Từ những phân tích trên cho thấy, cổ phần hoá DNNN thực sự là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta cần phải được đẩy nhanh và mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hoá. Cổ phần hoá DNNN sẽ giúp cho DNNN hoạt động hiệu quả hơn, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như các sản phẩm trong và ngoài nước; góp phần nâng cao vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước.
Thực tiễn hơn 10 năm thực hiện cổ phần hoá DNNN, các công ty cổ phần đã và đang từng bước đi lên làm ăn hiệu quả, đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển chung của công cuộc đổi mới. Tuy vẫn còn những hạn chế và yếu kém nhất định song đây là một việc làm hết sức mới mẻ ở nước ta. Vì vậy với những quan điểm có tính chất định hướng và một số giải pháp cụ thể, hợp lý DNNN cổ phần hoá sẽ ngày càng phát huy mặt mạnh, hạn chế những yếu kém, khắc phục tồn tại nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, góp phần ổn định chính trị xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế.
47 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 667 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp và xây dựng có số doanh nghiệp CPH nhiều nhất: 12 đơn vị, ngành giao thông vận tải: 3 đơn vị, ngành chế biến nông và lâm thuỷ sản: doanh nghiệp, ngành dịch vụ: 7 doanh nghiệp. Quy mô doanh nghiệp tiến hành CPH cũng lớn hơn so với giai đoạn thí điểm: 1 doanh nghiệp có vốn 120 tỷ đồng, 5 doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đồng trở lên (GĐ I chỉ có 1 doanh nghiệp với số vốn 16 tỷ đồng). Trong số 25 doanh nghiệp đã CPH, có 1 doanh nghiệp Nhà nước không nắm giữ cổ phần là Công ty đầu tư sản xuất và thương mại Hà Nội. Còn lại 24 CTCP , Nhà nước nắm giữ ít nhất 10%, cao nhất 60,62% số cổ phần của công ty; cổ đông là người lao động trong công ty sở hữu từ 10% đến 70% số cổ phần, còn lại là cổ đông ngoài doanh nghiệp sở hữu.
3. Giai đoạn 3: Thúc đẩy cổ phần hoá (từ 7/1998 đến nay).
Sau hai năm thực hiện Nghị định 28/CP, từ kinh nghiệm thực tế, để đẩy mạnh tiến trình CPH, ngày 29/6/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về CPH DNNN thay thế cho các Nghị định và Nghị quyết trước đây. Cùng với chỉ thị về sắp xếp lại DNNN của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định này đã khắc phục một số điểm còn tồn tại trong Nghị định trước, thay đổi một cách căn bản về cơ chế, chính sách CPH hiện hành theo hướng mở rộng ưu đãi, tạo thêm thuận lợi, đơn giản hoá các thủ tục, đảm bảo chính sách xã hội thoả đáng đối với người lao động nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN.
Chỉ trong 6 tháng (từ tháng 7 đến hết tháng 12/1998) đã có 91 DNNN được CPH, gấp hơn 3 lần so với kết quả của tất cả thời gian trước. Đã có 5 Bộ, 27 tỉnh, thành phố trực thuộc TW, 5 TCT Nhà nước có doanh nghiệp CPH. Tính đến ngày 19/3/1999, cả nước đã có 150 DNNN CPH, trong đó triển khai mạnh nhất ở Hà Nội 31 doanh nghiệp (kế hoạch Nhà nước giao CPH năm 1998 là 31 doanh nghiệp). Khối DNNN Trung ương (do các Bộ, ngành, TCT 91 quản lý trực tiếp) có Bộ Xây dựng triển khai CPH đúng kế hoạch nhất: năm 1998 goap CPH 9 doanh nghiệp đã hoàn thành 9; TCT điện lực Việt Nam CPH xong 2 doanh nghiệp (theo kế hoạch là 2 doanh nghiệp)... Năm 1990, CPH được 220 doanh nghiệp, năm 2000 là 171 doanh nghiệp và gần 300 doanh nghiệp năm 2001. Như vậy, tính đến hết tháng 11 năm 2001, cả nước đã cổ phần hoá được trên 700 doanh nghiệp.
Trên đây là 3 giai đoạn triển khai CPH DNNN ở Việt Nam. Có thể thấy, đó là quá trình đi từ thử nghiệm đến triển khai và thúc đẩy nhằm tạo ra tốc độ CPH theo hướng ngày càng nhanh hơn, quy mô CPH ngày càng rộng hơn.
III. Đánh giá chung việc jtiến hành cổ phần hoá DNNN ở nước ta thời gian qua:
1. Những thành tựu đã đạt được:
Một là, tiến độ CPH bước đầu được cải thiện:
Kể từ khi có chủ trương chuyển một số DNNN sang CTCP đến nay, việc tiến hành CPH DNNN ở nước ta đã trải qua hơn 10 năm. Tính đến hết tháng 11 năm 2001, cả nước đã chuyển được hơn 700 DNNN sang CTCP.
Bảng ư. Số lượng DNNN chuyển sang CTCP (5/1990 - 11/2001)
Giai đoạn CPH
Thời gian
CTCP
1. Thí điểm (từ 5/1990 đến 4/1996)
6 năm
5
2. Mở rộng (từ 5/1996 đến 6/1998)
2 năm
25
3. Thúc đẩy (từ 7/1998 đến 11/2001)
3 năm
670
Tổng cộng:
11 năm
700
Giai đoạn từ 5/1990 tức là mất 6 năm, cả nước mới CPH được 5 DNNN. Nhưng gần đây, từ 7/1998 đến 11/2001 đã CPH được 700 doanh nghiệp. Đây là một sự tiến bộ ban đầu cần tiếp tục phát huy.
Trước đây, việc triển khai CPH 1 doanh nghiệp thường kéo dài trung bình 2 năm. Có doanh nghiệp phải 3 năm (Nhà máy giày Hiệp An), có doanh nghiệp phải kéo dài 5 năm (Công ty xe khách Hải Phòng). Nhưng gần đây, thời gian CPH 1 DNNN đã có chiều hướng rút ngắn lại do đã khắc phục được một số vướng mắc trong quy tình CPH. Có doanh nghiệp chỉ 3 tháng đã tiến hành CPH xong. Có thể nói, đây là một sự tiến bộ bước đầu về tốc độ tiến hành CPH DNNN ở nước ta.
Hai là, sở hữu Nhà nước được cấu trúc lại phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Thông qua CPH, các doanh nghiệp đã huy động được một lượng vốn quan trọng từ cán bộ công nhân viên làm việc tại doanh nghiệp và trong dân cư vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Cụ thể, tổng số vốn huy động được lên tới khoảng 3000 tỷ đồng. Qua bán cổ phần, Nhà nước đã thu hồi được một lượng vốn quan trọng về cho ngân sách. Nó không chỉ cấu trúc lại sở hữu Nhà nước, cơ cấu lại hệ thống DNNN phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mà còn tạo điều kiện để Nhà nước đầu tư theo chiều sau, đổi mới khách hàng, công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, qua đó tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.
