Vì hạn chế về trình độ lý luận, kinh nghiệm, kiến thức thực tiễn, mà bài viết này của em chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu sơ bộ chưa đi sâu vào từng kía cạnh cụ thể.
Để Việt nam gia nhập AFTA một cách có hiệu quả hơn thì đói hỏi niều điều kiện và trong từng hoàn cảnh cụ thể phải có các chính sách cụ thể khác. Trong bài viết này của em còn rất nhiều thiếu sót, em rất mong được thầy cô, bạn bè góp ý sữa chữa để các bài viết sau của em được tốt hơn.
27 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 887 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát huy hiệu quả của AFTA/CEPT đối với nền kinh tế Việt Nam, một số kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Gần đây, đa số các nhà kinh tế, chính trị học cho rằng, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, là một yếu tố quan trọng tác động đến tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
Việt Nam là một nước đang phát triển, bắt tay xây dựng lại nền kinh tế với xuất phát điểm thấp, lại phải chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Do đó, để khắc phục khó khăn, phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực cho phát triển kinh tế, tránh tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thì Việt Nam cần phải mở cửa hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đứng trước yêu cầu đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới, mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới và đã được cụ thể hoá tại Đại hội VIII.
Cho đến nay, chúng ta đã đạt nhiều thành tựu đáng kể trên mọi lĩnh vực, mà đặc biệt là trên lĩnh vực đối ngoại, hợp tác. Chúng ta đã phá được thế bị bao vây, cô lập, từng bước mở rộng hợp tác và tham gia ngày càng tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
Đến ngày 28/7/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Ngay sau đó Việt Nam đã tích cực tham gia mọi hoạt động của tổ chức này. Ngày 1/1/1996, Việt Nam đã chính thức cam kết thực hiện Hiệp Định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để thực hiện khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) trong lộ trình 10 năm (1996- 2006).
Việt Nam tham gia AFTA là một sự kiện quan trọng trên con đường đổi mới và phát triển kinh tế theo định hướng mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế gới.
Trên cơ sở sự sưu tầm tài liệu, tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà kinh tế, chính trị. Em xin đưa ra một số ý kiến về những thách thức mà chúng ta gặp phải và một số tác động đối với nền kinh tế Việt Nam khi Việt Nam Gia nhập AFTA, những giải pháp gì để Việt Nam gia nhập AFTA có hiệu quả hơn.
Bài viết nàychỉ giới hạn đề cập đến ba vấn đề:
Phần một: Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới của Việt Nam.
Phần hai: Tiến trình AFTA và những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam, một số tác động đến ngoại thương và thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Phần ba: Một số giải pháp phát huy hiệu quả của AFTA/CEPT đối với nền kinh tế Việt Nam, một số kiến nghị.
Do hạn chế về điều kiện thu thập tài liệu, trình độ lý luận, kinh ngiệm và kiến thức thực tiễn nên bài viết này của em còn rất nhiều thếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến, sửa chữa của thấy cô giáo, bạn bè để những bài viết sau của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội tháng 11/2000
Phần một:
Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới của Việt Nam.
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm về toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, nhưng theo quan điểm được nhiều người ủng hộ nhất thì toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một quá trình quốc tế hoá các mối quan hệ kinh tế trên quy mô toàn cầu, bao gồm trong nó hai giai đoạn phát triển song song- Tự do hoá kinh tế và hội nhập quốc tế, nghĩa là các mối quan hệ kinh tế không những được tự do phát triển trên quy mô toàn cầu, mà còn tuân theo những cam kết toàn cầu đa dạng.
Mặc dù, diễn biến tình hình thế giới vẫn còn nhiều phức tạp, chiến tranh, xung đột sắc tộc, mâu thuẩn nội bộ vẫn xẩy ra nhiều nơi, nhưng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã trở thành xu thế chủ đạo, hoà bình và hợp tác để phát triển là nhu cầu đòi hỏi bức xúc của tất cả các quốc gia.
Những thành tựu vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực tin học, viển thông, vận tải, sinh học, vật liệu mới và năng lượng mới đang đẩy nhanh qua trình quốc tế hoá cao độ lực lượng sản xuất, dẫn đến phân công lao động ngày càng sâu sắc. Tình hình đó đòi hỏi sự hợp tác ngày càng rộng, chặt chẽ để phát triển đây là nguyên nhân và là cơ sở cơ bản cho quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế. Bên cạnh đó, hiện nay một loạt các vấn đề như bảo vệ môi trường, chống dịch bệnh, đói nghèo, vũ khí giết người hàng loạt đã trở thành vấn đề tòan cầu mà việc giải quyết đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều nước và thậm chí của cả cộng đồng quốc tế. Ngoài ra sự kết thúc “chiến tranh lạnh” đầu thập kỷ 90 đã kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cường, tạo ra một thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển mới
Từ những lý luận trên đây có thể kết luận rằng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, khách quan trong giai đoạn hiện nay.
Hội nhập quốc tế là một trong hai nội dung cơ bản của toàn cầu hoá, với các đặc trưng cơ bản sau đây:
Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được giảm đần và sẽ bị xoá bỏ trong tương lai gần theo các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu.
Các công ty của của các quốc gia ngày càng có quyền kinh doanh tự do ở mọi quốc gia trên các lĩnh vực đã cam kết, không có sự phân biệt đối xử.
Những năm gần đây chúng ta đã được chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của quá trình liên kết khu vực, liên kết toàn cầu về kinh tế. Các mối liên kết diễn ra ở nhiều cấp độ từ song phương, đa phương đến toàn cầu.
Các Hiệp định kinh tế song phương như Mỹ- Nhật, Mỹ- Châu ÂuĐến các tổ chức hợp tác khu vực, tiểu vực như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp ước thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR)Từ liên kết trong khu vực, các nước trên thế giơí nhanh chóng tiến tới các hình thức hợp tác liên Châu lục như APEC ( Châu á, Châu Mỹ, Nam Thái Bình Dương), Chương trình phát triển xuyên Đại Tây Dương (Châu Mỹ, Châu Âu), khu vực mậu dịch tự do ven Địa Trung Hải (Bắc Phi, Châu Âu), Hội nghị á-Âu ( ASEM), Tổ chức hợp tác 14 nước ven ấn Độ Dương
Cuối cùng, trên phạm vi toàn cầu, Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được xem như là một Liên hợp quốc về kinh tế.
