Điều này được chứng tỏ qua dung lượng thị trường, năng lực sản xuất dệt may tại thị trường EU và khuynh hướng thời trang trong thời gian tới để thấy được tiềm năng của thị trường EU cho hàng may mặc
Kim ngạch nhập khẩu dệt may vào EU hàng năm lên tới trên 60 tỷ USD hàng năm, là nơi nhập khẩu nhiều nhất về hàng dệt may trên thế giới sau Mĩ. Trong khi đó theo số liệu năm 2002, Việt Nam xuất sang thị trường EU là 550 triệu USD, có nghĩa là chưa tới 1% của dung lượng thị trường.
Sản xuất trang phục tại EU trong năm 2000 tiếp tục giảm. Tuy nhiên với mức giảm 5% chỉ giảm bằng một nửa so với năm 1999. Trong năm 2000 sản lượng sụt giảm mạnh ở mức 9.6%, đây là mức sụt giảm lớn nhất trong thập kỷ 1990.
Số lượng lao động trong ngành may giảm 3.7% trong năm 2000, chỉ còn 1.5 triệu, trong số đó khoảng 1/3 làm việc trong lĩnh vực hàng dệt kim. Số lượng doanh nghiệp cũng giảm. Sau một sự sụt giảm mạnh về doanh số tại EU trong ngành trang phục và trong sản xuất hàng dệt kim năm 1999 (tương ứng ở mức –4.8% và -3.4%), giá trị sản xuất trong năm 2000 tăng trong cả 2 khu vực trên ở mức 3.8% và 3.1%, bất chấp có sự suy giảm trong sản xuất. Lý do cho sự tăng trưởng này là do tiêu dùng tăng lên trong thị trường nội địa và xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng cũng như một vài thị trường Châu á được khuyến khích bởi sự suy yếu của đồng Euro đã tạo ra một thị trường người mua tại năm này.
60 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MFN). Đây là nhóm mặt hàng EU không khuyến khích nhập khẩu.
+ Nhóm 3: Sản phẩm bán nhậy cảm: bao gồm phần lớn thuỷ sản đông lạnh được hưởng mức thuế suất GSP bằng 35% thuế suất tối huệ quốc (MFN). Đây là nhóm mặt hàng EU khuyến khích nhập khẩu.
+ Nhóm 4: Sản phẩm không nhậy cảm: chủ yếu là một số loại thực phẩm, đồ uống , nguyên liệu, nông sản v.v... được hưởng mức thuế GSP bằng 0%-10% thuế suất tối huệ quốc (MFN). Đây là nhóm mặt hàng EU đặc biệt khuyến khích nhập khẩu.
Hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) từ 1/7/1996 cho đến nay. Thuế đánh vào hàng dệt may của Việt Nam hiện nay là từ 6.8% đến 11.2% cho các sản phẩm có mã HS 61.01 đến 61.10 và 62.01 đến 62.06.
Tiêu chuẩn kỹ thuật
Hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật là biện pháp phi thuế quan chính mà EU áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước ngoài liên minh, đây là hệ thống bảo hộ bằng rào cản kỹ thuật hiệu quả nhất thế giới hiện nay và hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thương mại thế giới. Hệ thống rào cản kỹ thuật: được cụ thể hoá ở 5 tiêu chuẩn của sản phẩm: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động.
- Đối với tiêu chuẩn chất lượng: Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy ở các nước đang phát triển Châu á và Việt Nam, hàng của những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng hoá của các doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này.
Tổ Chức Quốc Tế Tiêu Chuẩn Hoá(International Organization for Standardisation – ISO) phát triển và một cách tổng quát chấp nhận sêri ISO 9000 nhằm cung cấp một cơ sở cho quản lý và đảm bảo chất lượng. Các nhà sản xuất xem chứng nhận ISO 9001, ISO 9002 như là một tài sản quan trọng và như 1 điểm bắt đầu để cạnh tranh trong thị trường EU. Chứng nhận ISO sẽ tạo một niềm tin mạnh mẽ của đối tác. Giấy chứng nhận ISO chỉ có giá trị trong 3 năm, do vậy để tiếp tục duy trì ISO, các đợt kiểm toán nội bộ (1-2 lần/năm) và kiểm toán từ bên ngoài (2 lần trong năm) cần được thực hiện. Điều này có nghĩa là công ty cấn phải có 1 người quản lý chịu trách nhiệm cho chính sách về quản lý chất lượng.
+ Đối với tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm: Các công ty chế biến thực phẩm phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Về phương diện này, việc áp dụng hệ thống HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point) là rất quan trọng và gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các xí nghiệp chế biến thủy hải sản của các nước đang phát triển muốn xuất khẩu sản phẩm vào thị trường EU.
HACCP (the Hazard Analysis Critical Control Point system) được áp dụng cho ngành công nghiệp thực phẩm. Chỉ thị về vệ sinh thực phẩm (93/43/EC) có hiệu lực từ tháng 1/1996 xác định rằng “các công ty thực phẩm sẽ xác định từng khía cạnh của các hoạt động ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm và bảo đảm rằng các biện pháp an toàn có thể có sẽ được thiết kế, áp dụng, thực hiện và kiểm tra lại trên cơ sở của hệ thống HACCP.
+ Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng: Ký mã hiệu trở nên quan trọng số 1 trong việc lưu thông hàng hoá trên thị trường EU. Các sản phẩm có liên quan tới sức khoẻ của người tiêu dùng phải có ký mã hiệu theo qui định của EU. Ví dụ, ký mã hiệu CE bắt buộc đối với đồ chơi, thiết bị điện áp thấp, thiết bị y tế, nguyên vật liệu xây dựng,v.v... .
Mục đích của nhãn CE là đặt ra yêu cầu chung đối với các nhà sản xuất nhằm chỉ đưa ra những sản phẩm an toàn tại thị trường EU. Nhãn CE được coi là một giấy thông hành của nhà sản xuất lưu thông nhiều sản phẩm công nghiệp như máy móc thiết bị, các thiết bị điện có hiệu điện thế thấp, đồ chơi, các thiết bị an toàn cá nhân, các thiết bị y tế… trên thị trường EU. Tuy nhiên nhãn CE không áp dụng cho tất cả các hàng hoá công nghiệp. Nhãn CE không chỉ là ràng buộc duy nhất đối với sản phẩm. Nhãn CE không áp dụng cho các sản phẩm trang trí nội thất, quấn áo và các sản phẩm da. Nhãn CE chỉ ra rằng sản phẩm tuân thủ các yêu cầu về luật định và có thể được áp dụng về an toàn, sức khoẻ, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng. Cần phải chú ý rằng, nhãn CE không đảm bảo về chất lượng sản phẩm.
+ Đối với tiêu chuẩn bảo vệ môi trường: Thị trường EU yêu cầu hàng hoá có liên quan đến môi trường phải dán nhãn theo qui định (nhãn sinh thái, nhãn tái sinh) và có chứng chỉ được quốc tế công nhận. Ví dụ, tiêu chuẩn GAP (Good agricultural Practice) và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels) đang ngày càng được phổ biến, chứng tỏ các cấp độ khác nhau về môi trường tốt. Ngoài ra, các công ty ngày càng được yêu cầu phải tuân thủ hệ thống quản lý môi trường (các tiêu chuẩn ISO14000) và các bộ luật mang tính xã hội về đạo đức. Tiêu chuẩn The social Accountability 8000 sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong những năm tới.
+ Đối với tiêu chuẩn về lao động: Uỷ Ban Châu Âu (EC) đình chỉ hoạt động của các xí nghiệp sản xuất nội địa ngay khi phát hiện ra những xí nghiệp này sử dụng lao động cưỡng bức và cấm nhập khẩu những hàng hóa mà quá trình sản xuất sử dụng bất kỳ một hình thức lao động cưỡng bức nào như được xác định trong các Hiệp ước Geneva ngày 25/9/1926 và 7/9/1956 và các Hiệp ước Lao động Quốc tế số 29 và 105 (Theo “Những điều cần biết về thị trường EU”, trang 42). Ví dụ, các hình thức lao động cưỡng bức như: lao động tù nhân, lao động trẻ em,v.v... .