Tại các CTCP, Nhà nước không chỉ thu hồi vốn mà hàng năm còn thu được lợi tức cổ phần trên cơ sở vốn của Nhà nước tham dự cổ phiếu vào các CTCP này, các khoản tiền lãi về cho công nhân vay mua chịu cổ phiếu và các khoản thu về thuế của các CTCP.
Sở hữu về vốn của các DNNN đã CPH, chẳng những được bảo toàn mà còn tăng lên đáng kể. Chuyển sang CTCP các doanh nghiệp phải đổi mới cơ chế quản lý để nâng co hiệu quả sản xuất kinh doanh, phải công khai tài chính trước HĐQUá TRìNH và cổ đông. Thông qua kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp lại có điều kiện kêu gọi thêm vốn cổ phần để mở rộng quy mô hoạt động, các cổ đông có lợi ích nên sẵn sàng bỏ thêm vốn vào công ty. Đồng thời, do tạo thêm được các việc làm mới, người lao động mới gia nhập công ty cũng sẵn sàng bỏ vốn đầu tư vào công ty dưới hình thức cổ phiếu. Tính đến đầu năm 1997, bình quân mỗi năm vốn của các công ty này tăng lên 45%. Được Nhà nước cho phép, công ty còn phát hành trái phiếu chuyển đổi ra nước ngoài, Năm 1996, thu hút được 5 triệu USD (bằng 55 tỷ đồng). Đây không chỉ là cách huy động vốn nhằm đổi mới cơ sở vật chất, kỹ thuật , nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mà còn là các mở rộng liên kết về sở hữu giữa các thành phần kinh tế để phát triển CTCP - một hình thức không thể thiếu được trong tời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Ba là, hình thành cơ chế quản lý mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau CPH trên cả hai tầm vi mô và vĩ mô trong nền kinh tế thị trường.
Chuyển DNNN thành CTCP là chuyển hoạt động của doanh nghiệp từ chỗ chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước sang Nhà nước quản lý gián tiếp thông qua các công cụ luật pháp, chính sách... Hoạt động của doanh nghiệp chuyển sang chịu tác động trực tiếp của cơ chế thị trường. Điều này buộc các DNNN chuyển thành CTCP phải đổi mới cơ chế quản lý và Nhà nước cũng phải đổi mới đối với quản lý các công ty này. Thực tiễn ở các DNNN được CPH đã đưa đến.
+ Đổi mới quản trị trong doanh nghiệp
Chuyển sang CTCP đã nâng cao được hiệu lực của bộ máy quản lý đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường. Qua thực tế, việc CPH đã làm cho quản lý chuyển mạnh từ t ư tưởng dựa dẫm vào sự bao cấp của Nhà nước sang tư tưởng tự lực, lời ăn, lỗ chịu. Mọi thành viên trong bộ máy quản lý phải làm việc thực sự trên cơ sở vì sự sống còn của công ty. Bộ máy quản lý công ty cũng được tinh giảm, gọn nhẹ. Việc biên chế người giúp việc, bộ máy hành chính, sử dụng công quỹ... ở công ty không được tuỳ tiện mà phải tuân theo điều lệ và quy định chặt chẽ của công ty.
+ Nâng cao tính tự chủ trong huy động vốn và quản lý doanh nghiệp
Bằng việc chuyển DNNN thành CTCP để doanh nghiệp hoạt động trong mô hình tổ chức mới, không chỉ mở ra khả năng huy động vốn thay vì chỉ biết dựa vào vốn ngân sách Nhà nước và ngân hàng trước đây, mà còn tập cho các nhà đầu tư một phương thức đầu tư mới, đầu tư vào cổ phiếu - thay vì chỉ biết đưa tiền vào xây dựng nhà cửa, gửi tiết kiệm, mua sắm... chuyển DNNN sang CTCP, làm thay đổi cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp theo hướng tăng cường chức năng giám sát các hoạt động bằng luật pháp và nội dung điều lệ hoạt động của CTCP phù hợp với quy định của Nhà nước. Hoạt động trong cơ chế này, doanh nghiệp càng phát huy tính tự chủ, năng động trong sản xuất kinh doanh.
Bốn là, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tăng lên rõ rệt:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN chuyển sang CTCP không những không bị gián đoạn mà còn được phát triển. Trong mấy năm qua, tính bình quân hàng năm doanh thu tăng 41%; lợi nhuận tăng 71,63%,\; giá trị góp vốn của cổ đông tăng 183, ....(bảng 5 phần 2).
Bảng 5: Kết quả CPH của giai đoạn 1
1) Danh sách các DNNN đã thực hiện CPH trong giai đoạn thí điểm &5/1990 - 4/1996
STT
Tên cơ sở vật chất CPH
Ngày chuyển
Vốn điều lệ (tr.đ)
Tỷ lệ vốn Nhà nước
1
CTCP đại lý liên hiệp vận chuyển
1/7/93
6.200
18%
2
CTCP cơ điện lạnh
1/10/93
16.000
30%
3
CTCP giày Hiệp An
1/10/94
4.793
30%
4
CTCP CB hàng xuất khẩu Long An
1/7/95
3.540
30%
5
CTCP thức ăn gia súc
1/7/95
7.912
30%
Năm là, hình thành một cơ chế phân phối mới theo hướng phát huy các nguồn lực trong điều kiện kinh tế thị trường mà doanh nghiệp CPH là chủ thể.
Khi còn là DNNN, việc phân phối thu nhập do Nhà nước trực tiếp quy định. Người lao động trong doanh nghiệp được hưởng thu nhập dưới hình thức tiền lương và phúc lợi tập thể; tiền lương còn mang nặng chủ nghĩa bình quân.
Khi trở thành CTCP, người lao động trong doanh nghiệp bỏ tiền ra mua cổ phiếu trở thành cổ đông - người chủ sở hữu doanh nghiệp. Quan hệ của họ với doanh nghiệp thể hiện ở 2 tư cách: Người làm thuê cho doanh nghiệp và người làm chủ doanh nghiệp. Tại các doanh nghiệp đã CPH, người lao động mua cổ phần ít nhất là 4 (trị giá 400.000đ), người mua nhiều lên hàng năm. Đo có cổ phần tại công ty, nên ngoài tiền lương, người lao động còn được phân phối theo lợi tức cổ phần. Qua các DNNN đã CPH cho thấy
+ Tiền lương: Cao hơn so với khi còn là DNNN. Tại 5 DNNN đã CPH trong giai đoạn thí điểm, tính đến cuối năm 1996, thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%/năm. Mức tiền lương tăng không phải do công ty thực hiện chế độ phân phối "thoáng" hơn, còn DNNN phân phối "chặt chẽ" hơn, mà nguyên nhân chính là ở chỗ là người chủ họ lao động thực sự hơn, ý thức hơn so với khi còn là DNNN .
Lợi tức cổ phần mà họ thu được cũng cao hơn so với tỷ suất lợi tức thu được nếu gửi tiền vào các ngân hàng trong cùng thời gian. Chẳng hạn, năm 1994, tỷ suất lợi tức cổ phần của REE là 30% trong khi lãi suất tiền gửi ngân hàng khoảng 17% năm.
