Thị trường hối đoái giao ngay là một bộ phận của thị trường hối đoái, doanh số hoạt động của nó chiếm khoảng 58 % tổng số doanh số thương mại ngoại hối, trong khi thị trường kỳ hạn và thị trường theo quyền chọn chỉ chiếm tương ứng là 40% và 20%.
Hình thức hối đoái giao ngay được thực hiện bằng hợp đồng mua bán ngoại tệ giao ngay trong đó việc cung ứng các đồng tiền chuyển đổi được thực hiện chậm nhất là hai ngày làm việc kể từ khi hợp đồng được ký kết.
Tỷ giá thanh toán ngay (sau hai ngày làm việc) trong thương mại quốc tế gọi là SPORT-RATE, nếu một nhà kinh doanh ngoại tệ muốn thay đổi thời hạn thực hiện hai ngày thành ba ngày thì có thể đề nghị bạn hàng của mình thực hiện tỷ giá SPORT-NEXT, nếu muốn đổi thời hạn thực hiện từ hai ngày thành một ngày thì đề nghị tỷ giá TOMOROW-NEXT,
Kỹ thuật giao dịch có thể thực hiện bằng điện thoại, hệ thống màn hình (Computer), bằng điện báo và trên các sở giao dịch chứng khoán. Thực hiện bằng kỹ thuật màn hình thực chất là thực hiện qua hệ thống thông tin điện tử, tức là việc thoả thuận hay các hợp đồng được thực hiện thông qua hệ thống“ Money dealing”. Thông qua hệ thống này, các ngân hàng có thể trực tiếp liên hệ với nhau và thoả thuận các hợp đồng thương mại. Việc chuyển thông tin được thực hiện bằng bàn phím với những ký tự điện tử và thông tin sẽ xuất hiện trên màn hình, đồng thời một máy in được nối mạng với hệ thống sẽ in lại thành biên bản thông tin được chuyển đi. Hệ thống này có ưu điểm so với hình thức điện thoại là việc ghi nhận các thoả thuận bằng văn bản, khắc phục các lỗi nhầm thường gặp trong giao dịch điện thoại như nghe nhầm, viết nhầm, vì thế hệ thống “ Money dealing” được sử dụng rộng rãi.
75 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1034 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng cường hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân Hàng Công Thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức giao dịch ngoại tệ:
Hiện nay, NHCT Đống đa chỉ mua bán chủ yếu là đồng USD,EURO , doanh số bán USD, EURO so với các ngoại tệ khác chiếm tỷ trọng khá cao so với tổng doanh số mua bán ngoại tệ .
Chi nhánh NHCT Đống đa áp dụng hai nghiệp vụ mua bán ngoại tệ. Đó là: mua bán theo tỷ giá giao ngay (SPOT) và giao dịch kỳ hạn(FORWARD)
Hình thức giao dịch giao ngay: Là phổ biến , được thực hiện bằng hợp đồng mua bán ngoại tệ trao ngay
Mua bán giao ngay là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện ngay hoặc chậm nhất là trong hai ngày làm việc kể từ khi thoả thuận hợp đồng mua bán. Hình thức này phát sinh trên cơ sở nhu cầu hợp lý về ngoại tệ của khách hàng trong thanh toán quốc tế ( có hợp đồng ngoại tệ và chứng từ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước) , và của các Ngân Hàng Thương Mại khác cũng như của NHCT Đống đa trong mua bán ngoại tệ phục vụ khách hàng
Ví dụ: Ngày 14/3/1999, Công ty Cơ điện Trần Phú xin mua của Ngân hàng Đống đa 35000USD để trả nợ vay ngắn hạn
Tỷ giá giao ngay USD/VND =14525-14530
Trình tự giải quyết như sau:
Bước1 : Công ty viết giấy xin mua ngoại tệ
Bước 2 :Chi nhánh ngân hàng đồng ý bán sẽ ghi số tiền vào phần xác nhận bán và tính toán dựa trên tỷ giá bán mà NHCT Việt Nam công bố. Ngân hàng xác nhận bán cho công ty 35000USD theo tỷ giá bán là 14530VND/USD
Số tiền mà Công ty phải trả để mua USD là:
14530 x 35000= 508.550.000 VND
Mức phí Công ty phải trả cho giao dịch là:
0,05% x 35000 x 14530=244.275 VND
Chênh lệch tỷ giá mua bán :
14530-14525=5
Số tiền thu được từ chênh lệch giá mua bán :
35000 x 5= 175.000 VND
Vậy qua nghiệp vụ SPOT chi nhánh sẽ thu được :
175.000 + 243.075 = 418.075 VND
Hình thức giao dịch kỳ hạn (FORWARD):
Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ kỳ hạn là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà tại thời điểm chuyển giao ngoại tệ sẽ được thực hiện sau một thời gian nhất định kể từ khi thoả thuận hợp đồng.
Hiện nay, tỷ giá giao dịch hối đoái kỳ hạn được ấn định trên cơ sở tỷ giá giao ngay và không vượt quá giới hạn tối đa của tỷ giá giao ngay, tại thời điểm giao dịch cộng từng mức tỷ lệ % cụ thể so với mức giới hạn tối đa của tỷ giá giao ngay.
Ví dụ : Ngày 3/3/2000, NHCT Đống đa ký thoả thuận mua bán ngoại tệ kỳ hạn với Công ty cơ khí Hà Nội , thoả thuận như sau:
Bên mua là Công ty cơ khí Hà Nội
Bên bán là NHCT Đống đa
Số lượng ngoại tệ : 100.650,66 USD
Tỷ giá kỳ hạn thoả thuận giữa hai bên là 14.023 / VND/USD
Giá trị hợp đồng là :1.411.424.205 VND
Kỳ hạn : 33 ngày( từ ngày 13/3/00 đến 15/4/00)
Công ty cơ khí Hà Nội vay để trả nợ ngân hàng
Đến thời hạn thanh toán (15/4/2000), Công ty cơ khí Hà Nội sẽ chuyển VND cho chi nhánh NHCT Đống đa. Ngay sau khi nhận đủ số tiền VND như đã thoả thuận , NHCT Đống đa sẽ thanh toán số ngoại tệ tương ứng cho Công ty cơ khí Hà Nội.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHCT Đống Đa luôn có biến động trong những năm vừa qua sau đây là bảng số liệu về buôn bán ngoại tệ của NHCT Đống Đa qua những năm qua
Bảng 9 : Doanh số mua bán ngoại tệ 1996- 2001 (Đơn vị : 1000USD )
Năm
Tổng doanh số
Mua vào
Tăng /giảm(%)
Bán ra
Tăng/giảm
(%)
1996
76916
39048
37868
1997
59000
29500
-24,5
29500
- 22,09
1998
17000
8500
-71,11
8500
-71,18
1999
58000
29000
241,7
29000
241,17
2000
50433
27844
-3,98
22589
-22,1
2001
107151
56236
101,9
50915
125,4
Nguồn : Báo cáo kết quả kinh doanh ngân hàng CT Đống Đa 1996-2001)
Nhìn vào bảng số liệu( bảng 9) trên ta thấy hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHCT Đống Đa luôn có biến động qua các năm .
Năm 1997 hoạt đông kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng giảm một cách trầm trọng doanh số mua vào qui các loại ngoại tệ ra USD đã giảm từ 3.904.8000 USD năm 1996 đã giảm xuống còn 29.500.000 USD vào năm 1997 ,như vậy hoạt động mua ngoại tệ của ngân hàng năm 1997 đã giảm 24,5 % so với năm 1996 , doanh số bán ra cũng giảm một cách đáng kể năm 1997 doanh số bán ra đã giảm 22,9% so với năm 1996 , làm cho tổng doanh số mua bán ngoại tệ năm 1997 đã giảm xuống còn 76,7% năm 1996.
Trong năm 1997 hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng giảm rất mạnh vào giữa năm 1997 , làm cho tổng doanh số mua bán ngoại tệ cũng giảm theo mặc dầu hoạt động kinh doanh đầu năm 1997 có tiến triển tốt , sở dĩ có tình trạng này là do năm 1996 đến đầu năm 1997 tỷ giá giữa VND và USD tương đối ổn định, lãi suất vay USD lại thấp hơn lãi suất vay VND. Vì vậy, các đoanh nghiệp có xu hướng sử dụng vay ngoại tệ trong thanh toán hàng nhập khẩu nhiều hơn.
Còn giữa năm 1997 xảy ra tình trạng khủng hoảng tiền tệ khu vực ở các nước Đông Nam á làm cho VND hai lần sụt giá so với USD trên 10%, tỷ giá giữa USD /VND tăng mạnh từ 11.156 lên 12.293 ( vào cuối năm 1997 ) Những khách hàng nhập khẩu mở tài khoản và vay vốn tại ngân hàng bị thiệt hại do biến động tỷ giá lên đến hàng trăm tỷ đồng. Dân cư rút tiền gửi, mua ngoại tệ gửi ngân hàng vì lo sợ USD bị giảm giá. Những ảnh hưởng này gây nên tâm lý hoang mang và xuất hiện hiện tượng đầu cơ trong dân chúng cũng như các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, làm cho ngoại tệ trên thị trường khan hiếm hơn và khó mua. Ngân hàng cũng không thể bán ra ngoại tệ huy động và phải bảo toàn vốn USD cho khách hàng và chấp nhận quy chế về trạng thái ngoại hối do Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN )quy định. Trong khi đó, số L/C thanh toán cho nước ngoài trong năm là 25.028.000USD. Thêm vào đó một số dơn vị mở L/C tại các ngân hàng khác nhưng lại có tài khoản tiền gửi tại chi nhánh đến mua ngoại tệ trước khi đến hạn thanh toán để hạn chế rủi ro, tỷ giá tăng đã tạo nên cầu về ngoại tệ tăng, gây sức ép với chi nhánh. Ngoài hình thức thanh toán bằng L/C, các đơn vị còn thanh toán thông qua hình thức chuyển tiền TTR. Do vậy, muốn giữ khách hàng truyền thống phải đáp ứng đa dạng hoá phương thức thanh toán của khách hàng.
Như vậy nguyên nhân chủ yếu của sự giảm sút này là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á tác động đến nền kinh tế trong khu vực làm hạn chế khả năng xuất khẩu của nước ta , nhập khẩu tăng cán cân thương mại thâm hụt .
Sự biến động tăng giá liên tục của đồng đô la mỹ gây tâm lí găm giữ ngoại tệ trong dân cư và doanh nghiệp . Nhu cầu ngoại tệ ( chủ yếu là USD ) lớn để đáp ứng nhập khẩu song cung ngoại tệ lại có sự giảm sút khiến sự khan hiếm trên thị trường Liên Ngân Hàng ngày càng tăng . Hoạt động kinh doanh ngoại tệ vì thế bị ảnh hưởng .
Năm 1998 doanh số kinh doanh ngoại tệ tiếp tục giảm mạnh chỉ bằng khoảng một phần ba so với năm 1997 . Mặc dầu đã có những chính sách tác động vĩ mô của nhà nước như : Năm 1998, thực hiệnchủ trường văn bản quản lý ngoại hối theo quết định 37/QĐ - TTg ngày 14/2/1998 của thủ tướng chính phủ về duy trì khoản ngoại tệ cho các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ đã tác động phần nào đến việc ổn định tỷ giá trên thị trường Liên Ngân Hàng và thị trường tự do. Mặt khác, các quyết định 173/1998/QĐ - NHNN7 , 418/1998 /QĐ của thống đốc NHNN Việt Nam về việc quy định các doanh nghiệp phải bán 80% lượng ngoại tệ thu về cho ngân hàng. Trong năm 1998, tỷ giá VND/USD có hai lần được điều chỉnh bởi NHNN Việt Nam làm cho tỷ giá biến động và luôn có xu hướng tăng. Lần điều chỉnh thứ nhất là ngày 16/2/1998 , tỷ giá công bố chính thức của NHNN từ 11.175VND/USD lên tới 11.800 VND/USD, với biên độ giao động cho phép là +(-) 10% . Lần điều chỉnh thứ hai là ngày 7/8/1998, tỷ giá chính thức đươc điều chỉnh đúng bằng thị trường Liên Ngân Hàng là 11.998VND/USD, với biên độ giao động là +(-) 7%. Cả hai lần điều chỉnh đều dẫn đến sự giảm tối đa mức cho phép của VND.
Cơ chế chính sách tỷ giá được cải thiện theo quyết định số 17/1998/QĐ- NHNN7 của NHNN Việt Nam về việc ban hành quy chế hoạt động giao dich hối đoái đã làm cơ sở để chi nhánh giao dịch với các ngân hàng và các khách hàng được thuận lợi. Việc quy định những tỷ giá cụ thể đối với từng kỳ hạn trong bối cảnh tỷ gía biến động như hiên này đã tạo cho khách hàng yên tâm hơn trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng cách ký hợp đồng kỳ hạn với ngân hàng để thanh toán L/C nhập. Từ đó chi nhánh cững có cơ sở để cân đối, điều chỉnh nguồn ngoại tệ, tạo thế chủ động trong kinh doanh.
Tuy đã có sự thuận lợi từ chính sách của ngân hàng nhà nước nhưng doanh số kinh doanh ngoại tệ vẫn giảm mạnh đó là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã thấm sâu vào nền kinh tế Việt Nam , đầu tư nước ngoài giảm sút , hoạt động nhập khẩu cầm chừng , giá trị các mặt hàng xuất khẩu đều giảm do hầu hết các bạn hàng lớn đều lâm vào trạng thái suy thoái kinh tế,cán cân thương mại thâm hụt nghiêm trọng , tỷ giá hối đoái biến động gây tâm lí hoang mang cho người dân khi tham gia các giao dịch có liên quan đến ngoại tệ . Do tác động của những nguyên nhân trên đã làm cho doanh số mua vào giảm 71,11% so với năm 1997 từ 29500000 USD xuống còn 8500000 usd năm 1998 , doanh số bán ra cũng giảm 71,11% so với năm 1997 .
Năm 1999 tổng doanh số mua bán ngoại tệ của NHCT Đống Đa tăng vọt , doanh số mua ngoại tệ đã tăng vọt lên 241,17% so với năm 1998 , từ 8.500.000USD năm 1998 lên 29.000.000 USD năm 1999 . Doanh số bán ngoại tệ cũng tăng vọt lên 241,17 % so với năm 1998 làm cho tổng doanh số mua và bán ngoại tệ cũng tăng 241,17%,so với năm 1998 .
Để phân tích rõ hơn hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong năm 1999 ta xem bảng số liệu chi tiết về doanh số mua bán ngoại tệ theo đối tượng giao dịch năm 1998 - 1999
Bảng 10 : Doanh số mua bán theo đối tượng giao dịch
Đơn vị : ngìn usd )
Năm
1999
2000
2001
Chỉ tiêu
Số tiền
Tăng /giảm %(99/98)
Số tiền
Tăng/ giảm %(00/99)
Số tiền
Tăng /giảm %(01/00)
Tổng doanh số mua bán
Doanh số mua
-mua hội sở chính
-mua tổ chức kinh tế
doanh số bán
-bán hội sở chính
-bán tổ chức kinh tế
58000
29000
22000
7000
29000
0
29000
241,1
241,1
609
29,6
241,1
0
241,1
50433
27844
21744
6100
22589
0
22589
- 13,04
-3,98
-1,16
-12,8
-22,1
0
-22,1
107151
56239
38000
18239
50915
0
50915
112,4
101,9
74,76
199
125,4
0
125,4
Nguồn : phòng kinh doanh đối ngoại
Như vậy theo bảng doanh số mua bán ngoại tệ theo đối tượng ở bảng 10 cho ta thấy năm 1998 mua của tổ chức kinh tế lớn hơn mua từ hội sở chính chứng tỏ năm 1998 hệ thống NHCT Việt Nam và các chi nhánh của nó thiếu ngoại tệ trầm trọng không đủ cung cấp cho các chi nhánh , trong đó có chi nhánh NHCT Đống Đa . Nhưng sang năm 1999 mua ngoại tệ từ hội sở chính đã tăng vọt tăng 609% so với năm 1998 , từ 3.100.000 USD năm 1998 tăng lên 22.000.000 USD năm 1999 sở dĩ có hiện tượng này là do NHCT Đống Đa có sự hỗ trợ về mua ngoại tệ của NHCT Việt Nam , nên nguồn mua chủ yếu là của NHCT Việt Nam . Hoạt động mua ngoại tệ chủ yếu là từ hội sở chính thì ngược lại hoạt động bán ngoại tệ trong cả hai năm 1998 và 1999 không bán cho hội sở chính mà chủ yếu bán cho các tổ chức kinh tế , hoạt động bán ngoại tệ cũng tăng rõ rệt doanh số bán ngoại tệ cho các tổ chức kinh tế năm 1999 đã tăng 141,1% so với năm 1998 . Năm 1999 hoạt động kinh doanh ngoại tệ có dấu hiệu hồi phục chứng tỏ các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu làm ăn có hiệu quả , nguồn ngoại tệ trong dân cư dồi dào và họ có lòng tin vào sự ổn định của tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên NHCT Đống Đa vẫn chưa huy động vốn ngoại tệ được từ thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng
Năm 2000 do tỷ giá ngoại tệ có nhiều biến động trên thị trường nên đã làm ảnh hưởng làm cho doanh số mua vào năm 2000 đã giảm 3,98 % so với năm 1999 , từ 29.000.000 usd năm 1999 xuống còn 27.844.000 USD năm 2000 , tổng doanh số bán ra năm 2000 cũng giảm 22,1% so với năm 1999 .