Các yêu cầu kỹ thuật đối với hàng dệt may Việt Nam khi xuất vào EU
Về tiêu chuẩn: không có một chuẩn thống nhất cho hàng may mặc tại EU. Mỗi quốc gia thành viên có những yêu cầu riêng về chất lượng tuỳ theo loại vải, sợi, kích cỡ và màu sắc.
Nhãn và đóng gói: bao bì đóng gói phải đủ vững chắc để giữ cho hàng hoá có thể chống đỡ lại những thay đổi khi vận chuyển, xử lý. Ngoài ra các sản phẩm cũng được yêu cầu chống lại sự thay đổi của thời tiết, thay đổi nhiệt độ và xử lý không cẩn thận và chống mất mát. Với lý do môi trường trong 1 vài trường hợp các loại bao bì bằng PVC không được các chính phủ cho phép, các nhà xuất khẩu tại Việt Nam cần phải thảo luận với khách hàng của mình và cần phải dự đoán trước các chi phí đóng gói đặc biệt trong chi phí bán của họ nếu có yêu cầu.
Nhìn chung có 2 loại nội dung trên nhãn của sản phẩm:
Các yêu cầu bắt buộc như xuất xứ, tỉ lệ sợi, khả năng dễ cháy.
Các yêu cầu không bắt buộc :hướng dẫn giặt tẩy, nhẵn, kích cỡ.
Các vấn đề về môi trường
Nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái EU – The EU ecolabel;
Milieukeur: các yêu cầu tập trung trong sản xuất sợi;
OKO-Tex: Tập trung nhiều vào sản phẩm cuối cùng, nhiều tại Đức;
SKAL: Tập trung nhiều vào quá trình sản xuất, áp dụng nhiều tại Hà Lan và Đức;
Nhãn SG: Nhằm hạn chế một số chất độc hại như: formaldehyde, pentachloropenol (PCP), chlorified phenols (non-PCP),thuốc trừ sâu, cadmium,thuỷ ngân, nickel, chromium
Các điều kiện về lao động ( các vấn đề cần quan tâm là)
Thanh toán lương hợp lý;
Tự do tổ chức và thoả ước tập thể;
Không buộc làm việc ngoài giờ;
Không phân biệt đối xử;
Không có lao động trẻ em;
Đảm bảo các điều kiện an toàn và sức khoẻ tại nơi làm việc.
Các tiêu chuẩn về môi trường ISO 14000 trong in và nhuộm: 1 vài hướng dẫn là nhuộm với tỉ lệ sợi/nước cao, tránh nhuộm cho 1 lô nhỏ, kiểm tra khả năng thay đổi màu của những lô sau. Các chất nhuộm màu hữu cơ hoặc các chất độc hại, có thể bị hạn chế.
Thuế và quota
Thuế từ 6.8% đến 11.2% cho các sản phẩm có mã HS 61.01 đến 61.10 và 62.01 đến 62.06.
Quota được ấn định trên cơ sở từng quốc gia.
2.3.2.2`Cạnh tranh từ phía Trung Quốc (đối thủ lớn nhất trong ngành)
Trước ngày 1/1/2005, theo thoả thuận toàn cầu MFA đạt được ở hội nghị WTO năm 1995, các nước đang phát triển được hưởng phần hạn ngạch do các nước phát triển cấp cho và điều này đã nuôi sống nhiều ngành dệt may đang còn non trẻ phát triển trong đó có Việt Nam và cũng là hình thức bảo hộ của các doanh nghiệp dệt may tại các nước phát triển. Điều này làm kìm hãm sự bùng nổ của Trung Quốc, đất nước có dân số 1,2 tỉ người, với quá nhiều tiềm năng trong ngành dệt may. Nhờ đó sản phẩm dệt may của Việt Nam vẫn có thể cạnh tranh nhờ quota. Có thể điều này còn có thể kéo dài được trong thời gian ngắn khi mà công nghệ thiết kế mẫu của VN chưa phát triển nên hàng may mặc xuất khẩu của VN chủ yếu là gia công cho nước ngoài.
Nhưng theo báo cáo của Tổ chức Thương mại Thế Giới (WTO), kể từ năm 2005 Trung Quốc sẵn sàng chiếm lĩnh thị trường dệt may thế giới trị giá hơn 400 tỷ USD, theo đó các nước giàu có như Mỹ, Canada và Liên hiệp Châu Âu (EU) không được phép bảo hộ ngành dệt may trong nước bằng hình thức quota, giá trần v.v.. đối với hàng dệt may nhập khẩu từ các nước khác. Lúc đó, hàng dệt may giá thấp, chất lượng tốt sẽ được xuất khẩu thả đàn và các chuyên gia cho rằng hàng Trung Quốc và ấn Độ sẽ không có đối thủ.
Một ví dụ điển hình tại thị trường tiêu thụ sản phẩm lớn nhất thế giới Mỹ thì TQ có thể chiếm 80% thị trường dệt may Mỹ vì các nhà nhập khẩu Mỹ có thể đặt TQ làm cho họ bất cứ sản phẩm dệt may nào mà họ muốn với giá cả và chất lượng rất cạnh tranh.
Điểm mạnh của hàng dệt may Trung Quốc đó là:
Nguồn lao động và nguyên vật liệu rẻ, tỉ lệ nội địa hoá cao.
Có sự hỗ trợ mạnh từ ngành công nghiệp dệt
Có nhiều quan hệ với nhà nhập khẩu Mỹ
Nhạy bén thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường dệt may
Công nghệ hiện đại
Là thành viên của WTO và ATC, được gỡ bỏ hạn ngạch vào năm 2005
Những bất lợi về cạnh tranh :
Trình độ lao động thấp
Hoạt động kinh doanh theo mô hình Opaque
Thị trường EU chiếm 40% kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam, Nhật Bản 23%, trong khi thị trường Mỹ chỉ chiếm khoảng 2%. Trong cả ba thị trường này, hàng dệt may của TQ đều đứng đầu.
Ngành dệt may Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu của ngành may, trong khi hầu hết nguyên liệu ngành may của TQ được sản xuất trong nước, giá thành sản phẩm của VN lại cao hơn 15-20% so với sản phẩm cùng loại của TQ. Theo các nhà mua hàng đến từ Mỹ, tuy giá lao động dệt may ở VN dao động từ 28-48 USD/tháng là rất cạnh tranh nếu so sánh với giá lao động ở TQ (trung bình 73 USD/tháng) nhưng hiệu quả của các nhà máy VN chỉ bằng 60% so với các nhà máy TQ.
Trung Quốc, ấn Độ và Pakistan được dự báo sẽ là các nước hưởng lợi nhiều nhất khi hạn ngạch dệt may được dỡ bỏ. Những nước này có lợi thế nhờ giá cả lao động và năng suất. Trung Quốc còn tranh thủ đông vốn và kênh phân phối, hệ thống bán hàng chân rết từ vô số các công ty kinh doanh thương mại ở HongKong và Đài Loan. Vì thế, theo Ngân hàng thê giới, khi chế độ hạn ngạch dệt may không còn nữa, thị trường quần áo toàn cầu sẽ nằm trong tay các công ty dệt may Trung Quốc, sẽ từ 17% như hiện nay tăng lên thành 45%. Hiện nay con số 60 tỉ USD Trung Quốc thu được từ công nghiệp dệt may đã có 6,5 tỉ USD là từ việc xuất khẩu áo quần sang Mỹ nhưng khi không còn bị giới hạn bởi hạn ngạch, giá trị hàng may của Trung Quốc nhập vào Mỹ có thể lên đến 40 tỉ USD vào năm 2010.
Hiện nay hàng dệt may của TQ xuất vào EU có nhiều lợi thế như họ hoàn toàn tự túc và chủ động nguồn nguyên liệu, chi phí sản xuất lại thấp, giá thành rất hạ…Hoặc so với các đối thủ trong khu vực về mật hàng dệt may như Philippines, Thái Lan, Indonesia thì trình độ công nghê của họ đều đi trước ta nhiều năm, hơn nữa họ rất nhậy bén, thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường nên sản phẩm thường rất sinh động.