Ngoài ra, một phần lợi nhuận được trích lại để tái sản xuất mở rộng tại doanh nghiệp cũng là để tái sản xuất mở rộng vốn cổ phần làm tăng giá trị cổ phiếu của cổ đông. Tại các DNNN được CPH, Nhà nước cũng thu được nhiều thuế hơn và không còn phải lo hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ như trước.
Từ những kết quả thực tế trên cho thấy, CPH DNNN là một quá trình làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đổi mới chế độ phân bổ lợi ích giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, từ đó kích thích các nguồn lực, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
2. Hạn chế và nguyên nhân:
2.1. Nhà nước hạn chế trong việc tiến hành CPH DNNN thời gian qua:
Mặc dù, gần đây tiến trình CPH DNNN đã có cải thiện song căn cứ vào yêu cầu đẩy mạnh đổi mới DNNN thì việc tiến hành CPH DNNN trong thời gian qua vẫn chưa ngang tầm, chưa phát huy triệt để tác dụng tích cực của bản thân quá trình CPH, cụ thể:
Một là tốc độ tiến hành CPH còn chậm. Trong 6 năm đầu mới CPH được 5 DNNN. Trong giai đoạn mở rộng rồ giai đoạn thúc đẩy tiến trình CPH, tuy có diễn ra nhanh hơn song vẫn chưa đạt được như mong muốn:
Năm
Chỉ tiêu CPH
Thực hiện CPH
Đạt (%) kế hoạch
1998
150 D N
105 d N
70%
1999
450 D N
220 D N
49%
2000
337 D N
171 D N
50,7%
Hai là, việc tiến hành CPH không đồng đều giữa các ngành, địa phương chưa có DNNN CPH. Có những ngành (Bộ thương mại) mặc dù số DNNN thuộc diện CPH nhiều nhưng mới chỉ có một doanh nghiệp chuyển thành CTCP . Các TCT thép, TCT cà phê, TCT lương thực miền Bắc... tính đến tháng 4/1999 vẫn chưa CPH được một doanh nghiệp nào.
Ba là, các mục tiêu của CPH chưa đạt được như mong muốn:
- Mục tiêu huy động vốn của toàn xã hội để phát triển doanh nghiệp nhưng vẫn chưa thu hút đông đảo nhà đầu tư. Mục tiêu đổi mới công nghệ , tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp đòi hỏi phải huy động thêm vốn nhưng thực tế mới chỉ CPH bằng cách bán tài sản của Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, tức là mới thực hiện việc chuyển đổi sở hữu tài sản chứ chưa làm tưang tài sản doanh nghiệp, do vậy đổi mới công nghệ còn gặp nhiều khó khăn. Mục tiêu tạo điều kiện cho người lao động trong các doanh nghiệp CPH được mua cổ phần với giá ưu đãi của Nhà nước nhưng trong thực tế, xung quanh vấn đề này còn nảy sinh nhiều sự không công bằng.
Bốn là, tình hình doanh nghiệp sau CPH còn gặp nhiều vướng mắc về tư cách pháp nhân trong vay vốn, cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp vẫn chưa thực sự được cải thiện, cơ chế phân phối lợi ích vẫn tuỳ thuộc vào quyết định của mỗi CTCP, vai trò của Nhà nước và các tổ chức đoàn thể còn buông lỏng.
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế:
Đánh giá một cách tổng quát, có một số nguyên nhan chính cả khách quan và chủ quan, làm cho CPH DNNN trong thời gian qua không đạt chỉ tiêu kế hoạch để ra, còn tồn tại những hạn chế kể trên, đó là:
2.2.1. Về phía khách quan:
Chúng ta tiến hành CPH DNNN trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện những bước quá độ từ sản xuất nhỏ lên xây dựng lớn XHCN và mới chuyển từ ừ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh đó, điều kiện khách quan cho việc triển khai CPH còn nhiều bất cập. Cụ thể là:
- Trình độ xã hội hoá sản xuất còn chưa thật chín muồi: Nước ta đi lên CNXH chưa qua giai đoạn phát triển của CNTB nên thiếu cái "cốt vật chất" của một nền kinh tế phát triển. Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội, năng suất lao động thấp, chất lượng và hiệu quả sản xuất còn kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Lực lượng sản xuất còn thấp kém, hơn 705 lực lượng lao động và hơn 80% dân số cả nước tập trung trong nông nghiệp và nông thôn.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, kết cấu hạ tàng (đường giao thông, kho tàng, bến bãi...) còn lạc hậu, làm chia cắt các vùng, các địa phương không cho phép khai thác thế mạnh, tiềm năng của các vùng, loại hình doanh nghiệp hết sức mới mẻ như CPH.
- Nước ta lại đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế còn phổ biến là tự cấp, tự túc lên kinh tế hàng hoá, đồng thời còn trong quá trình xoá bỏ cơ chế bao cấp, mở đường cho kinh tế thị trường phát triển.
- Trình độ dân trí và yếu tố tâm lý xã hội cũng là những nhân tố khách quan làm cản trở tiến trình CPH.
2.2.2. Về phía chủ quan:
Tập trung ở các nguyên nhân chủ yếu như do chưa nhận thức, chưa đẩy mạnh việc tuyên truyền, vận động trong toàn xã hội về chủ trương CPH DNNN, cơ chế, chính sách và quản lý điều hành, triển khai CPH còn nhiều lúng túng.
Thứ nhất, tình hình tài chính DNNN nói chung và tài chính của DNNN phải CPH nói riêng chưa lành mạnh, thiếu tính minh bạch, thiếu rõ ràng. Chính phủ đã có quyết định 104/CT (10//4/1991) về thanh toán công nghệ giai đoạn I và quyết định 95.QĐ/TTg (15/8.1998)về xử lý thanh toán công nợ giai đoạn II nhằm lành mạnh hoá tài chính của các DNNN, nhưng kết quả giải quyết công nợ chưa khả quan, diễn ra rất chậm. Giai đoạn I chỉ giải quyết được gần 19% và giai đoạn II chỉ được khoảng 18% tổng số nợ các nối đất kê khai. Trước tình trạng này, Chính phủ đã ban hành Nghị định 8/1999/NĐ/C P (9/7/1999) nhằm cơ cấu lại nợ đối với DNNN trước khi thực hiện CPH và quyết định 5/200/QUá TRìNH-TTg (5/1/2000) xoá bỏ các khoản nợ đã mất khả năng thanh toán. Mục đích của các biện pháp này là làm cho các DNNN lành mạnh về tài chính trước khi CPH, nhưng việc cơ cấu lại nợ còn nhiều bất cập nên việc xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện CPH gặp khó khăn. Mặt khác, theo Nghị định 44/1998.NĐ-C P, giá trị doanh nghiệp là giá trị thực thế theo giá thị trường, có nghĩa là phải định được giá của các yếu tố vô hình như uy tín, vị trí, lợi thế... của doanh nghiệp. Nhưng chung quanh những yếu tố này vẫn rất khó tìm được sự thống nhất giữa doanh nghiệp và hội đồng định giá. Điều đó làm chậm quá trình xác định giá trị doanh nghiệp, đồng thời làm cho việc xác định giá trị doanh nghiệp của hội đồng định giá không sát với thị trường.