Năm 2000 doanh số mua bán ngoại tệ theo đối tượng giao dịch cũng có sự biến động:
Trong năm 2000 doanh số mua từ hội sở chính và mua của tổ chức kinh tế đều giảm , mua hội sở chính giảm 1,16% , mua của tổ chức kinh tế giảm 12,8% . Mặc dầu năm 2000 tình hình kinh tế trong nước có nhiều biến đổi ,có dấu hiệu của sự tăng trưởng trở lại , nếu như năm 1998, 1999 , nền kinh tế vẫn còn có biểu hiện của sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực thì năm 2000 nền kinh tế Việt Nam phát triển tương đối khả quan , nhiều chỉ tiêu kinh tế đã được thực hiện vượt xa so với năm 1999 ; tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,7 % ( năm 1999 đạt 4,8% ) ; kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 14,3 tỷ USD tăng 24%; kim ngạch nhập khẩu đạt 15,2 tỷ USD tăng 23% . Môi trường kinh doanh cũng được cải thiện đáng kể luật doanh nghiệp với nhiều điểm ưu việt có hiệu lực thi hành đã làm tăng doanh số doanh nghiệp mới được thành lập , tham gia vào hoạt động kinh tế .
Cơ chế uỷ thác xuất nhập khẩu được bãi bỏ và thay vào đó nhà nước mở rộng cho nhiều đơn vị thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp , hệ quả là nhu cầu ngoại tệ để thanh toán cũng như nguồn cung ngoại tệ từ xuất khẩu tăng lên .
Như vậy điều kiện kinh tế đất nước hết sức thuận lợi cho kinh doanh ngoại tệ . Tuy nhiên hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng lại giảm sút đó là do tỷ giá ngoại tệ có nhiều biến động , tỷ giá USD /VNĐ có xu hướng tăng lên gây tình trạng găm giữ ngoại tệ của khách hàng , mặt khác do sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng , đặc biệt có sự tham gia của các ngân hàng liên doanh có yếu tố nước ngoài , thêm vào đó nhu cầu thanh toán nhập khẩu ngày càng lớn do giá của một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tăng vọt , nhất là xăng dầu làm cho tình hình khan hiếm ngoại tệ kéo dài .Trong tình hình đó mặc dầu có sự hỗ trợ của NHCT Việt Nam , nhưng do khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác còn chưa cao nên đã tác động làm giảm doanh số mua bán ngoại tệ .
Năm 2000 hoạt động kinh doanh của NHCT đã khắc phục được nhiều khó khăn , trong năm đã có nhiều cố gắng khai thác nguồn ngoại tệ có giá cả hợp lí ,đảm bảo nhu cầu thanh toán của khách hàng ,tạo niềm tin cho khách hàng . Lợi nhuận do kinh doanh ngoại tệ đem lại chiếm 3% tổng lợi nhuận của chi nhánh
Trong năm 2000 loại ngoại tệ kinh doanh chủ yếu là USD , chiếm 85% tổng doanh số ngoại tệ mua bán , còn các loại ngoại tệ khác chiếm 15% chủ yếu là DEM, FRF, JPY...
Năm 2001 tình hình kinh tế và trong nước luôn có những thay đổi lớn , tỷ giá biến động nhiều đã làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ , tuy nhiên tổng doanh số mua bán ngoại tệ đã tăng hơn hai lần so với năm 2000 , doanh số mua vào năm 2001 tăng 101,9% năm 2000 từ 27844000 USD tăng lên 56236000 USD , doanh số bán ngoại tệ của NHCT Đống Đa năm 2001 cũng tăng mạnh tăng125,4% so với năm 2000
Doanh số mua bán ngoại tệ theo đối tượng cũng có sự thay đổi
Theo số liệu ( bảng 10 ) doanh số mua bán theo đối tương có sự tăng lên rõ rệt hoạt động mua ngoại tệ đã tăng lên 101,9% so với năm 2000 , trong đó hoạt động mua từ tổ chức kinh tế tăng lên đáng kể và rõ rệt đây là sự thay đổi lớn trong cơ cấu mua theo đối tượng , năm 2001 mua của tổ chức kinh tế đã tăng 199% so với năm 2000 trong khi đó mua hội sở chính chỉ tăng lên 74,76% tuy doanh số mua từ tổ chức kinh tế vẫn còn nhỏ bé so với hội sở chính nhưng cho thấy đây là sự nỗ lực không ngừng của ngân hàng trong việc tìm kiếm và chú trọng tăng thêm số lượng khách hàng xuất nhập khẩu, ngân hàng chú trọng đến chính sách phục vụ tốt khách hàng , cải tiến phong cách phục vụ thuận lợi nhanh chóng .
Trong năm 2001 NHCT Việt Nam đã tao điều kiện thuận lợi trong kinh doanh ngoại tệ bằng việc đưa ra cơ chế mua bán ngoại tệ linh hoạt , đảm bảo tỷ giá mua bán ngoại tệ để ngân hàng chấp nhận được , NHCT Việt Nam cho phép NHCT Đống Đa điều chỉnh tỷ giá theo mức giá trần của ngân hàng nhà nước , nhờ đó hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHCT Đống Đa linh hoạt hơn đem lại khoản lợi nhuận chiếm 4% trong tổng thu nhập của ngân hàng (tăng 1% so với năm 2000) .