Các tổ chức thương mại khu vực và thế giới đều hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc chung kết hợp với đặc thù của từng địa bàn, song nói chung đều là những diễn đàn kinh tế vừa liên kết vừa cạnh tranh, vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các nước thành viên nhằm tạo điều kiện cho các nước thành viên phát huy những mặt mạnh riêng có, tận dụng những tác động bên ngoài, bổ sung lẫn nhau để phát triển cho mỗi nước, cho cả khu vực, và cho toàn thế giới.
Trong tình hình quốc tế nói trên, bất cứ nước nào không muốn bị gạt ra ngoài lề của xu thế phát triển, đều phải nổ lực hội nhập vào xu thế chung. Việt Nam cũng không phải là một nước ngoại lệ, cần thiết phải lựa chọn tiến trình phù hợp để từng bước hội nhập quốc tế tránh khỏi bị bật ra khỏi xu thế thời đại.
Nắm bắt được sự cần thiết đó, tại Địa hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. Đảng ta đã đề ra chủ trương mở cửa nền kinh tế, hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, và đã được cụ thể hoá tại Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII là “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cà các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực”. Chúng ta đã có nhiều nổ lực thúc đẩy hợp tác quốc tế,
Đến nay, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đã phá vỡ được thế bị bao vây, cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với trên 170 nước, phát triển quan hệ thương mại với trên 130 nước và lãnh thổ, tham gia ngày càng nhiều, tích cực hơn vào đời sống cộng đồng quốc tế.Đồng thời chúng ta cũng đã bình thường hoá và phát triển quan hệ với các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu á (ADB) và các tổ chức kinh tế trong hệ thống Liên Hợp Quốc.
Trong thời gian qua, chúng ta tiếp tục nổ lực đẩy nhanh tiến trình hội nhập- Tham gia vào các tổ chức và thể chế hợp tác kinh tế- thương mại khu vực và thế giới như ASEAN, APEC, ASEM và tiến tới là WTO.
Sau 3 năm làm quan sát viên ( từ7/1992) và đến ngày 28/7/1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN- association of South east asian Nations). Gia nhập ASEAN, Việt Nâm đồng thời trở thành thành viên của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA- asian Free Trade area) và đến ngày 1/1/1996 Việt Nam đã chính thức cam kết thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT-Common effective Preferential Tariff) trong lộ trình 10 năm (từ 1996- 2006). Điều này đã đánh dấu bước ngoặt có tính chất đột phá trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Phần hai:
Tiến trình AFTA và những thách thức đối với nên kinh tế Việt Nam một số tác động đến ngoại thương và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam.
I. Sự ra đời của khu vực thương mại tự do ASEAN- AFTA.
1- Sự ra đời.
Vào đầu những năm 1990, thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, kinh tế cac nước ASEAN đứng trước những thách thức lớn khiến cho các nước ASEAN không thể vượt qua nếu không có sự cố gắng chung của toàn hiệp hội. Đó là sự xuất hiện của các tổ chức hợp tác khu vực như EU, NAFTA đe doạ hàng hoá của các nước ASEAN gặp phải những trở ngại khi thâm nhập vào những thị trường này. Mặt khác, ASEAN đang mất dần lợi thế so sánh về tia nguyên thiên nhên và nguồn nhân lực để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài so với Trung Quốc, Nga và các nước Đông Âu. Kinh tế các nước ASEAN mặc dù tăng trưởng với tốc độ cao nhưng vẩn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài đây là nguyên nhân có khả năng dẫn đến sự mất ổn định kinh tế lâu dài của các nước ASEAN. Xuất phát từ chổ các nước ASEAN có nhiều điểm tương đồng về cơ cấu kinh tế, nhu cầu và trình độ phát triển công nghiệp. Từ những nguyên nhân trên đây, sau nhiều nổ lực cố gắng, nhiều hình thức hợp tác trước đó, đến năm 1992, theo sáng kiến của Thái Lan, Hội nghị thượng đỉnh của các nước ASEAN lần thứ 4 họp tại Singapore vào ngày 28/1/1992, Chính Phủ các nước thành viên đã chính thức quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đã ký chấp thuận Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT).
2- Mục tiêu hoạt động.
Trước tình hình trên, AFTA ra đời nhằm những mục đích sau:
Một là: Tự do hoá thương mại ASEAN băng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan .
Hai là: Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường chung thống nhất.
Ba là: Làm cho ASEAN thích nghi với các điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là việc phát triển các thoã thuận thương mại và trên thế giới.
Với các mục tiêu trên, việc thành lập AFTA đã đánh dấu nbước ngoặt trong qua trình hợp tác quốc tế và phát triển cảu các nước ASEAN.
3- Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung- CEPT.
Với tư cách là công cụ chủ yếu để thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Hiệp định này có nội dung cơ bản là: Trong vòng 10 năm (Từ 1993- 2003) các nước tham gia AFTA tiến hành cắt giảm thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuống còn thuế suất từ 0-5%, đồng thời xoá bỏ các hạn chế về định lượng và các rào cản phi thuế quan khác. Để thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan này, toàn bộ các mặt hàng trong danh mục biểu thuế quan của mỗi nước được chia thành 4 danh mục sau:
Một là: Danh mục các sản phẩm giảm thuế: gồm các mặt hàng được đưa vào cắt giảm thuế quan ngay với lịch trình giảm nhanh và giảm bình thường.
Hai là: Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế: Gồm các mặt hàng tạm thời chưa phải giảm thuế và sau một thời gian nhất định các quốc gia phải đưa toàn bộ các mặt hàng này vào danh mục cắt giảm thuế.