Thứ hai, chưa làm tốt việc thấu suốt quan điểm, chủ trương CPH DNNN của Đảng và Chính phủ: Mặc dù Đảng và Chính phủ đã có chủ trương chuyển một số DNNN thành CTCP, nhưng chưa được các cấp, các ngành và địa phương hưởng ứng tích cực. Cản trở chính ở đây là do nhận thức cho rằng CPH chẳng khác gì tư nhân hoá, từ đó nảy sinh tư tưởng sợ "chệch hướng XHCN" nếu CPH DNNN.
Ngoài vấn đề nhận thức, sự cản trở tiến trình CPH còn có những nguyên nhân xuất phát từ lợi ích cục bộ. Các Bộ, tỉnh, thành phố vẫn muốn có trong tay mình một số DNNN đáng kể để chi phối. Nếu CPH thì không còn đối tượng để "chi phối" nữa, tức là mất "quyền," mất "lợi ích". Ngoài việc đụng chạm đến lợi ích, còn có một lý do khác đó là thói quen trì trệ, thích yên ổn, ngại thay đổi. Không ít TCT ngần ngại chỉ đạo triển khai CPH, vì e rằng khi một công ty thành viên được thành lập sẽ ít lệ thuộc vào công ty hơn. Cũng có những đơn vị có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN trong phạm vi quản lý nhưng lại không có chương trình, kế hoạch cụ thể, việc triển khai mang tính đối phó.
Một bộ phận người lao động, đặc biệt là những người làm việc từ thời bao cấp vẫn có tư tưởng biên chế suốt đời nên không muốn CPH. Họ lo lắng về sự xáo trộn bất lợi trong cuộc sống của mình; chưa nhận thức đầy đủ về chủ trương và chính sách CPH DNNN của Đảng và Chính phủ nên họ băn khoăn về quyền lợi xã hội và chính trị sau khi CPH.
Thứ ba, việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng. Một số nội dung trong văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai chưa rõ ràng, thiếu tính hệ thống, có nhiều vấn đề chậm được khẳng định như: CPH là tự nguyện hay bắt buộc đối với các DNNN? Những doanh nghiệp nào sẽ tiến hành CPH, những doanh nghiệp nào không hoặc chưa tiến hành CPH? Giá trị đất có tính vào giá trị tài sản doanh nghiệp để CPH không? tỷ lệ cổ phần chi phối của Nhà nước, tỷ lệ cổ phần dành cho người lao động trong doanh nghiệp và tỷ lệ cổ phần bàn ra ngoài xã hội bao nhiêu là hợp lý> trách nhiệm của cán bộ, ngầnh và địa phương như thế nào trong triển khai CPH.
Việc giải quyết các thủ tục pháp lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành CPH còn chậm và lúng túng. Quy tình CPH còn rườm rà, phức tạp, nhiều thủ tục phiền phức, tốn kém, chậm được cải tiến.
Thứ tư, chế độ, chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động trong các DNNN CPH chậm được ban hành, chưa đủ sức hấp dẫn.
- Đối với doanh nghiệp: thể chế quản lý kinh tế vẫn chưa tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế. Vẫn có sự phân biệt đối sử giữa DNNN và các đối thủ cạnh tranh thuộc thành phần kinh tế khác, làm cho các DNNN chuyển sang CTCP bị thiệt thòi. Đó là, các DNNN được hưởng ưu đãi hơn CTCP về mức vay, khoanh nợ và xoá nợ tại ngân hàng thương mại, chưa phải nộp tiền thuê đất. Các DNNN được vay vốn bằng tín chấp của cơ quan Nhà nước còn CTCP phải thế chấp mới được vay. DNNN dễ tiếp cận với các dự án cua rc9 hơn các CTCP... Trên thực tế, chưa có "sân chơi" bình đẳng để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động, đây là một ngăn trở CPH.
- Đối với người lao động trong các công nghiệp CPH, các chính sách ưu đãi tuy đã được ban hành nhưng luôn luôn thay đổi, khắc phuc được mâu thuẫn này lại nẩy sinh mâu thuẫn khác. Trong giai đoạn thí điểm, người lao động tại DNNN CPH được mua chịu cổ phần trả chậm theo nguyên tắc cứ mua bằng tiền một cổ phần thì được bán chị một cổ phần. Sang giai đoạn mở rộng CPH, chế độ ưu đãi cấp cổ phần căn cứ vào thâm niên và chất lượng công tác của nỗi người và được Nhà nước bán chịu cổ phần trả chậm trong 5 năm lãi suất 4% năm. Song giai đoạn thúc đẩy, chế độ ưu đãi lại thay đổi. Người lao động cứ một năm làm việc cho Nhà nước thì được mua 10 cổ phần giảm giá 30% so với đối tượng khác.
Giải quyết vấn đề người lao động trong DNNN CPH không phải chủ yếu là các ưu đãi này mà là giải quyết vấn đề việc làm và sự bình đẳng trong mối quan hệ mới. Họ sợ bị thiệt khi chuyển sang CTCP. Chế độ phân phối lợi nhuận và tiền lương chậm được cải tiến. Nhà nước còn thiếu chính sách về giải quyết việc làm và đào tạo lại lao động nhằm chống rủi ro khi doanh nghiệp mà họ làm việc chuyển sang CTCP. Đây là nguyên nhân làm hạn chế sự ủng hộ từ phía người lao động đối với CPH.
Ngoài ra, TTCK chưa phát triển nên chưa có môi trường thuận lợi để luân chuyển, giao dịch cổ phiếu giữa các chủ đầu tư.
CHƯƠNG III
Quan điểm và giải pháp thúc đẩy
quá trình cổ phần hoá DNNN
I/ Một số quan điểm định hướng đối với quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta:
Trước yêu cầu thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đổi mới và tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước, khơi dậy tiềm năng sản xuất của các thành phần kinh tế trong toàn xã hội, đổi mới và cơ cấu lại hệ thống DNNN, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung, của doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam trong tiến trình chủ động hội nhập kinh tế Quốc Tế thì việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá DNNN theo tinh thần văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) được đặt ra là vô cùng cấp thiết.
Từ thực tiễn cổ phần hoá DNNN ở nước ta trong thời gian qua, những tồn tại và nguyên nhân có thể đưa ra một số quan điểm định hướng trong quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta trong thời gian tới như sau:
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa việc tạo dựng các đIều kiện để thúc đẩy cổ phần hoá với việc lấy kết quả của cổ phần hoá thúc đẩy và hoàn thiện các điều kiện tiền đề của cổ phần hoá.
- Gắn tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước với việc nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong và sau quá trình cổ phần hoá. Phải gắn cổ phần hoá với các giải pháp khác trong hệ thống đổi mới phát triển DNNN.