Hoạt động bán ngoại tệ theo đối tượng cũng không có thay đổi tổng doanh số bán ngoại tệ đều bán cho tổ chức kinh tế , chưa có hoạt động kinh doanh Liên Ngân Hàng . Trong năm 2001 loại ngoại tệ được giao dịch chủ yếu là USD ( vẫn chiếm 85% ) các loại ngoại tệ khác chủ yếu là EURO , JPY ... chiếm 15%
Như vậy qua số liệu về hoạt động kinh doanh ngoại tệ từ năm 1996 đến năm 2001 hoạt động kinh doanh ngoại tệ luôn có biến động qua từng năm , sự chênh lệch trong mua bán ngoại tệ hầu như không đáng kể . Tuy còn gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh ngoại tệ , tuy nhiên qua các năm đều có lợi nhuận không năm nào bị lỗ , năm gần đây nhất đã có bước tiến triển rõ rệt
2.2.4 So sánh doanh số mua bán ngoại tệ với Ngân Hàng Ngoại Thương
Ngân hàng ngoại thương(NHNT) được thành lập năm 1963. Trong hệ thống ngân hàng Thương Mại Việt Nam , Ngân Hàng Ngoại Thương được biết đến như một trung tâm thanh toán bù trừ về giao dịch ngoại tệ và là ngân hàng chủ chốt thực thi chính sách tỷ giá của ngân hàng nhà nước . Là ngân hàng luôn được chọn làm đại lí tiếp nhận và quản lí một số khoản vay và các khoản viện trợ của nhà nước . để thấy được thực trạng của NHCT Đống Đa ,cần thiết phải so sánh năng lực cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ với ngân hàng ngoại thương, sau đây là bảng so sánh :
Bảng 11 : So sánh doanh số mua bán ngoại tệ với Ngân Hàng Ngoại Thương ( Đơn vị : Triệu USD )
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
Doanh số mua
NHNT
NHCTĐĐ
NHCTĐĐ/ NHNT
4080
8,5
2,08%
5654
29
5,12%
4168
27,844
6,68%
Doanh số bán
NHNT
NHCTĐĐ
- NHCTĐĐ/ NHNT
4131
8,5
2,05%
5676
29
5,1%
3776
22,589
6%
Nguồn : NHCT Việt Nam
Qua số liệu ở bảng cho thấy doanh số mua bán ngoại tệ nhân hàng ngoại thương tăng dần qua các năm , là nơi tập trung lớn nguồn ngoại tệ của cả nước . Chẳng hạn năm 2000 doanh số này chiếm 66% doanh số mua bán ngoại tệ của tất cả các Ngân Hàng Thương Mại ( 418triệu USD / 6305 triệu USD ). Do vậy ngân hàng ngoại thương đã đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của khách ở mức cao nhất với giá ổn định ngay cả thời kì khan hiếm ngoại tệ ,đảm bảo lợi ích của các doanh nghiệp . So với tổng kim ngạch trong cả nước , doanh số mua bán ngoại tệ chiếm bình quân hơn 40% . Nhìn lại số liệu trên bảng ta thấy doanh số mua bán ngoại tệ của NHCT Đống Đa thật nhỏ bé so với ngân hàng ngoại thương năm 2000 doanh số mua vào của NHCT Đống Đa chỉ bằng 6,68 % so với ngân hàng ngoại thương , và doanh số bán ra cũng chỉ bằng 6% ngân hàng ngoại thương, như vậy so với ngân hàng ngoại thương thì doanh số mua bán của NHCT Đống Đa thật khiêm tốn , không kể đến năm 1998 ,1999 doanh số mua bán ngoại tệ còn thua xa ngân hàng ngoại thương .
Sở dĩ ngân hàng ngoại thương có doanh số mua bán ngoại tệ đạt kết quả cao là do họ có uy tín cũng như sức hút rất cao về nghiệp vụ thanh toán quốc tế nên nhiều khách hàng vay ở ngân hàng khác để sản suất kinh doanh hàng xuất khẩu , nhưng khi thực hiện thanh toán lại qua ngân hàng ngoại thương . ngân hàng không chỉ thực hiện mua bán với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà còn tham gia thị trường Liên Ngân Hàng vì vậy họ có thể huy động được nguồn ngoại tệ khi thiếu hay thừa ngoại tệ , về uy tín , độc quyền , kinh nghiệm , trình độ cán bộ , qui trình nghiệp vụ và công nghệ thanh toán ngân hàng ngoại thương đều vượt qua NHCT Đống Đa về mọi mặt
Như vậy có thể khẳng định ngân hàng ngoại thương đạt kết quả cao trong hoạt động kinh doanh mua bán ngoại tệ là do sự đóng góp tích cực và hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc tế . Chính vì ngân hàng ngoại thương dồi dào về ngoại tệ nên họ có lợi thế thu hút ngày càng nhiều khách hàng xuất nhập khẩu lớn , tạo đà để ngày càng mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại .
Tóm lại qua phân tích ở trên cho thấy hoạt động hoạt động kinh doanh mua bán ngoại tệ và các dịch vụ có liên quan của NHCT Đống Đa còn khá hạn chế và có khả năng tụt hậu nếu không có những giải pháp kịp thời khắc phục những tồn tại yếu kém, nâng cao chất lượng và mở rộng các hoạt động này .
4/ đánh giá thực trạng kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh NHCT Đống Đa qua những năm qua
4.1 Những ưu điểm trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh NHCT Đống Đa
- Nhìn chung, NHCT Đống Đa đã từng bước hoà nhập với cơ chế thị trường, đáp ứng kịp thời nhu cầu của các doanh nghiệp , tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu hàng hoá, vật tư máy móc thiết bị...Thiết yếu, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm , mở rộng sản xuất , đẩy mạnh xuất khẩu. Đồng thời thông qua cho vay ngoại tệ, Ngân hàng có điều kiện củng cố và mở rộng nghiệp vụ thanh toán quốc tế , tín dụng xuất nhập khẩu , một nghiệp vụ trung gian hết sức quan trọng trong hoạt động của một Ngân Hàng Thương Mại.
Trong thời gian gần đây ngân hàng công thương Đống Đa đã có cơ chế mua bán ngoại tệ linh hoạt , đảm bảo tỷ giá mua bán ngoại tệ ( USD ) để khách hàng có thể chấp nhận được , ngân hàng có sự hỗ trợ của chi nhánh NHCT Đống Đa mỗi khi thiếu ngoại tệ làm cho chi nhánh có thuận lợi hơn trong kinh doanh ngoại tệ
4.2 Những tồn tại trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ hiện nay tại NHCT Đống Đa
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng mới chỉ dừng lại ở đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng xuất nhập khẩu, tức là hoạt động mua bán ngoại tệ chủ yếu trên cơ sở nghiệp vụ khách hàng. Ngân hàng chưa thực hiện các nghiệp vụ Liên Ngân Hàng, thực hiện kinh doanh thu lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch tỷ giá thuần tuý.
- Các nghiệp vụ hối đoái còn sử dụng đơn điệu , chủ yếu ngân hàng thực hiện nghiệp vụ giao ngay và nghiệp vụ kỳ hạn, còn nghiệp vụ hối đoái ngoại tệ thì đã được thực hiện nhưng rất ít.
Quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường hối đoái luôn biến động, kéo theo tỷ giá của các đồng tiền cũng biến động, trong khi chúng ta vẫn áp dụng chế độ 6 trần tỷ giá kỳ hạn (từ 30 ngày đến 180 ngày, trong 15 ngày có một tỷ giá...) Nó giống như chỉ tiêu khống chế trong việc tính toán xác định tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch, vì vậy bên cạnh những lợi ích mà các quyết định đó đem lại, cho đến nay cũng đã bộc lộ những nhược điểm không phù hợp và gây ra không ít khó khăn đối với các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong quá trình vận dụng và thực hiện.
Cơ cấu dự trữ của ngân hàng chủ yếu là USD. Như vậy mỗi lần có sự biến động tỷ giá USD / VNĐ , hoạt động kinh doanh của ngân hàng bị ảnh hưởng.
Nguồn mua ngoại tệ của NHCT Đống đa từ các khách hàng xuất khẩu rất hạn chế, mua chủ yếu là từ NHCT Việt Nam còn từ các khách hàng xuất khẩu rất ít
- Các hoạt động có liên quan như thanh toán quốc tế và tín dụng xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế , gây khó khăn trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ
4.3 Nguyên nhân của tồn tại
4.3.1 nguyên nhân khách quan
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ muốn mở rộng , phát triển hơn nữa phải có nền tảng vững chắc là thị trường hối đoái , hiện nay ở Việt Nam chưa có một thị trường ngoại hối hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó mà chỉ ở giai đoạn sơ khai là trung tâm giao dịch ngoại tệ và thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng .
Mặt khác trên thị trường chưa có người môi giới ngoại hối chuyên nghiệp để tạo điều kiện cho cung cầu gặp nhau , hiện nay chức năng này chỉ có sở giao dịch nhà nước thực hiện .
Một nguyên nhân khác nữa là trình độ của công chúng về thị trường hối đoái và các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ còn hạn chế . Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ quen với hoạt động mua bán giao ngay mà chưa có thói quen mua bán kỳ hạn . Do vậy đó là điều khó khăn cho ngân hàng trong việc mở rộng các nghiệp vụ của thị trường hối đoái hoàn chỉnh .
- đối tượng tham gia thị trường còn hạn chế , chỉ là các Ngân Hàng Thương Mại . Chúng ta biết biết rằng trong dân cư còn có một lượng ngoại tệ khá lớn . nếu đối tượng tham gia thị trường được mở rộng không giới hạn thì sẽ thu hút được bộ phận lớn dân cư tham gia , hạn chế được các hoạt động mua bán tại thị trường chợ đen .
