Trong thương mại dịch vụ do đối tượng hoạt động thương mại là những sản phẩm phi vật thể nên khách hàng không thể sờ thấy, nhìn thấy trước khi mua. Điều này làm cho quá trình mua bán mang tính rủi ro cao hơn so với mua bán các hàng hoá hữu hình.Do đó người cung ứng dịch vụ càng phải cố gắng “hữu hình” hoá sản phẩm càng tốt, cũng như nâng cao khả năng cung ứng đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng. Ngược lại, người mua thường căn cứ vào danh tiếng, uy tín của hãng hoặc cá nhân người cung ứng để đi đến quyết định mua.
Cũng do tính chất vô hình của sản phẩm dịch vụ. Trong mua bán dịch vụ không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu từ người bán sang người mua. Bên cạnh đó gây khó khăn trong việc cấp bằng sáng chế và quyền sở hữu các sáng kiến cải tiến dịch vụ nên các dịch vụ dễ bị sao chép , bắt chước.
84 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1086 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước đối với thương mại dịch vụ trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng, Luật các tổ chức tín dụng còn bộc lộ nhiều hạn chế.Cụ thể là:
Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm :
Văn bản pháp lý quan trọng nhất đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm là Nghị định 100/CP ban hành ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm và hiện nay đã được nâng cấp lên thành Luật kinh doanh bảo hiểm.
Cho đến nay, trong hệ thống luật điều chỉnh kinh doanh bảo hiểm vẫn thiếu một số quy định cần thiết cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm ( chẳng hạn các quy định tự do xem xét, cho vay phí tự động, cho vay theo hợp đồng... trong bảo hiểm nhân thọ), có những quy định chưa phù hợp với tập quán kinh doanh bảo hiểm trên thế giới ( chẳng hạn quy định về các xử lý khi thông báo tuổi sai trong bảo hiểm nhân thọ); thêm vào đó các văn bản hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm vẫn chưa được ban hành, làm hạn chế vai trò của Luật trong điều tiết hoạt dộng bảo hiểm. Không chỉ các quy định pháp luật về bảo hiểm chưa đồng bộ đầy đủ, việc thực thi các quy định này trên thực tế chưa nghiêm chỉnh.
Đến nay Nhà nươc vẫn chưa có nhiều chính sách có tính chất cơ bản nhằm hỗ trợ ngành bảo hiểm phát triển. Chẳng hạn trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, mặc dù Nhà nước không đánh thuế đối với hoạt động này, nhưng cho đến nay vẫn chưa có chính sách ưu đãi, khuyến khích của Nhà nước đối với những người tham gia bảo hiểm, ở các nước như Nhật Bản, Mỹ, Pháp... một phần phí bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm nhân thọ đóng không được tính vào thu nhập chịu thuế, đồng thời số tiền bảo hiểm họ nhận được cũng được miễn thuế. Ngoài ra, ở Việt nam các công ty bảo hiểm Nhà nước như Bảo Việt vẫn phải thực hiện thêm các nhiệm vụ mang tính chính trị, xã hội như được Nhà nước giao cho thực hiện bảo hiểm nông nghiệp, một số nghiẹp vụ doanh nghiệp khác không làm vì lỗ. Theo số liệu nghiệp vụ này cho thấy, năm 1999 số phí bảo hiểm nông nghiệp chỉ là 2 tỷ đồng trong khi dó số tiền bồi thường lên tới trên 10 tỷ đồng.
Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng
Hai pháp lệnh về ngân hàng ban hành đầu những năm 1990, sau đó được nâng lên thành Luật Ngân hàng và Luật Các tổ chức tín dụng vào cuối những năm 1990. Dưới đó là một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực thi hai Luật này bao gồm Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định, Thông tư của các Bộ, ngành...
Tuy nhiên, môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng còn chưa có quy định đầy đủ, có tầm bao quát rộng và mang tính khả thi cao đã dẫn đến những nguy cơ tiềm ẩn như: cơ chế quản lý, giám sát trong ngành ngân hàng chưa chặt chẽ đã hạn chế nhiều khả năng đảm bảo an toàn cũng như hoạt động kinh doanhcủa các ngân hàng. Cơ chế giám sát tỏ ra gặp nhiều khó khăn để thực thi các quy định thận trọng đảm bảo an toàn của hệ thống. Một số ngân hàng có các hình thức thu hút khách hàng không lành mạnh, bỏ qua các thủ tục quy trình tín dụng và áp dụng mức lãi suất không hợp lý. Ví dụ hệ thống ké toán của Nhà nước chưa phù hợp và thiếu đồng bộ đã cản trở việc xác định mức độ rủi ro tín dụng trong các nghiệp vụ.
2.2.5 Những hạn chế về công tác thanh tra kiểm tra và quản lý thị trường
Mặc dù đến nay đã có 60/61 tỉnh, thành phố có các tổ chức thanh tra chuyên trách nhưng theo đành giá của các chuyên gia, hệ thống thanh tra còn nhiều bất cập. Hoạt động thanh tra dù được tiến hành với nhiều hình thức: thanh tra diện rộng, thanh tra trọng điểm, thanh tra chuyên đề, thanh tra giải quyết khiếu nại tố cáo, song lại không thường xuyên nên hiệu quả chưa cao.
Hệ thống thanh tra đã có bước tiến bộ về năng lực, tổ chức điều hành và tác nghiệp cụ thể nhưng kết quả chưa cao. Một số lý do để giải thích điều trên là:
Sự thiếu hụt nghiêm trọng lực lượng thanh tra đã làm cho công việc kiểm tra các hoạt động dịch vụ chỉ như “muối bỏ bể”. Lực lượng thanh tra dù đã được tổ chứ lại nhưng vẫn còn thiếu. Lấy thanh tra văn hoá là một ví dụ số cán bộ thanh tra viên ở các Sở Văn hoá- Thông tin tỉnh thành phố chưa xác định về số lượng và tiêu chuẩn hoá, chưa đủ sức chỉ đạo kiểm tra và trực tiếp kiểm tra kiểm soát.Hiện nay, thanh tra Bộ Văn hoá- Thông tin chỉ có biên chế 15 người, còn các Sở thường chỉ có 3-5 người.
Không chỉ thiếu hụt người ngành thanh tra còn thiếu hụt về trang thiết bị và kinh phí phục vụ cho công tác thanh tra kiểm tra và quản lý thị trường. Điều này dẫn đến việc không đủ điều kiện để thực hiện nhiệm vụ .
Chương III Kiến nghị và giải pháp
I-Chiến lược phát triển các ngành dịch vụ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Trong thời gian qua, lĩnh vực dịch vụ chưa nhận được sự chú ý thich đáng mặc dù có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế. Điều nàyđã làm giảm dần tỷ lệ đóng góp GDP của lĩnh vực dịch vụ và có những ảnh hưởng không tốt đối với hoạt động kinh tế nói chung và TMDV nói riêng. Vì vậy, trong Chiến lược phát triển kinh tế do Đại hội Đảng IX đề ra cho giai đoạn 2001-2010, lĩnh vực dịch vụ đã được chú ý và có những hướng phát triển khá cụ thể, đáng chú ý là: “ Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng GDP của nông nghiệp 16-17%, công nghiệp 40-41%, dịch vụ 42- 43%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50% ”
Đối với các ngành dịch vụ cụ thể, Chiến lược xác định tập trung vào các hưóng như sau:
Phát triển mạnh thương mại, nâng cao chất lượng hoạt động để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả. Hình thành các trung tâm thương mại lớn, các chợ nông thôn, nhất là ở miền núi, bảo đảm cung cấp mộy số sản phẩm thiết yếu cho vùng sâu, vùng xa và hải đảo; tạo thuận lợi cho tiêu thụ nông sản. Phát triển thương mại điện tử. Nhà nước, các Hiệp hội, các doanh nghiệp phối hợp tìm kiếm, mở rộng thị trường cho sản phẩm Việt Nam. đến năm 2005, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 30-35%, trong đó trình độ cao đẳng trở lên 8%,đến năm 2010 tỷ lệ này sẽ tăng lên 55-60%, trong đó cao đẳng trở lên 13%.
Phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, có sức cạnh tranh, vươn nhanh ra thị trường khu vực và thế giới. Dành thị phần lớn cho các doanh nghiệp trong nước vận chuyển hàng hoá Việt Nam theo đường biển và đường hàng không quốc tế. Phát triển mạnh vận chuyển hành khách công cộng ở các thành phố lớn.Đến năm 2005 đạt tỷ lệ đã qua đào tạo là 42%, trong đó trình độ cao đẳng trở lên 4%, THCN 7%, CNKT 9-12% và đến năm 2010 tỷ lệ này sẽ tăng lên 65%, trong đó cao đẳng trở lên 4,5%, THCN 9%, CNKT 28,5%.
Tiếp tục phát triển nhanh và hiện đại hoá dịch vụ bưu chính viễn thông; phổ cập sử dụng Internet. Điều chỉnh giá cước để khuyến khích sử dụng rộng rãi. Đến năm 2010, số máy điện thoại, số người sử dụng Internet trên 100 dân đạt mức trung bình trong khu vực. Đến năm 2005 đạt tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là 92%, trong đó trình độ cao đẳng trở lên 21%, THCN 31%, CNKT 40% và đến năm 2010 tỷ lệ này tăng lên 95%, trong đó cao đẳng trở lên 25%, THCN 25%, CNKT 45%.
Phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước.Đến năm 2005 đạt tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là 70%, trong đó trình độ cao đẳng trở lên 12%, đến năm 2010 tỷ lệ này sẽ tăng lên 80%, trong đó cao đẳng trở lên 20%.
Mở rộng các dịch vụ tài chính- tiền tệ như tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng khoán...đi thẳng vào công nghệ hiện đại, áp dụng các quy chuẩn quốc tế. Từng bước hình thành trung tâm dịch vụ tài chính lớn trong khu vực.Thực hiện tích cực chủ trương của Đảng và Nhà nước gửi đi đào tạo ở nước ngoài để nhanh chóng có đội ngũ chuyên gia giỏi, đội ngũ cán bộ quản lý tài chính đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Phát triển mạnh các dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, dịch vụ phục vụ đời sống, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong sản xuất, kinh doanh đời sống xã hội.
Toàn bộ hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7-8%/năm và đến 2010 chiếm 42-43% GDP, 26-27% tổng số lao động.
II- Một số giải pháp và kiến nghị cụ thể
1 Đổi mới cơ chế quản lý thương mại dịch vụ
Theo mô hình hiện nay, cơ quan quản lý chuyên ngành ngoài việc trực tiếp quản lý các doanh nghiệp thuộc ngành về cả khía cạnh kỹ thuật và các quan hệ thương mại của ngành dịch vụ đó. Cơ cấu đó cho phép cơ quan quản lý tiếp cận được nhiều thông tin và đưa ra các quyết định kịp thời khắc phục nhược điểm về mặt kỹ thuật và thương mại vốn có mối quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Tuy nhiên, cơ chế quản lý này không cho phép phát huy đầy đủ những khía cạnh trong quan hệ thương mại dịch vụ, thúc đẩy hiệu quả kinh doanh của ngành như mở rộng cạnh tranh lành mạnh và công bằng, phát triển tính đa dạng của dịch vụ, bảo hộ hoăc tự do hoá thương mại, xúc tiến thương mại dịch vụ một cách thống nhất, tránh gây lãng phí nguồn lực của nhà nước..v.v.Vì vậy, nước ta cần điểu chỉnh cơ cấu quản lý hiện nay, Sơ đồ dưới đây đề xuất theo hướng xử lý mâu thuẫn đó. Kinh nghiệm của nhiều nước có nền kinh tế dịch vụ phát triển hơn nước ta như Thái Lan, Australia, Hoa kỳ, nhật bản, đều áp dụng cách thức quản lý này.
Sơ đồ 3.1: Đề xuất điều chỉnh cơ chế quản lý về thương mại dịch vụ
Cơ chế quản lý hiện nay Cơ chế quản lý mới
Cơ quan quản lý Cơ quan quản Cơ quan quản lý
chuyên ngành lý thương mại chuyên ngành
Vấn đề Thương mại Thương mại Vấn đề
kỹ thuật dịch vụ dịch vụ kỹ thuật
Ghi chú: :Quan hệ tương tác
: Quản lý trực tiếp
: Phối hợp quản lý
Theo cơ chế quản lý mới, cơ quan quản lý chuyên ngành và cơ quan quản lý thương mại sẽ phối hợp trong việc quản lý các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ. Cơ quan quản lý chuyên ngành sẽ quy định và điều chỉnh những vấn đề mang tính kỹ thuật như quy định về các thủ tục kinh doanh, tiêu chuẩn kỹ thuật của ngành. Trong khi đó, cơ quan quản lý thương mại sẽ giám sát về các vấn đề bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng, giám sát quyền và nghĩa vụ của người cung cấp và tiêu dùng dịch vụ, vấn đề bảo hộ hay tự do hoá thương mại dịch vụ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại ..v.v. Cơ chế quản lý mới này có những ưu điểm như
Cơ chế quản lý mới sẽ đẩy mạnh động lực của doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành, đáp ứng đòi hỏi của thị trường.
Các cơ quan quản lý sẽ khó can thiệp và làm sai lệch các quan hệ thương mại của các ngành dịch vụ bằng cách duy trì các doanh nghiệp đặc quyền, độc quyền và can thiệp vào quyết định tiếp thị, định giá dịch vụ.
Ví dụ, Một công ty điện thoại sử dụng công nghệ tin học quyết định cung cấp dịch vụ với giá thấp đối với các thuê bao của mình, Bộ Bưu chính và Viễn thông sẽ giám sát các khía cạnh chất lượng, tiêu chuẩn và sự hài hoà của hệ thống viễn thông. Bộ Thương mại sẽ giám sát các khía cạnh về cạnh trạnh như lạm dụng vị thế độc quyền trong khu vực cung cấp dịch vụ, vấn đề về quyền lợi người tiêu dùng, vấn đề tự do hoá hay bảo hộ ngành điện thoại ứng dụng công nghệ tin học. Trong trường hợp xuất hiện những hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì cơ quan quản lý thương mại sẽ thực hiện trình tự pháp lý cần thiết để ngăn chặn và phối hợp với cơ quan quản lý chuyên ngành cùng xử lý.