Ba là: Danh mục các sản phẩm chưa chế biến nhạy cảm: Các mặt hàng trong danh mục này có thời hạn cắt giảm thuế muộn hơn, cụ thể là năm 2010 hoặc muộn hơn nữa đối với các mặt hàng nhay cảm cao.
Bốn là: Danh mục loại trừ hoàn toàn: Gồm những sản phẩm không tham gia Hiệp định CEPT. Đây là các sản phẩm có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và đạo đức xã hội của mỗi nước.
Bên cạnh việc cắt giảm thuế quan, CEPT còn quy định việc xoá bỏ các hàng rào phi truế quan và các hạn chế về số lượng nhập khẩu, đông thời cũng đề cập đến vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan.
CEPT cũng quy định cụ thể một sản phẩm muốn được hưởng ưu đãi thuế quan thì phải có những điều kiện sau:
Một là: Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của nước nhập khẩu và nước xuất khẩu và phải có mức thuế nhập khẩu băng hoặc thấp hơn 20%.
Hai là: Sản phẩm đó phải có chương trình cắt giảm thuế do Hội đồng AFTA thông qua.
Ba là: Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN và phải thoã mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượng nội địa) ít nhất là 40%.
4- Bộ máy tổ chức và điều hành của AFTA.
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 đã quyết định thành lập hội đồng AFTA. Hội đồng là một cơ quan bao gồm đại diện cac bộ trưởng từ các nước thành viên và Tổng thư ký ASEAN . Hội đông ASEAN nhóm họp khi cần thiết nhưng ít nhất mỗi năm một lần. Hội đồng có trách nhiệm báo cáo lên Hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM). Hội nghị các quan chức cao cấp ASEAN (SEOM) có trách nhiệm giúp Hội đồng thực hiện nhiệm vụ. Dưới SEOM là Uỷ ban điều phối CEPT để thực hiện AFTA (CCCA). Ban thư ký ASEAN hỗ trợ Hội đồng AFTA, SEOM, CCCA để thực hiệnCEPT. Bên cạnh đó Phòng thương mại- công nghiệp ASEAN (ASEAN-CCI) có vai trò khuyến khích khu vực tư nhân vào thực hiện CEPT.
II. ý nghĩa của việc Việt Nam gia nhập AFTA.
Việc Việt Nam gia nhập AFTA có ý nghĩa to lớn đối với nền khinh tế Việt Nam:
Một là: Phù hợp với chủ trương mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước ta là: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các mối quan hệ đối ngoại Hợp tác nhiều mặt,song phương và đa phương với các tổ chức quốc tế và khu vực”. Việt Nam gia nhập AFTA là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ hợp tác quốc tế để phát triển, tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia ngày càng nhiều hơn vào đời sống kinh tế của cộng đồng khu vực và quốc tế.
Hai là: Tạo điều kiện cho Việt Nam gia nhập vào các tổ chức kinh tế lớn hơn như: APEC, ASEM, WTOViệc Việt Nam gia nhập AFTA là một thử thách để Việt Nam có thể rèn luyện, học hỏi kinh nghiệm, chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc tham gia vào các tổ chức này một chách có hiệu quả hơn.
Ba là: Cải thiện, tăng cường quan hệ với các nước lớn, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế thông qua quan hệ đối tác, đối thoại của ASEAN.
Bốn là: Học tập kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm đẩy nhanh tiến trình CNH,HĐH đất nước.
III. Những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam.
Việc Việt Nam gia nhập AFTA đánh dấu bước ngoặt mới trong chiến lược mở cửa, hội nhập hợp tác để phát triển. Bên cạnh nhiều thuận lợi thì tiến trình AFTA cũng đặt ra cho Việt Nam không ít thách thức.
1- Thuận lợi đối với Việt Nam.
Một là:Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên , nguồn lao động, vị trí địa lý thuận lợi.
Theo đánh giá của các chuyên gia về kinh tế thì Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên tương đối đa dạng, phong phú. Nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và cây công nghiệp, Việt Nam còn là quốc gia có rừng đa sinh vật, có biển với nguồn thuỷ sản đa dạng, có nhiều loại khoáng sản, có nguồn nước dồi dào.
Việt nam là nước nằm ở tây Thái Bình Dương- Khu vực có tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định, là cửa ngõ của giao lưu quốc tế. Đây là điều kiện để Việt Nam phát triển các loại hình dịch vụ như vận tải biển, viễn thông, du lịch, bến cảng Hiện nay theo chương trình xây dựng hệ thống đường liên bộ ASEAN thì Việt Nam sẽ tham gia vào 5 tuyến đường, Việt Nam sẽ là cửa ngõ của ASEAN hướng ra thế giới.
Việt Nam cũng là nước có dân số đông, là thị trường tiêu thụ hàng hoá lớn,với yêu cầu về chất lượng chưa cao, đây là một thị trường tiềm năng chưa được khai thác. Lực lượng lao động dồi dào, theo ước tính cứ bình quân một năm lực lượng lao động Việt Nam được bổ sung thêm hơn 1 triệu người, giá lao động ở Việt Nam tương đối rẻ so với các nước khác trong khu vực, trình độ lao động phổ thông sẽ phù hợp với những ngành nghề cần sử dụng nhiều lao động. Do đó, khi Việt Nam gia nhập AFTA sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ViệtNam phát huy các lợi thế của mình để phát triển kinh tế.
Hai là: Việt Nam đã thu được kết quả tốt đẹp sau quá trình đổi mới đất nước.
Sau hơn 10 năm đổi mới Việt Nam đã có tốc đọ tăng trưởng kinh tế khá cao, ổn định, tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống người dân ngày càng được nâng cao, đã có khả năng tích luỹ nội bộ, tập trung vào đầu tư, phát triển tiềm lực kinh tế lâu dài. Đây là một nhân tố thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nươc ngoài (FDI), phát huy hiệu quả khi mở cửa hội nhập.