- Việc bán hay mua ngoại tệ vào của ngân hàng nhà nước chưa được thực iện một cách khéo léo gây tác động tâm lí dẫn đến đầu cơ ngoại tệ của các tổ chức cá nhân . Mỗi khi thấy ngân hàng nhà nước bán ra nhiều thì các ngân hàng sợ tỷ giá bị biến động nên lại càng mua nhiều và ngược lại tác động đến sự biến động tỷ giá .
4.3.2 Về phía NHCT Đống Đa
Sở dĩ hoạt động kinh doanh ngoại tệ chỉ đáp ứng nhu cầu mua bán của khách hàng xuất nhập khẩu do ngân hàng chưa tham gia thị trường Liên Ngân Hàng , hoạt động mua bán ngoại tệ giữa các Ngân Hàng Thương Mại trong và ngoài nước rất ít , do giá bán và mua ngoại tệ của các ngân hàng khác không có lợi cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ
- Hiện nay, đồng USD vẫn là đồng tiền được sử dụng chủ yếu trong thanh toán quốc tế, vì vậy ngân hàng chỉ kinh doanh mua bán, dự trữ phần lớn USD, EURO . Ngân hàng chưa có chính sách về một cơ cấu ngoại tệ hợp lý, quá phụ thuộc vào USD. Đó là vì : quỹ ngoại tệ của ngân hàng còn nhỏ, hơn nữa để làm được điều đó đòi hỏi trình độ cán bộ kinh doanh ngoại tệ cao và nhiều kinh nghiệm, phải theo dõi, nắm chắc thường xuyên biến động tỷ giá và trạng thái từng ngoại tệ của ngân hàng cũng như dự đoán một cách nhanh nhạy hơn với thị trường.
- Nguồn mua ngoại tệ của NHCT Đống Đa từ các khách hàng xuất khẩu rất hạn chế. Vì vậy, ngân hàng thường phải mua lại ngoại tệ từ các NHTM khác với tỷ giá khá cao, nên ngân hàng hoặc đóng vai trò mua hộ ngoại tệ cho khách hàng (không thu lãi), điều này sẽ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh ngoại tệ, hoặc bán với tỷ giá cao hơn một chút thì có thể gây ấn tượng không tốt với khách hàng và có khả năng mất khách hàng cho các NHTM khác.
Nguyên nhân của hạn chế này là do số lượng khách hàng xuất khẩu đến với ngân hàng rất ít. Tuy nhiên, đây cũng là tình hình chung đối với nhiều NHTM khác trên địa bàn, vì nước ta chủ yếu xuất khẩu nông lâm hải sản và đều tập trung ở phía nam. Còn các Tổng công ty 90 và 91 đặc biệt là các đơn vị xuất khẩu trước đây có duy trì tài khoản taị NHCT nay đều tất toán rút về mở tại Ngân hàng Ngoại thương nên nguồn mua ngoại tệ của NHCT giảm đáng kể. Trong khi đó, nhu cầu ngoại tệ thanh toán L/C của khách hàng ngày một gia tăng. Sự mở rộng khoảng cách giữa cung cầu ngoại tệ đã làm cho NHCT Việt Nam mất chủ động trong cân đối ngoại tệ. Hơn nữa, mặc dù đã đóng tài khoản tiền gửi ngoại tệ nhưng họ vẫn duy trì tài khoản tiền gửi VNĐ và hoạt động vay trả với NHCT Việt Nam vì ngân hàng Ngoại thương Việt Nam không thể đáp ứng toàn bộ nhu cầu của họ. Sự bất cập này tạo nên lợi thế cho ngân hàng Ngoại thương và bất lợi cho NHCT, một số khách hàng lớn có giao dịch với NHCT Đống Đa nay cũng phải tập trung về một tài khoản. Thực tế này đã làm cho nguồn ngoại tệ của chi nhánh giảm dẫn đến kinh doanh ngoại tệ gặp nhiều khó khăn. Đồng thời, việc giảm tỷ trọng mua ngoại tệ từ NHCT Việt Nam đối với chi nhánh lại càng khó khăn hơn.
- Những hoạt động có liên quan đến kinh doanh ngoại tệ như hoạt động thanh toán quốc tế và tín dụng xuất khẩu vẫn còn những hạn chế qua khảo sát cho thấy ,Trình độ công nghệ thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu công việc mặc dù đã có thời điểm trình độ công nghệ thông tin đứng trong tốp đầu của hệ thống Ngân Hàng Thương Mại . Nhưng cho đến nay phần mềm được sử dụng trong kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế đã tỏ ra kém hiệu quả . Trong quá trình sử dụng , do quá tải nên một số chức năng đã bị cắt bớt , chương trình ngày càng chậm dẫn đến thời gian thanh toán lâu , mất uy tín với khách hàng và các ngân hàng khác , chi nhánh không cập nhật được các thông tin cần thiết từ hội sở chính , điều đó ảnh hưởng đến khả năng tổng hợp , cập nhật những thông tin cần thiết về tỷ giá và về thanh toán hàng xuất nhập khẩu .
Về nhân sự còn nhiều bất cập như đội ngũ cán bộ chưa đạt trình độ chuyên sâu về nghiệp vụ xuất khẩu , ngoại ngữ ,luật quốc tế vì vậy còn lúng túng trong sử lí thông tin trong kinh doanh ngoại tệ và chưa đạt khả năng tư vấn cho khách hàng hoạt động xuất nhập khẩu.
Chuyển tiền trong hệ thống còn chậm , thời gian thanh toán từ nước ngoài về lâu hơn ngân hàng ngoại thương và các ngân hàng nước ngoài ... ảnh hưởng đến thời gian thanh toán và hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng , trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu sự phối hợp giữa bộ phận cho vay xuất khẩu và bộ phận thanh toán quốc tế , mua bán ngoại tệ tại các chi nhánh là chưa chặt chẽ , nên khách hàng vay vốn của NHCT Đống Đa nhưng lại bán ngoại tệ cho ngân hàng khác . như vậy những hạn chế của hoạt động này có tác động tiêu cực đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ vì ba hoạt động này có liên quan chặt chẽ với nhau.
Chương III : một số giải pháp tăng cường hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh NHCT Đống Đa
1/ định hướng kinh doanh đối ngoại của NHCT Việt Nam trong năm 2002
Như chúng ta đã biết, NHCT khu vực Đống Đa được tách từ NHNN ngày 1/7/1988, kể từ ngày đó ngâ hàng thực hiện chế độ hoạch toán kinh doanh Xã Hội Chủ Nghĩa
Theo cơ chế thị trrường. NHCT Đống Đa là một chi nhánh thực thuộc NHCT Việt Nam. Vì vậy, mọi định hướng hoạt động của NHCT Việt Nam đều có tác động tầm vĩ mô tới hoạt động của NHCT Đống Đa.
Một trong những cơ sở quan trọng để đưa ra giải pháp và kién nghị nhằm thúc đảy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHCT Đống Đa, đó là định hướng hoạt động kinh doanh đối ngoại của NHCT Việt Nam đến năm 2002.
* Tăng cường khai thác các nguồn vốn vay nước ngoài cho các dự án trung và dài hạn của các doanh nghiệp dưới mọi hình thức như định chế tài chính, uỷ thác vay vố từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các cá nhân nước ngoài , thực hiện tốt các dự án vay dài hạn của các tổ chức quốc tế như : Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu á ...
*Chấp hành nghiêm chỉnh quy định của NHNN và yêu cầu của tổ chức cấp vốn vay.
* Khai thác triệt để mọi khoản tài trợ của tổ chức nước ngoài, giúp đỡ về mặt kỹ thuật nhằm đổi mới công nghệ ngân hàng và đào tạo cán bộ.
* Định hướng chiến lược Marketing ngân hàng nhằm mở rộng thị trường hoạt động, nâng cao uy tín của NHCT Việt Nam trên thương trường khu vực và quốc tế, tranh thủ mọi thuận lợi đồng thời hạn chế thấp nhất rủi ro trong kinh doanh hối đoái và quan hệ đối tác với nước ngoài.