2.3.2.3Nguyên phụ liệu cho ngành dệt may:
Trong mức tăng 19,72% năm 2003 của hoạt động xuất khẩu, riêng mặt hàng dệt may đã đóng góp 5,08%. Tuy mức đóng góp này vẫn thua kém mặt hàng “đầu bảng” là dầu thô (ước tăng 1,185 tỉ USD, tương ứng với mức tăng kỷ lục 47,12%, đóng góp 7,09% vào mức tăng trưởng chung), nhưng khác với xuất khẩu dầu thô là “bóc” tài nguyên đem bán, đây lài là mặt hàng chế biến sâu đầu tiên vượt “ngưỡng” 3 tỉ USD, thể hiện rất rõ nét bước tiến quan trọng của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập.
Mặc dù vây, cũng không thể phủ nhận rằng, tuy xuất khẩu hàng dệt may có bước tiến vượt bậc, nhưng phần đóng góp của ngành kinh tế mũi nhọn này vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế lại rất không tương xứng. Nhận định này dựa vào những căn cứ sau đây:
Trước hết, nhìn một cách tổng quát, tuy xuất khẩu hàng dệt may tăng nhanh, nhưng nhập khẩu các loại vật tư cần thiết cho ngành này còn tăng nhanh hơn nhiều.
Cụ thể, theo ước tình của Bộ Thương Mại, chỉ riêng kim ngạch nhập khẩu bốn loại vật tư chủ yếu gồm bông, sợi, vải và nguyên phụ liệu dệt may trong năm 2003 này đã đạt 4,152 tỷ USD, tăng 33,16% so với năm 2002, tức là tăng cao hơn so với tăng trưởng của hàng dệt may xuất khẩu. Sự gia tăng mạnh hơn trong nhập khẩu các loại vật tư nói trên có thể còn do sự gia tăng nhu cầu hàng dệt may của thị trường trong nước, nhưng chắc chắn, việc tăng giá của các mặt hàng này trên thị trường thế giới cũng giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Chẳng hạn, các số liệu thống kê của Bộ Thương Mại cho thấy, ước giá sợi nhập khẩu tăng khoảng 16%, giá bông nhập khẩu tăng trên 11%…
Điều này có nghĩa là, chẳng những xuất khẩu hàng dệt may gây nhập siêu (ước đạt mức kỷ lục trong năm 2003 này), mà điều còn quan trọng hơn nữa là, hiệu quả thu được trong xuất khẩu mặt hàng này chí ít là tăng không tương ứng, nếu như không muốn nói là đã giảm. Hơn thế nếu quan sát kỹ hơn, có thể thấy, nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu các mặt hàng này trong ba năm qua cũng rất khác nhau. Cụ thể, vẫn theo các số liệu thống kê của Bộ thương mại, cũng lấy năm 2000 làm cơ sở, trong khi xuất khẩu hàng dệt may tăng 90,27%, thì có ba mặt hàng nhập khẩu tăng thấp hơn là bông (30,95%), nguyên phụ liệu (30,95%) và sợi 76,14%), riêng nhập khẩu vải tăng vọt tới 379,23%.
Bảng 2.3. Tình hình nhập khẩu bông & sơ sợi dệt
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Bông (1000 tấn)
41,5
67,6
83,3
90,4
98,0
98,0
91,0
Tơ,Sợi và sợi dệt
(triệu USD)
192,4
244,5
263,0
326,4
347,5
391,6
298,3
(Nguồn:Tổng cục thống kê Bộ thương mại. www.gso.gov.vn)
Bảng 2.4. Tình hình nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt, may, da
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
NPL dệt,may
(triệu USD)
1239,6
709,7
1095,8
1421,7
1589,6
1710,9
2033,6
(Nguồn:Tổng cục thống kê Bộ thương mại. www.gso.gov.vn)
Những số liệu đó chứng tỏ rằng, nếu như công nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu trong nước phục vụ may xuất khẩu đã có những bước tiến nhất định, thay thế được một phần hàng xuất khẩu, thì hai ngành công nghiệp sợi và công nghiệp dệt đều bất cập, còn nông dân trồng bôn của nước ta thì hầu như vẫn còn đứng ngoài cuộc. Hơn thế, trong khi giá bông thế giới tăng khoảng 40% so với cuối năm 2002, làm cho giá thành của các doanh nghiệp dệt trong nước tăng khoảng 15-20%, thì diện tích trồng bông của nông dân nước ta vụ này giảm khoảng 20-23% so với vụ trước, cho nên sản lượng bông vẫn chỉ đáp ứng khoảng 10% nhu cầu của ngành dệt.
Ngược lại, doanh nghiệp may phần lớn là gia công xuất khẩu (60-70%) nên thường khách hàng nước ngoài chỉ định nguồn nguyên phụ liệu nước ngoài vì thế ít quan tâm khai thác vải của các doanh nghiệp dệt trong nước cho dù vải của các doanh nghiệp dệt trong nước có cùng chủng loại không thua kém gì về mặt chất lượng. Hơn nữa, mua vải của nước ngoài, ngoài yếu tố chất lượng đảm bảo, thì dịch vụ hậu mãi của họ lại rất tốt. Nếu như lô vải mua về không đảm bảo về yêu cầu chất lượng cũng như mẫu thì đối tác cung cấp sẽ sẵn sàng đổi lại, thậm chí bỏ cả lô hàng vải xấu đó, cung cấp lô vải mới khác cho doanh nghiệp Việt Nam. Điều này đối với doanh nghiệp Việt Nam hiếm có doanh nghiệp nào làm được. Mặt khác chất lượng hàng hoá, phụ liệu sản xuất trong nước cũng lại không đảm bảo. Một số chủng loại sản phẩm trong nước chưa sản xuất được như vải làm áo Jacket, sơ mi, quần tây, vải may comple, phụ kiện như cúc áo, xơ sợi tổng hợp, sợi phi lamăng, tạo mốt cho vải, quần áo…
Như vậy có thể thấy rằng, tuy ngành công nghiệp may xuất khẩu của nước ta đã có những bước tiến vượt bậc trong hai năm 2002 và 2003, chủ yếu do khai thác được thị trường hàng dệt may Hoa Kỳ, song vai trò của nó trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển thì hoàn toàn không tương xứng, bởi việc nhập khẩu các loại vật tư phục vụ cho ngành công nghiệp may tăng đột biến không có gì khác hơn là góp phần thúc đẩy sự phát triển của các nền kinh tế một số nước trong khi vực mà chúng ta đang phải nhập siêu quá lớn.
2.3.2.4 Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam:
Trước hết phải nói rằng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam là chưa cao. Điều nay khẳng định qua những bất cập:
- Nhà xưởng thiết bị công nghệ của ngành dệt may còn lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu mới, năng suất lao động thấp. Ngay như trong khu vực, trang thiết bị của ta so sánh với Thái Lan, Indonesia và Philippin đã có khoảng cách khá lớn. Chưa kể các doanh nghiệp hầu hết là sản xuất nhỏ, chưa có nhiều sự chủ động về tài chính, khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp chưa có nhiều.