Ba là: Khi thực hiện Hiệp định CEPT sẽ cho Việt Nam cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu do những hangf rào thuế quan, phi thuế quan được bãi bõ, lưu thông hàng hoá sẽ thuận lợi hơn, giá các nguyên liệu đầu vào sẽ rẻ hơn, tăng khả năng chuyển gioa công nghệ và tiếp thu kinh nghiệm quản lý là cơ sở để hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm, khu vực thị trường các nươc ASEAN là một thị trờng rộng lớn với hơn 500 triệu dân, có nhu cầu khá tương đồng vơi nhu cầu trong nước. Đây là cơ hội để cho Việt Nam mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, phát triển sản xuất.
Bốn là: ASEAN là tổ chưc hợp tác kinh tế năng động và hiệu quả, do đó nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi các thành viên phát tiển kinh tế, Việt Nam là một nước gia nhập sau và có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn các thành viên khác trước đó của ASEAN nên khi Việt Nam gia nhập AFTA sẽ được hưởng các ưu đái của tổ chức này, nhất là về lĩnh vực chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.
2- Thách thức đặt ra cho Việt Nam.
Một là: Việt Nam gia nhập AFTA với một xuất phát điẻm rất thấp so với các thành viên trước của ASEAN.
Là một nước đi ên từ một nền nông nghiệp lạc hậu với hơn 80% dân số sống trong lĩnh vực nông nghiệp, lại chiụ hậu quả nặng nề cuẩ chiến tranh, Việt Nam gia nhập AFTA trong điều kiện đang chuyển đổi từ một cơ chế kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường với đội nghũ cán bộ quản lý quen hoạt động theo cơ chế chỉ tiêu, chỉ thị từ trên xuống, mang tính thụ động, trình độ không được đào tạo một cách có hệ thống, còn mang nặng tư tưởng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền. Một hệ thống các doanh nghiệp quen được bao cấp, tính năng động của các cán bộ quản lý doanh nghiệp trước những biến đổi thị trường còn kém. Hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật chưa đồng bộ, chưa ổn định, còn thay đổi luôn, chư phù hợp với thông lệ quốc tế. Các quan hệ cơ bản của nền kinh tế thị trường chưa thực sự được hình thành. Trang thiết bị, công nghệ sản xuất lạc hậu so với thế giới 2-3 thế hệ( 20-30 năm) lại được mua, tài trợ từ nhiều nguồn nên thiếu tính đồng bộ và hiệu suất sử dụng không cao. Đây là khó khăn lớn nhất mà Việt nam gặp phải khi gia nhập AFTA, thực hiện hiệp định CEPT.
Hai là: Lợi thế của Việt Nam có chỉ ở trạng thái tĩnh, và nếu không được cũng cố sẽ sớm bị thua thiệt.
Nguồn lao động của Việt Nam đông đảo, rẻ nhưng chất lượng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của những nghành sản xuất có trình độ công nghệ cao. Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên không phải là nguồn lợi thế vô hạn do đó nếu Việt Nam không có chiến lược đào tạo sâu rộng, chú trọng đến chất lượng, không có biện pháp khia thác, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên thì sẽ mât dần lợi thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực.
Ba là: Sự bất hợp lý và kém hiệu quả trong cơ câu xuất khẩu, sức cạnh tranh của hàng hoá kém.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam trong thời gian qua là: Gạo, hàng dệt may, giày dép, dầu thô Hiện nay do ảnh hưởng lớn của thiên tai mà nhu cầu đảm bảo an toàn lương thực là hết sức cần thiết, xu thế buôn bán quốc tế đang chuyển dần từ thương mại hàng hoá sang thương mại dịch vụ do đó cac mặt hàng như gạo, dày dép, hàng may mặc, dầu thô .. sẽ mất dần tính cạnh tranh trong tương lai. Bên cạnh đó, khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt nam còn quá thấp so với yêu cầu của mở cửa và hội nhập điều này sẽ ảnh hưởng xấu tới khả năng giành thị trường trên thị trường khu vực ASEAN, khu vực ngoài ASEAN và ngay cả trên thị trường trong nước do đó khi mở thực hiện CEPT một số nghành công nghiệp còn non trẻ, hoặc chưa kịp điều chỉnh trong nước sẽ bị bóp chết. Mặt khác Việt nam chưu có một số nghành công nghiệp mĩu nhọn để tập trung cho sản xuất hàng hoá, dịch vụ cho xuất khẩu nên sẽ bị thua thiệt trong khi thực hiện CEPT với các nước ASEAN.
Bốn là: Đây là lần đâu tiên Việt nam tham gia cơ chế hợp tác thương mại khu vực có những nguyên tắc vậ hành khác với nguyên tắc vận hành của tổ chức tương trợ kinh tế của các nước XHCN trước đây, sự khác biệt lớn nhất là trong lĩnh vực thuế:
+ Việt nam chỉ áp dụng một loại thuế duy nhất là thuế nhập khẩu với thuế cao so với các nước khác nhất là thuế đánh vào hàng tiêu dùng, xa xỉ.
+ biểu thuế của Việt nam được chia thành 30 mức khác nhau với thuế suất cao nhất 200% trong khi các nước ASEAN khác biểu thuế XNK chỉ có 7 mức với thuế suất cao nhất là 60%.
+ Thu nhập từ thuế XNK của các nước AEAN khác chỉ chiếm 7-10% GDP trong khi đó củ Việt nam chiếm 20% GDP.
+Thuế XNK của Vịêt nam chỉ có một mức áp dụng đối với mỗi loại hàng hoá XNK, không phân biệt xuất xứ, còn các nước ASEAN khác thì lại có phân biệt xuất xứ.
Do đó khi giảm thuế theo CEPT sẽ gặp không ít khó khăn, bất lợi.
IV. Những tác động đến ngoại thương và việc thu hút FDI của Việt nam.
Việc gia nhập AFTA của Việt nam có tác động không nhỏ đến nền kinh tế Việt nam, trong giới hạn bài viết này em chỉ xin đề cập đến tác động của tiến trình AFTA đối với ngoại thương và việc thu hút FDI của Việt nam.
1- Tác động đến ngoại thương.