Tuy nhiên, trong các ngành dịch vụ những vấn đề về kỹ thuật và thương mại có sự gắn kết nhất định mà đôi khi khó có thể tách rời. Ngoài việc kết hợp chắt chẽ giữa hai cơ quan để bảo đảm sự vânh hành hiệu quả của của cơ chế quản lý mới, trong một số trường hợp, nhà nước có thể đói diện với những khó khăn, thậm chí vấp phải chấp nhận một số ngoại lệ nhất định, ví dụ Ngân hàng nhà nước quản lý cả về vấn đề kỹ thuật và quan hệ thương mại dịch vụ trong linh vực ngân hàng. Kinh nghiệm của nhiều nước cũng cho thấy không phải mọi loại dịch vụ đều được quản lý theo cơ chế này nếu như những quan hệ thương mại bị lấn át bởi các khía cạnh kỹ thuật ví dụ Australia không áp dụng cơ chế quản lý thương mại cho lĩnh vực bảo hiểm.
2 Kế hoạch hoá thương mại dịch vụ
Trước tiên cần thống nhất về quan điểm về quy hoạch để thống nhất trong hành động.
Hộp 1 Quan niệm về quy hoạch thương mại dịch vụ
2.1 Quan niệm chung
Quy hoạch ngành thương mại là một bản luận chứng khoa học về sự phát triển và gắn kết hợp lý của ngành thương mại với các ngành sản xuất và các ngành có liên quan trên phạm vi cả nước hoặc trên các vùng và lãnh thổ nhằm đạt được mục tiêu chiến lược với hiệu quả cao và phát triển bền vững.
Vậy, quy hoạch thương mại dịch vụ là một bản luận chứng khoa học về sự phát triển và gắn kết hợp lý của ngành dịch vụ với các ngành sản xuất và các ngành có liên quan trên phạm vi cả nước hoặc trên các vùng và lãnh thổ nhằm đạt được mục tiêu chiến lược với hiệu quả cao và phát triển bền vững.
2.2 Vị trí và mối quan hệ
QHDV có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội. QHDV phải gắn với quy hoạch các ngành dịch vụ và các ngành có liên quan nhằm tạo tác động ngược lại thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển.Trên cơ sở quy hoạch của ngành dịch vụ mà xác định thị trường, nguồn hàng, nhu cầu, khả năng..
QHDV là một bộ phận của quy hoạch phát triển thương mại. Vì vậy, QHDV ngoài việc định hướng phát triển ngành, cần phải hình thành được một khuôn khổ các chính sách cụ thể nhằm đảm bảo huy động tối đa các nguồn lực, nâng cao vị thế cạnh tranh quốc tế. QHDV cần tính đến các xu hướng sau:
Xu hướng chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá;
Các xu hướng chuyển đỏi cơ cấu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư;
Xu hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội theo vùng;
Sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế và xã hội;
Xu thế phát triển của kinh tế và thương mại khu vực và thế giới;
Xu thế của tiến bộ khoa học và công nghệ;
Xu thế giá cả và lạm phát;
Đổi mới mạnh mẽ công tác kế hoạch hoá, nâng cao tính định hướng và dự báo, nâng cao chất lượng của các quy hoạch và kế hoạch, gắn quy hoạch, kế hoạch với thị trường. Hoàn thiện hệ thống thông tin và dự báo phục vụ kế hoạch, gắn kế hoạch với cơ chế chính sách.
Công bố công khai chiến lược, quy hoạch tổng thể thông qua các biện pháp tích cực như trong công tác xây dựng kế hoạch thương mại dịch vụ cần phải có sự tham gia của các doanh nghiệp, của các đối tượng thành phần kinh tế để kế hoạch ban ra sát với điều kiện thực tế cũng như để các doanh nghiệp có thể vạch ra được định hướng phát triển phù hợp với kế hoạch
3 Chính sách thương mại dịch vụ
3.1 Hoàn thiện chính sách phát trỉên thương mại dịch vụ
Việc khắc phục những mâu thuẫn trong chính sách thương maị dịch vụ của nước ta phụ thuộc nhiều vào vấn đề đổi mới quan điểm về thương maị dịch vụ và việc xây dựng một cơ chế quản lý thương maị dịch vụ thống nhất. Điều quan trọng nhất là các cơ quan quản lý chức năng phải khẩn trương xác định các mục tiêu phát triển thương mại dịch vụ của đất nước bao gồm ngành được ưu tiên phát triển, cách thức và nguồn lực đươc huy động để đạt được mục tiêu và quan trọng nhất là xác định mức độ và cách thức bảo hộ đối với ngành dịch vụ..v.v..Trên cơ sở đó, nước ta cần tập trung điều chỉnh những bất cập sau:
Thống nhất chính sách phát triển dịch vụ trong các luật và qui định có liên quan mà cụ thể là cần sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài Luật thuế giá trị gia tăng và những qui định có liên quan.
Xây dựng cơ chế khuyến khích xuất khẩu dịch vụ như mở rộng phạm vi của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu mà hiện nay đang dành riêng cho xuất khẩu hàng hoá cũng cần phải xem xét để hỗ trợ phát trỉên các ngành dịch vụ có tiềm năng xuất khẩu của đất nước.
Một vấn đề cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ vì đây là nguồn quan trọng thu hút những ngành có công nghệ tiên tiến, hiện đại, tận dụng nguồn chất xám của đất nước.Kinh nghiệm của Trung Quốc, Ân Độ về thu hút FDI trong lĩnh vực dịch vụ là bài học rất đáng tham khảo. Chính sách thương mại dịch vụ của nước ta cần khuyến khích
các doanh nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư ( mở rộng tiếp cận thị trường theo phương thức 3) nhưng phải bảo đảm phù hợp với định hướng của chính sách thương mại dịch vụ của nước ta. Điều này có thể đạt được thông qua các biện pháp cụ thể như sau:
+ Xây dựng hệ thống pháp lý quy định chặt chẽ quá trình chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp nước ngoài hay các tiêu chuẩn đầu tư và kỹ thuật chặt chẽ cho từng ngành;
+ Quy định mức độ tham gia của doanh nghiệp nước ngoài trong từng lĩnh vực dịch vụ bao gồm vấn đề quy mô vốn, thị phần;
+ Đảm bảo cho các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường trong nước quyền được chủ động mọi quyết định liên quan đến kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển ngành. Sau khi cấp phép đầu tư, ta phải loại trừ hoàn toàn những hạn chế phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước ;
+ Chủ động xây dựng các quy định bảo đảm chất lượng dịch vụ và sự vận hành ổn định, an toàn và hiệu quả của hệ thống, đặc biệt trong các ngành nhạy cảm như viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
3.3 Điều chỉnh chính sách bảo hộ trong các ngành dịch vụ
Vận dụng cơ chế bảo hộ có chọn lọc và có điều kiện để xây dựng các mục tiêu của chính sách thương mại trong giai đoạn 2003-2012. Các đề xuất cụ thể như sau:
Tự do hoá hoàn toàn phương thức 1 và 2: Cần chủ động tự do hoá hoàn toàn phương thức1 và 2 chắc chắn không tạo ra sự sáo trộn lớn đối với hoạt động thương mại dịch vụ nhưng tạo sức ép cần thiết cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ trong nước. Đồng thời, cần nhanh chóng hoàn thiện cơ chế quản lý bao gồm các biện pháp giám sát và bảo đảm chất lượng của dịch vụ.
Đối với phương thức 4: Hạn chế cam kết theo phương thức 4 vì phương thức này liên quan đến sự di chuyển của thể nhân, người lao động.
