Đề tài Một số giải pháp nhằm xóa nghèo đói ở Việt Nam trong giai đoạn 2002-2010

Đối với một đất nước thuộc vào loại nghèo nhất thế giới như nước ta là việc không phải bây giờ mới đề cập đến. Vì vậy làm sao mà bảo đảm một cuộc sống ấm no hạnh phúc, ai cũng có cơm ăn áo mặc, trẻ em nào cũng được đến trường như lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi sự nỗ lực của không chỉ một cá nhân mà là toàn xã hội. Những thắng lợi to lớn của sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh, của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo điịnh hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm qua đã tạo ra điều kiện tiền đề rất quan trọng để dân tộc ta bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc phát triển, sự hoà nhập không có nghĩa là phải hoà tan, phải bảo đảm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độic lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, phải phát huy và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc ở các vùng nông thôn, mọi miền trong cả nước, làm sao mà vừa hiện đại hoá mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc, phá vỡ âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

doc25 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm xóa nghèo đói ở Việt Nam trong giai đoạn 2002-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
79 61 Chế tạo 26 9 13 Dịch vụ bán hàng 13 3 9 Nhân viên văn phòng 10 2 7 Nghề khác 6 0 1 Nghỉ hưu 26 4 6 Những người khác không làm việc 30 3 4 Tổng số 37 100 100 Đặc trưng của người nghèo là có thu nhập thấp và thất thường. Cụ thể như ở Hà Tĩnh và thành phố Hồ Chí Minh, việc được trả lương, có một công việc tốt hay có lương hưu là những tiêu chuẩn để xếp cá hộ vào nhóm sung túc hơn. Thường thì thu nhập từ những nguồn này không cao song ý nghĩ của chúng là sự ổn định và đảm bảo. Những hộ có việc làm hường xuyên được xếp vào nhóm có mức sống cao hơn hộ chỉ có tiền trả theo ngày công. Mặc dù làm mướn có thể đem lại những khoản tiền vào những thời điểm nhất định trong năm ở những vùng nông thôn song điều này có lẽ không đem lại cảm giác an toàn cho những người lao động làm mướn. ở cả hai tỉnh Hà Tĩnh và Trà Vinh nhu cầu thuê làm mướn không có đủ trong cả năm để có thể đem lại nguồn thu nhập ở mức đủ để tạo được sự an toàn đối với cuộc sống sinh nhai của các hộ… 1.2.Người nghèo thường có trình độ tương đối thấp, thiếu kỹ năng làm việc và thông tin Tỷ lệ nghèo đói giảm xuống khi trình độ học vấn cao lên, và gần 90% số người nghèo là những người chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Những người thậm chí còn chưa hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học có tỷ lệ nghèo cao nhất (57%). Ngược lại, rất hiếm người đã tốt nghiệp đại học lại thuộc diện nghèo đói (chỉ chiếm có 4%). Bảng 2. Trình độ học vấn của người nghèo, 1998. Đặc điểm Tỷ lệ nghèo (%) Tỷ lệ tính trong tổng số người nghèo (%). Tỷ lệ trong tổng dân số (%). Trình độ học vấn cao nhất Không được đi học 57 12 8 Tiểu học 42 39 35 Phổ thông cơ sở 38 37 36 Phổ thông trung học 25 8 12 Dạy nghề 19 3 6 Đại học 4 0 3 Tổng cộng 37 100 100 2. Các đặc điểm về nhân khẩu học 2.1.Các hộ nghèo thường có nhiều trẻ em Các hộ có nhiều trẻ nhỏ được các hộ khác cho là nghèo. Những hộ này không chỉ có ít lao động hơn so với số miệng ăn trong gia đình mà còn phải trả các chi phí giáo dục lớn hơn cũng như phải chịu thêm các chi phí khám chữa bệnh gây bất ổn định cho kinh tế gia đình. Theo số liệu cho thấy, tỷ lệ trẻ em trên mỗi người lao động cao nhất đối với nhóm hộ chi tiêu nghèo nhất và tỷ lệ này giảm dần khi mức chi tiêu bình quân đầu người tăng lên. Bảng 3. Số trẻ em dưới 15 tuổi theo hộ gia đình. Nhóm chỉ tiêu I (Nghèo nhất) II III IV V (Giàu nhất) Việt Nam 2.8 2.2 1.7 1.4 1.2 Nông thôn 2.8 2.2 1.8 1.4 1.3 Thành thị 2.7 2.9 1.6 1.3 1.1 2.2. Các hộ mới tách trong giai đoạn đầu thường trải qua nghèo đói do thiếu đất. Các hộ nghèo coi diện tích đất và chất lượng đất là yếu tố quan trọng quyết định đến mức sống. Các hộ khác thường xem các hộ nông dân nghèo là những hộ có đất đai ít hoặc chất lượng kém nên không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của những hộ này. điều này đặc biệt đúng với những hộ mới lập gia đình. Bảng 4. Phần trăm các hộ ở nông thôn không có đất chia hoặc đất nương rẫy. Vùng 1993 1998 Diện tích đất trung bình (m2) năm 1998. Miền núi phía Bắc 2.0 3.7 8890 Đồng bằng sông Hồng 3.2 4.5 6491 Bắc Trung Bộ 3.8 7.7 5001 Duyên hải miền Trung 10.7 5.1 5180 Tây Nguyên 3.9 2.6 13746 Đông Nam Bộ 21.3 28.7 13712 Đồng bằng sông Cửu Long 16.9 21.3 10650 Cả nước 8.2 10.1 8148 2.3. Các hộ nghèo thường rơi vào vòng nợ luẩn quẩn Các hộ nghèo thường rơi vào tình trạng nợ nần do họ phải đi vay để trang trải các khoản chi tiêu khẩn cấp như chi phí cho y tế hoặc là phải đi vay để đâu tư vào một vụ kinh doanh bị thất bại. Đối với họ nợ nần như một cơn ác mộng bỏi mức nợ này đã gây áp lực kinh tế và tâm lý nặng nề cho họ. 3. Nguy cơ dễ bị tổn thương và sự cô lập 3.1. Người nghèo, đặc biệt là trẻ em nghèo, cảm thấy rất dễ bị tổn thương Nguy cơ dễ bị tổn thương bởi những khó khăn theo thời vụ, bởi những đột biến xảy ra với những hộ gia đình và những cuộc khủng hoảng xảy ra đối với cộng đồng là một khía cạnh quan trọng của nghèo đói. Những hộ nghèo ít vốn hoặc ít đất đai và những hộ chỉ có khả năng trang trải được các chi tiêu lương thực và phi lương thực thiết yếu khác đều rất dễ bị tổn thương trước mọi biến cố khiến họ hoặc phải bỏ thêm hoặc bị giảm thu nhập. Tình trạng không an toàn không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế. Do thiếu thông tin về các vấn đề quy hoạch phát triển đô thị và giải phóng mặt bằng nên nhiều hộ không biết được thời gian họ còn được phép sống ở khu vực cư trú hiện tại. Các đường dây cáp điện treo thấp cũng là những nguy cơ đe doạ an toàn thể chất và vất chất có thể gây ra hoả hoạn. Tệ nạn nghiện ma tuý ngày càng gia tăng cũng đang là nỗi lo lắng của các hộ gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh, phần nhiều là bởi nó kéo theo sự gia tăng các loại hình tội phạm khác. Có lẽ những trẻ em nghèo, đặc biệt là trẻ em nghèo ở thành phố, đang phải sống trong cảm giác không an toàn. 3.2. Các hộ nghèo có cảm giác bị cô lập về xã hội ở các làng vùng sâu vùng xa, vùng cao mức độ quan hệ xã hội là khá cao và được đặc trưng bởi các quan hệ hỗ trợ tương hỗ. Do các làng này khá tương đồng về các điều kiện kinh tế và xã hội nên các hộ luôn sẵn sàng tình nguyện giúp đỡ người khác khi có khả năng vì trong tương lai có thể họ cũng cần đến sự hỗ trợ tương tự. Điều này có thể bù lại được phần nào những bất lợi của cuộc sống ở vùng sâu vùng xa. ở những địa bàn thuộc trung du và đồng bằng tuy vẫn có sự hỗ trợ khẩn cấp, song thông thường là bằng tiền và thường tốn kém hơn. ở các làng bản vùng trung du và vùng đồng bằng, các mối liên hệ xã hội được xem như là một yếu tố quyết định mức sống của các hộ gia đình. Các hộ có quan hệ xã hội tốt, gần với giới chức lãnh đạo địa phương thường có vị thế tốt để tiếp cận với các chương trình và dịch vụ hỗ trợ của Chính phủ. Một số nhóm hộ nghèo cho biết họ có cảm giác bị cách biệt về xã hội với thế giới rộng lớn bên ngoài và với các tổ chức đại diện cho họ và phục vụ họ. Một số lý do bị cô lập liên quan đến dân tộc: những khác biệt về ngôn ngữ và văn hoá cùng với những khó khăn lớn về khả năng tiếp cận về địa lý làm những người dân tộc ít người có quan hệ giao lưu rất hạn chế với thế giới bên ngoài và hầu như không có điều kiện tiếp xúc với những sáng kiến hay những thông tin mới. ở thành phố tình trạng tương tự cũng xảy ra với một số người nhập cư ở những xóm liều ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, việc bị cô lập cũng chứa đựng trong nó yếu tố về giới. Công việc của phụ nữ bận rộn và vất vả hơn nhiều so với nam giới và do đó họ có ít cơ hội tiếp xúc với xã hội, học hỏi hoặc tham dự các cuộc họp của làng…. Phần II. Thực trạng về vấn đề nghèo đói tại Việt Nam. I.Tác động của nghèo đói. Nghèo đói có tác động vô cùng lớn về mặt xã hội. Các tác động này đặc biệt dễ thấy ở trẻ em. Trẻ em thuộc các hộ nghèo thường ít đi học hơn, thường suy dinh dưỡng nhiều hơn… Những người sống trong các hộ nghèo thường bị mắc bệnh nhiều hơn và khi bị bệnh thì chỉ được các dịch vụ chăm sóc y tế chất lượng thấp hơn. 1.Tác động của nghèo đói đến việc đi học. Nghèo đói có tác động rất lớn đến việc đi học. So với các nước nghèo tương đương khác, Việt Nam có tỷ lệ trẻ em đi học cao và ngày càng tăng. Khác với năm 1993, đến năm 1998, Việt Nam đã gần đạt được phổ cập giáo dục tiểu học. Tỷ lệ nhập học cấp trung học cơ sở đã tăng lên khoảng 50%, cấp trung học phổ thông tăng gấp đôi và ít nhất là gấp 3 lần ở cấp đại học và cao đẳng. Một trong những mục tiêu mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đặt ra là đến năm 2000, tất cả trẻ em ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp và khu vực vựa lúa sẽ được phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở. Mục tiêu nói trên đến năm 1998 căn bản đã thực hiện được. Mặc dù đã đạt được thành tích to lớn như vậy nhưng hiện, vẫn còn tồn tại một vấn đề nghiêm trọng, đó là tình trạng bỏ học của học sinh. Tình trạng này diễn ra trên cả nước và ở cả 3 cấp học phổ thông. Tỷ lệ bỏ học ở các cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông Vậy vì sao học sinh bỏ học?. Có hai loại ảnh hưởng: tình trạng kinh tế của hộ gia đình và các yếu tố xã hội- môi trường bên ngoài tầm kiểm soát trực tiếp của hộ gia đình. 1.1. ảnh hưởng về mặt kinh tế. Những hộ gia đình nghèo có thu nhập thấp nên ít có khả năng chi tiêu. Do vậy, chi tiêu cho giáo dục sẽ trở thành một gánh nặng lớn cho những hộ gia đình này. Kết quả là họ không thể cho con em đi học. Mức sống của hộ gia đình và việc bỏ học của học sinh có mối liên hệ chặt chẽ: 43% trẻ em của những hộ nghèo bỏ học ở cấp THCS và THPT, trong khi chỉ có 19% số trẻ em ở nhóm giàu nhất bỏ học. Cho trẻ em đi học ở cấp trung học phải chi phí rất nhiều khoản. Một phần là những chi phí bằng tiền như sách vở, các khoản đóng góp, mua dồng phục… Một phần lớn khác là thời gian đi lại mà trẻ em phải bỏ ra để tới trường. ở những vùng dân cư thưa thớt thì khoảng cách này rất xa. Bên cạnh chi phí học tập, hộ gia đình còn phải suy nghĩ về số tiền mà trẻ em lẽ ra có thể kiếm được nếu không đến trường. Đối với hộ gia đình nghèo, khoản thu nhập này là rất đáng kể. 1.2. ảnh hưởng của các yếu tố xã hội và môi trường. 1.2.1. Trình độ học vấn của cha mẹ. Trẻ em trong các gia đình có trình độ học vấn cao hơn thường được đi học và không bỏ học. Với học vấn của người mẹ là tốt nghiệp THPT hoặc cao hơn, chỉ có 27% con em bỏ học. Trong khi đó, con số này đối với những bà mẹ có trình độ giáo dục thấp hơn là 31%. Nghiên cứu theo trình độ giáo dục của người bố cũng cho kết quả tương tự. 1.2.2. Địa lý. Theo tổng điều tra dân số năm 1999, khoảng 76% dân số sống ở nông thôn. Trẻ em thành thị ít bỏ học hơn trẻ em nông thôn. Một lý do là trẻ em ở nông thôn nói chung phải đi học xa hơn so với trẻ em thành thị. Nếu một trẻ em nông thôn đi học thì đó là một sự cố gắng lớn đối với trẻ em thành thị. Lý do thứ hai là ở nông thôn, nhu cầu về lao động trẻ em lớn hơn so với thành thị, đó là để giúp trông nom gia súc, hoặc làm những việc vặt trong nhà. Những công việc này làm cho trẻ em sao lãng việc học hành, và khiến chúng bỏ học sớm. 1.2.3. Chất lượng giáo dục của nhà trường. Một trong những lý do khiến học sinh bỏ học là chất lượng giáo dục trong nhà trường. tuy không có trực tiếp biện pháp nào để đo lường xem chất lượng của nhà trường, lớp tốt hay không tốt. Tuy nhiên có thể thông qua chỉ tiêu số học sinh một lớp để đánh giá. 2.Tác động của nghèo đói đến dinh dưỡng trẻ em. Có quá nhiều trẻ em trong dân số nghèo. Trẻ em nghèo ít có khả năng đến trường và rơi vào vòng nghèo đói do thế hệ trước để lại, và các em thường có cảm giác không được an toàn. tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em có chiều hướng giảm từ năm 1993 đến năm 1998. tỷ lệ trẻ từ 0 đến 5 tuổi còi xương giảm từ 53% năm 1993 xuống còn 34% năm 1998 – mặc dù so với mục tiêu của chính phủ đề ra là còn 30% vào năm 2000 (mục tiêu đến năm 2001 giảm xuống còn 20%). Tỷ lệ còi xương ở trẻ em trong độ tuổi từ 13 tuổi trở xuống cũng là hiện tượng tương tự. Suy dinh dưỡng ở khu vực nông thôn thường nhiều hơn so với khu vực thành thị nhưng đều giảm nhanh như nhau ở cả hai khu vực. Mặc dù suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn giảm nhanh chóng nhưng tỷ lệ suy dinh dưỡng ở Việt Nam cũng không thấp hơn mức dự kiến thông qua kinh nghiệm của các nước có điều kiện tương tự. II. Những thành tựu đã đạt được trong công cuộc xoá nghèo đói ở Việt Nam. 1. Chương trình đổi mới của Việt Nam. - Cải cách trong lĩnh vực nông nghiệp: chương trình đổi mới của Việt Nam được bắt đầu từ nông nghiệp. Vào năm 1988 các hợp tác xã được giải thể và đất được chia cho các hộ nông dân. Luật đất đai ban hành năm 1993 đã nêu rõ nông dân có quyền sử dụng đất được cấp trong 20 năm và sau đó quyền sử dụng đất này có thể sẽ được kéo dài thêm. Nông dân có quyền chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất. - Cải