Thực hiện AFTA các thành viên khối ASEAN sẽ dành cho nhau ưu đãi về thuế quan ở mức thuế suất 0-5% theo Hiệp Định CEPT và dần bãi bỏ các rào cản phi thuế quan khác. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hàng Việt nam thâm nhập vào thị trường rộng lớn, cận kề với số dân hơn 500 triệu người, với nhu cầua tiêu dùng khá tương đồng với nhu cầu trong nước, đòi hỏi về chất lượng hàng hoá không cao,giao thông đi lại thuận tiện, lại được ưu đãi về thuế quan và các thủ túc nhập khẩu. Bên cạnh đó, khi thực hiện CEPT, giá hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN sẽ rẻ hơn làm cho chi phí đầu vào của sác sản phẩm sử dụng nguyên liệu nhập khẩu sẽ giảm xuống, góp phần hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của hàng hoá Việt nam trên thị trường thế giới. Đây là tác động tích cực tạo ra thị trường rộng lớn hơn cho hàng hoá Việt nam
Tuy nhiên, cũng từ việc thực hiện CEPT mà hàng hoá các nước ASEAN đổ vào Việt nam ngày càng nhiều hơn do nhận được sự ưu đãi về thuế quan và cac thủ tục nhập khẩu, trong khi tiềm lực kinh tế trong nước chưa đủ mạnh, sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước còn yếu thì sẽ có những nghành công nghiệp bị bóp nghẹt nghay trên thị trường nhà điều này cũng đồng nghĩa với việc thị trường bị thu hẹp.
Một tác động nữa thể hiện rất rõ đó là, khi thực hiện CEPT, các thành viên AFTA sẽ mua bán với nhau cả những hàng hoá mà một nước thứ 3 ngoài ASEAN cũng có thể sản xuất với giá thành tương đương hoặc rẻ hơn nhưng không được ưu đãi về thuế quan và cac thủ tục nhập khảu nên giá nhập sẽ cao hơn, và khả năg cung ra thị trường ASEAN nhỏ hơn. Điều này sẽ hạn chế hàng hoá các nước ngoài ASEAN thâm nhập vào thị trường ASEAN và thị trường Việt nam. Điều này được các chuyển gia kinh tế gọi là hiệu ứng chuyển hoàn mậu dịch.
Từ lý luận trên cho thấy, khi Việt nam thực hiện Hiệp định CEPT, cả hiện tại và trong tương lai gần, tổng kim nghạch XNK của Việt nam sẽ tăng lên đáng kể, trong đó tổng kim nghạch XNK của Việt nam với các nước ASEAN cũng tăng lên nhưng tốc độ tăng tổng kim nghạch nhập khẩu sẽ lớn hơn tốc độ tăng tổng kim nghạch xuất khẩu. Còn đối với thị trường các nước ngoài ASEAN, do hiệu ứng chuyển hoàn mậu dịch nên tổng kim nghạch xuất khẩu từ Việt nam sang thị trường các nước ngoài ASEAn sẽ tăng trong khi tổng kim nghạch nhập khẩu từ các nước này vào Việt nam sẽ giảm xuống. Nhìn chung sự gia tăng kim nghạch xuất khẩu từ Việt nam đến cả hai khu vực đều do yếu tố về lượng quyết định.
Sự nhận xét này dựa trên cơ sở thực trạng XNK của Việt nam sau gần 5 năm thực hiện Hiệp định CEPT.
Tình hình XKN của Việt nam với thị trường các nước ASEAN được thể hiện ở B1
Bảng1: Kim nghạch Xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN
Giai đoạn 1995-1999 ( ĐV: tỷ USD)
Năm
Kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch nhập khẩu
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
% so với tổng kim ngạch XNK với thế giới
1995
1,112
2,378
3,490
23,9
1996
1,364
2,788
4,152
33,4
1997
1,911
3,166
5,077
25,5
1998
2,372
3,749
6,122
29,7
1999
2,463
3,288
5,751
Nguồn: Báo cáo tại hội thảo 5 năm Việt nam tham gia ASEAN tổ chức ở Học Viện Quan Hệ Quốc Tế Ngày 20/6/2000
Thực trạng XNK của Việt nam với các nước ASEAN trong gần 5 năm qua có thể được khái quát theo một số điểm như sau:
+ Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu thì hiện nay nhiều mặt hàng của Việt nam và các nước trong khối ASEAN mang tính tương đồng cao (như hàng nông sản, chế biến thực phẩm, dệt may, giày dép hàng điện tử, máy móc chuyên dùng, sản phẩm nhựa) và các mặt hàng này sẽ cạnh tranh với nhau trên thị trường ASEAN, và thị trường ngoài ASEAN, và ngay cả trên thị trường Việt nam.
+Hàng nông sản đang là mặt hàng chính của Việt nam xuất sang các ASEAN. Song nhiều mặt hàng nông sản chưa chế biến lại thuộc danh mục hàng nông sản nhạy cảm để chưa phaỉ giảm thuế cảu các nước thành viên ASEAN khác,trong khi lợi ích của việc thực hiện CEPT lại thể hiện rõ đối với hàng công nghiệp và là những sản phẩm Việt nam đang phải nhập hoặc có thì sức cạnh tranh còn rất yếu.
+Trong các nước ASEAN, Singapore là bạn hàng lớn nhất của Việt nam, song từ lâu Singapore đá là thị trường trung chuyển chứ không phải là thị trường tiêu dùng trực tiếp nên thuế nhập khẩu của Singapore rất thấp (năm 1998 tổng số mặt hàng chịu thuế nhập khẩu của Singapore hiện đã nằm trong danh mục của CEPT với thuế suất bình quân bằng không). Do vậy việc thực hiện CEPT sẽ không làm tăng lượng hàng xuất khẩu sang Singapore của Việt nam so với trước.