- Gắn quá trình cấu trúc lại sở hữu Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần với quá trình hoàn thành cơ chế quản lý và cơ chế phân phối thích ứng với nền kinh tế thị trường mà DNNN cổ phần hoá là chủ thể.
- Lấy hiệu quả kinh tế xã hội và định hướng XHCN làm thước đo kết quả của giải pháp cổ phần hoá DNNN. Cổ phần hoá DNNN phải nhằm vào mục tiêu này, tức là phải làm sao bảo vệ được tài sản của Nhà nước trong quá trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần, phát triển doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá và gắn với sự phát triển đó là việc làm thu nhập của người lao động được tăng lên.
Để làm được đIều đó đồi hỏi phải tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong toàn bộ tiến trình cổ phần hoá và cả sau khi DNNN đã chuyển thành công ty cổ phần, phải phát huy cao độ ý thức sáng tạo của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá, phải tạo điều kiện để họ có cổ phần tại doanh nghiệp mình làm việc.
Trên đây là một số quan đIểm định hướng trong việc tiến hành cổ phần hoá DNNN. Vì vậy, cần phải nắm vững và quán triệt đồng bộ, không coi nhẹ một quan đIểm nào. Cổ phần hoá DNNN chính là một trong những mũi nhọn nhằm phát huy nội lực trong phát triển kinh tế xã hội.
II/ Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta:
Để đẩy mạnh cổ phần hoá các DNNN hiện nay, cần tiếp tục bổ sung, đổi mới và hoàn thiện các giải pháp hiện có. Phải dựa trên cơ sở khoa học, lý luận về công ty cổ phần và cổ phần hoá DNNN; học hỏi, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN của các nước, căn cứ vào thực tiễn cổ phần hoá của nước ta thời gian qua, đồng thời quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển kinh tế xã hội và chủ trương cổ phần hoá DNNN của Đảng và Chính phủ để xác định và lựa chọn các giải pháp thích hợp.
1. Giải pháp nhằm thúc đẩy việc hoàn thiện các nhân tố khách quan cần thiết cho tiến hành cổ phần hoá:
Như dã trình bày, một trong những nguyên nhân chủ yếu làm chậm tiến trình cổ phần hoá ở nước ta thời gian qua thuộc về các điều kiện khách quan cho cổ phần hoá còn nhiều bất cập. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần đẩy mạnh triển khai:
. Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá - “cốt vật chất” cho tăng cường xã hội hoá sản xuất:
Nền kinh tế nước ta đang tồn tại phổ biến là sản xuất nhỏ. Để đi lên sản xuất lớn, sớm có nền kinh tế hiện đại, chúng ta phải đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với kỹ thuật, công nghệ, phương tiện, phương pháp sản xuất tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá không chỉ đưa đến nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, mà còn nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hóa sẽ đưa đến tác dụnh nhiều mặt về kinh tế – chính trị – xã hội. Về kinh tế, sẽ đưa đến sự phát triển lực lượng sản xuất ở trình độ cao hơn, làm tăng tính chất xã hội hoá sản xuất, tạo cơ sở cho các loại hình doanh nghiệp có tính chất xã hội hoá cao như công ty cổ phần ra đời và phát triển. Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá sẽ nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập, tạo nguồn vốn cho mở rộng nhu cầu đầu tư, đặc biệt là đầu tư cổ phiếu vào các công ty cổ phần và DNNN cổ phần hoá. Trong trường hợp DNNN đưa ra cổ phần hoá, do kỹ thuật lạc hậu, thiết bị cũ nát, sản xuất tốn nhiều năng lượng và nguyên liệu, ít hấp dẫn các nhà đầu tư cổ phiếu, thì có thể bằng con đường Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá để trang bị lại kỹ thuật, công nghệ, tổ chức lại sản xuất, sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư cổ phiếu hơn do đó tiến trình cổ phần hoá sẽ nhanh hơn. Rõ ràng, Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá không chỉ tạo ra nền tảng cho công ty cổ phần mà còn trực tiếp thúc đẩy cổ phần hoá DNNN. Đây là một giải pháp có ý nghĩa vừa cơ bản, vừa cấp bách đối với yêu cầu thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta.
Phát triển và hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường càng phát triển, thì trình độ phân công lao động xã hội và xã hội hoá sản xuất càng cao, càng tạo ra điều kiện khách quan để thúc đẩy sự phát triển công ty cổ phần. Cổ phần hoá DNNN cũng là con đường hình thành công ty cổ phần. Quá trình này chỉ có thể được triển khai tích cực và vững chắc trong môi trường nền kinh tế thị trường phát triển. Phát triển và hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường là điều kiện bắt buộc đối với việc triển khai cổ phần hoá DNNN. Vì vậy cần:
- Triển khai tích cực việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần trong đó cần tập trung đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế Nhà nước.
- Thúc đẩy phân công lao động xã hội thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá
- Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường: Bên cạnh việc phát triển mạnh thị trường hàng tiêu dùng và thị trường tư liệu sản xuất, phải phát triển các thị trường dịch vụ như: công nghệ, thông tin, tư vấn tiếp thị, tư vấn pháp lý, tài chình, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm Trong thời gian trước mắt phải có chính sách “kích cầu” nhằm mở rộng việc tiêu thụ hàng nội địa. Xây dựng thị trường vốn và thị trường tiền tệ một cách năng động và hiệu quả, hoạt động lành mạnh. Đặc biệt phải đẩy mạnh phát triển hơn nữa thị trường chứng khoán vì đây là môi trường “sân chơi” không thể thiếu được của các nhà đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác, là “miếng đất” nuôi dưỡng các công ty cổ phần và là một công cụ thúc đẩy cổ phần hoá DNNN.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế thị trường: Cụa thể hoá và thực hiện nghiêm túc các luật đã ban hành.
- Hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô. Tiếp tục đổi mới công tác quy hoạch và kế hoạch gắn với cơ chế thị trường. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế thị trường của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương.
. Đẩy mạnh phát triển thị trường chứng khoán- yếu tố không thể thiếu được của cổ phần hoá DNNN
- Thị trường chứng khoán có vai trò tác dụng to lớn. Nó không những thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho các công ty, tạo điều kiện để Nhà nước quản lý vĩ mô thị trường vốn, đánh giá sự phát triển của nền kinh tế, đánh giá khả năng kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn là “mảnh đất màu mở” nuôi dưỡng các công ty cổ phần, là công cụ mạnh mẽ thúc đẩy cổ phần hoá DNNN.
Ngày 20/7/2001 tại 45-47 Bến Chương Dương- Quận I thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên đã được đưa vào hoạt động.
Để thúc đẩy hơn nữa việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp sau:
- Phải duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái.
- Tăng số lượng và nâng cao chất lượng hàng hoá cho thị trường chứng khoán.
- Để hoạt động trên thị trường chứng khoán diễn ra trôi chảy, công bằng và hiệu quả cần xây dựng hệ thống giao dịch, hệ thống xử lý dữ liệu, hệ thống thông tin và hệ thống bù trừ, lưu trữ chứng khoán với mô hình và trình độ công nghệ thích hợp. Đây là cơ sở hạ tầng cần thiết của thị trường chứng khoán. Khi xây dựng cần tính đến xu hướng mở rộng của thị trường cũng như khả năng nâng cấp trên cơ sở đã có. Tránh tình trạng khi thị trường phát triển, phải thay đổi mô hình hệ thống gây lãng phí và khó khăn cho quá trình chuyển đổi.