cách về giá: Cuộc cải cách về giá cả tiền hành từ năm 1989 cũng có ý nghĩa quan trọng ngang với cải cách về quyền sử dụng đất. Kiểm soát giá cả của hầu hết hàng hoá và dịch vụ đều được bãi bỏ. - Cải cách về kinh tế vĩ mô: Những biện pháp mạnh để tháo gỡ những vấn đề về kinh tế vĩ mô đã được đưa ra vào năm 1989. Trợ cấp ngân sách cho sản xuất và tiêu dùng được bãi bỏ. đồng thời lãi suất cho các doanh nghiệp Nhà nước được nâng lên cao hơn so với mức lạm phát. Ngân hàng Nhà nước cũng nỗ lực kiểm soát sự gia tăng của tín dụng trong nửa đầu năm 1989. cho tới năm 1991, tín dụng không còn được coi là nguồn thu tài chính cho ngân sách nữa. - Tăng cường hội nhập với nền kinh tế thế giới: Trong tiến trình đổi mới, Việt Nam đã mở cửa nền kinh tế của mình để gia nhập nền kinh tế thế giới. Việt Nam thực hiện thống nhất hệ thống nhiều tỷ giá hối đoái vào năm 1989. tỷ giá hối đoái được chính thức phá giá từ 900 đồng/ USD thành 5000 đồng/ USD tức đúng bằng tỷ giá chợ đen tại thời điểm đó. Những cải cách về mặt cơ cấu trong ngoại thương và đầu tư cũng đã bổ sung cho những chính sách khác mặc dù thực tế trong lĩnh vực này Việt Nam chỉ đi những bước đi rất dặt dè theo hướng tự do hoá và cho tới nay vẫn còn rất nhiều hàng rào đang tồn tại. - Cải cách khu vực tài chính: Để ổn định nền kinh tế của mình, Việt Nam giảm mức thâm hụt ngân sách và sự gia tăng tín dụng đến mức có thể quản lý được. Tuy nhiên, đất nước vẫn còn thiếu một nền tảng mang tính thể chế nhằm đảm bảo cho sự quản lý có hiệu lực và bền vững của ngành tài chính ngân hàng. - Cải cách doanh nghiệp Nhà nước : Vào đầu thập niên 1990, phần ngân sách dành cho khu vực quốc doanh bị thắt chặt. Trợ cấp tài chính được cắt giảm và tiến tới xoá bỏ; các khoản vay cho các doanh nghiệp Nhà nước được kiểm soát kỹ càng hơn và tính lãi suất phù hợp. Thắt chặt ngân sách đã tạo ra một sự cải tổ lớn trong khu vực này. Theo ước tính vào giữa những năm 1980, cứ mười người dân Việt Nam thì có bảy người sống trong tình trạng đói nghèo. Và sau hơn một thập niên - thập niên của tăng trưởng kình tế nhanh- tỷ lệ nghèo đói giảm xuống một nửa. Trong thời kỳ 1993-1998, tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam đã giảm xuống một cách nhanh chóng. Số người có chi tiêu bình quân đầu người thấp hơn mức nghèo đói đã giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống 37% năm 1998. Số người sống dưới ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm đã giảm xuống từ 25% xuống còn 15%. Dù tỷ lệ nghèo của Việt Nam vẫn còn cao nhưng những cải thiện tình trạng nghèo chỉ trong vòng 5 năm thực sự đã gây nhiều ấn tượng. Những năm gần đây hầu như không nước nào đạt được những kỷ lục giảm nghèo đói nhanh trong một thời gian ngắn như vậy. Những thành tựu lớn trong việc giảm nghèo là kết quả của việc tăng chi tiêu bình quân đầu người, nhìn chung chi tiêu bình quân đầu người đã tăng 41% trong thời kỳ 1993-1998. Tuy nhiên những thành tựu này không chỉ bị hạn chế bởi sự tăng nhanh của chi tiêu đầu người. Các chi tiêu về phát triển con người, khả năng được sử dụng cơ sở hạ tầng, và sở hữu các hàng hoá lâu bền đã khẳng định sự cải thiện mức sống trong thời kỳ 1993-1998: Tỷ lệ đi học đúng tuổi của học sinh tiểu học đối với cả nam và nữ vốn đã cao, lại được cải thiện hơn nữa – tăng từ 87% lên 91% đối với nữ và từ 86% lên 92% đối với nam; Tỷ lệ đi học đúng tuổi của học sinh trung học cơ sở đối với cả nam và nữ đã tăng gấp đỗi và hiện nay là 61% đối với nữ và 62% đối với nam. Năm 1990 số trẻ em nhập học vào các trường trung học cơ sở giảm xuống 2,7 triệu, nhưng đến nay con số này đã là 5 triệu; Tỷ lệ đi học đúng tuổi của học sinh phổ thông trung học đối với cả nam và nữ đều đã tăng mạnh – tỷ lệ này đã tăng từ 6% đến 27% đối với nữ và 8% đến 30% đối với nam; Tình trạng suy dinh dưỡng đối với trẻ em trai và gái dưới 5 tuổi vẫn còn cao, song đã giảm từ 1/2 xuống còn 1/3 tổng số trẻ em. Khả năng tiếp cận các cơ sở hạ tầng – như các trạm y tế, nước sạch và điện- đã được cải thiện. Sở hữu các hàng hoá lâu bền – như đài, vô tuyến, xe đạp – cũng đã tăng lên. Năm 1998, 47% số hộ gia đình có đài, 58% có vô tuyến và 76% có xe đạp. 2. Về dịch vụ cơ sở hạ tầng. Dịch vụ cơ sở hạ tầng phát triển mạnh mẽ trong những năm 90 đã đóng góp vào sự tăng trưởng nhanh, vào hoạt động ngoại thương và công cuộc giảm nghèo ở Việt Nam trong thời kỳ này. Trong lĩnh vực giao thông vận tải, khối lượng hàng hoá chuyên chở bằng đường bộ và đường sắt đã tăng hơn hai lần, bằng đường thuỷ nội bộ tăng 70% và bằng đường biển tăng gấp 6 lần, đã vượt khối lượng hàng hoá chuyên chở bằng đường sắt. trong lính vực năng lượng, công suất phát điện đã tăng gần 3 lần và khai thác dầu thô tăng gấp 5,5 lần. Tỷ lệ dân có khả năng tiếp cận với điện tăng từ 47% lên 75%, trong khi đó dầu thô trở thành hàng hoá xuất khẩu chủ lực, chiếm tới 1/5 nguồn thu ngoài tệ của đất nước. Chi tiêu công tăng và cải cách thể chế đã làm tăng đáng kể các dịch vụ cơ sở hạ tầng. 3. Về cấu hình tăng trưởng và việc làm Từ năm 1992 đến năm 1998, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm ở Việt Nam đạt mức cao 8,4%. Tất cả các ngành đều đạt giá trị gia tăng khá lớn mặc dù tốc độ khác nhau: tổng sản phẩm quốc nội của nông nghiệp tang 8,4%, công nghiệp tăng 13% và dịch vụ được ghi nhận tăng 8,3%. Trong cùng thời gian đó, số lượng việc làm tăng 1,8%/ năm. Cũng như tốc độ tăng trưởng, việc làm trong các ngành cũng khác nhau: trong nông nghiệp chỉ tang 0,4%/ năm; trong công nghiệp tăng 4%/ năm và dịch vụ tăng gần 6%/ năm. trong những năm qua các ngành dịch vụ tạo thêm nhiều việc làm nhất: 56% tổng số việc làm mới; 27% là trong công nghiệp và chỉ có 17% trong nông nghiệp. Bảng 5. Tốc độ tăng tổng sản lượng và việc làm ở Việt Nam, 1992-1998. Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Tất cả các ngành GDP Tóc độ tăng trưởng trung bình thực tế 1992-1998 4,5 13 8,3 8,4 Việc làm Tốc độ tăng trưởng trung bình thực tế 1993-1998 0,4 4,0 5,7 1,8 Phân bổ số lao động tăng thêm 1993-1998 16,7 27,0 56,3 100,0 ở Việt Nam làm công ăn lương là hình thức lao động chính của khoảng 20% tổng số lao động. Lao động làm công ăn lương đã tăng thêm 3,5% hàng năm trong giai đoạn 1993-1998. Nhờ đó nó tạo thêm được tổng cộng 1,6 triệu việc làm trong 5 năm đó. Trong số này, khoảng 1 triệu việc làm là trong các ngành dịch vụ và 600.000 việc làm còn lại là ngành công nghiệp. Những việc làm trong khu vực chính thức ở khu vực thành phố đã tăng 3,7% mỗi năm. Trong tổng số lao động làm công ăn lương, 40% thuộc khu vực nhà nước, 60% còn lại thuộc khu vực tư nhân. Việc làm trong khu vực chính thức thường là những công việc đem lại thu nhập cao và nhiều phụ cấp khác nhất trong cả nền kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp hữu hình ở Việt Nam đã giảm trong thời kỳ 1993-1998. Bảng 6. Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam theo vùng và theo giới tính, 1993-1998 1993 1998 Việt Nam 3.7 2.2 Theo vùng Nông thôn 2.6 1.4 Thành thị 7.7 5.4 Thất nghiệp ở thành thị theo giới tính Nam 9.0 6.2 Nữ 6.4 4.5 Phần III. Những giải pháp nhằm xoá nghèo đói ở Việt Nam trong giai đoạn 2002-2010 Trong những năm qua, công cuộc giảm nghèo đói của Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể song nghèo đói vẫn còn tồn tại trên cả diện rộng và bề sâu; bởi vậy trong năm, mười năm tới đây còn rất nhiều việc phải làm. Trước hết mở ra cơ hội tạo việc làm và nâng cao năng suất lao động để từ đó góp phần tăng thu nhập và giúp người nghèo vượt qua khỏi nghèo đói. Thứ hai, phải có biện pháp để đảm bảo ích lợi của tăng trưởng và khả năng tiếp cận các dịch vụ một cách khách quan và công bằng; nhờ vậy mọi công dân đều được hưởng thành quả do sự phát triển mang lại. Thứ ba, cần đặc biệt chú ý giảm bớt nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước sự bất trắc trong đời sống như ốm đau, mùa màng thất bát, mất đi người kiếm tiền nuôi gia đình… Kết hợp lại, cả 3 yếu tố này tạo nên chính sách phát triển. Chính phủ đã nhận thấy rõ ràng rằng nếu muốn tiếp tục giảm nghèo đói sẽ phải có những hành động kiên quyết hơn trong mỗi lĩnh vực cũng như trong từng mảng nhỏ của chúng. Ngày càng có nhiều bằng chứng cả ở Việt Nam và trên thế giới cho phép khẳng định rằng thường phải có những hoạt động ở nhiều ngành thì mới đạt được những kết quả tích cực trong việc cải thiện đời sống của người dân. Ví dụ muốn nâng cao tỷ lệ người dân tộc biết chữ một cách có hiệu quả thì không chỉ riêng ngành giáo dục phải tích cực hơn mà còn cần đến các điều kiện thuộc cơ sở hạ tầng, quản lý nước, thông tin cũng như các chính sách cho kinh tế nông thôn. Nói một cách rộng hơn, kể cả khi có những khoản đầu tư lớn vào phát triển con người tạo nên một xã hội khoẻ mạnh và có trình độ cao cũng không thể chống lại nghèo đói nếu như quản lý kinh tế yếu kém và không thể làm tăng thu nhập do không tăng trưởng và không có cơ hội tạo thêm thu nhập. Tuy nhiên nói đấu tranh chống nghèo đói trên tất cả các mặt trận không có nghĩa là chúng ta phải thực hiện mọi công việc cùng một lúc. Để xác định thứ tự ưu tiên phải làm rõ những khâu ách tắc và đột phá vào ách tắc đó trước tiên. Và để đảm bảo rằng những ưu tiên được lựa chọn phản ánh được đúng mối quan tâm của người nghèo thì cần phải thu hút họ vào quá trình lập kế hoạch có sự tham gia của người dân. I. Nâng cao năng lực con người. Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể trong phát triển con người, được thể hiện qua thu nhập tăng lên và nghèo đói giảm mạnh. mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội mười năm là tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được và đạt tốc độ phát triển con người cao hơn và công bằng hơn vào năm 2010. Để đạt được mục tiêu này các dịch vụ xã hội cần được mở rộng và cải thiện hơn nữa. Tính cấp thiết, sự cam kết chính trị và sự phối hợp mạnh hơn giữa các phương tiện với các mục tiêu trong các chiến lược của các ngành khác nhau là những yều tố căn bản. Đặc biệt có 5 vấn đề xuyên suốt giữa các ngành: 1. Nâng cao chất lượng các dịch vụ xã hội. Các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và khuyến khích những người cung cấp dịch vụ, đặc biệt ở cấp xã và huyện còn quan trọng hơn việc tăng số lượng người cung cấp dịch vụ. Các dịch vụ định hướng phục vụ khách hàng là rất quan trọng: các dịch vụ y tế công cộng phải đáp ứng hơn nữa nhu cầu của bệnh nhân và giáo dục phải khuyến khích tư duy sáng tạo để đáp ứng những nhu cầu của nền kinh tế hiện đại. Cũng cần phải xem xét tới sự cần thiết phải xây dựng một hệ thống chương trình hoàn thiện và hiện đại để chuẩn bị cho các thế hệ trẻ Việt Nam trước những thách thức của thế kỷ XXI. Một khía cạnh then chốt nữa của sự nghiệp phát triển con người là giáo dục và tri thức. Nó không những trực tiếp nâng cao năng lực của con người và tăng cường cơ hội lựa chọn cho họ mà còn tạo ra nguồn vốn con người, một động lực quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, chiến lược phát triển của chính phủ đã đề ra rất nhiều mục tiêu cho giáo dục và đào tạo: Củng cố thành tựu của chương trình xoá nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; Phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở; Tạo môi trường thuận lợi cho giáo dục từ xa và học tập suốt đời; Hiện đại hoá phương pháp giảng dạy cũng như nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cơ sở hạ tầng trường lớp; Nâng cao kỹ năng của năng lực lao động, của cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý cũng như của người lao động trong nông nghiệp và ở nông thôn. Đầu tư cho phát triển con người và xã hội có vai trò rất quan trọng đối với ba mảng cấp bách của một chiến lược giảm nghèo đói (tạo cơ hội, đảm bảo công bằng và giảm nguy cơ bị tổn thương). Hiện tại trong ngành giáo dục đang có ba vấn đề chính, đó là khả năng tiếp cận giáo dục, chất lượng và tính thiết thực của giáo dục, trang trải cho giáo dục. Làm thế nào để tạo ra một sự tiếp cận công bằng hơn đến dịch vụ giáo dục? Mặc dù tỷ lệ học sinh đến trường khá cao và không có sự chênh lệch đáng kể giữa số học sinh nam và nữ song còn rất nhiều vùng và nhiều nhóm người chịu thiệt thòi vẫn không có được điều kiện như các nhóm khác trong việc tiếp cận đến giáo dục cơ bản. Trong số những học sinh không được đi học có tới 50% là con em các dân tộc thiểu số. ở Lai Châu- một tỉnh miền núi nghèo- chỉ có 49% phụ nữ trưởng thành biết chữ. Sự chênh lệch giữa nhóm dân giàu và dân nghèo không lớn ở bậc tiểu học nhưng ngày càng thể hiện rõ nét trong các bậc học cao hơn. Ví dụ như ở trường tiểu học, 80% số trẻ em trong nhóm dân nghèo nhất được đến trường so với tỷ lệ 92% đối với nhóm người giàu nhất. Sự chênh lệch này lớn hơn nhiều ngay đối với cấp hai: chỉ có 37% trẻ em nghèo được đi học trong khi tỷ lệ này đối với trẻ em con nhà khá giả là 87%. Rõ ràng là việc bảo đảm khả năng tiếp cận một cách công bằng tới dịch vụ giáo dục cơ bản cho tất cả mọi người dân là nhân tố hết sức cần thiết để đảm bảo tính công bằng trong khả năng tiếp cận đến những cơ hội và những nguồn thu nhập mới trong tương lai. Làm thế nào để nâng cao chất lượng và tính thiết thực của dịch vụ giáo dục? Chất