+Tại thị trường Thái lan, những mặt hàng thuộc nhóm IL và TEL được giảm thuế mạnh, do vậy, có thể tạo điều kiện thuận lợi để hàng Việt nam thâm nhập vào thị trường Thái lan, nhưng những mặt hàng thuộc nhóm này như hàng may mặc, dày da, chế biến thực phẩm thì khả năng cạnh tranh của hàng Việt nam còn kếm so với hàng Thái lan nên không những khó có thể thâm nhập vào thị trường Thái lan mà còn bị hàng Thia lan tràn ngập sang thị trương nhà.
+Sau khi các nước trong khu vực vượt qua cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực lại tiếp tục theo đuổi chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, mà Việt nam là một thị trường hàng tiêu dùng hấp dẫn, lại được những ưu đãi về thuế quan và thủ tục nhập khẩu nên sẽ là điểm tập trung chú ý của các nhà sản xuất hàng tiêu dùng ASEAN, nên trong tương lai gần hàng tiêu dùng từ các nước ASEAN khác sẽ đổ vào thị trường Việt nam ngày càng nhiều hơn.
+Đối với những mặt hàng mà Việt nam có lợi thế cạnh tranh thì do hạn chế về trình độ trang thiết bị, công nghệ, vốn đầu tư nênít có khả năng hơn các nước ASEAN khác khi thâm nhập vào thị trường các nước ngoài khu vực ASEAN.
Qua những phân tích trên đây có thể kêt luận rằng, khi Việt nam thực hiện Hiệp định CEPT, trong tương lai gần, lợi ích mà Việt nam thu được chưa tương xứng với tiềm năng.
Còn đối với thị trường các các nước ngoài khu vực ASEAN thì:
Từ khi Việt nam là thành viên chính thức của ASEAn và bắt tay vào thực hiện hiệp định CEPT/AFTA thì quan hệ buôn bán giữa Việt nam và các nước ngoài khu vực ASEAN phát triển nhanh chóng và trôi chảy.
Bảng2: Cán cân thương mại Việt nam với thế giới
(Giai đoạn 1995-1999, ĐV: triệu USD)
Năm
Tổng kim ngạch
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu-Nhập khẩu
1995
13604.3
5548.9
8135.4
-2705.5
1996
18399.5
7255.9
1143.6
-3887.7
1997
20777.0
9185.0
11592.0
-2407.0
1998
20856.0
9361.0
11495.0
-2134.0
1999
23195.0
11523
11636
-113.0
Nguồn tổng cục thống kê và Bộ thương mại
Tổng kim nghạch XNK của Việt nam với thế giới tăng liên tục, trong đó tốc độ tăng tổng kim nghạch xuất khẩu lớn hơn tổng kim nghạch nhập khẩu. Điển hình đó là quan hệ thương mại Việt nam với Mỹ (thể hiện ở số liệu B2)
Bảng3: Quan hệ thương mại Việt – Mỹ
(giai đoạn 1995-1998, ĐV: triệu USD)
Năm
1995
1996
1997
1998
Nhập khẩu từ Việt nam
191.3
307.9
371.9
>500
Xuất khẩu sang Việt nam
220.0
284.5
239.3
>200
Nguồn: Bộ thương mại
Cho thấy, quan hệ thương mại Việt-Mỹ đã phát triển nhanh chóng, tôc độ tăng kim nghach xuất khẩu hàng hoá từ Việt nam sang Mỹ lớn hơn tốc đọ tăng kim nghạch nhập khẩu từ Mỹ về Việt nam.
Bên cạnh đó quan hệ thương mại giữa Việt nam với Trung Quốc, Nhật Bản, EU cũng phát triển nhanh chóng. Từ khi Việt nam gia nhập AFTA, năm 1996 Việt nam đã xuất sang thị trường EU khối lượng hàng hoá giá trị 1.102 triệu USD, chiếm 9,9% tổng kim nghạch xuất khẩu của Việt nam năm đó.
2- Tác động đến việc thu hút FDI của Việt nam.
Như đã đề cập trước đây, sự thành lập AFTA là nhằm mục đích tạo ra một thị trương đồng nhất, với các điều kiện thông thoàn hơn trong thương mại và đầu tư nhằm để thu hút FDI vào các nước ASEAN và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
Việt nam là một nước kém phát triển, công nghệ sản xuất lạc hậu, vốn đầu tư ít do đó hàng hoá Việt nam sản xuất ra có khả năng cạnh tranh trên yếu ngay cả trên thị trường nội địa và thị trường nước ngoài. Do đó, khi là thành viên chính thức của ASEAN, Việt nam đã cam kết thực hiện hiệp định CEPT để thực hiện AFTA không ngoài mục đích tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt nam để cạnh tranh với các nước khác thu hút nhiều hơn nữa FDI vào Việt nam nhằm nâng cao tiềm lực công, tăng vốn đầu tư, thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thay thế nhập khẩu, đẩy nhanh tôc độ tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Khi hiệp định CEPT được thực hiện có nghĩ là hàng rào thuế quan, phi thuế quan đối với lưu thông hàng hoá sẽ được xoá bõ, toàn khối ASEAN sẽ trở thành một khối thị trường thống nhất khi đó môi trường đầu tư ở các nước ASEAN nói chung và ở Việt nam nói riêng sẽ hấp dẫn hơn.
Do áp lực của cạnh tranh mà các doanh nghiệp trong nước sẽ tập trung hơn vào đầu tư, mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ quản lý, tìm tòi, sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm vì sự sống còn của bản thân các doanh nghiệp trong nứơc.
Do các điều kiện về thuế quan, hàng rào phi thuế quan, thủ tục hành chính trở nên thuận lợi hơn khi Việt nam gia nhập AFTA và d các thành viên khác cau ASEAN mất dần lợi thế về nguồn lao động dồi dào, rẻ mà các nhà đầu tư ASEAN sẽ quan tâm đến việc did chuyển một số nghành sản xuất sử dụng nhiều lao động sang Việt nam.