* Mở rộng nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại bao gồm: Thanh toán quốc tế, thanh toán biên giới, cho vay ngoại tệ và nhất là hoạt động mua bán ngoại tệ.
* Mở rộng nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại bao gồm : Thanh toán quốc tế, mở rộng mạng lưới ngoại tệ cũng như thu đổi ngoại tệ nhằm thu hút ngoại tệ trên thị trường vào ngân hàng.
2/ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy kinh doanh ngoại tệ
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động tinh vi phức tạp và phải chịu nhiều ảnh hưởng của các biến cố kinh tế, chính trị, văn hoá... Chính vì vậy, nó đòi hỏi tất cả các Ngân Hàng Thương Mại, với chức năng tài chính, hỗ trợ phát triển cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và lĩnh vực kinh doanh đối ngoại nói riêng phải có những chiến lược kinh doanh hợp lý thích hợp với từng thời kỳ mang lại những thành công tốt đẹp hiệu quả kinh tế cao, các giải pháp cụ thể là:
2.1 Mở rộng mạng lưới kinh doanh ngoại tệ
Phạm vi hoạt động mua bán ngoại tệ của ngân hàng công thưong Đống Đa còn rất hạn chế vì vậy mở rộng mạng lưới kinh doanh là yếu tố rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh , việc mở rộng mạng lưới kinh doanh ngoại tệ sẽ làm tăng tổng doanh số mua bán ngoại tệ làm cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ ngày càng phát triển .
để mở rộng mạng lưới kinh doanh ngoại tệ NHCT Đống Đa nên tham gia vào thị trường Liên Ngân Hàng , để hoạt động kinh doanh ngoại tệ không chỉ dừng lại ở mức đáp ứng nhu cầu của khách hàng xuất nhập khẩu , mà còn diễn ra giữa các ngân hàng trong và ngoài nước , như vậy sẽ giúp cho ngân hàng chủ động hơn trong kinh doanh ngoại tệ , có thể đa dạng phạm vi hoạt động của mình.
2.2 đa dạng hoá các ngoại tệ kinh doanh
Hiện nay hầu hết Ngân Hàng Thương Mại và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ta sử dụng USD là chủ yếu trong mua bán cho vay , huy động ,dự trữ và thanh toán quóoc tế . tâm lí sùng bái đô la đã từng gây khó khăn trong việc huy động nguồn của các Ngân Hàng Thương Mại , các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ cũng không muốn bán cho ngân hàng . Khi tỷ giá USD / VNĐ thay đổi dân cư lo đồng ngoại tệ mất giá ồ ạt rút tiết kiệm nội địa , mua ngoại tệ gửi ngân hàng , càng làm tỷ giá biến động thêm ...
NHCT Đống Đa cũng không nằm ngoài tình trạng đó , thực tế thì vẫn có những loại ngoại tệ như JPY , EURO ,HKD ... được sử dụng trong giao dịch nhưng USD vẫn là ngoại tệ chiếm chủ yếu trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng như trong cơ cấu dự trữ của ngân hàng .
Hiển nhiên usd là một loại ngoại tệ mạnh , có khả năng chuyển đổi cao tuy nhiên đó không phải là ngoại tệ mạnh duy nhất trong hệ thống tiền tệ hiện nay . Ngoài USD ra còn có GBD , JPY, EURO cũng là những ngoại tệ có khả năng chuyển đổi cao , ngày càng được sử dụng nhiều trong thanh toán quốc tế và dự trữ ở các nước .
Để đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh , ngân hàng cũng phải tính đến nhu cầu về loại ngoại tệ của khách hàng . Trong khi hiện nay nhu cầu khách hàng củ yếu là USD mà ngân hàng lại nắm giữ các loại ngoại tệ khác không kinh doanh được thì ngân hàng liệu tếp tục có lãi hay không .
Tuy nhiên ngân hàng có thể lập kế hoạch cơ cấu dự trữ ngoại tệ của mình theo hướng đa dạng hoá các loại ngoại tệ , tránh phụ thuộc quá nhiều vào đồng đô la mỹ , phân tán rủi ro , thích nghi được những biến động thất thường về tỷ giá
2.3 Chủ động trong khai thác các nguồn ngoại tệ
2.3.1 Linh hoạt trong khai thác ngoại tệ
Tăng cường hoạt động linh hoạt và hiệu quả hơn trên thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng để chủ động nhiều hơn trong khai thác nguồn ngoại tệ với quy mô lớn hơn, chi phí thấp và ngân hàng sẽ có điều kiện để phát triển nghiệp vụ Liên Ngân Hàng của mình.
2.3.2 Chủ động thu hút nguồn ngoại tệ trên thị trường.
a. Mở rộng và thu hút nguồn ngoại tệ tiền gửi của dân cư.
b.Thu hút ngoại tệ từ nguồn kiều hối gửi về trong nước: Hiện nay nguồn kiều hối gửi về qua NHCT Đống Đa không nhiều, song với chính sách tỷ giá hiện hành, tỷ giá mua bán trên thị trường tự do đã chênh lệch không nhiều. Vì vậy, ngân hàng cần tạo sự tiện ích cho khách hàng để khách hàng có điều kiện trực tiếp tiếp cận với ngân hàng hoặc bán cho ngân hàng nếu cần.
2.4 Thúc đẩy hoạt động có liên quan tới kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng
Mối quan hệ giữa kinh doanh ngoại tệ và tín dụng xuất nhập khẩu , thanh toán quốc tế là mối quan hệ qua lại , tác động và hỗ trợ lẫn nhau tín dụng xuất nhập khẩu phát triển góp phần tăng thu ngoại tệ , đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng , giữ khách hàng cũ và thu hút thêm khách hàng mới , mở rộng khả năng thanh toán của khách hàng qua ngân hàng , thanh toán quốc tế phát triển sẽ giúp cho ngân hàng tăng cường mua bán ngoại tệ làm cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển .
Để ngày càng nâng cao nghiệp vụ thanh toán quốc tế NHCT Đống Đa cần phải chú ý những vấn đề sau:
- Trước hết, cán bộ phòng thanh toán quốc tế phải không ngừng nâng cao trình độ ngoại ngữ và hiểu biết về luật kinh doanh quốc tế.
- Phải phòng ngừa mọi rủi ro trong thanh toán quốc tế. Các doanh nghiệp thường phải chịu rủi ro thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng ngoại như: giá cả, phương thức vận tải, phương thức thanh toán, điều khoản trọng tài... Vì vậy để giảm thiểu rủi ro, cán bộ Phòng thanh toán quốc tế cần thiết phải nắm vững kỹ thuật nghiệp vụ, tư vấn cho doanh nghiệp lấy lại lợi thế khi cần thiết.
Trong kinh doanh ngoại thương, các doanh nghiệp Việt Nam thường hay sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ L/C. Rủi ro trong phương thức thanh toán này không phải là không có. Chính vì thế NHCT Đống Đa khi mở L/C nhập khẩu nên qui định thêm điều khoản: “gửi ngay khi hàng lên tàu một bộ chứng từ không chiết khấu cho người mở L/C ”. Điều khoản này sẽ có tác dụng giúp cho ngân hàng mở L/C có thể kiểm tra trước nhằm phát hiện những sai sót, những điểm không phù hợp của bộ chứng từ so với nội dung L/C đã mở. Nếu có sai sót thì kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, đồng thời có tác dụng tăng độ tin cậy rằng hàng đã được bốc xếp lên tàu.
Đầu tư trang thiết bị phục vụ cho việc kinh doanh ngoại tệ và chính sách phát triển nhân lực .
Trong điều kiện đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công nghệ ngân hàng là mối quan tâm hàng đầu của toàn ngành ngân hàng. Việc máy tính hoá các nghiệp vụ ngân hàng là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Thực trạng tại phòng kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh NHCT Đống Đa cho thấy hệ thống mạng mà phòng đang sử dụng đã khá cũ, không thuận tiện cho việc nắm bắt và xử lý thông tin ngày nay. Chính vì thế mà ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng cập nhật thông tin.