lượng và tính thiết thực là những yếu tố ngày càng được chú ý và các gia đình ở nông thôn và thành thị có cách nhìn nhận khác nhau về vấn đề này. Những người nghèo thường sống trong cộng đồng hẻo lánh và mang nặng tính truyền thống nên cho rằng chương trình học và phương pháp giảng dạy còn xa vời đối với cuộc sống thực tế. Đối với họ, phương pháp giảng dạy ở cấp giáo dục cơ bản thương là xa lạ, thời gian nghe giảng còn nhiều hạn chế và đôi khi gây cản trở công việc của nông thôn hay những công việc khác trong gia đình. Còn những gia đình ở thành phố thì có mối lo lắng ngày càng tăng về tình trạng chất lượng xuống cấp và theo họ nội dung chương trình cũng như phương pháp giảng dạy đều cần phải có sự thay đổi. Chất lượng giáo dục nói chung ở mọi cấp đều cần được cải thiện. Chiến lược của chính phủ chưa xác định rõ hệ thống các tiêu chuẩn quốc gia về giáo dục cơ sở được đảm bảo cho mọi học sinh hoặc nêu rõ mức độ kết quả hoạt động tối thiểu mà mỗi trường cần phải đạt được. Việc thường xuyên đánh giá kết quả hoạt động của hệ thống giáo dục dựa trên những tiêu chuẩn đó sẽ cải thiện công tác của ngành. Do đó, các tiêu chuẩn này cần phản ánh đầu ra thay vì đầu vào của hệ thống giáo dục. Hơn nữa, có thể hiện đại hoá chương trình giáo dục cơ sở bằng cách chuyển từ một phương pháp cũ của một hệ thống hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào việc thuộc lòng, sang phương pháp tiếp thu kiến thức một cách năng động và linh hoạt, khuyến khích tư duy chủ động, sáng tạo và sử dụng những công nghệ thông tin mới nhất. Cần triển khai những hoạt động cụ thể nhằm đảm bảo cho những chương trình cải cách giáo dục được thực hiện trên thực tế. Cuối cung, chiến lược đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên, nhưng lại không nêu rõ tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Ngoài ra, cần lưu ý hơn tới một vấn đề then chốt, đó là nguồn kinh phí để nâng mức lương và thưởng cho giáo viên ở những vùng khó khăn. Chất lượng đào tạo và dạy nghề phần nào bị hạn chế bởi các yếu tố tổ chức và cơ cấu trong phân ngành này. Hiện nay, hệ thống đào tạo kỹ thuật và dạy nghề vẫn chủ yếu do Nhà nước định hướng, quản lý thì manh mún, được nhiều nhà tài trợ giúp đỡ song không có sự phối hợp với nhau và không đáp ứng một cách hệ thống với nhu cầu của thị trường lao động. Một phương thức tốt hơn có thể áp dụng là hiện đại hoá ngành giáo dục phổ thông sao cho những học sinh tốt nghiệp có thể làm việc được ngay, và nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động phải bố trí đào tạo kỹ thuật ngắn hạn cho người lao động trên cơ sở vừa học vừa làm và những hình thức đào tạo kỹ thuật liên quan. Các nhà hoạch định chính sách đều nhận thấy rằng chương trình học hiện nay hầu như chưa tạo được nền móng tốt cho một xã hội học hỏi ở trong nền kinh tế thị trường. họ vẫn còn thiên về cách học thụ động trong những lĩnh vực nghề nghiệp đã được xác định trước chứ không phải là cách học năng động và linh hoạt phù hợp với nền kinh tế đang phát triển và thay đổi. Nâng cao chất lượng và tính thiết thực trong giáo dục của Việt Nam là yếu tố then chốt giúp Việt Nam nâng cao chất lượng lực lượng lao động của mình và thu hút đầu tư để từ đó tạo thêm công ăn việc làm, mang lại cơ hội thu nhập cho những người lao động. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả trong chi tiêu cho giáo dục đồng thời giảm gánh nặng chi phí cho giáo dục của người nghèo? Hiện tại, hiệu quả của việc chi tiêu cho giáo dục còn rất thấp- tỷ lệ học sinh lưu ban và bỏ học vẫn còn rất cao làm giảm kết quả học tập và tăng chi phí giáo dục cho Chính phủ và gia đình. Hiện nay các hộ gia đình phải chịu gánh nặng trang trải 42% tổng chi phí cho giáo dục tiểu học và 50% tổng chi tiêu cho giáo dục cơ bản. Mức miễn giảm học phí cho những học sinh nghèo hay những khoản trợ cấp định hướng khác vẫn còn là quá thấp để có thể giúp hộ nghèo có khả năng trang trải được chi phí cho giáo dục cơ bản. việc miễn giảm học phí ở Việt Nam có ảnh hưởng rất nhỏ đối với người nghèo chủ yếu vì nó chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng chi phí của phụ huynh cho trường và chi liên quan đến học hành và vì chúng có phạm vi áp dụng hẹp. Bảng 7. Phạm vi triển khai chương trình miễn giảm học phí trong năm 1998. Nhóm chi tiêu Tỷ lệ dân được miễn học phí Giảm Miễn Cả hai Nhóm 1 (Nghèo nhất) 8.9 11.6 20.5 Nhóm 2 10.7 6.5 17.2 Nhóm 3 13.4 3.6 17.0 Nhóm 4 9.9 3.6 13.6 Nhóm 5 8.6 0.9 9.5 Tổng cộng 10.4 5.8 18.2 Nông thôn 6.8 2.3 9.1 Thành thị 11.0 0.7 17.5 Hơn nữa, bởi các hộ nghèo thường sống trong các cộng đồng nghèo với mức chi tiêu cho giáo dục thấp hơn nên con em của họ cũng chỉ được học ở những trường chất lượng thấp hơn hẳn. các chính sách xoá đói giảm nghèo có thể hỗ trợ thông qua việc tăng cường định hướng theo lãnh thổ nhằm đưa ngân sách giáo dục và ngân sách cho xoá nghèo đói đến được với những cộng đồng nghèo đồng thời để trả lương cho giáo viên, xây dựng trường học và cung cấp các vật phẩm cần thiết cho những khu vực đó. Những hộ được chính quyền địa phương xác định thuộc diện nghèo cũng có thể được cung cấp lương thực để giúp họ tiếp tục cho con em tới trường giống như các chương trình đổi lương thực lấy giáo dục truyền thống. Theo dự kiến của chiến lược, mức chi ngân sách của Nhà nước cho giáo dục và đào tạo sẽ tăng từ 15% năm 2000 lên 18% vào năm 2005 và 20% vào năm 2010. đáng lưu ý là riêng các yêu cầu như xây dựng ở mỗi xã ít nhất một trường tiều học và một trường phổ thông cơ sở, kết nối internet cho tất cả các trường và áp dụng chế độ học cả ngày cho tất cả học sinh sẽ đòi hỏi nguồn kinh phí đáng kể. Chiến lược cũng đề xuất việc thu học phí tương đương 3% đến 25% chi tiêu giáo dục cho một học sinh, như vậy sẽ tăng thêm chi phí cho việc học tập hiện nay. Cũng cần có chính sách đảm bảo khả năng tiếp cận bình đẳng với giáo dục đại học. Với mục tiêu này, Nhà nước có thể xem xét áp dụng một chính sách rõ ràng hơn để đảm bảo cung cấp học bổng cho sinh viên thuộc các gia đình nghèo. 2. Bảo đảm khả năng tiếp cận bình đẳng cho tất cả các nhóm dân cư. Khả năng tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khả năng tiếp cận đặc biệt quan trọng đối với những nhóm dễ bị tổn thương. Khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế bị cản trở do phí sử dụng cao trong khi diện bảo hiểm y tế còn hạn hẹp và hệ thống miễn phí không hoạt động một cách đúng đắn. các đề xuất của chính phủ về việc áp dụng cơ chế trả trước đối với dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện đánh dấu một thành tựu đáng kể. Việc thu các khoản đóng góp và học phí ở cấp giáo dục cơ sở nên được xem xét lại và kèm theo những điều khoản đặc biệt dành cho người nghèo. 3. Nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng thông tin và công nghệ thông tin. Thông tin có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tăng cường sự phát triển con người. Cung cấp thông tin về các dịch vụ xã hội và về quyền được sử dụng các dịch vụ xã hội của người nghèo sẽ giúp nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ này. thông tin tự thân nó cũng là một dịch vụ, cho phép con người lựa chọn trên cơ sở có đầy đủ thông tin, chẳng hạn về kế hoạch hoá gia đình và sức khoẻ sinh sản, và cho phép các nhà hoạch định chính sách định hướng mục tiêu các dịch vụ một cách hiệu quả. Cuối cùng, cần khuyến khích sử dụng dịch vụ Internet và công nghệ thông tin hiện đại, cần củng cố các hệ thống và cơ sở hạ tâng thư viện, để tạo điều kiện cho sự hình thành của nền kinh tế dựa vào tri thức. 4. Tăng mức đầu tư công vào những lĩnh vực xã hội và đa dạng hoá nhiều nguồn quỹ mới. Việc tăng mức chi tiêu công cho các dịch vụ xã hội và sự tập trung vào nghèo đói là vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo tiêu chuẩn cao hơn về chất lượng và diện hỗ trợ. Trong lĩnh vực y tế, cần tìm ra cách thay đổi trong phân bổ nguồn lực giữa các tỉnh và giữa các cấp y tế. Những nguồn kinh phí khác để trang trải cho các dịch vụ xã hội có thể được khai thác, như bảo hiểm y tế, sự đóng góp của người dân và sự tham gia tài trợ của khu vực tư nhân, song cần phải quản lý nguồn tài trợ đó để tránh gây ra gánh nặng quá sức cho người nghèo. 5. Tạo ra vai trò thích hợp cho khu vực quốc doanh. Cần phải xác định cụ thể hơn vai trò và trách nhiệm của khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh. Trong khi chính phủ có trách nhiệm bảo đảm phổ cập giáo dục cơ bản thì các cơ sở tư nhân có thể giữ vai trò tích cực trong việc cung cấp và tài trợ cho giáo dục ở bậc cao hơn và đào tạo nghề. Một vai trò quan trọng của khu vực quốc doanh vẫn là kích thích sự hoạt động của thị trường cũng như bảo đảm và giám sát chất lượng và khả năng tiếp cận được với các dịch vụ cung cấp. II. Cơ sở hạ tầng vật chất. Phân tích về mức sống dân cư năm 1998 cho thấy sự bất bình đẳng giữa khả năng tiếp cận của những nhóm người nghèo so với những nhóm người khác, giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Người nghèo vẫn chưa được cung cấp đầy đủ các dịch vụ về cơ sở hạ tầng. Việc có được cơ sở hạ tầng và các dịch vụ có ý nghĩa rất quan trọng giúp người nghèo cải thiện nguồn nhân lực, giảm bớt khả năng rủi ro, cho phép họ tham gia và góp phần vào các cơ hội cải thiện đời sống do nền kinh tế thị trường mang lại. Nhận thức được điều đó, chính phủ đã thông báo kế hoạch mở rộng thêm cơ sở hạ tầng ở các vùng nghèo và vùng sâu vùng xa. Chính phủ đang nỗ lực thực hiện cam kết cung cấp thêm cơ sở hạ tầng cho người nghèo, kế hoạch những năm tới đây sẽ phải nêu và giải quyết được một số vấn đề khó khăn như sau: Có hai lý do vì sao việc thiết kế các dự án cho các xã nghèo khác với cách làm theo chuẩn mực. Trước hết, đôi khi những người nghèo sống tập trung ở những vùng ít tiềm năng hay những vùng sâu vùng xa nơi mà những dự án nhất định như xây dựng đường xá và hệ thống thuỷ lợi sẽ không có hiệu quả về chi phí hoặc thậm chí là không thể thực hiện được. Trong những trường hợp đó, cần cố gắng áp dụng những công nghệ có hiệu quả chi phí cao, phù hợp với nhu cầu của người nghèo. Trong chiến lược kinh tế-xã hội 10 năm, chính phủ đã đề ra chương trình nhiều kỳ vọng cho ngành cơ sở hạ tầng. Trong thập kỷ tới, Việt Nam đặt mục tiêu đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng và rút ngắn khoảng cách so với các nước đang phát triển khác. Trong ngành điện, Việt Nam đặt mục tiêu tận dụng tiềm năng thuỷ điện, khí và than để có thể cung cấp điện cân bằng. Chiến lược 10 nêu rõ phải nhanh chóng hoàn thành tổ hợp Phú Mỹ và xây dựng tổ hợp khí- điện- phân bón Tây Nam. Bên cạnh đó, là mục tiêu hạn chế tỷ lệ thất thoát điện trong truyền tải và phân phối bằng cách hiện đại hoá hệ thống phân phối điện quốc gia. Những cải tiến trong phân phối điện nhằm mục đích giảm bớt chi phí cao cho sản xuất điện và làm cho giá năng lượng hợp lý hơn với khả năng chi trả ở Việt Nam. Chính phủ đưa ra các kế hoạch nhiều kỳ vọng để nâng cấp và cải tạo ngành giao thông vận tải bao gồm đường bộ, đường sắt, cảng, hệ thống giao thông đường thuỷ và sân bay. Trong ngành giao thông vận tải, chính phủ đặt mục tiêu hoàn thành việc nâng cấp Đường quốc lộ 1 và xây dựng đường Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó là mục tiêu nâng cao khả năng nối liền với các nước láng giềng bằng cách tăng cường hệ thống đường bộ, bao gồm đường bộ biên giới và xây cầu qua sông. Chính phủ đặt mục tiêu nâng cấp hệ thống đường sắt và mở thêm nhiều đường giao thông mới liên kết với các trung tâm kinh tế. Chính phủ muốn cải tạo hệ thống cảng biển và tăng thêm mạng lưới cảng trong nước. Chiến lược này cũng đặt mục tiêu phát triển hệ thống vận tải đường thuỷ và nâng cao năng lực cảng biển. Trong ngành hàng không, chính phủ muốn hiện đại hoá các sân bay quốc tế và nâng cấp các sân bay nội địa. Trong lĩnh vực cấp nước và vệ sinh, Chiến lược Đô thị đặt mục tiêu đạt tiêu chuẩn quốc tế trung bình bằng cách cấp đủ nước sạch cho tất cả khu công nghiệp và đô thị, cho trên 80-85% dân số vào cuối thập kỷ này. Chiến lược cũng đặt mục tiêu xử lý chất thải và nước thải cho hầu hết người dân thành phố trong thập kỷ tới. Bảng 8: Mục tiêu cung cấp Cơ sở hạ tầng từ 2000 đến 2010. Chỉ số 2000 2010 Đô thị hoá (tỷ lệ dân số) 24% 33% Tốc độ đô thị hoá (tỷ lệ tăng %) 5%/năm 5,5%/ năm Dân số đô thị 19 triệu 30 triệu Nước sạch 65-70% 80-85% Nước thải 80-85% Chất thải rắn 100% III. Cải thiện hệ thống môi trường. Tầm nhìn dài hạn chiến lược 10 năm về bảo vệ môi trường quốc gia của chính phủ Việt Nam xác nhận rằng chất lượng môi trường và tài nguyên thiên nhiên đang bị xuống cấp nhanh chóng. Độ che phủ của rừng tự nhiên đã giảm từ 43% xuống còn 29% diện tích đát tự nhiên trong vòng 5 thập kỷ qua, và đất nước đang trong tình trạng thiếu đất canh tác nghiêm trọng. Sự mất mát các khu hệ sinh sống đẫ làm tăng số loài bị đe doạ. Tỷ lệ thiếu việc làm cao ở nông thôn, kèm theo thiếu đất và chú trọng vào công nghiệp hoá, đã góp phần làm tăng hiện tượng di cư ra thành thị… 1. Về tài nguyên rừng Chính phủ đang tìm cách ngăn chặn việc phá rừng và đảm bảo những nỗ lực khôi phục rừng thành công. Nguyên nhân sâu xa của việc phá và suy thoái rừng ở Việt Nam bao