vốn khiêm tốn.
Vấn đề này quả là một bài toán khó, nhiều doanh nghiệp Việt Nam rất băn khoăn khoăn và vướng mắc ở đây. Vì thường khi chất lượng tăng đồng thời năng suất phải giảm xuống mà giá thành sản xuất lại phụ thuộc nhiều vào năng suất lao động; ngoài ra, để có sản phẩm đạt chất lượng cao không thể nào sử dụng những yếu tố đầu vào có chất lượng thấp được, buộc doanh nghiệp phải sử dụng các yếu tố đầu vào có chất lượng cao, điều này đồng nghĩa với giá các yếu tố này phải đắt. Đây quả là một nghịch lý đang xảy ra đối với các doanh nghiệp nước ta. Khi giải quyết được bài toán năng suất và chi phí các yếu tố đầu vào thì lúc đó vấn đề thứ hai mới được giải quyết triệt để và công tác tiêu thụ các sản phẩm truyền thống diễn ra nhanh chóng, thuận lợi.
* Đối với các sản phẩm mới hay đưa sản phẩm truyền thống tới thị trường mới. Trước tiên, doanh nghiệp không thể kỳ vọng quá nhiều vào thị trường mới này được mà phải cần có những phương pháp, cách thức tiếp cận thị trường thông qua hàng loạt các hoạt động marketing như: nghiên cứu, thăm dò và phân tích thị trường, nhất là tập trung vào thị trường mục tiêu trong đó có nhóm khách hàng mục tiêu; sản xuất và đưa ra thị trường số sản phẩm thử nghiệm ở mức vừa phải nhờ vào các hoạt động quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu quầy, mua sớm được giảm giá hay mua hàng có thưởng và các dịch vụ chăm sóc khách hàng kèm theo. Trong thời gian đó cần tiếp thu, lắng nghe ý kiến từ phía khách hàng và đối thủ cạnh tranh nhằm mục đích đáp ứng những đòi hỏi từ phía khách hàng và hành động cạnh tranh của đối thủ giúp công tác tiêu thụ sản phẩm chính thức được thực hiện.
Hai là, các doanh nghiệp phải từng bước đổi mới và nâng cao năng lực quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh trong đó có công tác tổ chức, quản lý nhân sự (gồm lao động quản lý, điều hành và lao động trực tiếp sản xuất, bán hàng) nhằm tăng năng suất lao động, giảm chi phí không cần thiết, tiết kiệm và tận dụng nguồn lực... để giảm giá thành sản xuất, tăng sức cạnh tranh tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tiêu thụ sản phẩm, giúp doanh nghiệp phát triển kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất - kinh doanh. Khi đó quy trình sản xuất kinh doanh mới đi vào sản xuất hàng hoá lớn, công tác tiêu thụ sản phẩm diễn ra điều đặn nhờ công tác dự trữ, bảo quản, phân phối ổn định.
Ba là, doanh nghiệp phải chủ động tạo mới quan hệ và tiếp cận với những địa chỉ, chủ thể tổ chức sẽ giúp ích cho sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.
* Hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề nằm tranh thủ sự hỗ trợ tương tác quan hệ về kinh nghiệm sản xuất - kinh doanh, bảo về sản phẩm trước sự cạnh tranh của các tổ chức khác, đặc biệt là các tổ chức, hiệp hội nước ngoài kinh doanh cùng loại sản phẩm; thêm vào đó là trao đổi thông tin thị trường (thị trường đầu vào và thị trường đầu ra liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp) giúp đỡ nhau về vốn, các vấn đề liên quan khác.
* Tạo và thúc đẩy mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức quản lý Nhà nước về thương mại, kế hoạch và đầu tư, các ngân hàng (nhất là các ngân hàng hỗ trợ, ưu đãi). Nhằm mục đích nhân sự hỗ trợ của họ về kiến thức quản lý, về đường đi nước bước trong các thủ tục hành chính; về vốn kinh doanh và hỗ trợ trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tham gia các hiệp hội, tổ chức liên quan tới thương mại quốc tế nhằm tìm kiến bạn hàng, đối thủ cạnh tranh tìm kiếm và học tập kiến thức quản lý, điều hành... Mục đích chính là mở rộng phạm vi bán và mua; giảm các khâu trung gian trong công tác tiêu thụ sản phẩm, nâng cao giá trị củ sản phẩm, khẳng định tên gọi và vị trí của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
Đây là một vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải cố gắng, quyết tâm giải quyết bằng được khi chúng ta đang dần hoà nhập với kinh tế khu vực và quốc tế; gần đây nhất là tổ chức mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA) và một thời gian không xa nữa là tổ chức thương mại quốc tế WTO). Trong đó, một nhân tố quyết định đến sự thành bại của công tác này đó là năng lực của bản thân mỗi doanh nghiệp (nội lực).