2.5.1.đầu tư trang thiết bị, hệ thống thông tin
NHCT Đống Đa cần trang bị những thiết bị, hệ thống thông tin hiện đại hơn, phục vụ cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt, ngân hàng cần đầu tư để có sự liên kết mạng hệ thống thông tin với các ngân hàng khác trên trên thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng và NHNN một cách linh hoạt, nhanh chóng để hoạt động có hiệu quả trên thị trường này.
2.5.2. Chính sách phát triển nhân lực trên hai hướng chính sau.
a. Chính sách đào tạo: Kinh doanh ngoại tệ là một lĩnh vực mới , nhạy cảm và sẽ là một hoạt động ngày càng phát triển trong mô hình hiện đại. Vì vậy, NHCT Đống Đa cần có chính sách đầu tư thích đáng, tài trợ cho các cán bộ chuyên môn đi học tập, nâng cao trình độ trong và ngoài nước, đào tạo điều kiện khuyến khích các cán bộ được học trong khả năng, có chính sách đãi ngộ xứng đáng với các cán bộ có năng lực.
b. Chính sách tuyển dụng : Ngân hàng cần có chế độ tuyển dụng một cách khắt khe hơn, sắp xếp sử dụng cán bộ chuyên môn để tạo hiệu cao quả nhất trong công việc, một phong cách văn hoá giao tiếp cởi mở, văn minh lịch sử, thái độ phong cách giao tiếp chính là nghệ thuật giữ khách hàng có hiệu quả cao nhất trong Marketing ngân hàng hiên nay , các ngân hàng thường chú trọng về chính sách quảng cáo, khuyếch trương tạo sự tín nhiệm... giúp khách hàng hiểu biết về ngân hàng do quảng cáo không mang tính chất bền vững mà chính là do các hoạt động giao tiếp hàng ngày của ngân hàng. Bởi vậy, phong cách giao tiếp sẽ tạo tâm lý hài lòng thoả mái với khách hàng, người đến giao dịch với ngân hàng nhất là trong xu thế cạnh tranh thu hút khách hàng hiện nay cuả các ngân hàng.
Trong thời gian tới NHCT Đống Đa cần chú trọng những vấn đề sau:
+ Tổ chức hội nghị khách hàng thông qua giới thiệu cho họ về chính sách của nhà nước, các loại hình nghiệp vụ mới như mua bán kỳ hạn, hoán đổi và những lợi ích của chũng nhằm giúp họ nhận thức đúng đắn về các nghiệp vụ đó, một mặt hạn chế được rủi ro trong kinh doanh mặt khác phối hợp với ngân hàng thực hiên chính sách của nhà nước góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
+ Điều trăn trở của các cán bộ nhân viên phòng kinh doanh đối ngoại tại NHCT Đống Đa là các anh chị nhận thức những thông tin và những dự báo về thị trường kinh doanh ngoại tệ trong nước và trên thế giới để có thể điều chỉnh tham khảo trong kinh doanh ngoại tệ. Về vấn đề này phòng thanh toán quốc tế xin kiến nghị với hiệp hội ngân hàng và NHCT Việt Nam cần thường xuyên có các buổi hội thảo chuyên đề kinh doanh ngoại tệ, các buổi nói chuyện về tình hình kinh tế chính trị của các nước trên thế giới, trong đó cung cấp những thông tin cần thiết và đáp ứng những thắc mắc của chi nhánh NHCT Đống Đa.
3. Một số kiến nghị
3.1. Kiến nghị với NHCT Việt Nam.
* NHCT Việt Nam nên cho phép các chi nhánh được mua bán ngoại tệ với nhau.
* Tổ chức khai thác và cung cấp một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác cho toàn bộ hệ thống các tin kinh tế trong nước và ngoài nước, các tin về khách hàng nước ngoài ... có liên quan đến nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ.
* Tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn nghiệp vụ về thanh toán quốc tế và các hội thảo giải đáp những vướng mắc trong thanh toán quốc tế của chi nhánh.
* NHCT Việt Nam cần có biện pháp cải tiến thông tin để thời gian chuyển bức điện từ chi nhánh sang nước ngoài được nhanh hơn.
* Hàng năm NHCT Việt Nam cần tổ chức hội nghị tổng kết về hoạt động kinh doanh đối ngoại nhằm tạo điều kiện cho các chi nhánh trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
3.2. Kiến nghị với NHNN
3.2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái.
Với ba quyết định số : 64/1999/ QĐ/NHNN7 về việc công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam so với các loại ngoại tệ, quyết định số 65/1999/QĐ/NHNN7 về quy định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ và quyết định 298/2000/QĐ/NHNN, cơ chế tỷ giá và điều hành tỷ giá của nước ta được thay đổi cơ bản, tỷ giá công bố đã công bố phản ánh một cách khách quan thị trường và quan hệ cung cầu trên thị trường, đồng thời NHNN vẫn thể hiện được vai trò nhất định trong điều kiện thị trường hối đoái nước ta chưa hoàn thiện. Thực tế cho thấy sự thay đổi này đã tạo thuận lợi hơn nhiều cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các ngân hàng.
Tuy nhiên, để cơ chế trên phát huy có hiệu quả, NHNN cần tập trung hoàn thiện các vấn đề có tính chất then chốt sau đây:
a. củng cố và phát triển Thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng (TTNTLNH) một cách căn bản để phát triển thị trường ngoại hối ở nước ta. TTNTLNH phải hoạt động thông suốt, liên tục, không bị giới hạn bởi thời gian và không gian, số thành viên tham gia thị trường lớn tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh và sôi động trên thị trường.
b. Củng cố và phát triển thị trường nội tệ Liên Ngân Hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó.
c. NHNN cần nâng cao dự trữ ngoại tệ tương xứng với nhịp độ tăng trưởng của kim ngạch xuất nhập khẩu, từ đó NHNN đảm bảo được vai trò là người mua người bán cuối cùng trên TTNTLNH, đủ sức can thiệp vào thị trường khi tỷ giá thị trường có sự biến động ảnh hưởng tới nền kinh tế, cơ cấu dự trữ ngoại tệ cũng được tính toán hợp lý, giảm thiểu sự phụ thuộc vào đồng USD.
3.2.2. Chính sách ngoại hối.
- NHNN cần xây đựng quy chế thông tin, thống kê hệ thống hoá kịp thời số liệu nguồn ngoại tệ ra vào trong nước từ đó có dự báo về quan hệ cung cầu trên thị trường làm căn cứ điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối kịp thời.
- Các quy định về quản lý ngoại hối hiện hành phải được thực hiện nghiêm chỉnh, có cơ sở nghiêm minh mọi nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế đều phảI được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng . NHNN tạo điều kiện cho các loại ngoại tệ tự do song hành với thị trường chính thức, gây ra những bất ổn mà NHNN không kiểm soát được.
3.2.3. Đầu tư hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Để có cơ hội theo kịp các nước trong khu vực và thế giới, hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam cần đảm bảo tương đối tốt vai trò mở đường và thúc đẩy các hoạt động kinh tế. Muốn vậy, nhu cầu cần thiết trước mắt phải là thường xuyên đầu tư, nâng cấp công nghệ ngân hàng. Chi phí thực hiện rất cao, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ, NHNN cần kêu gọi sự đầu tư, giúp đỡ của các tổ chức tài chính quốc tế, ciùng với sự nỗ lực của mỗi ngân hàng Việt Nam. Để nâng cao công nghệ hoạt động ngân hàng tránh sự tụt hậu đối với thế giới.
3.2.4. Một số văn bản liên quan đến kinh doanh ngoại tệ của các NHTM.
- Về kỳ hạn của hợp đồng giao dịch SWAP.
Trong giao dịch SWAP ngoại tệ có hình thức giao dịch trong đó hai bên ngoài việc trao đổi tiền vốn gốc vào thời điểm ký kết hợp đồng và thời điểm kết thúc hợp đồng, hai bên còn trao đổi với nhau lãi suất của đồng tiền mình vay vào thời điểm thời hạn, trong khi SWAP còn có hiệu lực. Với các loại lãi suất thay đổi hay cố định được trao đổi theo SWAP, NHTM có thể thực hiện sử dụng hình thức này nhằm phòng tránh rủi ro về lãi suất có hiệu quả. Vậy NHNN nên quy định hình thức này vào " Quy chế giao dịch hối đoái " đồng thời không nên quy định thời hạn tối đa của SWAP vì với SWAP có lãi suất cố định thì cần thời hạn tương đối dài.