Đối với phương thức 3: Sử dụng cách thức tiếp cận “thay thế nhập khẩu” trên cơ sở nâng cao hiệu quả của các ngành dịch vụ trong nước, ta cần thực hiện tự do hoá thương mại trên cơ sở đánh giá khả năng cạnh tranh của từng ngành, từng doanh nghiệp để xác định mức độ bảo hộ và cách thức tiến hành bảo hộ nào? Do hạn chế về số liệu thống kê của nước ta, sử dụng số liệu năm 2000 để minh hoạ cụ thể năng lực cạnh tranh của từng ngành vụ dựa vào hệ số ERP (mức độ bảo hộ hữu hiệu).
Bảng 3.2: Bảng hệ số ERP ( hệ số bảo hộ hiệu quả của Việt Nam)
STT
Dịch vụ
ERP(Hệ số bảo hộ)
1
Xây dựng
-0.31478
2
Thương nghiệp
-0.02708
3
Khách sạn, nhà hàng
-0.119
4
Vận tảI đường không
-0.27404
5
Bu chính viễn thông
-0.04364
6
Du lịch
-0.11895
7
Ngân hàng, tín dụng, kho bạc, xổ số
-0.01719
8
Giáo dục và đào tạo
-0.0299
9
Y tế, sức khoẻ, cứu trợ xã hội
-0.07068
10
Văn hoá, thể dục thể thao
-0.045047
Nguồn: Số liệu Bộ Thương mại (năm 2000).
Biểu đồ minh hoạ năng lực cạnh tranh của dịch vụ đối với dịch vụ nhập khẩu. Một số đề xuất cụ thể như sau:
Dịch vụ du lịch tỏ ra có năng lực cạnh tranh rõ nét và có thể thực hiện tự do hoá cao để phát huy tổng hợp các nguồn lực bên trong và ngoài.
Các dịch vụ bưu chính, viễn thông có năng lực cạnh tranh trung bình nên mức độ bảo hộ cao hay thấp còn phụ thuộc vào tính chất thương mại của từng loại dịch vụ.Nhìn chung, do tính chất thương mại của dịch vụ này là tương đối cao nên có thể duy trì mức độ bảo hộ trung bình mà không lo ngại ảnh hưởng lớn đến tình hình nhập siêu sau này.
Các dịch vụ y tế, văn hoá, vận tải, máy tính, tài chính (không bao gồm bảo hiểm) đều là các ngành dịch vụ mà tỷ trọng nhập khẩu lớn. Điều đó cho thấy là năng lực cạnh tranh của các ngành thấp. Tuy nhiên, tính chất thương mại của các ngành dịch vụ tương đối cao điều đó càng cho thấy ngành vẫn có năng lực và khả năng canh tranh. Do đó, mức độ bảo hộ cần duy trì ở mức trung bình hoặc thấp. Điều này sẽ khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, hợp tác trong những ngành nghề và với quy mô nhất định để thuác đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới.
Các dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ kinh doanh khác, bản quyền và phí sử dụng bản quyền. Hầu như ta chỉ nhập khẩu mà không thể xuất khẩu. Các loại dịch này có tính thương mại khá cao. Do đó hiệu quả cạnh tranh trong nước rất kém. Nước ta cần thực hiện tự do hoá cao để thu hút đầu tư nước ngoài và “thay thế” nhập khẩu theo phương thức 1 và 2 như hiện nay.
Để xác định mức độ bảo hộ theo phương thức 3 căn cứ vào hiệu quả kinh doanh của một ngành dịch vụ là một vấn đề phức tạp đòi hỏi sự nghiên cứu nghiêm túc, khách quan của nhiều cơ quan hữu quan. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang có nhiều tác động đến sự hình thành chính sách thương mại dịch vụ. Cụ thể, từ năm 2003, những cam kết đầu tiên của Hiệp định thương mại về dịch vụ cũng bắt đầu được thực hiện và yêu cầu đàm phán gia nhập WTO trong năm 2005 và trong khuôn khổ ACFTA trong năm 2004 là tiền đề quan trọng nâng cao hiệu quả của các ngành dịch vụ và góp phần bảo đảm tính chủ động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
4. Hoàn thiện môi trường pháp lý
4.1. Sửa đổi Luật Thương mại
Hiện nay Luật thương mại mới đáp ứng một phần đòi hỏi cấp bách của các quan hệ thương mại và còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của thương mại ngày nay. Do vây, sửa đổi luật pháp về thương mại cần được xem là ưu tiên hàng đầu của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Việc điều chỉnh Luật Thương mại theo hướng sau:
+ Mở rộng phạm vi của Luật Thương mại bao gồm các quan hệ trong hoạt động trao đổi hàng hoá hữu hình và phần lớn hoạt động thương mại dịch vụ ;
+ Bổ sung các quy định cơ bản trong thương mại quốc tế các vấn đề về đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), đãi ngộ quốc gia (NT), các biện pháp chống trợ cấp, các biện pháp tự vệ, đối kháng chống phá giá, xác lập quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, về thương mại dịch vụ và thương mại dịch vụ quốc tế..v.v.
+ Hoàn thiện các quy định về giải quyết tranh chấp thương mại để đáp ứng được quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp khi phát sinh tranh chấp và phù hợp với thông lệ và các chế định quốc tế mà Việt Nam tham gia;
+ Bổ sung các quy định tạo khuôn khổ cho chính sách cạnh tranh mà hiện nay hầu như không thể phát huy được trong khuôn khổ chật hẹp của Luật Thương mại;
+ Bãi bỏ các điều khoản quy định ưu đãi mang tính phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác;
Có như vậy, Luật Thương mại mới có thể phát huy tác dụng tạo dựng khuôn khổ pháp lý cần thiết để bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ cho các chủ thể trong môi trường thương mại thuận lợi cho các doanh ngiệp.
4.2 Tự do hoá và bảo hộ thương mại dịch vụ trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế
Đối với nước ta, căn cứ quan trọng nhất về tự do hoá thương mại dịch vụ là cam kết về dịch vụ trong Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ và cam kết gia nhập WTO của nước ta. Hoa Kỳ và nhiều thành viên của WTO đều là những quốc gia có các ngành dịch vụ mạnh và có nhiều lợi ích thu được từ thương mại dịch vụ. Vì thế những cam kết về dịch vụ mang tính thực tiễn cao. Theo lộ trình cam kết vứi Hoa Kỳ, Từ năm 2002 ta đã thực hiện nhiều cam kết tự do hoá thương mại và từ năm 2012, ta đã phải tự do hoá thương mại dịch vụ một cách đáng kể. Trong bối cảnh đàm phán gia nhập WTO hiện nay với mục tiêu vài WTO trong năm 2005, các thành viên WTO chắc chắn đòi hỏi ta phải chấp nhận về cơ bản việc dành các cam kêt trong Hiệp định Thương mại cho họ. Vì thế, thời điểm 2012 cũng là thời điểm tự do hoá đáng kể về thương mại dịch vụ trong khuôn khổ WTO.