2.2. Các giải pháp bên ngoài.
Tập trung chủ yếu từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế, về pháp luật.
* Trước tiên, để doanh nghiệp kinh doanh chân chính, lành mạnh trước đối thủ khác trên thị trường trong nước thì Nhà nước cần phải ban hànhluật đủ sức cưỡng chế, bắt buộc các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh trong một khuôn khổ cho phép nhằm đảm bảo các lợi ích về xã hội, về cá nhân, duy trì ổn định kinh tế và từng bước phát triển. Ngoài ra, luật pháp của Nhà nước phải chứng tỏ tính nghiêm minh, công bằng, không phân biệt đối xử với tổ chức hay cá nhân kia khi họ đều được phép bước vào "sân chơi kinh doanh" mà hiện nay vấn đề này nước ta còn nhiều khúc mắc, nhất là ở khâu thi hành luật và công tác xét xử. Khi đó doanh nghiệp Việt Nam mới yên tâm làm ăn, đầu tư mở rộng kinh doanh cũng như công tác tiêu thụ sản phẩm càng tăng về lượng và ổn định về nguồn.
* Các chính sách chính phủ đưa nhằm vào việc tạo mở tư duy, môi trường kinh doanh; kích thích và hỗ trợ kinh doanh cho các doanh nghiệp; ngoài ra còn kiểm soát và điều tiết các hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Đối với hầu hết các doanh nghiệp vìlợi nhuận thì kích thích và hỗ trợ các chính sách thiết thực hơn cả. Nhưng hiện nay, phần lớn các chính sách của ta chủ yếu tập trung vào các vấn đề phát triển các doanh nghiệp có khả năng thu hút nhiều lao động và các doanh nghiệp hoạt động sinh lợi không cao như: nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản nhưng nó lại là khu vực cần ổn định kinh tế, chính trị và xã hội hơn các khu vực khác; đồng thời tạo bước đệm cho nền kinh tế đất nước phát triển. Ngoài ra, chính sách cũng tập trung vào các mục tiêu dài hạn của nền kinh tế đất nước như: khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu; tăng dần tỷ lệ nội địa hoá các sản phẩm công nghiệp và tập trung đầu tư cho công nghệ cao... Thực ra, tất cả các lĩnh vực kinh doanh này phần nhiều do các doanh nghiệp quốc doanh (doanh nghiệp Nhà nước) đảm nhiệm. Một khu vực có giá trị đóng góp không nhỏ (không nói là rất lớn) vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam đó là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính họ rất năng động, có khả năng thích nghi cao với những thay đổi của kinh tế thị trường và góp phần rất lớn vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nhất là lao động phổ thông và lao động từ nông thôn ra các tỉnh lẻ đến. Ngoài những người lao động được công ăn việc làm họ còn được doanh nghiệp tạo ra một tác phong lao động, ý thức và kỷ luật lao động tốt hơn rất nhiều khi họ chưa bước chân khỏi nông thôn hay các tỉnh lẻ có nền kinh tế không phát triển. Thêm vao đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ còn đóng góp một phần tương đối lớn vào ngân sách quốc gia và các hoạt động công ích khác. Song chính sách lại không ưu ái nhiều cho họ mà chủ yếu dưới hình thức tạo điều kiện về môi trường, phát triển tư duy kinh doanh hơn là kích thích hỗ trợ bằng vật chất, bằng nhân lực, bằng sự bảo hộ sản phẩm; đặc biệt là các doanh nghiệp mới vào nghề hoặc các nghề có mức độ rủi ro cao như: thuỷ sản, nuôi trai lấy ngọc... hoặc các nghề có mức độ cạnh tranh lớn như: sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm thức ăn chăn nuôi... Do vậy, để phát triển kinh tế đất nước trước tiên phải phát triển sản xuất - kinh doanh củacác doanh nghiệp trong nước ở tất cả các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp. Đặc biệt chúng ta nên ưu tiên nhiều hơn nữa tới khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ (vì đây là loại hình doanh nghiệp phổ biến và đặc thù ở những nước đang phát triển). Thông qua các chính sách kích thích và hỗ trợ sản xuất - kinh doanh. Từ đó, việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng mới được thuận lợi.