- Phần lớn nguyên phụ liệu đầu vào phải nhập khẩu và chi phí vận chuyển cao. Phải khẳng định là việc nhập khẩu nguyên phụ liệu cho ngành dệt may góp phần vào tình hình nhập siêu của nước ta rất nhiều. Nguyên nhân chính là các doanh nghiệp gia công quá nhiều và phải nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài, trong khi ngành bông và dệt của chúng ta rất có tiềm năng. Hơn thế nữa, việc các dịch vụ thiết yếu cho phân phối cao là nguyên nhân giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Cơ cấu mặt hàng đơn giản, kiểu cách mẫu mã, bao bì đơn điệu, chưa đáp ứng được sự thay đổi nhu cầu thường xuyên của thị trường quốc tế. Điều này có nguyên nhân từ thiết kế, tạo mẫu chưa phát triển, nên các doanh nghiệp vẫn hoạt động không có định hướng, chứ chưa thể có sự chủ động trong hoạt động nghiên cứu nhu cầu, tìm hiểu thị trường và cung cấp được. Điều này càng khó cho các doanh nghiệp trong quá trình xây dựng thương hiệu, tăng giá trị gia tăng trong sản phẩm và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tỷ trọng sản phẩm gia công hoặc xuất khẩu qua khẩu trung gian còn cao. Sau một thời gian khá dài làm gia công hoặc xuất khẩu qua trung gian mà các doanh nghiệp vẫn chưa tiếp cận trực tiếp được với nhiều khách hàng. Số lượng doanh nghiệp xuất theo FOB còn rất thấp, theo tình toán của nhiều doanh nghiệp, xuất khẩu thao FOB kém hiệu quả do nguyên phụ liệu của ngành dệt may trong nước không đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Một hạn chế khác là vốn của doanh nghiệp Việt Nam còn ít, không đủ năng lực để làm một đơn hàng theo giá FOB. Đa số các doanh nghiệp cũng chưa quen làm những đơn hàng này.
- Lợi thế của những doanh nghiệp nhỏ khi phải cạnh tranh trên sân chơi chung khi Việt Nam gia nhập WTO là quy mô của công ty nhỏ, thiết bị máy móc dễ dàng thay đổi để đáp ứng từng đơn hàng cụ thể của các doanh nghiệp nước ngoài với số lượng nhỏ, nhưng có giá trị cao. Doanh nghiệp cần tìm ra những khe hở thị trường để cạnh tranh được với hàng dệt may Trung Quốc. Phải tìm ra thế mạnh của mình để cạnh tranh, xem những nước xuất khẩu yếu về mặt hàng nào, các doanh nghiệp nên tranh thủ mặt hàng đó để thâm nhập thị trường xuất khẩu.
- Những nguyên nhân trên dẫn tới chất lượng sản phẩm dệt may của Việt Nam còn thấp, giá thành cao, chưa chủ động về thị trường, tính cạnh tranh sản phẩm không cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Việc liên kết giữa các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập quốc tế là cần thiết và cần được phát huy qua các chính sách của nhà nước, sự tư vấn của hiệp hội và vấn đề sống còn của các doanh nghiệp trước xu thế của toàn cầu.
2.3.2.5 Những bất lợi khác:
Từ phía thoả thuận toàn cầu (MFA) và Việt Nam ra nhập WTO
Trong năm 2004, những hạng mục cuối cùng trong thoả thuận toàn cầu Multi-Fiber Arrangement (MFA) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ấn định phần hạn ngạch chia cho các nước nghèo chuyên xuất khẩu hàng dệt may vào các nước phát triển sẽ lần lượt hết hiệu lực. Và từ ngày 1/1/2005 trở đi, về nguyên tắc, hệ thống hạn ngạch này sẽ không còn nữa. Nếu như sẽ có nhiều nước phát triển vui mừng vì điều này thì cũng sẽ có không ít nước khác có thể lâm vào tình cảnh khó khăn vì suy cho cùng chế độ hạn ngạch này đã từng là chìa khoá giúp nền kinh tế của họ có thể sống được trong những năm qua.
Các nước thành viên của WTO khác bị tổn thương vì nay đã là một thành viên WTO y như Trung Quốc, nước được xem sẽ là một cường quốc xuất khẩu áo quần may với giá cực rẻ, nhưng chắc chắn không thể cạnh tranh ở khoản này với TQ. Còn Việt Nam thì bị thiệt hại vì chưa là nước thành viên WTO khi chế độ phi hạn ngạch dệt may với mọi nước thành viên WTO bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2005. Lúc ấy, hàng dệt may từ Việt Nam nhập khẩu EU sẽ bị ngập tràn bởi hàng bán giá rẻ bởi Trung Quốc, Campuchia, Bangladesh, Philippines…những nước đã là thành viên WTO.
Vấn đề là ở chỗ, ai cũng hiểu là thành viên của WTO , không thể cạnh tranh được với hàng hoá Trung Quốc, nhưng nó chính là tiến trình hoà nhập kinh tế mà Việt Nam phải trải qua để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành dệt may. Cái đáng quan tâm là các doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với tình hình này như thế nào?.
Tuy Việt Nam được bỏ hạn nghạch dệt may vào thị trường EU nhưng lại chưa được gia nhập WTO, đây thực sự là một thách thức lớn trong năm 2005. Việt Nam khó cạnh tranh do thiếu nguyên phụ liệu, công nghệ chưa đạt trình độ cao bằng các nước khác như Trung Quốc, ấn Độ, Pakixtan, Băngladét; các chi phí khác liên quan như viễn thông, vận tải đều cao hơn các nước trong khu vực tuy gần đây cước phí một số loại dịch vụ viễn thông đã được giảm bớt. Tuy nhiên chúng ta có một số lợi thế cạnh tranh như các nhà máy trải dài dọc đường biển, từ các nhà máy ra các cửu khẩu rất gần - đây là điều kiện thuận lợi để giảm chi phí vận tải, nguồn lao động dồi dào, khéo léo, chi phí lao động không cao lắm.
Năm 2005 Việt Nam thì khó khăn sẽ càng lớn hơn, đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều về công nghệ và nguyên phụ liệu. Với tiến trình và yêu cầu chuyên môn hoá sản phẩm thì các doanh nghiệp nên chọn những công đoạn có lợi thế cạnh tranh và thu nhiều lợi nhuận để làm. Vấn đề mới là các doanh nghiệp phải tìm được khe hở thị trường và thực hiện các hợp đồng nhỏ nhưng lợi nhuận cao, có nét đặc trưng nhằm cạnh tranh với hàng hoá giá rẻ và phổ thông của Trung Quốc. Một điều nữa là từ nhiều năm nay DN Việt Nam phần lớn làm hàng và xuất khẩu gián tiếp, chưa chú ý nhiều đến khách hàng trực tiếp. Khách hàng gián tiếp thường có yêu cầu với số lượng lớn và liên quan đến quota. Khi quota bãi bỏ, khách hàng gián tiếp có hướng tập trung vào nhà cung cấp có năng lực lớn và thường không ưu tiên cho nhà cung cấp nhỏ. Vì vậy, các DN nhỏ và vừa nên mở rộng đối tượng xuất khẩu theo hướng tìm kiếm những khách hàng trực tiếp.
Muốn làm được việc này, DN cần đẩy mạnh hoạt động quảng bá và xúc tiến thương mại ở những thị trường mới để tìm kiếm khách hàng tiềm năng. Nếu DN có năng lực cạnh tranh cao, nhưng lại không chú ý đến hoạt động quảng bá, thì họ sẽ khó có cơ hội có thêm những khách hàng mới. Và điều này còn cần thiết hơn đối với DN Việt Nam, khi quota đang đe doạ ngăn cản bước phát triển của DN. Khách hàng nước ngoài sẽ dễ bỏ qua DN Việt Nam để đến với những nhà cung cấp không bị hạn chế bởi quota.Nhưng nếu DN Việt Nam tạo được hình ảnh đối với họ thì có thể thay đổi suy nghĩ về điều này.Tham gia vào các hội chợ triển lãm quốc tế, DN Việt Nam có thể tiếp cận được những khách hàng tiềm năng.
ảnh hưởng của hiệp định thương mại Việt - Mỹ:
Ngày 13 tháng 7 năm 2000, Hiệp định Thương mại Việt nam-Hoa Kỳ được ký kết và ngày 10/12/2001 tại New York (Mỹ) đại diện hai Chính phủ đã trao đổi thư phê chuẩn Hiệp định và Hiệp định Thương mại Việt nam – Hoa Kỳ chính thức có hiệu lực. Mở ra một triển vọng về hợp tác kinh tế và cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận đất nước với dân số 270 triệu dân, là nước nhập khẩu hàng hoá nhiều nhất trên thế giới. Trải qua ba năm, rất nhiều doanh nghiệp đã tạo dựng được đối tác làm ăn uy tín với nhiều bạn hàng tại Hoa Kỳ. Việc bỏ ngỏ thị trường phi quota như Nhật, Hàn Quốc, Canada, Trung Đông... hay như EU là thị trường lớn mà doanh nghiệp dệt may không tân dụng hết được hạn ngạch mà quá chú trọng đến thị trường Mỹ giàu tiềm năng đã tạo lên một tình trạng “mất bò mới lo làm chuồng” trong các doanh nghiệp dệt may hiện nay.