Như vậy, nhìn nhận về cách tiếp cận tự do hoá thương mại dịch vụ đặt trong bối cảnh hội nhập thì rõ ràng là ta tiếp cận tự do hoá bắt đầu từ cấp độ song phương với một đối tác lớn là Hoa Kỳ. Do đó không phải ngẫu nhiên mà trong trường hợp tự do hoá thương mại dịch vụ, lại có nhiều nước yêu cầu ta dành cho họ sự đối xử như vậy. Ta phải chấp nhậ thực tế này. Đây cần được xem là cơ sở cho việc điều chỉnh phương pháp tiếp cận trong lộ trình hội nhập quốc tế. Cụ thể:
+ Củng cố các mục tiêu tự do hoá và bảo hộ trong các ngành dịch vụ trong giai đoạn 2003-2012 lấy các cam kết trong Hiệp định Thương mại làm cơ sở. Năm 2012 sẽ tự do hoá một cách đáng kể các ngành dịch vụ;
+ Ưu tiên xúc tiến thương mại dịch vụ trong khuôn khổ đa phương trong đó chú trọng đàm phán gia nhập WTO và áp dụng từng bước cam kết đó đối với thể chế khu vực để đảm bảo sự thống nhất chung;
+ Tiến hành đồng thời cam kết tự do hoá về dịch vụ với các đối tác nền kinh tế phát triển, nhất là trong cuộc đàm phán gia nhập WTO để tạo sự cân bằng về lợi ích thương mại;
5 Thanh tra kiểm tra, quản lý thị trường
Để khắc phục những khó khăn hiện nay của thanh tra kiểm tra và quản lý thị trường về thương mại dịch vụ, đề tài xin kiến nghị một số giải pháp sau:
Để khắc phục sự thiếu hụt trong lực lượng thanh tra ngoài việc bổ sung thêm thanh tra viên còn cần phải nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, tăng cường hiệu quả công tác thanh tra kiểm tra.
Cần cung cấp thêm thiết bị chuyên môn và hỗ trợ kinh phí cho các cơ quan thanh tra kiểm tra và quản lý thị trường để có đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ.
Kết luận
Trên đây, tôi đã trình bày những phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực thương mại dịch vụ chủ yếu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Thông qua đó để thấy được những kết quả cũng như những tồn tại trong công tác quản lý , và đưa ra một số giải pháp khắc phục.
Mục đích của việc làm trên không có gì khác hơn là nhằm thực hiện được những điều sau:
Nêu lên kết quả đạt được của quản lý nhà đối với một số lĩnh vực thương mại dịch vụ chủ yếu.
Nêu lên một số tồn tại của quản lý nhà nước về thương mại dịch vụ và đưa ra một số kiến nghị để góp phần khắc phục những khó khăn trên.
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất hiệu quả của thầy hướng dẫn TS Ngô Xuân Bình và TS Lưu Đức Hải (Viện Chiến lược phát triển) cùng các cô chú trong Ban Công nghiệp Thương mại Dịch vụ, các thầy cô và các bạn.
Do lần đầu tiên thực hiện đề tài nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy Ngô Xuân Bình và TS Lưu Đức Hải, các thầy cô khác và các bạn đọc
Xin chân thành cảm ơn!
Hà nội ngày 19 tháng 5 năm 2003
Danh mục tài liệu tham khảo
Bộ Thương mại (2002), Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam
Đào Tiến Quý , Quản lý nhà nước về kinh tế dịch vụ
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, Dự án VIE/95/015, Môi trường dịch vụ của Việt Nam: Những lĩnh vực dịch vụ được ưu tiên trong ASEAN
Chương trình phát triển dự án Mêkông (1998), Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh ở Việt Nam
Nhà xuất bản chính trị quốc gia (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Trường đại học Thương mại (2002), Giáo trình Kinh tế thương mại
Viện nghiên cứu Thương mại (2003), Mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch trong chính sách phát triển thương mại Việt Nam trên con đường hội nhập khu vực và thế giới.
Phụ lục 1
Môi trường đầu tư còn hạn chế:
Hạn chế về Chiến lược phát triển:
Dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch lữ hành, điều hành tour du lịch:
Việc cho phép tất cả các thành phần kinh tế có thể lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ với điều kiện rất thông thoáng cùng với việc cạnh tranh gay gắt đã khiến sự phát triển của ngành Du lịch Việt Nam trở nên lộn xộn thiếu tính định hướng,thiếu sự liên kết. Kết quả của sự thiếu liên kết, định hướng hiện nay là hầu hết các công ty du lịch Việt Nam không thể vươn ra thị trường thế giới, đặc biệt là trong việc tổ chức các chuyến du lịch cho khách nước ngoài vào Việt Nam. Các hãng lữ hành Việt Nam chủ yếu dựa vào nguồn khách do các công ty nước ngoài gửi. Thậm chí trong nhiều trường hợp các công ty du lịch nước ngoài cung cấp cả các dịch vụ cho khách du lịch trên thị trường Việt Nam ( hiện nay 90% lượng khách Hàn Quốc vào Việt Nam là do các công ty Hàn Quốc tổ chức, nhiều công ty Việt Nam chỉ còn hưởng phí dịch vụ visa, thậm chí hướng dẫn viên cũng là người nước ngoài một điều trái với quy định pháp luật).
Dịch vụ khách sạn
Ngoại trừ một số khách sạn lớn, có tên tuổi có khả năng khai thác khách thông qua hệ thống “ chuỗi” khách sạn của mình trên thế giới ( ví dụ khách sạn Hilton), hầu hết các khách sạn của Việt Nam hiện nay hoạt động đơn lẻ, thiếu và không có khả năng đưa ra chiến lược khai thác khách dài hạn.
Dịch vụ nhà hàng
Các nhà hàng của ta hầu hết đều mới chỉ có khả năng đáp ứng nhu cầu của khách trong nước, các nhà hàng ở những khu du lịch lơn cũng thường hướng vào nhóm du khách nước ngoài. Tuy nhiên chúng ta chưa có những nhà hàng có thể đáp ứng các nhu cầu đặc biệt, đa dạng của du khách. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng thu hút khách du lịch.
Dịch vụ bảo hiểm
Do nguồn vốn nhỏ, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam rất khó vươn ra cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp bao hiểm Việt Nam hiện nay có chiến lược tập trung chủ yếu vào thị trường trong nước, còn hoạt động quốc tế mới chỉ giới hạn chủ yếu trong các lĩnh vực như tái bảo hiểm, đại lý giám định.
Hạn chế tiếp cận thị trường
Dịch vụ du lịch
- Khách sạn nhà hàng: Theo Thông tư 215UB/LXT ngày 8/2/1995 hướng dẫn đầu tư vào lĩnh vực xây dựng khác sạn, nhà hàng, Việt Nam cho phép nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư vào lĩnh vực này theo hình thức liên doanh( hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài chỉ được phép đầu tư trong trường hợp rất đặc biệt),tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu 3 sao, và vốn góp của bên Việt Nam ít nhất là 30% vốn pháp định, tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài không quá 70% . Trong quá trình kinh doanh, các bên phải thực hiện việc tăng dần tỷ lệ vốn góp của phía Việt Nam.
- Kinh doanh nhà hàng: Nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép kinh doanh nhà hàng đi kèm với hình thức đầu tư kinh doanh khách sạn, không được đầu tư xây dựng và kinh doanh nhà hàng.
- Lữ hành: Nhà đầu tư nước ngoài chỉ có thể cung cấp dịch vụ thông qua liên doanh với một công ty trong nước, với các điều kiện sau:
Thời hạn kinh doanh từ 7 dến 10 năm nếu vốn pháp định từ 1 đến 1,5 triệu USD. Thời hạn liên doanh tối đa là 15 năm đối với vốn pháp định từ 1,5 đến 2 triệu USD.
Vốn góp của bên nước ngoài không quá 49% vốn pháp định
Vốn pháp định tối thiểu là 1 triệu USD.
Không được phép kinh doanh lữ hành nội địa.