gồm nghèo đói ở khu vực nông thôn, thiếu đất canh tác, năng lực thể chế về bảo vệ rừng, các chính sách sở hữu đất còn thiếu và không hợp lý. Những nguyên nhân trực tiếp của việc đất rừng bị giảm bao gồm: tăng dân số ở khu vực rừng, chặt cây lấy củi, khai thác gỗ và khai thác những sản phẩm rừng có thể là gỗ hoặc không phải gỗ, cháy rừng hoặc các hoạt động phát triển ví dụ như xây dựng đường xá, đập hoặc nhà máy thuỷ điện, và cấp đất làm nông nghiệp và sinh hoạt cho người dân ở những vùng đồng bằng đông dân. Hơn nữa, các cán bộ của trung tâm lâm trường quốc doanh thường được phép sử dụng những diện tích đất rừng vào mục đích canh tác nhằm cải thiện cuộc sống. Cách làm này càng khuyến khích quá trình xâm hại đến rừng và biến rừng thành đất nông nghiệp. Nhằm ngăn chặn tình trạng xâm lấn, đã có những biện pháp khuyến khích dưới hình thứcgiao quyền sử dụng đất lâu dài ở những khu đất rừng cho các hộ, và cộng đồng. Thực hiện chương trình giao đất giao rừng và quá trình cải cách các lâm trường quốc doanh sẽ tạo thêm các biện pháp khuyến khích nữa nhằm biến phương thức chặt phá rừng không bền vững thành quản lý rừng lành mạnh. Do phần lớn các khu bảo vệ đều thiếu nhân lực và kinh phí, việc săn bắt trộm các sinh vất hoang dã nhằm buôn bán sinh lời ngày càng lan rộng. Mất mát các khu hệ sinh sống cùng với nạn săn bắt đẫ khiến 16 loài linh trưởng, 4 loài thú có vú lớn và 25 loài chim đang gặp nguy hiểm… Một số lượng ngày càng tăng các loài thực và động vật này đang được trao đổi buôn bán với các nước láng giềng đặc biệt là Trung Quốc, Thái Lan. Tham gia vào công ước quốc tế về Buôn bán các loài đang gặp nguy hiểm (CITES), chính phủ cần hợp tác chặt chẽ hơn với các nước láng giềng để ngăn chặn nạn buôn bán động thực vật hoang dã. Nâng cao nhận thức là biện pháp đang được sử dụng để ngăn chặn buôn bán động thực vật hoang dã. 2. Về tài nguyên nước. Một trong những yếu tố quan trọng để phát triển bền vững là quản lý tốt hơn nguồn tài nguyên nước của quốc gia. Mặc dù là nguồn tài nguyên dồi dào, tài nguyên nước ngày càng trở nên nhạy cảm ở Việt Nam, vì tăng trưởng kinh tế và dân số đã dẫn đến việc cạnh tranh sử dụng nước để thoả mãn nhu cầu về sản xuất lương thực và các nhu cầu khác. Các nhu cầu về nước ngày càng gia tăng ở khu vực thành thị và nông thôn phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và gia đình. Để cải thiện các dịch vụ cấp thoát nước, chính phủ chấp nhận phương pháp phân cấp và cùng tham gia. Các công ty thuỷ lợi tại các tỉnh đã được thành lập và khuyến khích chuyển đổi thành các công ty tự quản và tự lập về tài chính. Sự tham gia của những người sử dụng nước được cải thiện qua các nhóm người sử dụng và các hợp tác xã. Chính phủ đã ý thức được phải bù đắp những chi phí bảo dưỡng và vận hành, mặc dù vẫn còn nhiều bao cấp. Tiêu chuẩn phục vụ và các tiêu thức đánh giá hoạt động phải cải tiến hơn nữa trong lĩnh vực này, kể cả quá trình xây dựng lâu dài. IV. Chuyển đổi nền kinh tế nông thôn 1. Thâm canh tăng năng suất nông nghiệp Chiến lược của chính phủ đến năm 2010 chú trọng đến vai trò của tiến bộ khoa học kỹ thuật trong khu vực nông nghiệp. Do đó cần phải đầu tư hơn nữa các nguồn lực công vào các hoạt động nghiên cứu và khuyến nông, là những hoạt động có tác động mạnh mẽ tới năng suất lao động. Tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu tăng cường và khuyến nông. Để làm cho các hoạt động khuyến nông thực sự có hiệu quả trong việc thúc đẩy thâm canh và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi phải nhằm vào đáp ứng nhu cầu của người nông dân thay vào chỉ nhằm vào việc hoàn thành các chỉ tiêu sản xuất. Việc đào tạo các phương pháp có sự tham gia của người dân và kỹ năng truyền thông cũng rất quan trọng. Những can thiệp nhằm nâng cao năng suất cây lúa và cây lương thực là rất quan trọng đối với người nghèo. Những người nông dân chuyên trồng lúa thuộc nhóm 20% nghèo nhất sản xuất ra 4/5 sản lượng trên một hecta so với 20% các hộ giàu nhất. Bên cạnh việc thâm canh tăng vụ, người dân có thể thu nhập nhiều hơn nếu các thị trường đầu vào và đầu ra là hiệu quả hơn. Việc tự do hoá các thị trương xuất khẩu gạo như chính phủ đẫ tuyên bố là để nhằm mục đích đó, tăng tính cạnh tranh và mức giá bán tại trang trại bằng cách chỉ cho phép các nhà xuất khẩu hiệu quả nhất tham gia xuất khẩu. Các biện pháp hạn chế nhập khẩu lúa giống hiện tại đang có tác động ngược lại tới năng suất và thu nhập của người nông dân do hạn chế việc phổ biến công nghệ mới. 2. Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp. Việc chuyển từ sản xuất lúa gạo sang sản xuất các hàng hoá có giá trị cao hơn cũng rất quan trọng để đạt được những mục tiêu chiến lược do Bộ NNPTNT đề ra. Việc nâng cao giá trị gia tăng bình quân một lao động nông nghiệp một phần chính là việc chuyển một phần lao động ra khỏi sản xuất nông nghiệp. Bản dự thảo chiến lược của chính phủ nhấn mạnh sự cần thiết phải đẩy mạnh sản xuất trên tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, một số lĩnh vực đã cho thấy rất có triển vọng. Mặc dù chiến lược thừa nhận phải loại bỏ một số cây trồng mà Việt Nam không có lợi thế so sánh, nhưng vẫn cần có cam kết rõ ràng hỗ trợ cho ngành công nghiệp mía đường đang gặp khó khăn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đa dạng hoá sản xuất mà không gây ra những lệch giá mới? Một phương án thích hợp là: Cung cấp cho người nông dân càng nhiều thông tin càng tốt về kỹ thuật và thị trường dưới hình thức dễ hiểu; Cho phép người nông dân được vay vốn tín dụng với lãi suất thực dương; Xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng hỗ trợ; Khuyến khích phát triển công nông nghiệp đặc biệt là đối với khu vực kinh tế tư nhân và thúc đẩy việc tham gia vào các thị trường quốc tế; Cho phép người nông dân tự ra quyết định về hình thức đầu tư phù hợp nhất cbo trang trại của mình. Một đánh giá về các dự án của các nhà tài trợ cho thấy tỷ lệ hoàn vốn của dự án cơ sở hạ tầng nông thôn nằm trong khoảng từ 20-35%, bằng chứng của một trở lực nghiêm trọng. Dựa trên đánh giá đó, các lĩnh vực quan trọng cần có sự thay đổi về chính sách và đầu tư trong thập kỷ tới là: Nâng cao khả năng tiếp cận cơ bản của người dân nông thôn tới các dịch vụ, thị trường và các điều kiện thuận lợi là vấn đề thiết yếu dựa trên việc tiếp tục đầu tư vào hệ thống đường xá nông thôn, bảo trì đường bộ, đường thuỷ và hệ thống vận tải. Mở rộng trọng tâm đầu tư vào thuỷ lợi vào đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp và làm cho các công ty quản lý thuỷ lợi được tự chủ và phải tự hạch toán kinh