Theo nhiều doanh nghiệp, khó khăn của ngành may khi chuẩn bị vào WTO là do các doanh nghiệp quá tập trung vào thị trường Mỹ. Bằng chứng là hiện thị trường Mỹ chiếm tới 50% tỉ trọng nhập khẩu của hàng dệt may trong nước, trong 6 tháng đầu năm 2004 tỉ lệ này là 54%. E rằng, nếu thị trường Mĩ không còn hạn ngạch thì các doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm lại các đối tác quen thuộc ( nên nhớ rằng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật năm 2001 là trên 30%, nay giảm đi nhiều). Mất thị trường không phải không lấy lại được, nhưng trong thời gian tới nó sẽ là một trong những nguyên nhân khiến cho dệt may Việt Nam càng gặp khó khăn hơn.
Chương3 :Các biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
3.1 Định hướng của xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian tới
Bước vào đầu thế kỷ 21,tình hình kinh tế và thương mại thế giới đã có nhiều thay đổi thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam .Vì vậy Tổng công ty dệt may Việt nam đã trình và được Chính phủ phê duyệt “ Chiến lược tăng tốc phát triển nghành dệt may Việt Nam đến năm 2010” với những mục tiêu phù hợp với khả năng phát triển của nghành dệt may Việt Nam trong thời gian tới .
Từ năm 2001-2005 dự kiến kim nghạch xuất khẩu tăng trung bình mỗi năm 13,3% đến năm 2005 đạt 4,5-5 tỷ USD,riêng thị trường EU đạt 1,2 tỷ ,sử dụng lao động tăng bình quân 12%/năm đạt từ 3-3,5 triệu người .Để đạt được mục tiêu này cần có sự cố gắng nỗ lực và sự đầu tư nhanh của mọi thành phần kinh tế.
Từ năm 2006-2010 chỉ tiêu đặt ra cho toàn nghành là đạt kim nghạch xuất khẩu từ 7-8 tỷ USD với tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 11% ,trong đó thị trường EU đạt hơn 2 tỷ USD .Để đạt được những kết quả trên thì toàn nghành phải nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá các mặt hàng Nên tiếp tục tập trung phát triển những mặt hàng mà ta đã có lợi thế ở thị trường EU như cat4,5, 6, 7,8 ,14, 18, 21, 76 …trong đó cat21(jacket) đứng đầu ,tiếp theo là cat4(T-shỉrt),cat6(quần âu) cat7,8(áo sơ mi nữ và nam) …do chúng thực sự chinh phục thị trường EU ở chất lượng và giá cả .Muốn đạt được mục tiêu này nghành dệt may Việt Nam cần thiết kế một chương trình tăng tốc đầu tư trong 5năm một .Song song với các chương trình này là một loạt các giải pháp vĩ mô và vi mô cần được tính đến .Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các tỉnh
Cần đưa ra những cơ chế chính sách và hành lang pháp lý mang đặc cách cho ngành dệt may nhằm kích thích và thu hút các thành phần kinh tế trong và ngoài nước vào Việt Nam .Có như vậy mới đạt được mục tiêu đề ra.
3.2 – Giải pháp từ phía chính phủ:
3.2.1. Đàm phán với EU
Duy trì và phát triển một mối quan hệ ngoại giao- chính trị- kinh tế tốt đẹp giữa hai nhà nước
Tiếp tục thực hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước xác định EU là một đối tác quan trọng trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá của nước ta. Cụ thể là một thị trường lớn, có đẳng cấp nhập khẩu các sản phẩm có lợi thế so sánh của ta như dệt may, thuỷ sản, giày dép… và là nơi cung cấp các công nghệ nguồn hiện đại để nâng cao trình độ sản xuất của ta.
Thời gian vừa qua, Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị ASEM 5, qua đó đã tạo ra hình ảnh đẹp cho các nước Châu Âu về một đất nước thân thiện, an toàn và đầy tiềm năng trong phát triển kinh tế. Vì việc thúc đẩy quan hệ hợp tác á- Âu sẽ có tác động tích cực đến quan hệ Việt Nam- EU. Để các hoạt động trong ASEM thực sự thiết thực, Việt Nam nên đề xuất một số sáng kiến như: lập các diễn đàn trao đổi về các chính sách thương mại và các biện pháp xúc tiến trong các ngành hàng các bên quan tâm, thành lập các nhóm cộng tác nhằm tăng cường liên kết doanh nghiệp trong ASEM về trao đổi thông tin cơ hội thị trường giữa các doanh nghiệp… Và như đã nghiên cứu, việc EU đưa ra một chiến lược quan hệ mới với Châu á và xác định Việt Nam- cửa ngõ của Đông Nam á- là điểm tựa để EU xâm nhập thị trường Châu á đầy tiềm năng đã tạo ra một chính sách thương mại đặc biệt dành cho Việt Nam.
Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về các hoạt động thương mại quốc tế
Để nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam cần có các điều kiện dễ dàng tương thích với quốc tế như một hệ thống pháp luật đầy đủ, một cơ chế quản lý cởi mở, năng động của Nhà nước, giảm dần tính quan liêu. Chúng ta đã biết hệ thống pháp luật của EU rất đồ sộ, chặt chẽ và phần lớn thống nhất với các qui định của WTO nên để làm ăn với đối tác EU, chúng ta cần tạo nên một môi trường pháp lý tương đối ổn định, minh bạch, đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Muốn vậy Nhà nước cần chỉ đạo các Bộ ngành hữu quan tiếp tục rà soát lại hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng của Việt Nam nhằm loại bỏ những văn bản luật hoặc dưới luật đã lỗi thời, bất cập; sửa đổi lại luật Thương mại vốn chỉ điều chỉnh thương mại hàng hoá mà chưa đề cập đến thương mại dịch vụ và các quan hệ sở hữu trí tuệ; xây dựng Luật chống bán phá giá; nhanh chóng đưa Luật cạnh tranh, Luật chống độc quyền vào thực thi nhằm tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước …
Một điều cũng rất quan trọng nữa là cần tạo một mối liên hệ hiệu quả, kịp thời giữa chính phủ và giới doanh nghiệp để sự hỗ trợ, hợp tác được thông suốt. Việc tạo nên những động thái tích cực cũng là một biện pháp khẳng định sự sẵn sàng của Việt Nam trong qía trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2.2. Chính sách từ Bộ, Cơ chế chính phủ
+ Tạo điều kiện giảm chi phí
Chỉ đạo các ngành hữu quan như : bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, tàu biển , điện nước v.v… tìm cách giảm giá những dịch vụ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm giá đầu vào. Xem xét điều chỉnh phí công đoàn hợp lý. Ngoài ra, liên Bộ Thương mại – Bộ tài chính – Bộ Công nghiệp sẽ tiếp tục cải thiện chính sách thuê, hỗ trợ xúc tiến và đào tạo điều kiện đầu tư nâng cấp dây chuyền công nghệ để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Sự nỗ lực từ nhiều phía sẽ giảm thiểu chi phí và giá thành sản phẩm bắt nguồn từ việc giảm thiểu các khoản thuế và phí, giảm thiểu chi phí trung gian về quy trình, thủ tục liên quan đến các khâu như nhập khẩu nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất, xuất khẩu; nỗ lực giảm chi phí đầu vào… Bên cạnh đó phát huy những lợi thế cạnh tranh khác và uy tín sản phẩm trên thị trường.