Phạm vi hoạt động : (i) tăng cường công tác quảng bá, giới thiệu sản phẩm du lịch Việt Nam ra thị trường khách thế giới để thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam.
(ii) chỉ đưa dón khách quốc tế vào Việt Nam và người nước ngoài từ Việt Nam đi du lịch nước khác.
(iii) không được phép kinh doanh lữ hành nội địa.
(iv) không được tổ chức đưa công dân Việt Nam đi du lịch nước ngoài
(v) không cho phép liên doanh lữ hành trở thành liên doanh đa năng, tổng hợp, chệch mục tiêu liên doanh.
Dịch vụ Tài chính
Dịch vụ bảo hiểm
Dịch vụ cung cấp qua biên giới
Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài chỉ được phép cung cấp từ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam các dịch vụ sau:
Tái bảo hiểm;
Bảo hiểm hàng hoá xuất, nhập khẩu;
Môi giới bảo hiểm;
Môi giới tái bảo hiểm;
Dịch vụ sử dụng ngoài lãnh thổ
Tổ chức và cá nhân Việt Nam không được phép mua bảo hiểm tại nước ngoài cho những rủi ro phát sinh tại Việt Nam ( trừ những nội dung thuộc điểm b.1 nêu trên) và chỉ có người nước ngoài làm việc tại Việt Nam được phép mua bảo hiểm ở nước ngoài.
Sự hiện diện thương mại
Theo Nghị định 82/CP ngày 2/8/1994, Nghị định 100/CP, và Thông tư 26/1998/TT-BTC ngày 4/3/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định 100/CP, các công ty bảo hiểm, công ty môi giới nước ngoài có thể hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức sau:
Công ty liên doanh bảo hiểm;
Chi nhánh của tổ chức bảo hiểm nước ngoài;
Công ty bảo hiểm 100% vốn của nước ngoài;
Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm;
Chi nhánh của tổ chức môi giới bảo hiểm nước ngoài;
Công ty môi giới bảo hiểm 100% vốn nước ngoài;
Các dịch vụ tài chính
a. Dịch vụ cung cấp qua biên giới
Doanh nghiệp Nhà nước vay vốn nước ngoài tự trả phải có hoạt động kinh doanh lành mạnh, có luận chứng kinh tế kỹ thuật được các cấp thẩm quyền duyệt và phải được Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cho phép. Các ngân hàng thương mại có thể vay vốn nước ngoài nhưng phải được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt hạn mức. Nếu cần bảo lãnh thì phải được các tổ chức duyệt cuối cùng ( Quy chế quản lý vay và trả nợ nươc ngoài kèm theo Nghị định 58/CP ngày 30/8/1993 của Chính phủ và Quy chê bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài ban hành kèm theo Quyết định 23/QĐ/NH14 ngày 21/2/1994 của Ngân hàng Nhà nước ).
Các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở tài khoản tiền gửi tại nước ngoài nếu được Ngân hàng Nhà nước cho phép, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nươc ngoài được mở tài khoản ở nước ngoài để tiếp nhận vốn.
b. Hiện diện thương mại
Các tổ chức tín dụng nước ngoài ở Việt Nam được hiện diện đưới hình thức các văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài hay liên doanh. Căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế trong nước Ngân hàng Nhà nước sẽ cho phép tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam . Thời gian hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh tại Việt Nam không quá 20 năm. Trong trường hợp gia hạn phải được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước và thời hạn không quá thời hạn cấp phép lần đầu ( Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Quyết định 228/QĐ-NHNN ngày 2/12/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về các tổ chức tín dụng Việt Nam gọi vốn cổ phần từ các cổ đông).
Các tổ chức tín dụng xin mở văn phòng đại diện tại Việt Nam phải được thành lập và có giấy phép hoạt động phù hợp luật pháp của nguyên quốc, là tổ chức tín dụng có uy tín và hoạt động trên 5 năm .
Các tổ chức tín dụng xin mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam phải đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam, có cam kết của ngân hàng mẹ, vốn được cấp phải trên 15 triệu USD, và ngân hàng mẹ phải hoạt dộng trên 5 năm.
Các tổ chức tín dụng nước ngoài xin thành lập ngân hàng liên doanh phải hội đủ các diều kiện sau: phải có vốn tham gia liên doanh tối thiểu là 10 triệu USD, có dự án hoạt động trong 2 năm.
Các công ty cho thuê tài chính khi xin giấy phép hoạt động tại Việt Nam phải là tổ chức có uy tín, hoạt dộng ít nhất là 3 năm liên tục có lãi, phải thành lập công ty cho thuê tài chính độc lập và vốn nước ngoài tối thiểu là 5 triệu USD. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước sẽ căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế mà cấp phép cho các công ty thuê mua này.
Tỷ lệ góp vốn của cổ đông nước ngoài là pháp nhân hay thể nhânlà 10% và tổng số vốn góp của tất cả cổ dông nước ngoài tối đa là 30%. Các cổ đông nước ngoài chỉ chuyển nhượng cổ phần sau 5 năm góp vốn trừ trường hợp thừa kế. Cổ đông nước ngoài chỉ được tham gia hội đồng quản trị tương đương với số vốn góp và không được giữ chức chức Chủ tịch hội đồng Quản trị. Cổ đông nước ngoài không được tham gia và Hội đồng quản trị của quá hai tổ chức tín dụng.Cổ đông nước ngoài không được vừa đại diện cho tổ chức tín dụng nước ngoài vừa đại diện cho bên nước ngoài tại một tổ chức tín dụng Việt Nam. ( Nghị định 189/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng- nay là Chính phủ ngày 15/6/1991).
Dịch vụ viễn thông
Sự hiện diện thương mại.Theo qui chế đặt và hoạt động của văn phòng đại diện tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 82/CP ngày 2/8/1994 của Chính phủ, Nghị định số 10/1998 Nghị định- Chính phủ ngày 23/1/1998 của Chính phủ, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được vào thị trường Việt Nam theo hai hình thức : Văn phòng đại diện và hợp đồng hợp tác kịnh doanh .
Với lý do gắn với vấn đề an ninh trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông, Việt Nam vẫn duy trì sự độc quyền Nhà nước trong việc khai thác và cung cấp dịch vụ viễn thông. Hình thức đầu tư cao nhất cho khai thác chỉ là hợp đồng kinh doanh. Trong các hợp đồng này, việc quản lý điều hành mạng và dịch vụ viễn thông hoàn toàn do phía Việt Nam tự chủ, tuân thủ cơ chế hiện hành về giá cả, thị trường của Nhà nước không có ngoài việc các đơn vị có thể cung cấp dịch vụ sau khi kí kết hợp kinh doanh với Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam để chỉ định cổng vào, các đơn vị này phải sử dụng mạng hay đường trục của Tổng công ty Bưu chính vĩên thông Vịêt Nam.
Đãi ngộ quốc gia:
Đối với dịch vụ du lịch
Trong khuôn khổ Hiệp định Khung về Dịch vụ ASEAN, ở vòng đàm phán đầu các nước thành viên ASEAN cam kết dành cho nhau đối xử trong 7 lĩnh vực như dịch vụ viễn thông, xây dựng, hàng hải, vân tải hàng không, tài chính, du lịch và dịch vụ kinh doanh.
Cho đến nay Việt Nam đã đưa ra cam kết về một số dịch vụ trong lĩnh vực dịch vụ là viễn thông và du lịch nhưng Việt Nam chưa cam kết dành đãi ngộ quốc gia cho các nước thành viên ASEAN.