Số liệu về FDI từ các thành viên ASEAN vào Việt nam được thể hiện ở B3
Bảng 3: Đầu tư ASEAN vào Việt nam
(Đến tháng 4/2000, ĐV: triệu USD)
Nước
Số dự án
Vốn đăng ký
Singapore
235
6765.8
Thái lan
85
984.06
Malaisia
70
941.82
Philipin
18
254.25
Indonesia
9
243.55
Nguồn: Tổng cục thống kê và Bộ thương mại
Thế mạnh của các nước ASEAN trong đầu tư ra nước ngoài không phải nằm ở các nghành công nghiệp có công nghệ cao, thậm chí cũng không phải ở lĩnh vực công nghiệp chế biến quy mô lớn. Bản thân các nước này cũng đang tích cực cạnh tranh để thu hút Fdi từ cac nước lớn trên thế giới. Những dự án thuộc loại này của các nước ASEAN ở Việt nam thực chất là các công ty xuyên quốc gia đứng tên chi nhánh hoặc công ty con đóng tại các nước ASEAN, từ khi Mỹ xoá bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam ( tháng 2/1994), các công ty này tiến hành đầu tư trực tiếp vào Việt nam.
Nhìn chung, các dự án mà các nước ASEAN khác đầu tư trực tiếp vào Việt nam có quy mô vốn nhỏ, trình độ công nghệ thấp, sử dụng nhiều tài nguyên và lao động. Tuy nhiên, nó cũng có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của nước ta trong thời gian qua. Trong điều kiện nước ta hiện nay thì việc sử dụng công nghệ thích hợp nhằm tạo ra nhiều việc làm, thu hút lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động cũng là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược phatá triển kinh tế-xã hội. Mặt khác, vốn đầu tư trực tiếp từ các nước ASEAN vào Việt nam đang có xu hướng tăng. Năm 1990 là 35 triệu USD, năm 1994 là 1,5 tỷ USD, năm 1996 là 4,668 tỷ USD, và đến tháng 4/2000 thì đã lên đến9,2 tỷ USD với 417 dự án và sử dụng hơn 37000 lao động. Hiện nay, FDI vào Việt nam từ các nước ASEAN chiếm 60% vào các nước thành viên khác của ASEAN và chiếm gần 30% tổng Fdi của thế giới vào Việt nam.
Đối với cac nhà đầu tư ngoài ASEAN, thì Việt nam là một thị trường có nhu cầu tiềm năng lớn, chi phí sử sụng lao động thấp, lực lượng lao động chăm chỉ, chịu khó, có khả năng tiếp nhận nhanh các kỷ thuật mới, vị trí địa lý thuận lợi, nhiều chính sách khuyến khích hấp dẫn, môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định. Bên cạnh đó, khi thực hiện CEPT, hàng rào thuế quan, phi thuế quan sẽ được dỡ bỏ khu vực thị trường ASEAN sẽ là một khối thị trường rộng lớn, thống nhất và đặc biệt là sự hấp dẫn của nguyên tắc xuất xứ hàng hoá, hàng háo của các nước ngoài khối ASEAN sẽ được hưởng ưu đãi về thuế quan và cac điều kiện khác khi hàng hoá đó chứa ít nhất là 40% có nguồn gôc xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN, đây là một tỷ lệ yêu cầu hấp dẫn hơn rất nhiều so với tỷ lệ này ở các khu vực thương mại khác. Đây là một yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư ngoài ASEAN trong bối cảnh cạnh tranh giành vốn đầu tư nước ngoài với các nước khác như Trung Quốc, ấn Độ của Việt nam.
Trong những năm qua, lượng FDI vào Việt nam ngày càng tăng, thể hiện ở B4
Bảng4: Vốn đâu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam
(Giai đoạn 1995-1999, ĐV:triệu USD)
Năm
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn đầu tư thực hiện
1995
411
7369.0
2743.7
1996
366
8836.6
2761.1
1997
330
4500
3439.3
1998
260
4058.6
1947.5
1999
304
1566.0
1519.0
Nguồn: Tổng cục thống kê và Bộ thương mại
Nhìn chung, các nước ngoài ASEAN ngày càng chú ý đến thị trường Việt nam hơn, lượng FDI đổ vào Việt nam nam ngày càng lớn hơn, điều này xuất phát trực tiếp từ lợi ích của họ khi Việt nam gia nhập AFTA.
Nhưng trong tình hiện nay, theo đánh giá của các nhà kinh tế thì môi trường đầu tư ở Việt nam đang mât dần tính hấp trong mối tương quan với các nước trong khu vực ASEAN, Trung Quốc, ấn ĐộTheo kết quả thăm dòhơn 100 doanh nghiệp lớn trên thế giới trong năm 1999 của công ty Tư vấn đầu tư quốc tế A.T. Keaney (Mỹ) cho thấy có đến 4 nước thuộc khối ASEAN đã lọt vào vòng 25 quốc gia, vung lãnh thổ có môi trường đầu tư hấp dẫn nhất thế giới đó là: Thái lan xếp hạng 15, Singapore xếp hạng 21, Malaisia xếp hạng 24,và Phillipins xếp hạng 25. Như vậy sự cạnh tranh để thu hút FDI trong nội bộ các nước ASEAN sẽ rất gay gắt trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, thoã thuận thương mại Mỹ- Trung ký kết ngày15/4/1999 mở đường cho Bắc Kinh gia nhập WTO vào năm 2000 sẽ gây thêm khó khăn cho Việt nam trong lĩnh vực thương mại và thu hút FDI, đặc biệt là trong những nghành mà Việt nam và Trung Quốc đang cạnh tranh ở ngoài thị trường ASEAN như thị trương Mỹ, EU
Như vậy lợi ích trong tiến trình hội nhập là rất lớn về lâu dài đối với qua trình CNH,HĐH của Việt nam, nhưng khó khăn trước mắt là không nhỏ, đòi hỏi Việt nam phải nổ lực tìm tòi các giải pháp để nâng cao hiệu quả của quá trình hội nhập đối với nên kinh tế Việt nam trong những năm tới
V. Tiến trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt nam.
Theo tinh thần của cuộc họi thảo 5 năm Việt nam tham gia ASEAN tổ chức tại Họcviện quan hệ quốc tế ngày 20/6/2000 thì:
Ngay từ khi chúng ta là thành viên chính thức của ASEAN, chúng ta đã tích cực tham gia vào các chương trình hợp tác khu vực và quốc tế của ASEAN. Kể cả AFTA, Việt nam đã cam kết sẽ bắt đầu thực hiện Hiệp định CEPT để thực hiện AFTA vào 1/1/1996. Trên cơ sở những cam kết đã thoả thuận.