- Bên cạnh đó, cần xây dựng và phát triển các tổ chức trung gian cho hoạt động của thị trường chứng khoán như: công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán, các công ty môi giới chứng khoán, công ty chứng khoán giao dịch cho chính mình, công ty tư vấn chứng khoán, các quỹ đầu tưXây dựng hệ thống các tiêu chuẩn kế toán Quốc tế áp dụng thống nhất trong ngành; đồng thời, phát triển các công ty kiểm toán đáp ứng yêu cầu thẩm định cả hai phía: các tổ chức phát hành chứng khoán và các tổ chức kinh doanh chứng khoán.
- Đào tạo cán bộ, nhân viên cho thị trường chứng khoán. Đây là một giải pháp có tính chiến lược vì thị trường chứng khoán là một lĩnh vực mới, kỹ thuật phức tạp, rủi ro cao. Các đối tượng cần đào tạo như: nhân viên giao dịch và tư vấn chứng khoán, các cán bộ giám sát và quản lý thị trường công tác tại uỷ ban chứng khoán, các cán bộ quản lý và điều hành tại sở giao dịch chứng khoán và các hệ thống phụ trợ.
Giải pháp về môi trường, thể chế cho việc thúc đẩy cổ phần hoá DNNN
Để thúc đẩy cổ phần hoá DNNN, một mặt chúng ta phải tích cực tạo ra các điều kiện khách quan về kinh tế, xã hội cần thiết. Mặt khác, phải đặc biệt coi trọng vai trò của nhân tố chủ quan trong việc đề ra các giải pháp về chế độ, chính sách và biện pháp triển khai.
2.1.Tăng cường công tác tư tưởng phục vụ cổ phần hoá:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cơ sở và toàn xã hội về quan điểm, chủ trương cổ phần hoá DNNN của Đảng và Chính phủ để có sự quan tâm và hưởng ứng tích cực. Cụ thể:
- Phải làm cho các cấp uỷ và chính quyền từ Trung ương đến địa phương, cán bộ, Đảng viên trong tất cả các cấp lãnh đạo và cơ sở quán triệt đầy đủ và thông suốt chủ trương của Đảng về cổ phần hoá DNNN : “Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá DNNN để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, sẽ có nhiều doanh nghiệp mà Nhà nước nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ từng trường hợp cụ thể; vốn huy động được phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh”
- Phải tổ chức tuyên truyền sâu rộng và giải thích cho người lao động trong các doanh nghiệp và toàn xã hội nhận thức đúng đắn về cổ phần hoá DNNN, đây là biện pháp để cơ cấu lại doanh nghiệp, từ đó lợi ích của các cổ đông, lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp, lợi ích của Nhà nước, của xã hội mới được đảm bảo bền vững.
- Phổ cập rộng rãi những kiến thức chủ yếu về đầu tư trong thị trường chứng khoán, về các tổ chức kinh tế trong đó có công ty cổ phần, thị trường chứng khoán và con đường cổ phần hoá DNNN
- Phổ biến kinh nghiệm và thông tin về những thành công của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá là rất cần thiết nhằm cũng cố, tăng cường niềm tin và sự ủng hộ của xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá DNNN.
Vấn đề nhận thức là rất quan trọng vì vậy để thúc đẩy triển khai cổ phần hoá DNNN, không nên xem nhẹ vai trò của việc cung cấp tri thức và công tác tư tưởng.
2.2.Khẩn trương triển khai, thực hiện các văn bản, quy chế hiện hành, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá
Trước đây, chúng ta triển khai, thực hiện cổ phần hoá DNNN trên cơ sở Nghị định 44/1998/NĐ-CP ban hành ngày 29/6/1998. Hiện nay, do yêu cầu đặt ra của thực tế cổ phần hoá DNNN, khắc phục, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy chế về cổ phần hoá đã ban hành ngày, 16/6/2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Đây là Nghị định đầy đủ nhất, có hệ thống từ mục tiêu, đối tượng áp dụng, đối tượng và điều kiện mua cổ phần, xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá; bán cổ phần và quản lý, sử dụng tiền thu từ bán phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hoá, đến chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá; quyền và nghĩa vụ của cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài và người sản xuất nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp chế biến nông phẩm thuỷ sản. Và tổ chức thực hiện. Vì vậy cần khẩn trương triển khai thực hiện nhằm thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hoá DNNN.
* Đơn giản phương thức cổ phần hoá:
Theo công văn số 4714/CV-TCKT ngày 26/11/2002 của Bộ Công Nghiệp, quy trình cổ phần hoá DNNN gồm bốn bước: chuẩn bị cổ phần hoá; xây dựng phương án cổ phần hoá; phê duyệt và triển khai thực hiện phương án cổ phần hoá; ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh. Đây là các bước đi cần thiết để chuyển một DNNN thành công ty cổ phần.
Song, không nhất thiết phải áp dụng lần lượt và đầy đủ các bước đi nêu trên đối với tất cả các DNNN cổ phần hoá. Chỉ những doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt mới phải lập phương án cụ thể, chi tiết. Còn những DNNN mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hoặc không có cổ phần thì chỉ cần xác định số lượng lao động cần giữ lại sau khi cồ phần hoá. Những vấn đề khác như phương án tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, đâu tư, do đại hội cổ đông quyết định (thực tế tại các DNNN cổ phần hoá cho thấy số đề án mang tính khả thi là rất ít, vì ít có tính phân tích chỉ là các đề án mang tính chuyển đổi).
Phương thức định giá doanh nghiệp cần được linh hoạt hơn. Những tài sản không sử dụng phải được xử lý kịp thời, không ép doanh nghiệp phải đưa vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá.
Chú trọng đến việc “chào bán công khai” trên thị trường chứng khoán và thông tin đại chúng.
* Mở rộng hình thức cổ phần hoá:
Nghị định 44-1998/NĐ-CP quy định bốn hình thức cổ phần hoá gồm: 1) Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn; 2) Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp; 3) Tách một bộ phận doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá; 4) Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Nhưng trong thực tế, các DNNN đã cổ phần hoá mới chỉ áp dụng bán phần vốn hiện có của Nhà nước, nên chưa có tác động trong đổi mới công nghệ, thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Vì vậy cần mở rộng hình thức phát hành cổ phiếu, gọi thêm vốn cổ phần để tăng cường vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trư những trường hợp doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, còn các doanh nghiệp khác thuộc diện cổ phần hoá có thể áp dụng chế độ bán toàn bộ tài sản của Nhà nước cho các nhà đầu tư.