+ Tiếp tục triển khai, thực hiện các cơ chế chính sách để tăng tốc phát triển ngành dệt may theo quyết định 55/CP ngày 23/02/2001. Đầu tư các doanh nghiệp, cơ sở mới nhằm tăng năng lực sản xuất ngành dệt may, từng bước chuyển từ hình thức gia công sang trực tiếp sản xuất và xuất khẩu. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu từ sản xuất hàng dệt may xuất khẩu (đặc biệt những hãng, công ty lớn…)
+ Quy hoạch và đầu tư xây dựng các khu công nghiệp may, cơ sở vệ tinh sản xuất nguyên liệu, phụ liệu, bao bì cho ngành dệt may để từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hoá và là cơ sở để giảm giá thành sản phẩm.
Một đặc điểm nữa mà doanh nghiệp nước ta cần chú trọng là giảm chi phí đầu vào, tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm ngành dệt may để tăng lợi nhuận cho ngành. Trong thời gian tới, Nhà nước ta sẽ đưa bông vào cơ cấu cây trồng để đảm bảo cho đến năm 2010 phải có 90.000 tấn bông xơ, trong đó chủ động 70% nguyên liệu và tiến tới làm chủ hoàn toàn nguyên liệu trong nước là mục tiêu của ngành dệt may. Thủ tướng Chính Phủ đã đồng ý đầu tư 1.500 tỷ đồng cho việc phát triển vùng nguyên liệu. Đồng thời công ty bông Việt Nam đang tích cực đầu tư phát triển vùng nguyên liệu. Hình thức đầu tư trọn gói từ đầu vào đến bao tiêu sản phẩm đang được thực hiện ở một số vùng: ĐakLac, Ninh Thuận, Đồng Nai…Dự báo tới năm 2010, diện tích trồng bông trên cả nước có khả năng sẽ đạt 150.000 ha, năng suất bông bình quân đạt 18 tấn/ha có thể đáp ứng 70% nhu cầu nguyên liệu cho dệt may. Nước ta đủ điều kiện để sản xuất, phát triển bông cho năng suất cao, giống bông sợi màu, các giống bông lai Việt Nam 20, c118, VN 15…tương đương bông nhập khẩu. Ngoài ra, Nhà nước còn đầu tư các cụm công nghiệp sản xuất sản phẩm may mặc phụ liệu cho ngành may với tổng số vốn đầu tư là 600 triệu VND tương đương 40 triệu USD để sản xuất: mác áo, nút kim loại, nút nhựa, chỉ, các loại dây thun…Hiện nay, nhà máy kéo sợi polyester công suất 30.000 tấn/năm đang hoạt động từ nay cho đến năm 2005 để đáp ứng sợi cho ngành dệt may.
+ Có chính sách hỗ trợ và hướng dẫn, giúp đỡ doanh nghiệp dệt may nhanh chóng xác lap và đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế (ISO 9000, ISO 14000, SA 8000...), bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền, ghi nhãn, mã số, mã vạch theo quy chế và sớm đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp tại thị trường quốc tế mà trước hết là thị trường trọng điểm như Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada.
+ Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ đặc biệt (lãi xuất vay ưu đãi, thuế, thị trường…) để khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhanh chóng mở rộng đầu tư nhằm tăng cường năng lực sản xuất của ngành dệt may.
Cụ thể là đối với thuế VAT:
Hoãn nộp thuế VAT vật tư nhập khẩu tại cửa khẩu.
Giảm thuế VAT ngành vải sợi xuống còn 5%
+ Thực hiện tốt thông tư số 86/BTC ngày 27/09/2002 và quy định 0104/2003/QĐ-BTM ngày 24/02/2002 về hỗ trợ xuc tiến ngành hàng. Nhà nước cần có chính sách, chương trình hỗ trợ các DN tham gia các hội chợ, triển lãm chuyên ngành, thông tin quảng cáo, giới thiệu sản phẩm tại các thị trường, đặc biệt là các thị trường lớn.
+ Về lâu dài, trọng điểm đầu tư ngành này là dệt và nhuộm, nâng cao chuyên môn hoá ngành may, đầu tư công nghệ mới cho những mặt hàng cao cấp, tăng cường đầu tư hàng thời trang với những thương hiệu nổi tiếng để dệt may tiếp tục là trụ cột xuất khẩu của Việt Nam, giải quyết việc làm và tăng thu ngoại tệ. Cứ tăng xuất khẩu 1 tỉ USD sẽ tạo ra việc làm cho khoảng 50 vạn lao động.
+ Kiện toàn hành lang pháp lý đối với hoạt động các hội ngành nghề : là các tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập và giám sát bởi các cơ quan quản lý nhà nước, được quyền tổ chức bộ máy và hoạt động đúng với nhiệm vụ và quyền hạn ghi trong điều lệ thành lập
3.2. - Từ phía hiệp hội dệt may:
Hiệp hội dệt may Việt Nam được tổ chức (21/10/1999) tại Hà Nội với sự tham gia của 159 DN hội viên sáng lập. Đại hội nhiệm kỳ hai (14/11/2001) đã có 451 DNHV tham gia, tăng 2,8 lần. Đến nay tổng số DN dệt may trên toàn quốc có 1031 DN
DN nhà nước : 231 22%
DN tư nhân,CP, TNHH : 449 43,5%
DN đầu tư NN (FDI) : 351 34%
Tổng số DN hội viên : 504
DN Việt Nam : 365
DN đầu tư NN : 101
Hội viên thiết kế TT : 38
Đề mở rộng lĩnh vực hoạt động, phục vụ và đáp ứng nhu cầu của ngành và nhu cầu riêng của DN. Chính phủ đã cho phép Hiệp hội dệt may Việt Nam được thành lập : Trung Tâm Thông Tin Tư Vấn Dịch Vụ (VITAS – CSC) nhằm đáp ứng nhu cầu của Doanh nghiệp với mục đích phục vụ hiệu quả.
Sự ra đời của Hiệp hội dệt may Việt Nam là tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường trong tiến trình hội nhập, nó gắn liền với sự tồn tại và phát triển của DN ngành.
Nâng cao vai trò của Hiệp hội
Trước tình hình hội nhập hiện nay đầy cơ hội và thách thức thì hiện nay nhiều doanh nghiệp vẫn đang trong tình trạng chờ đợi. Chính vì vậy, Vitas phải đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn các doanh nghiệp về luật chơi và đối phó với rào cản trong quá trình hội nhập. Đề đạt được mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may năm 2005 là 4,5 tỷ USD Vitas cần có những chương trình hành động như sau:
Thứ nhất, liên tục tổ chức các hoạt động xúc tiến xuất khẩu đề xây dựng hình ảnh tốt đẹp về ngành dệt may Việt Nam đối với các đối tác tại EU thông qua các cuộc triển lãm, hội chợ xuất khẩu.
Thứ hai, tổ chức tốt hơn các hoạt động thông tin, đầu tư, sản xuất, xuất nhập khẩu liên quan đến ngành dệt may thông qua Website và bản tin hàng tháng.
Thứ ba, tăng cường hiệu quả hoạt động của Trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu ngành dệt may và gia giày tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ tư, tham gia chuẩn bị tốt phương án đàm phán Hiệp định thương mại dệt may song phương với EU. Quan trọng nhất là thời điểm đầu năm 2005 với việc xoá bỏ hạn ngạch cho các thành viên WTO.
Thứ năm, tham gia tích cực với các tổ chức thương mại quốc tế AFTẽ, ITCP, JAF, ASPAC và IADA, góp phần tạo điều kiện thương mại quốc tế thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam.
3.3. - Từ phía doanh nghiệp:
Hiện nay, 80% DN dệt may Việt Nam là DN vừa và nhỏ. Để tồn tại, không phải đợi đến lúc này, các DN mới bắt đầu thực hiện các biện pháp dể tồn tại. Thời điểm năm 2005 là thời điểm để đánh giá được những gì mà DN đã làm trong suốt thời gian qua. Chiến lược cạnh tranh này được thể hiện qua 4 chương trình gồm: giảm giá - quản lý – hiệu quả - tăng năng suất, nâng cao chất lượng - đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường và lao động, kinh doanh chủ động (chủ động trong mọi nguồn lực lao động, tài chính, thị trường, vật tư…) và chăm sóc khách hàng – giao hàng – dịch vụ.