- Về hình thức cho vay bằng ngoại tệ tài trợ xuất nhập khẩu : Hiện nay, NHNN không cho phép vay xuất khẩu bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, hình thức này rất có lợi dựa vào các lý do sau:
+ Xét về khả năng thu hồi nợ khá đảm bảo nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu (trong khi cho vay để thanh toán L/C rất khó để tạo nguồn trả nợ lại bằng USD)
+ Hình thức cho này tạo cho khách hàng xuất khẩu có trạng thái ngoại tệ đóng tránh được rủi ro hối đoái. Bởi vì, ngoài USD, khách hàng còn vay ngoại tệ khác như : DEM, JPY, FRF ...
+ Nhà xuất khẩu không chỉ sử dụng nhân công và nhiên liệu trong nước mà có khi phải nhập khẩu một số vật tư, thiết bị từ bên ngoài.
- Quy định tỷ giá kỳ hạn :
NHNN hiện nay đang quy định cách tính tỷ giá kỳ hạn bằng cách khống chế mức tối đa được phép dựa trên tỷ giá giao ngay, được phép cộng với tỷ lệ % nào đó tuỳ theo từng kỳ hạn. Với quy định này, NHNN có thể kiểm soát chiều mất giá đồng Việt Nam. Tuy nhiên, tỷ giá kỳ hạn thực chất được tính toán dựa trên cơ sở chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền và tỷ giá giữa chúng tại thời điểm ký hợp đồng. Nếu một trong hai bên không tham gia sẽ bị thiệt hại, Điều mà không bên nào muốn. Vì vậy, để tiến dtới hoàn thiện thị trườnghối đoái ở Việt Nam. NHNN nên quy định cách tính tỷ giá kỳ hạn một cách tổng quát dựa trên chênh lệch lãi suất thay vì cách tính có tính hành chính hiện nay.
- NHNN cần nghiên cứu đưa ra những quy định cụ thể hơn về chế độ hoạch toán kế toán mới. Một số nghiệp vụ khác như: Giao dịch tương lai, giao dịch lựa chọn ... cũng cần được phát triển ngày càng hoàn thiện thị trường hối đoái ở Việt Nam.
Trong nền kinh tế mở các hoạt động liên quan đến một lượng ngoại tệ lớn và nhu cầu mua bán trao đổi ngoại tệ của họ trên thị trường rất đa dạng. Trong khi đó, sự hiểu biết về thực chất cũng như lợi ích của các doanh nghiệp
mua bán kỳ hạn hoán đổi còn thấp. Do vậy họ chỉ mua bán ngoại tệ với các NHTM dưới hình thức giao ngay hoặc chuyển khoản. Đây là điều khó khăn đối với ngân hàng trong việc mở rộng các loại hình dịch vụ.
3.3. Một số kiến nghị khác.
3.3.1. Việc niêm yết tỷ giá của NHCT Việt Nam hiện nay đang gây trở ngại đối với khu vực Đống Đa nói riêng trong giao dịch với khách hàng. Nhiều khi khách hàng đến giao dịch với chi nhánh vì chưa có tỷ gía nên họ phải chờ đợi, điều này không những tạo tâm lý không tốt cho họ mà còn ảnh hưởng tới công viêc kinh doanh của họ. Chính sự hạn chế này đã đẩy họ đến quyết định không giao dịch với ngân hàng mà giao dịch trên thị trường tự do. Bên cạnh đó, sự giới hạn này đã hạn chế việc nhận thức và tính nhạy bén của chi nhánh đối với việc tỷ giá lên xuống hàng ngày. Trên thị trường giá USD và các loại ngoại tệ khác thay đổi thường xuyên nếu như không nắm bắt được thực trạng biến động của thị trường thì việc đưa ra quyết định là rất khó khăn. Do đó, đề nghị NHCT Việt Nam xem xét vấn đề này nhằm tạo điều kiện cho các chi nhánh trong việc thanh toán, phân tích và có quyết định đúng đắn. Từ đó góp phần vào thực hiện mục tiêu chung của toàn hệ thống và các chi nhánh NHCT.
3.3.2. Kiểm soát trạng thái ngoại tệ kinh doanh.
Tuy NHCT Đống Đa không thuộc đối tượng báo cáo theo quyết định số 18/QĐ- NHNN7 nhưng việc kiểm soát trạng thái ngoại tệ đối với chi nhánh không phải là không quan trọng. Trong những năm qua, chi nhánh đã cố gắng thực hiện mục tiêu mua vào bao nhiêu bán hết bấy nhiêu để tránh xuất hiện trạng thái ngoại tệ. Vì vậy, để tiếp tục thực hiện mục tiêu này trong năm tháng cuối cùng của năm 2001 và những năm tiếp theo chi nhánh cần có kế hoạch mua bán sát với nhu cầu để hạn chế trạng thái ngoại tệ tránh tình trạng hình thành trạng thái ngoại tệ theo xu thế âm để tránh tình trạng khi qui đổi ngoại tệ ra đồng nội tệ sẽ bị lỗ khi bán ngoại tệ.
Kết luận
Bước vào thiên niên kỷ mới chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới . Những cơ hội này xuất phát từ những tháo gỡ , cởi mở khó khăn cho hoạt động ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc tiếp tục cơ cấu lại hệ thống ngân hàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và đặc biệt là những chuyển biến tích cực , những khởi sắc của nền kinh tế Việt Nam .
Kinh doanh ngoại tệ là một mắt xích quan trọng trong hoạt động kinh doanh đối ngoại , rộng hơn là hoạt động kinh doanh chung của chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa . Hoạt động kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả cao sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động khác của ngân hàng phát triển như thanh toán quốc tế , hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu ...góp phần thực hiện thành công chiến lược kinh doanh của ngân hàng , đạt được các mục tiêu về lợi nhuận , khách hàng ,uy tín ... từ đó đưa ngân hàng tiến nhanh hơn trên con đường hội nhập cộng đồng ngân hàng thế giới .
Vì vậy việc tăng cường và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ là rất cần thiết đối với tất cả ngân hàng thương mại nói chung và Ngân Hàng Công Thương Đống Đa nói riêng .
Qua thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa , trên cơ sở những kiến thức đã học và tình hình thực tế tại ngân hàng , em đã viết được bài viết này . Bài viết đề cập đến một số vấn đề sau:
Trình bày một cách hệ thống về cơ sở lý luận chung của hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong đó đã trình bày rõ khái niệm , các hình thức kinh doanh, sự cần thiết , các nhân tố ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa
Từ các phân tích trên , căn cứ vào phương hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới , đã đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng và một số kiến nghị với Ngân Hàng Công Thương Việt Nam và Ngân Hàng Nhà Nước
Đó là những vấn đề mà bài viết của em đã đề cập vì hoạt động kinh doanh ngoại tệ khá phức tạp , còn nhiều mới mẻ , lại chịu sự quản lí chặt chẽ của nhà nước do đó , đưa ra được các giải pháp hoàn chỉnh không phải là vấn đề đơn giản mà đòi hỏi có sự nghiên cứu dần dần , cần có thời gian để rút kinh nghiệm . Vì thế trong giới hạn bài viết này chỉ là một đóng góp rất nhỏ trong việc nghiên cứu tìm kiếm giải pháp khả thi cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng . Để em có thể đóng góp một phần nhỏ nhoi này đó là nhờ sự hướng dẫn tận tình của cô giáo :TS Nguyễn Thị Hường và thầy giáo : Th.s Tạ Lợi , anh Lê Văn Khánh phòng tín dụng công nghiệp , các cô chú , anh chị ở Ngân Hàng Công Thương Đống Đa trong thời gian em thực tập . Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô , cô chú ,anh chị đã tận tuỵ hướng dẫn em trong thời gian qua .
Do trình độ có hạn bài viết của em chắc chắn còn nhiều vấn đề hạn chế , em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô , bạn bè để em có thể nâng cao tầm hiểu biết của mình và đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn
Hà nội, ngày 11 tháng 5 năm 2002
sinh viên : Cai Văn Tuấn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5593.doc