Đối với dịch vụ tài chính
Dịch vụ bảo hiểm
Dịch vụ cung cấp qua biên giới:
Theo Thông tư 78, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải mua một tỷ lệ tối thiểu tái bảo hiểm tại Công ty Tái bảo hiểm quốc gia
Hiện diện thương mại:
Theo Nghị định 100/CP, yêu cầu về vốn pháp định của các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài cao hốn với các doan nghiệp trong nước, cụ thể:
Các công ty liên doanh bảo hiểm: 2 triệu USD;
Chi nhánh của tổ chức bảo hiểm nước ngoài và công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài: 5 triệu USD;
Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm: 100.000USD;
Chi nhánh của tổ chức môi giới bảo hiểm 100% vốn nước ngoài: 300.000USD;
Dịch vụ tài chính
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh không được nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất, chỉ được thực hiện bảo lãnh đối với các đối tượng là tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia đấu thầu các dự án tại Việt Nam và cho vay đối với đối tượng này để thực hiện các dự án trúng thầu tại Việt Nam. ( Luật đất đai, quyết định 217/QĐ-HN4 ngày 17/8/1996 về quy chế cầm cố tài sản và bảo lãnh vay ngân hàng ).
Các dịch vụ cụ thể:
Dịch vụ nhận gửi tiền:
Dịch vụ sử dụng ngoài lãnh thổ: Các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở và gửi tiền tại tài khoản ở nước ngoài khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở tài khoản tại nước ngoài để nhận vốn vay từ nước ngoài.
Hiện diện thương mại: Chỉ có các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh mới được cung cấp dịch vụ nhận gửi tiền. Các chi nhánh nước ngoài và liên doanh được nhận tiền đồng không kỳ hạn của các cá nhân và các pháp nhân là tổ chức Việt Nam với hạn mức tói đa là 25% vốn của ngân hàng nguyên xứ cấp.( Quyết định 300/QĐ-NH5 ngày 13/11/1996 của Ngân hàng Nhà nước).
Dịch vụ cho vay dưới mọi hình thức:
Hiện diện thương mại: Chỉ các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và lien doanh mới có quyền cung cấp dịch vụ cho vay dưới mọi hình thức. Tổng dư nợ đối với một khách hàng không vượt quá 30% tổng dư nợ cho vay. Tổng dư nợ đối với 10 khách hàng lớn nhất không vượt quá 30% tổng số dư nợ cho vay. Tổng nguồn vốn huy động bằng tiền Việt không vượt quá 30% tổng tài sản.
Dịch vụ thuê mua tài chính:
Hiện diện thương mại: Theo Nghị định 64/CP ngày 9/10/1995 về Công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam, các công ty tài chính có thể hiện diện tại Việt Nam theo hình thức công ty liên doanh hay công ty 100% vốn nước ngoài. Đối với công ty cho thuê tài chính liên doanh hay 100% vốn nước ngoài, tổng giá trị tài sản cho thuê đối với một khách hàng không được vượt quá 30% vốn tự có của công ty. Trong trường hợp vượt quá hạn mức phải được ngân hàng Nhà nước cho phép. Thời gian cho thuê một loại tài sản ít nhất bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản cho thuê. Công ty cho thuê tài chính không được phép sử dụng 25% vốn điều lệ để mua sắm tài sản cố định. Nguồn vốn đi vay không được quá 20 lần vốn tự có. Công ty cho thuê tài chính không được phép huy động tiền gửi dưới mọi hình thức.
Dịch vụ bảo lãnh và cam kết:
Theo Quyết định 23QĐ-NH4 ngày 21/9/1994 về quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài, ngân hàng cunh cấp dịch vụ bảo lãnh phải lập quỹ bảo lãnh và tái bảo lãnh. Tổng mức bảo lãnh và tái bảo lãnh không được vượt 20 lần số tiền quỹ. Tổng số tiền nhận bảo lãnh tái bảo lãnh cho một khách hàng không được vượt quá 10% tổng giá trị bảo lãnh và tổng giá trị bảo lãnh cho 10 khách hàng lớn nhất không được vượt quá 30% tổng mức bảo lãnh của ngân hàng nhận bảo lãnh. Trong trường hợp vượt quá hạn mức cho phép phải được chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước.
Kinh doanh bằng tài khoản của mình hoặc thay mặt khách hàng.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài hay ngân hàng liên doanh phải có giấy phép kinh doanh ngoại hối mới được phép kinh doanh ngoại hối. Biên độ giao động của tỷ giá và tỷ giá chính thức ngoại hối do Ngân hàng Nhà nước quy định. Ngân hàng Nhà nước quy định về biên độ giao động và thời hạn của các dịch vụ ngoại hối như SWAP và FORWARD. Ngân hàng nước ngoài được phép tham gia vào thị trường liên ngân hàng và mua bán tín phiếu: tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước cho phép, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, đấu thầu tín phiếu kho bạc. Giá mua bán tín phiếu do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Kinh doanh chứng khoán:
Cổ phần của cổ đông nước ngoài do Thủ tướng Chính phủ quýet dịnh nhưng hiện nay theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tỷ lệ này không được dười 30% tổng số phiếu và trái phiếu của các cá nhân và tổ chức nước ngoài nắm giữ trong các tổ chức phát hành do Thủ tướng Chính phủ quy định;
Các tổ chức phát hành cổ phiếu và trái phiếu phải có vón điều lệ lúc xin phép từ 10 tỷ đồng trở lên. Các tổ chức phát hành cổ phiếu và trái phiếu phải bán tối thiểu 20% cổ phần cho trên 100 người ngoài tổ chức phát hành, trường hợp vốn cổ phần trên 100 tỷ thì tỷ lệ này là 15% vốn của tổ chức phát hành. Trường hợp cổ phiếu phát hành tổng giá trị theo mệnh giá trên 10 tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành. Các tổ chức phát hành phải có hoạt động có lãi trong 2 năm liền
Dịch vụ viễn thông
Đối với hoạt động kinh doanh viễn thông chưa có quy định về đãi ngộ quốc gia.
Rào cản gia nhập:
Dịch vụ bảo hiểm
Điều kiện được xét cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm:
Có mục tiêu và lĩnh vực hoạt động kinh doanh rõ ràng;
Có số vốn điều lệ ít nhất bằng vốn pháp dịnh;
Có trụ sở phù hợp với hoạt động kinh doanh;
Người điều hành có chức năng quản lý, nghiệp vụ chuyên môn về bảo hiểm;
Nền kinh tế thực sự có nhu cầu về loại nghiệp vụ bảo hiểm đó;
Ngoài ra:
Đối với công ty liên doanh bảo hiểm và công ty liên doanh môi giới bảo hiểm:
Các bên tham gia liên doanh phải là tổ chức kinh tế đang hoạt động hợp pháp;
Các bên tham gia liên doanh phải là tổ chức kinh tế đang ở trong trạng thái tài chính bình thường;
Đối với chi nhánh của tổ chức bảo hiểm nước ngoài, chi nhánh của mọi tổ chức môi giới bảo hiểm nước ngoài, công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam:
Là tổ chức đang hoạt dộng hợp pháp ở nguyên xứ;
Là tổ chức đang trong tình trạng tài chính bình thường;
Dịch vụ tài chính
Hạn chế về điều kiện xét cấp giấy phép thành lập và hoạt động:
Điều kiện đối với tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài
Các điều kiện chung với các tổ chức tín dụng Việt Nam
Có nhu cầu hoạt động ngân hàng trên địa bàn hoạt động;
Đáp ứng yêu cầu về vốn;
Vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài không dưới 15 triệu USD
Vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh không dưới 10 triệu USD
Vốn pháp định của công ty cho thuê tài chính liên doanh và cồg ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là 5 triệu USD.