Tuỳ thế mạnh riêng, mỗi doanh nghiệp cần xây dung một chiến lược xuất khẩu phù hợp, trong đó, cần cụ thể hoá khách hàng, mặt hàng, đẳng cấp…Để cạnh tranh thắng lợi với các nước xuất khẩu trong khu vực, ngành dệt may Việt Nam cần hướng tới chiến lược nâng cao đẳng cấp, chất lượng và tăng khả năng đáp ứng nhanh. Tận dụng thời cơ để giảm thiểu những bất lợi từ quá trình hội nhập kinh tế, ngày từ bây giờ, toàn ngành công nghiệp cần phải sớm có những giải pháp quyết liệt như:
Hạ giá thành sản phẩm, nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong từng DN, không chỉ từ đối ngũ lãnh đạo, quản lý mà ngay cả đội ngũ người lao động về ý nghĩa sống còn của việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. Gắn lương tâm, trách nhiệm và khơi dậy khả năng sáng tạo, phát huy trí tuệ của từng cá nhân và tập thể nhằm tìm cách tối thiểu hoá chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên vật liệu, chi phí quản lý DN,…
Đẩy mạnh sang các thị trường khác
Các chuyên gia cho rằng các DN cần đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU và Nhật Bản để duy trì mức tăng trưởng và bảo đảm việc làm cho người lao động; đồng thời mở rộng xuất khẩu sang các thị trường như Đông Âu, SNG, phát triển thêm thị trường Trung Đông, Châu Phi và đẩy mạnh tiêu thụ nội địa dưới mọi hình thức.
Đầu từ cho việc nghiên cứu mẫu mã, mốt thời trang quốc tế, nắm bắt kịp thời xu thế lớn trong ngành thời trang. Nhà sản xuất phải thể hiện được phong cách riêng với khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm, phương thức kinh doanh.
Đẩy mạnh xúc tiến thị trường như: khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp mở văn phòng đại diện, chi nhánh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, trung tâm xúc tiến thương mại, tổ chức hội trợ triển lãm giới thiệu hàng hoá, thời trang. Khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ để các DN chủ động ra nước ngoài tìm kiếm thị trường, xác lập hệ thống kênh phân phối, tiêu thụ sản phẩm tại các thị trường lớn. Đặc biệt đối với thị trường Nhật Bản và EU, cần nghiên cứu kỹ thị hiếu của khách hàng và nhu cầu thị trường để tìm phương cách cạnh tranh phù hợp với các sản phẩm của Trung Quốc và các nước khác.
Xây dựng nhãn hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp có đẳng cấp, uy tín với khách hàng nhập khẩu. áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là ISO 9000/14000; SA 8000; OHSAS 18000
Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất, thiết kế, kinh doanh, lao động có tay nghề cao cho dệt may, cho các trung tâm dệt may và các địa phương, khắc phục tình trạnh tranh giành lao động ở một số địa phương. Từng thành viên trong DN, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ lao động trực tiếp cần tự trau dồi, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề.
Cần đẩy mạnh đầu tư và thay thế một số loại thiết bị, máy móc sản xuất đã quá “lạc hậu”, cho năng suất thấp và tiêu hao nhiều năng lượng. Cần phải đầu tư xây dựng nhà xưởng hiện đại, đổi mới thiết bị, công nghệ theo hướng phải tiếp cận với công nghệ cao trong thiết kế mẫu, trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, hạ giá thành. Tuy nhiên, trọng điều kiện nhiều doanh nghiệp ngành công nghiệp còn thiếu vốn, tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh đề đầu tư đồng bộ công nghệ và thiệt bị thì các doanh nghiệp này cần chủ động trong việc liên kết và hợp tác kinh doanh với nhau. Việc đầu tư cho máy móc thiết bị hầu như mới chỉ góp phần cải tiến chất lượng sản phẩm chứ chưa thực sự giúp cho doanh nghiệp đổi mới và đa dạng hoá sản phẩm. Muốn tạo ra sản phẩm mới đòi hỏi DN phải tự tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo.
Điều quan trọng nữa trong việc nâng cao năng lực hoạt động trong nội tại DN, đó là phát huy sức mạnh liên kết.
Liên kết chiều dọc để đảm bảo nguồn đầu vào- đầu ra.
Liên kết chiều ngang trong cùng một sản phẩm – mặt hàng.
Và mỗi doanh nghiệp cần có ít nhất một sản phẩm đặc biệt tránh trùng lặp giữa các doanh nghiệp lớn.
Ba giải pháp trên đang được áp dụng tại Tp HCM như một ví dụ điển hình cho sự liên kết
Hiệp hội dệt may thêu đan thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 200 DN thành viên, trong đó có nhiều DN lớn. Hiệp hội đang triển khai quyết liệt các chương trình như nâng cao năng lực cạnh tranh (liên kết với MPDF, JETRO..), chương trình chuyển từ gia công sản xuất mua bán trực tiếp và chương trình nâng dệt may từ ngành công nghiệp để sản xuất sang ngành thương mại dịch vụ. Hiệp hội phối hợp với nhiều tổ chức khác để xúc tiến thành lap 3 trung tâm: trung tâm đào tạo nhân lực, trung tâm kinh doanh nguyên phụ liệu dệt may – da giày, trung tâm xúc tiến – dịch vụ. Hiệp hội kỳ vọng với sức mạnh liên kết, các DN dệt may Việt Nam sẽ cùng nhau vượt qua thử thách lớn lao này.
10 Vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm để thành công trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU
Xác định thị trường mục tiêu
EU là thị trường rộng lớn, tuy nhiên EU lại được tạo bởi 25 quốc gia có những phong tục, tập quán, đặc điểm văn hoá xã hội và tôn giáo khác nhau. Chẳng hạn, doanh nghiệp Pháp chủ yếu quan tâm đến giá cả và họ thích gắn mác lên hàng hoá theo kiểu Pháp. Doanh nghiệp Đức không chấp nhận mua hàng qua catalo trong khi các doanh nghiệp Anh lại rất quan tâm đến chất lượng và rất sòng phẳng, luôn tuân theo những luật lệ một cách chính xác. Mặc dù vậy, thị trường EU cũng có những yêu cầu và tập quán khá thống nhất như: ưa chuộng hàng có nguồn gốc tự nhiên, lành mạnh.
Do vậy, tuỳ theo đặc điểm trình độ và khả năng sản xuất, mỗi doanh nghiệp cần xác định thị trường mục tiêu của mình là thị trường đại chúng có thu nhập thấp hay thị trường giới tiêu thụ có thu nhập trung bình, trung bình cao hoặc cao cấp. Đối với thị trường đại chúng thì giá cả sản phẩm là yếu tố quyết định cho sự thành công của chiến lược tiếp thị. Còn đối với thị trường có thu nhập trung bình và trung bình cao trở lên thì yếu tố quyết định lại là nhãn hiệu sản phẩm, đẳng cấp chất lượng, và khả năng đáp ứng nhanh.
Kinh doanh FOB
Hầu hết các công ty sản xuất và công ty bán lẻ EU đều mua hàng theo phương thức mua đứt bán đoạn. Do vậy, các nhà sản xuất Việt Nam muốn bán thẳng cho thị trường này cần có đội ngũ chuyên gia bán hàng am hiểu kỹ thuật, nắm bắt được nguồn cung ứng, thủ tục xuất nhập khẩu, đảm bảo được uy tín trong sản xuất và giao hàng. Điều này đảm bảo vững chắc hình ảnh của doanh nghiệp trong các hợp đồng làm ăn tiếp theo.