Chúng ta đã tich cực triển khai thực hiện cept. Ngày 10/10/95, chính phủ Việt Nam ra quyết định 651/ttg về việc thành lập UBQG điều phối hoạt động của Việt Namtrong ASEAN. Các vấn đề liên quan đến AFTA được giao cho 3 cơ quan chính thực hiện là BộThương Mại, Bộ Tài Chính, Tổng cục Hải Quan. Ngày 15/11/95. Tại hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN nước ta công bố danh mục giảm thuế đợt 1, bắt đầu rthực hiện từ 1/1//96. Chính phủ ta đã rất quan tâm đến AFTA đã có nhiều công văn, chỉ thị hướng dẫn, phối hợp BTC,BTM,TCHQ trong việc xây dựng đề án tham gia AFTA của Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện những cam kết về AFTA, trong năm 1998_99.Việt Nam đã đưa 2582 măt hàng vàothưch hiện CEFT/AFTA, cho tới nay, sốdòng thuế trong biểu thuế nước ta có thuế suất là 0_5% chiếm 42,71%, 5% chiếm 69,93%, lớn hơn 5% và bé hơn 15% chiếm 21,13%, lớn hơn 15% là 8,24%. Việt Nam đã tính cho AFTA danh mục nhạy cảm bao gồm 10 nhóm hàng chính, 51 dòng thuế được tính theo mã số của biểu thuế ưu đãi. Nước ta đã bỏ 23 mặt hàng ra khỏi danh mục loại trừ hoàn toàn. Một số biện pháp nhằm bỏ các hàng rào phi thuế quan đã được tiến hành.
Nhìn chung, quá trình triển khai AFTA nói chung và thực hiện CEFT nói riêng trong gần 5 năm qua thì Việt Nam đã làm tất cả những gì có thể làm để thực hiện CEFT/AFTA đúng tiến độ.
PHầN BA.
Một số giải pháp và kiến nghị.
I. Giải pháp
Từ sự phân tích trên cho thấy nhưng khó khăn và tác động xấu đến nền kinh tến nước ta của tiến trình AFTA xuất phát từ nguyên nhân nội tại trong nền kinh tếnước ta. Đó là, trình độ phát triển kinh tế thấp, cơ chế quản lý kinh tế chưa hiệu quả, hệ thống luật pháp chưa hợp lý (đặc biệt là trong chính sách thuế, cơ sở hạ tầng kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu, trình độ công nghệ thấp, vốn đầu tư thấp, kinh nghiệm trong kinh doanh còn non, trình độ tay nghề của lao động chưa cao. Từ đó, các sản phẩm hàng hoá sản xuất ra có sức cạnh tranh kém trên thị trường các nước ASEAN và thị trưòng quốc tế. Đồng thời khả năng thu hút và sử dụng FDI chưa hiệu quả. Do đó,để nâng cao hiệu quả của tiến trìnhAFTAđối với nền kinh tế Việt Nam thì trước hết các vấn đề sau cần được tập trung:
+ Các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chỉ đạo trong nền kinh tế cần phải được phát huy hiệu quả, sắp xếp, cải tổ lại sác DNNN làm ăn kém hiệu quả, sản phẩm cạnh tranh yếu trên thị trường.
+ Tập trung vào một số ngàng công nghiệp, lĩnh vực mũi nhọn, sản xuất các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng kĩ thuật cao, có khả năng cạnh tranh lớn trên thị trường.
+ Có biện pháp cung cấp thông tin về công tác, tổ chức hợp tác kinh tế khu vực, thế giới mà Việt Nam sẽ tham gia, thực tế và kế hoạch nội dung hợp tác của Việt Nam với các tổ chức hợp tác kinh tế khu vựcvà quốc tế đó, để các doanh nghiệp chủ động trong chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình.
+ Cải tiến hệ thống chính sách, quy định cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
+ Phối hợp chặt chẽ giữa các bộ nghành.
Trong lĩnh vực cung cấp thông tin về công nghệ, sản phẩm, thị trường, đối tác cho các doanh nghiệp. Đồng thời phối hợp trong công tác đào tạo chuyên môn, đào tạo cơ sở.
II. Kiến nghị
Để việc Việt nam gia nhập AFTA có hiệu quả hơn, Chính phủ và Nhà nước ta cần phải có chiíen lược lâu dài, kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn, tổ chức , chỉ đạo, phối hợp các bộ nghành một cách hợp lý trong công tác thực hiện CEPT/AFTA nói riêng và trong công tác mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới nói chung.
Kết luận
Vì hạn chế về trình độ lý luận, kinh nghiệm, kiến thức thực tiễn, mà bài viết này của em chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu sơ bộ chưa đi sâu vào từng kía cạnh cụ thể.
Để Việt nam gia nhập AFTA một cách có hiệu quả hơn thì đói hỏi niều điều kiện và trong từng hoàn cảnh cụ thể phải có các chính sách cụ thể khác. Trong bài viết này của em còn rất nhiều thiếu sót, em rất mong được thầy cô, bạn bè góp ý sữa chữa để các bài viết sau của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội 12/2000
Sinh viên
Trần Thị Hồng Nhung- Thao Veo
Tài liệu tham khảo
Tạp chí Kinh tế Thế Giới
Tạp chí Kinh tế Dự báo
Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế
Tạp chí Những vấn đề Kinh tế Thế Giới
Tạp chí Kinh tế Châu á Thái Bình Dương
Tạp chí Kinh tế Phát triển
Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á
Tạp chí Việt Nam Đông Nam á ngày nay
Và một số báo tạp chí khác
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV479.doc