Các điều kiện khác
Được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép thực hiện các hoạt động ngân hàng;
Được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép hoạt động tại Việt Nam;
Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Có nhu cầu hoạt động ngân hàng trên địa bàn hoạt động;
Đáp ứng yêu cầu về vốn;
Người quản trị, đièu hàn có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và trình độ chuyên môn phù hợp với từng loại hình tổ chức tín dụng;
Điều kiện để được đăng ký hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam
Kinh doanh liên tục 3 năm có lãi;
Phải thành lập công ty cho thuê tài chính độc lập theo các quy định của pháp luật;
Điều kiện để được cấp giấy phép mở văn phòng đại diện
Tổ chức tín dụng nước ngoài là pháp nhân được phép hoạt động ngân hàng ở nước ngoài;
Được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép mở văn phòng đại diện ở Việt Nam;
Tổ chức tín dụng nước ngoài có quan hệ hợp tác với các tổ chức kinh tế Việt Nam;
`Chứng khoán
Hạn chế về điều kiện cấp giấy phép hoạt động
Có phương án kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội và phát triển của ngành chứng khoán;
Có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán;
Có đủ mức vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh:
Môi giới : 3 tỷ VNĐ
Tự doanh; 12 tỷ VNĐ
Quản lý danh mục đầu tư: 3 tỷ VNĐ
Bảo lãnh phát hành: 22 tỷ VNĐ
Tư vấn đầu tư chứng khoán: 3 tỷ VND
Trường hợp công ty chứng khoán xin cấp giấy phép cho nhiều loại hình kinh doanh thì vốn pháp định là tổng số vốn pháp định của những loại trên.
Giám đốc và các nhân viên kinh doanh của công ty phải có giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán do Uỷ Ban chứng khoán Nhà nước cấp.
Phụ lục 2
Danh sách các văn bản quan trọng liên quan tới các nhóm dịch vụ trong đề tài
I. Các văn bản chung
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 9/6/2000.
Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Nghị định số 45/2000/NĐ-CP ngày 06/9/2000 của Chính phủ về văn phòng đại diện, chin nhánh của thương nhân nước ngoài
Thông tư 20/2000/TTLT-BTM-TCDL ngày 20/10/2000 hướng dẫn thi hành Nghị định 45/CP
chỉ thị số 28/2001/CT-TTg ngày 28/11/2001 của Thủ tướng vè việc tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp
Quyết định 189/2000/QĐ/BTC ban hành qui định mức phí cho thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng cho các doanh nghiệp có vón đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 24/11/2000
II. Các văn bản liên quan tới dịch vụ viễn thông
Nghị định số 109/97/NĐ-CP ban hành ngày 12/11/1997 quy định toàn bộ các quan hệ về Bưu chính và Viễn thông nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, phát triển nhanh và khai thác có hiệu quả mạng lưới và các dịch vụ bưu chính viễn thông để thoả mãn thông tin liên lạc của toàn xã hội.
Quyết định số 85/1998/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện của Việt Nam cho các nghiệp vụ.
Quyết định số 99/1998/QĐ-TTg về quản lý giá và cước bưu chính, viễn thông
Quyết định 547/1998/QĐ-TCBĐ về việc ban hành Quy định tạm thời việc kết nối các mạng viễn thông công cộng của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông
Thông tư số 01/1998/TT-TCBĐ về công tác quản lý chất lượng vật tư, thiết bị, mạng lưới và dịch vụ bưu chính, viễn thông.
Thông tư số 04/1998/TT-TCBĐ về mạng lưới và dịch vụ viễn thông.
Thông tư số 03/1999/TT-TCBĐ về quản lý giá và cước bưu chính, viễn thông.
Quyết định 679/1997/QĐ-TCBĐ về việc ban hành thể lệ dịch vụ Internet.
III. Các văn bản liên quan tới dịch vụ Tài chính
Luật Ngân hàng Nhà nước
Luật các tổ chức tín dụng
Nghị định 198/HĐBT ngày 15/06/1991 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quy chế chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam.
Nghị định 196/QĐ-NH14 ngày 16/09/1994 của Ngân hàng nhà nước.
Nghị định 23/QĐ-NH14 ngày 21/02/1994 của Ngân hàng nhà nước.
Nghị đinh 13/1999/NĐ-CP ngày 17/3/1999 về tổ chức, hoatj động của tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam
Quyết định 492/2000/QĐ-NHNN ngày 28/11/2002 ban hành qui chế góp vốn và mua cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngoài
Quyết định 1472/2001/QĐ-NHNN ngày 23/11/2001 về dự trữ ngoại tệ bắt buộc
Quyết định 424/1999/QĐ-NHNN ngày 30/11/1999 về sửa đổi, bổ sung nội dung hoạt động của các ngân hàng liên doanh
Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Quyết định số 05/1999/QĐ-UBCK3 ngày 27/3/1999 của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khán Nhà nước về việc ban hành Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán
IV. Các văn bản liên quan tới dịch vụ bảo hiểm
Luật kinh doanh bảo hiểm (9/12/2000)
Thông tư 71/2001/TT-BTC ngày 28/8/2001 vè hướng dẫn của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm
Thông tư 71/2001/TT-BTC về hướng dẫn Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2002 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm
Thông tư 78/1998/TT-BTC ngày 9/6/1998 Thông tư qui định về hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm
V. Các văn bản liên quan tới dịch vụ du lịch
Pháp lệnh Du lịch do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 08/02/1999.
Nghị định số 53/CP của Chính phủ ngày 07/08/1995 về cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch.
Ngày 22/07/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 97/2002/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Du lịch Việt Nam 2001-2010.
Thông tư 215/UB-LXT ngày 08/02/1995 hướng dẫn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Nghị định số 39/2000/NĐ-Cp ngày 24/08/2000 về cơ sở lưu trú du lịch.
Nghị định số 27/2001/NĐ-Cp ngày 05/06/2001 về kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch.
Quy chế quản lý lữ hành của TCDL ngày 29/04/1995.
Công văn số 972/TCDL ngày 25/08/1997 về liên doanh lữ hành quốc tế.
Quy định liên bộ GTVT-TCDL về quản lý vận chuyển khách du lịch đường bộ, đường thuỷ ngày 04/12/1993 ban hành kèm thao Quyết định số 2418-QĐ/LB của liên bộ GTVT-TCDL ngày 04/12/1993.
Cộng hoà - Xã hội - Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
******
Nhận xét về quá trình thực tập
Sinh viên Nguyễn Thị Thu Hà- Khoa kinh tế, lớp K35-F1- Trường Đại học Thương Mại về thực tập tại Viện Chiến lược phát triển từ tháng 15/1 đến 15/5. Trong thời gian thực tập sinh viên chấp hành tốt nội quy kỷ luật của Viện đề ra.
- Có tinh thần cố gắng tìm tòi học hỏi tại Viện Chiến lược phát triển
- Những vấn đề sinh viên nêu ra là sát thực tế.
Vậy đề nghị Nhà trường và Thầy giáo hướng dẫn giúp đỡ để sinhviên hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
W
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4029.doc