Khả năng thiết kế
Tăng cường công tác nghiên cứu thị hiếu, xu thế thời trang để từ đó thiết kế và sản xuất được nhiều mẫu chào hàng phù hợp với yêu cầu của thị trường. Hiện nay, hầu hết các Công ty bán lẻ Châu Âu đều có xu thế muốn đặt hàng thẳng cho các nhà sản xuất nước ngoài với mẫu mã do chính nhà sản xuất sáng tạo nên theo xu thế thời trang tại nước tiêu dùng. Kinh nghiệm trong thời gian vừa qua cho thấy, nhiều nhà sản xuất Việt Nam có khả năng sáng tạo mẫu mã phù hợp thị hiếu đã nhận được hợp đồng thẳng từ các Công ty nhập khẩu EU theo phương thức kinh doanh FOB
Xưởng sản xuất chuyên môn hoá
Chuyên môn hoá dây chuyền sản xuất theo mặt hàng để đảm bảo khả năng cạnh tranh về năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm. Các công ty EU có đẳng cấp chỉ đặt hàng tại các xưởng sản xuất được tổ chức chuyên môn hoá, có thiết bị chuyên dùng phù hợp, có năng lực sản xuất tương đối lớn, có chất lượng sản phẩm ổn định, giao hàng đúng tiến độ và có khả năng đáp ứng nhanh. Tuỳ điều kiện, một công ty có thể tổ chức nhiều xưởng với mỗi xưởng được chuyên môn hoá một mặt hàng khác nhau như: sơmi nam, quần kaki, quần âu, vest nam, vest nữ…
Tin học hoá quản lý
áp dụng các phần mềm quản lý và thông tin dữ liệu trong sản xuất kinh doanh nhằm tăng cường hiệu năng quản lý, đồng thời có thể cung cấp thường xuyên và kịp thời các số liệu cần thiết theo yêu cầu của khách hàng. Khách hàng EU có yêu cầu cao về thông tin liên lạc hàng ngày kể từ lúc chào hàng, nhận đơn hàng cho đến khi tổ chức sản xuất và giao hàng. Mọi thông tin cần được thông suốt và kịp thời thông qua các công cụ điện tử như email, website, B2B. Mẫu sản xuất và thiết kế kỹ thuật có liên quan được chỉnh sửa và truyền tải kịp thời bằng email. Các dữ liệu vào kiểm tra chất lượng đến lúc đưa vào sản xuất và hoàn tất cần hệ thống hoá, lưu trữ chứng từ, dữ liệu và thông tin hàng ngày. Việc thông tin và lưi dữ liệu này còn phục vụ cho cả Hải quan tại nơi nhập khẩu để kiểm tra xuất xứ lô hàng khi cần
Quản lý chất lượng và trách nhiệm xã hội
Tổ chức việc quản lý sản xuất kinh doanh tuân thủ theo yêu cầu của các tiêu chuẩn quản lý về chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh, và trách nhiệm xã hội. Nếu có các chứng nhận quốc tế ISO 9000, ISO 14000, SA 8000 (hoặc WRAP), và OHSAS 18000 thì tốt. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng vẫn là tuân thủ hàng ngày trong thực tiễn. Đây là yêu cầu mà tất cả các công ty xuất nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ quan tâm và tổ chức đánh giá đầu tiên (đặc biệt là tiêu chuẩn SA 8000 hoặc WRAP) trước khi quyết định tiến đến đàm phán về giá cả hoặc quy cách sản phẩm…
Chuyên viên bán hàng
Đào tạo và sử dụng chuyên viên bán hàng có trình độ tiếng Anh tốt, có khả năng chào hàng FOB, hiểu biết về phong cách kinh doanh của thị trường EU, hiểu đối tác và có khả năng sử lý nhanh trong các vấn đề kinh doanh phát sinh. Cần giữ liên lạc thường xuyên với khách hàng, thông báo tiến trình thực hiện đơn hàng và đảm bảo các tiến trình đã thoả thuận.
Cẩn thận trong điều kiện thanh toán
Hợp đồng mua bán của Việt Nam hướng tới theo điều kiện giao hàng FOB, nhưng điều kiện này thì rủi ro cho người bán là cao. Do đó, các doanh nghiệp phải thận trọng trong việc thanh toán, cố gắng đàm phán thanh toán bằng (L/C), chỉ áp dụng phương pháp chuyển tiền bằng điện (TTR) đối với các khách hàng có mối kinh doanh ổn định.
Hợp tác với bên thứ ba
Chúng ta làm cách nào để có thể xuất khẩu nhiều nhất trong điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm, bạn hàng và năng lực sản xuất còn nhiều hạn chế?. Có lẽ phương thức nhanh nhất là hợp tác sản xuất với bên thứ ba. Các nhà sản xuất như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore…đã có nhiều năm kinh nghiệm với thị trường EU là đối tác tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Việc hợp tác có thể có nhiều phương thức, trong đó có phương thức OPA (Outward Processing Arrangement) tuy còn khá mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam nhưng cần được nghiên cứu. Đây là phương thực hợp tác sản xuất hàng may mặc với nhà sản xuất ngoài Việt Nam, trong đó có một phần công đoạn được sản xuất bên ngoài mà sản phẩm vẫn được hải quan Hoa Kỳ chấp nhận có xuất xứ Việt Nam. Với phương thức sản xuất này, một doanh nghiệp có quy mô vừa phải có thể xuất một số lượng lớn trong một thời gian ngắn mà vẫn đúng quy chế xuất xứ của Mỹ.
Tư vấn pháp luật
Doanh nghiệp cần có chuyên gia hoặc tư vấn pháp luật nắm vững luật lệ và quy chế của các nước thành viên EU, nơi sản phẩm được nhập vào và tiêu thụ như: thủ tục xuất nhập khẩu, thuế, xuất xứ hàng hoá, bảo hộ nhãn hiệu và sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, chống phá giá…nhằm giúp các doanh nghiệp tránh các vi phạm do thiếu hiểu biết có thể vi phạm, gây thiệt hại rất lớn.
Kết luận
Chiến lược công nghiệp hoá -hiện đại hoá hướng mạnh vào xuất khẩu là một chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta tạo đà cho nền kinh tế phát triển và đuổi kịp thời đại.Việc đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng mũi nhọn là một bước đi tiênphong nhằm khai thác triẹt để các lợi thế của đất nước,đồng thời hướng ra thị trường nước ngoài,đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nói chung.Điều này xuất phát từ nhu cầu phát triển nội tạicủa đất nước,vừa có thể nhận được sự ủng hộ của các nước phát triển trong khuôn khổ không ảnh hưởng tới sự phát triển của các nghành kinh tế các nước này.
Theo xu thế phát triển chung của dệt may toàn cầu,đầu tư vào nghành dệt may đã và đang tiếp tục chuyể dịch sang các nước đang phát triển trong giaiđoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu .Do vậy với những lợi thế về lực lượng lao động đông đảo cần cù chịu khó,giá công nhân ở mức thấp,ngành dệt may lại có truyền thống từ lâu đời nên trong những năm tới Việt Nam có nhiều cơ hội để trở thành một trung tâm xuất khẩu dệt may lớn của thế giới.Đó là tiềm năng được dự đoán cho doanh nghiệp dệt may.
Tuy nhiên trong thời kỳ mới với bối cảnh,tình hình cạnh tranh có nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam ,sự nổi lên của các cường quốc dệt may và không bị ràng buộc bởi hàng rào thuế quan thì cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng khó khăn.Việc liên kết giữa các doanh nghiệp ,tận dụng hiệu quả lợi thế cạnh tranh khẳng định thương hiệu nhờ sự khác biệt trong sản phẩm và có chiến lược maketing phù hợp với từng thị trường biện pháp mà các doanh nghiệp cần hướng tới.Việc thực hiện có hiệu quả những biện pháp đó,nghành dệt may Việt Nam sẽ phát triển đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo
1.Báo cáo hội thảo số 14,15,16 của VITAS
2.Báo đầu tư,báo doanh nghiệp
3.Giáo trình”Kinh tế ngoại thương” -Gs.Ts Bùi Xuân Lưu-Đại học Ngoại Thương
4.Thời báo kinh tế Việt Nam ,Tạp chí Thương Mại ,Tạp chí Ngoại Thương
5.Tạp chí kinh tế Châu á -Thái Bình Dương
6.Các Website
htttp://www.mot.gov.Việt Nam
Nam
htttp://www.vneconomy.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0419.doc