2.3.Tăng cường công tác kế hoạch hoá:
* Lập danh sách cụ thể các DNNN thuộc diện tiến hành cổ phần hoá:
Căn cứ để triển khai công việc này là tiêu thức danh mục các loại DNNN để lựa chọn cổ phần hoá do Chính phủ ban hành kèm Nghị định 44/1998/NĐ-CP, chiến lược quy hoạch phát triển vùng và lãnh thổ. Chẳng hạn, cùng là một loại DNNN và cùng hoạt động trong một lĩnh vực cụ thể như nhau, nhưng DNNN ở thành phố và các trung tâm công nghiệp thì đưa vào danh sách, ngược lại các DNNN ở vùng sâu, vùng xa thì chưa đưa ra cổ phần hoá được. Vì vậy, đổi mới kinh tế không phải chỉ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, chỉ vì kinh tế, mà còn nhằm vào hiệu quả xã hội. Kết hợp hiệu quả xã hội với hiệu quả kinh tế, phát triển xã hội trong công bằng là một đặc trưng đổi mới ở nước ta.
* Xây dựng và triển khai kế hoạch:
Trên cơ sở danh sách các DNNN thuộc diện cổ phần hoá, cần chia các doanh nghiệp này thành các nhóm nhỏ hơn để xác lập lịch trình và phương án tiến hành cụ thể. Thông thường, các DNNN sẽ cổ phần hoá được chia làm ba nhóm:
+ Nhóm có khả năng cổ phần hoá ngay, đó là những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, quy mô vừa phải, sẵn sàng có “người mua” cổ phần
+ Nhóm các doanh nghiệp có khả năng phục hồi, cần cơ cấu lại, cấp thêm vốn đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ, sau đó sẽ tiến hành cổ phần hoá
+ Nhóm thứ ba là các doanh nghiệp không có khả năng phục hồi, làm ăn thua lỗ, công nghệ cũ kỹ, lạc hậu. Các doanh nghiệp này sẽ được thanh lý.
Như vậy chọn đúng doanh nghiệp để tiến hành là công việc quan trọng có ý nghĩa quyết định. Lựa chọn đúng không chỉ giúp cho quá trình cổ phần hoá diển ra nhanh chóng, đúng tiến độ mà còn làm cho xã hội quan tâm và việc bán cổ phần thuận lợi. Vì vậy, cần động viên các DNNN có đủ điều kiện cổ phần hoá chủ động đăng ký thực hiện. Điều kiện lựa chọn các doanh nghiệp để cổ phần hoá cần phải theo những tiêu chuẩn khách quan như: mức lãi trên vốn Nhà nước qua một số năm (3 năm) ổn định; sản phẩm đầu ra được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận; có mức doanh thu bán hàng tương đối ổn định trong một số năm; tình hình công nợ không lưu cữu lâu năm mà là nợ những năm gần nhất, nguồn gốc công nợ và khả năng thanh toán rõ ràng; khả năng rõ rệt về sự quan tâm của xã hội và khả năng tiêu thụ cổ phiếu dễ dàng.
* Theo dõi kiểm tra và tổng kết thực hiện:
Vì cổ phần hoá là một việc làm còn mới mẻ và phức tạp nên phải chủ động nghiên cứu vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của các nước, làm thử và rút kinh nghiệm. Do đó theo dõi kiểm tra và tổng kết thực hiện kế hoạch là rất cần thiết để kịp thời xử lý, điều chỉnh và đảm bảo mục tiêu, tiến độ kế hoạch đề ra.
Đảm bảo tính hiệu quả của cổ phần hoá
Việc triển khai cổ phần hoá DNNN phải khẩn trương tích cực, song phải đảm bảo yêu cầu vững chắc và có hiệu quả. Để làm được điều đó cần:
- Xác định hợp lý giá trị doanh nghiệp, không để gây ra những thất thoát, tiêu cực:
Theo Nghị định số 64/ 2002/ NĐ-CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ, giá trị thực tế doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá có tính tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi phải trừ các khoản phải trả và số dư quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi.
Việc xác định giá trị doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, Nghị định số 64/ 2002/ NĐ-CP ngày 19/6/2002 đưa ra các căn cứ xác định giá trị tài sản thực tế doanh nghiệp, cụ thể:
+ Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá
+ Số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại tài sản thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá
+ Tính năng kỹ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá
+ Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lý, uy tín của doanh nghiệp, tính chất độc quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu (nếu có)
+ Khả năng sinh lời của doanh nghiệp xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận trên vốn của chủ sở hữu của doanh nghiệp
Như vậy việc xác định giá trị doanh nghiệp phải đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp nói chung và của toàn xã hội, phải làm sao để người bán khỏi bị thiệt, người mua cảm thấy mua được. Thực hành công khai trong xác định giá trị doanh nghiệp tránh xảy ra thất thoát, tiêu cực.
- Chính sách đối với doanh nghiệp cổ phần hoá: Quy định tại Điều 26 Nghị định 64/ 2002/ NĐ-CP ngày 19/6/2002:
+ Được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước như đối với doanh nghiệp thành lập mới mà không cần phải làm thủ tục cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư.
+ Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của DNNN cổ phần hoá thành sở hữu của công ty cổ phần.
+ Được tiếp tục kinh doanh những ngành nghề đã đăng ký và miễn lệ phí, cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi chuyển từ DNNN thành công ty cổ phần.
+ Được duy trì các hợp đồng thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp khác hoặc được ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá để ổn định sản xuất kinh doanh.
+ Được hưởng các quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai trong trường hợp giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá đã bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất
+ Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đối với DNNN
+ Được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật như: các công trình văn hoá, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng, nhà trẻ để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu của tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức công đoàn.
+ Được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước các khoản chi phí thực tế, hợp lý và cần thiết cho quá trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần (bao gồm cả phí thuê tư vấn, định giá) theo mức quy định của Bộ Tài Chính
- Các chính sách đối với doanh cổ phần hoá đã được ban hành, song điều quan trọng là phải làm cho nó được thể hiện trên thực tế để các DNNN cổ phần hoá thực sự được hưởng những ưu đãi trên
- Chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá:
+ Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp cổ phần hoá tại thời điểm quyết định cổ phần hoá được Nhà nước bán tối đa 10 cổ phần cho mỗi năm đã làm việc tại khu vực kinh tế Nhà nước với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Trị giá mỗi cổ phần là 100.000đ
+ Người lao động sở hữu số cổ phần mua theo giá ưu đãi có quyền để thừa kế và các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức hoạt động của công ty cổ phần. Cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu ghi tên và địa chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua. Công ty cổ phần ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm bán.
+ Người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần được mua chịu cổ phần theo giá ưu đãi, được hoãn trả trong 3 năm đầu và trả dần tối đa trong 7 năm tiếp theo không phải chịu lãi suất. Số cổ phần mua trả dần dành cho người lao động nghèo không quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp. Cổ phiếu của loại cổ phần là có ghi tên. Người sở hữu cổ phần này chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua và trả hết nợ cho Nhà nước.
+ Người lao động chuyển sang làm việc cho công ty cổ phần tiếp tục tham gia và hưởng quyền bảo hiểm theo quy định hiện hành.
+ Người lao động đã có đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí tại thời điểm cổ phần hoá được giải quyết quyền lợi theo chế độ hiện hành.