doanh Mở rộng điện khí hoá xuống dưới cấp huyện đến cấp làng xã, giảm tổn thất trên đường dây và tăng độ tin cậy Nầng cao khả năng được sử dụng nước sạch từ mức thấp 32% như hiện nay và giảm tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh do thiếu vệ sinh Thực hiện phòng chống và giảm nhẹ thiên tai để giảm thiệt hại lớn về kinh tế mà ước tính khoảng hơn 5 triệu USD/năm Nhanh chóng xoá bỏ các lỗ hổng về các công trình hạng tầng kỹ thuật thiết yếu ở các làng xã thuộc vùng cao vùng xa bằng cách nâng cao quyền lực cho các cộng đồng thông qua hoạt động nâng cao năng lực và phân cấp trách nhiệm quản lý và duy tu công trình Tránh đầu tư vào công trình hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng các sáng kiến sản xuất các nông sản để bán theo mệnh lệnh tập trung, không do thị trưởng quyết định và những lĩnh vực Việt Nam không có lợi thế kinh tế so sánh. V. Khuôn khổ kinh tế để tăng trưởng và giảm nghèo. Để đạt được mục tiêu về tăng trưởng, tạo việc làm và giảm nghèo, Việt Nam sẽ phải tăng số lượng cũng như chất lượng đầu tư. Với khoảng 20 triệu người (khoảng 37% dân số) sống ở mức nghèo, khoảng 25 triệu hoặc thất nghiệp hoặc không đủ việc làm và khoảng 1 triệu lao động mới được bổ sung vào lực lượng lao động mỗi năm thì mục tiêu tăng gấp đôi GDP và tạo việc làm cho 15 triệu người là phù hợp và đầy kỳ vọng. Đây là mục tiêu có thể đạt được nếu xét tới kinh nghiệm của Việt Nam và các nền kinh tế phát triển nhanh khác. để đạt được mục tiêu này, chúng ta dự kiến tăng tổng đầu tư từ mức trung bình 25% GDP trong những năm 90 lên mức trung bình 30% GDP tromg thập kỷ tới. Trị giá xuất khẩu dự kiến tăng ở mức14% và tỷ trọng của công nghiệp tăng từ 30% lên 40% GDP. - Tăng số lượng hoặc mức độ đầu tư Tăng trưởng nhanh chóng của đầu tư tư nhân nước ngoài - đặc biệt là đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ – sẽ là chìa khoá để đạt được mục tiêu tổng đầu tư. Đầu tư của nhà nước khó có thể vượt qua mức 7% GDP mỗi năm ( so với mức 6% trong thập kỷ 90). Đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước có thể ở mức trung bình 7% GDP, tương đương với những năm 90 vì tình hình tài chính kém cỏi của các doanh nghiệp nhà nước trong ngành chế tạo trong 4 năm vừa qua cũng như do các chương trình cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước sẽ phải thực hiện trong 5 năm tới. Đầu tư nước ngoài có thể đạt được mức nào đó trong khoảng 3-5% GDP tuỳ thuộc vào môi trường đầu tư của Việt Nam thuận lợi so với các nước ASEAN và Trung Quốc như thế nào. Như vậy đầu tư tư nhân sẽ phải tăng từ mức khoảng 7% của GDP trong những năm 90 lên mức 11%-13%GDP trong thập kỷ tới. - Tăng chất lượng đầu tư Tăng chất lượng đầu tư có ý nghĩa hết sức quan trọng để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng, tạo việc làm và giảm nghèo đề ra trong dự thảo chiến lược. Nâng cao năng suất. Với mức đầu tư 30% của GDP, mức tăng suất tổng hợp của Việt Nam phải cao hơn 40% so với mức trung bình trong những năm 90 và lượng thiếu hụt đầu tư sẽ phải được bù đắp bằng một mức năng suất tổng hợp cao hơn. Chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực chế tạo có năng suất cao hơn và tiếp cận tốt hơn với công nghệ nước ngoài sẽ đem lại mức năng suất tổng hợp cao. Tạo nhiều việc làm và các việc làm được trả lương cao hơn. Phần lớn công ăn việc làm cũng như các việc làm được trả lương cao hơn dường như ở khu vực chế tạo. Các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ trong nước thường sử dụng nhiều lao động và định hướng xuất khẩu sẽ có thể đầu tư và thu hút lao động vào ngành nghề chế tạo và xuất khẩu hàng chế tạo. Do vậy, sản lượng hàng chế tạo của các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ trong nước sẽ phải tăng từ 18%-25% hàng năm, cao hơn nhiều so với mức hiện nay của Việt Nam nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với Trung Quốc những năm 90. Đảm bảo hiệu quả và công bằng trong chi tiêu công, bao gồm cả đầu tư. Nâng cao quản lý, sàng lọc đầu tư công cộng và định hướng chi tiêu công nhiều hơn cho người nghèo sẽ là cần thiết để đảm bảo tác động tốt nhất của chi tiêu tới tăng trưởng và giảm nghèo. - Nhu cầu tài trợ từ bên ngoài Tiết kiệm trong nước hy vọng sẽ tăng để cung cấp tài chính cho mức đầu tư cao hơn. Tuy nhiên có thể sẽ phải cần đến khoản tài trợ ưu đãi giải ngân nhanh trong 5 năm đầu để bổ sung giải ngân các dự án viện trợ. Nguồn tài trợ giải ngân nhanh này sẽ sẵn sàng nếu như chính phủ chấp thuận các cải cách về chính sách và thể chế cần thiết. Lời kết Đối với một đất nước thuộc vào loại nghèo nhất thế giới như nước ta là việc không phải bây giờ mới đề cập đến. Vì vậy làm sao mà bảo đảm một cuộc sống ấm no hạnh phúc, ai cũng có cơm ăn áo mặc, trẻ em nào cũng được đến trường như lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi sự nỗ lực của không chỉ một cá nhân mà là toàn xã hội. Những thắng lợi to lớn của sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh, của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo điịnh hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm qua đã tạo ra điều kiện tiền đề rất quan trọng để dân tộc ta bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc phát triển, sự hoà nhập không có nghĩa là phải hoà tan, phải bảo đảm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độic lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, phải phát huy và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc ở các vùng nông thôn, mọi miền trong cả nước, làm sao mà vừa hiện đại hoá mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc, phá vỡ âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Tài liệu tham khảo 1/. Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2000. Tấn công nghèo đói . Báo cáo chung của nhóm công tác các chuyên gia chính phủ- Nhà tài trợ- Tổ chức phi Chính phủ. Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam, ngày 14-15 tháng 12 năm 1999. 2/. Mức sống trong thời kỳ bùng nổ kinh tế - Nhà xuất bản thống kê. 3/. Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2001. Việt Nam tiến vào thế kỷ 21- Báo cáo chung của Ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển Châu á và chương trình phát triển Liên hợp quốc. Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam, ngày 14-15 tháng 12 năm 2000. 4/. Báo Hà Nội Mới năm 2000, 2001, 2002 5/. Tạp chí Thời báo kinh tế năm 2001, 2002. 6/. Văn kiện đại hội đai biểu oàn quốc lần thứ IX- NXB chính trị QG 7/. Một số tài liệu khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35291.doc
Tài liệu liên quan