* Cần sự có mặt của các tổ chức xúc tiến thương mại trong hoạt động thương mại của các doanh nghiệp ở bên trong và bên ngoài đất nước. Trong đó, vai trò của tổ chức này là rất lớn khi tham gia xúc tiến, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam làm công tác xuất, nhập khẩu. Mặc dù đến nay chúng ta đã thành lập được cơ quan quản lý, chịu trách nhiệm về vấn đề này nhưng hiệu quả đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, một phần nguyên nhân là do trình độ quản lý, tổ chức cũ như kiến thức của các quan chức, nhân viên làm công tác này chưa cao, tác phong của họ còn mang nặng tính chất sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tư duy còn quan liêu, hách dịch và bảo thủ; thêm vào đó là trang thiết bị phục vụ công việc và thông tin liên lạc còn yếu, còn thiếu thốn. Như vậy, để hoạt động thương mại diễn ra thông thoáng, thuận lợi; công tác tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng, hiệu quả, buộc chúng ta phải đổi mới, đa dạng hoá loại hình xúc tiến phù hợp với từng vấn đề cần xúc tiến, hỗ trợ; đồng thời phối kết hợp với các cơ quan, bộ phận có liên quan khác cũng làm công việc này và thường xuyên cập nhật thông tin về điều luật, tối huệ quốc và các thủ tục liên quan tới giao dịch, buôn bán quốc tế. Đặc biệt là thông tin về các đối tác muốn làm ăn với Việt Nam và các thị trường tiềm năng cần khai thác, xâm nhập.
Qua phân tích, tìm hiểu về thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam và các giải pháp nhằm thúc đẩy công tác này cho chúng ta biết và hiểu hơn đến những thuận lợi cũng như những khó khăng đang đặt ra trước mắt đối với các doanh nghiệp trong nước. Song để giải quyết được các vấn đề đó một cách tốt nhất cần phải có những giải pháp hữu hiệu và cần có thời gian.
Kết luận
Tới nay, nền kinh tế sản xuất hàng hoá ở Việt Nam tồn tại và phát triển chưa đây 20 năm, song nó không còn sớm để chúng ta chuẩn bị và tích luỹ kinh nghiệm từ các nước đi trước trong khi các doanh nghiệp của ta đang phải đối đầu với những thử thách đầy cam go trước mắt; cụ thể là "mảnh đất" cho các sản phẩm của Việt Nam ngày càng bị thu hẹp cả trong lẫn ngoài nước khi các sản phẩm hàng hoá của các quốc gia trong tổ chức mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA), tổ chức thương mại quốc tế (WTO) cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của ta. Với các đặc tính trội hơn sản phẩm của ta như: chất lượng, mẫu mã, chủng loại và giá thành thì sớm mộn sản phẩm của ta cũng bị đối thủ đánh bại nếu chúng ta không đồng loạt giải quyết các vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của các sản phẩm hàng hoá mang nhãn hiệu Việt Nam. Trong đó, tìm ra các giải pháp hữu hiệu là một đòi hỏi mang tính bắt buộc, cần thiết và giải pháp nhằm thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam là một minh chứng điển hình.
Tuy nhiên, để vấn đề này sớm được giải quyết thì bản thân mỗi doanh nghiệp Việt Nam nên chuẩn bị cho mình những gì cần thiết và phải đưa ra kế hoạch đối phó với những khó khăn, đồng thời tìm hướng đi phù hợp và lâu dài cho doanh nghiệp của mình trước khi có sự can thiệp, hỗ trợ từ phía Nhà nước và các tổ chức có liên quan khác.
Tài liệu tham khảo
1. Kinh tế thương mại dịch vụ - Đại học Kinh tế Quốc dân
2. Kinh tế các ngành sản xuất vật chất - Đại học Kinh tế Quốc dân
3. Lịch sử các học thuyết kinh tế
4. Marketing - Đại học Kinh tế Quốc dân
5. Nghiên cứu kinh tế Châu á - Thái Bình Dương số 15/2001
6. Quản trị kinh doanh - Đại học Kinh tế Quốc dân
7. Tạp chí Thuỷ sản số 3/2002.
8. Tạp chí Thương mại số 5/2002
9. Tạp chí Phát triển kinh tế số 9/2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35426.doc