+ Người lao động mất việc, thôi việc tại thời điểm cổ phần hoá được thanh toán trợ cấp mất việc, thôi việc theo quy định của pháp luật.
+ Sau khi DNNN chuyển thành công ty cổ phần, nếu do nhu cầu tổ chức lại hoạt động kinh doanh, thay đổi công nghệ dẫn đến người lao động ở DNNN chuyển sang bị mất việc hoặc thôi việc, kể cả trường hợp người lao động tự nguyện thôi việc, thì được giải quyết như sau:
. Trong 12 tháng, kể từ ngày công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nếu người lao động bị mất việc do cơ cấu lại thuộc đối tượng hưởng chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN theo Nghị định số 41/ 2002/ NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ thì được Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư hỗ trợ
Các đối tượng lao động thôi việc, mất việc còn lại thì được hưởng trợ cấp mất việc, thôi việc theo quy định của pháp luật lao động hiện hành và được quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá DNNN hỗ trợ.
. Trường hợp người lao động bị mất việc, thôi việc trong 4 năm liên tiếp theo thì công ty cổ phần có trách nhiệm thanh toán 50% tổng mức trợ cấp theo quy định của bộ luật Lao động, số còn lại được quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá DNNN thanh toán. Hết thời hạn trên, công ry cổ phần chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ trợ cấp cho người lao động
+ Đối với lao động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá cần được đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới trong công ty cổ phần thì Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho công ty cổ phần để tổ chức đào tạo, đào tạo lại từ quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá DNNN
3.Giải pháp về tổ chức cổ phần hoá
Cổ phần hoá DNNN là một chủ trương lớn, có tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta. Do vậy để triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hoá, bên cạnh các giải pháp tạo thêm cơ sở kinh tế khách quan nghiên cứu bổ sung hoàn thiện chế độ chính sách và biện pháp triển khai cổ phần hoá, cần chú ý tới các giải pháp về tổ chức cổ phần hoá
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng đối với công tác cổ phần hoá DNNN
Có thể khẳng định sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành quả của cổ phần hoá.
Trong các kỳ đại hội Đảng VII, VIII, IX, Đảng ta luôn khẳng định cổ phần hóa DNNN là một giải pháp quan trọng xuất phát từ yêu cầu phát triển DNNN nhằm huy động vốn cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để đầu tư mở rộng ngành nghề, hiện đại hoá công nghệ, tạo thêm việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách và thu nhập cho người lao động, làm cho tiềm lực của Nhà nước tăng lên
Nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là làm cho các chủ trương của Đảng thực sự đi vào cuộc sống. Để làm được điều đó cần:
- Tăng cường công tác tư tưởng trong toàn Đảng nhằm quán triệt đầy đủ và thông suốt chủ trương cổ phần hoá DNNN, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái để có sự thống nhất cao trong các cấp uỷ từ Trung ương đến địa phương về chủ trương đúng đắn này
- Tăng cường vai trò của tổ chức cơ sở Đảng tại các doanh nghiệp trong chỉ đạo triển khai cổ phần hoá, chỉ đạo hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi chuyển thành công ty cổ phần, nhằm thực hiện nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
- Hết sức chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ quản lý, nhà doanh nghiệp và các chuyên gia có đủ đức đủ tài, tuyển chọn cán bộ, tuyển chọn nhân tài phục vụ có hiệu quả viêc triển khai cổ phần hoá và phát triển công ty cổ phần
- Thực hiện tốt quy chế dân chủ, tăng cường công tác kiểm tra và kỷ luật để chủ trương cổ phần hoá DNNN của Đảng được thực hiện nghiêm túc và đạt hiệu quả, khắc phục những biểu hiện tiêu cực.
3.2. Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá
Cổ phần hoá DNNN là một bước ngoặt trong đời sống kinh tế của công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp. Vì vậy, các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp như công đoàn, Đoàn Thanh niên có vai trò quan trọng trong việc giải toả những vướng mắc về tư tưởng, đề xuất cấp trên giải quyết những nguyện vọng chính đáng của người lao động. Các tổ chức đoàn thể, nhất là công đoàn, còn tham gia tích cực vào việc chuẩn bị nhân sự cho hội đồng quan trị, xây dựng điều lệ của công ty cổ phần, đại hội cổ đôngPhát huy vai trò của đoàn thể phải được xem là một giải pháp cần thiết không thể thiếu được của cổ phần hoá cũng như trong quá trình phát triển công ty cổ phần.
Kết luận
Từ những phân tích trên cho thấy, cổ phần hoá DNNN thực sự là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta cần phải được đẩy nhanh và mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hoá. Cổ phần hoá DNNN sẽ giúp cho DNNN hoạt động hiệu quả hơn, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như các sản phẩm trong và ngoài nước; góp phần nâng cao vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước.
Thực tiễn hơn 10 năm thực hiện cổ phần hoá DNNN, các công ty cổ phần đã và đang từng bước đi lên làm ăn hiệu quả, đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển chung của công cuộc đổi mới. Tuy vẫn còn những hạn chế và yếu kém nhất định song đây là một việc làm hết sức mới mẻ ở nước ta. Vì vậy với những quan điểm có tính chất định hướng và một số giải pháp cụ thể, hợp lý DNNN cổ phần hoá sẽ ngày càng phát huy mặt mạnh, hạn chế những yếu kém, khắc phục tồn tại nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, góp phần ổn định chính trị xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế.
Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN là một việc làm có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Vì vậy cần phải tập trung nhiều nỗ lực của Đảng, Nhà nước, các cấp, ngành, các tổ chức đoàn thể và nhân dân nhằm đẩy nhanh và hiệu quả hơn nữa quá trình cổ phần hoá.
Trên đây là một số nghiên cứu của em về cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam. Đây là một công việc còn hết sức mới mẻ đối với em cộng với khả năng và trình độ, thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên không khỏi còn nhiều thiếu sót. Em rất hy vọng sẽ nhận được sự chỉ bảo tận tình của thầy cô và ý kiến đóng góp xây dựng của bạn bè để đề tài này đươc tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2) Một số chỉ tiêu tài chính của 5 DNNN đầu tiên chuyển sang CTCP
Tên CTCP
Doanh thu (tr.đ)
Lợi nhuận trước thuế (tr.đ)
Thu nhập bình quân của LĐ/tháng (nghìn đ)
Trước CPH
Năm 1996
%
Trước CPH
Năm 1996
%
Trước CPH
Năm 1996
%
Đại lý LHVC
28.374
122.877
433,1
8.515
43.545
551,4
950
2.500
2.631,2
Cơ điện lạnh
42.525
307.095
726,8
6.889
34.507
500,9
932
1.477
158,5
Giày Hiệp An
4.772
5.330
111,7
-4
450
454,0
466
600
128,8
CBXK Long An
45.565
54.184
119,9
2.656
2.643
99,5
403
412
102,2
CBTA gia súc
28.231
72.110
2.551,4
2.824
7.211
255,3
961
1.250
230,1
Tổng cộng:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV162.doc