Đề tài Một số giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Nguồn cung ứng nội bộ là phương thức tự cấp vốn của doanh nghiệp. Một là, nguồn khấu hao tài sản cố định. Trong qúa trình sử dụng thì tài sản cố định chuyển dần giá trị vào thành phẩm dưới hình thức khấu hao. Số khấu hao này được sử dụng để khôi phục tài sản cố định nhằm tái sản xuất hoặc sử dụng cho các yêu cầu kinh doanh của doanh ghiệp. Doanh nghiệp trích khấu hao theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp cả hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình của tài sản. Hai là, từ các khoản doanh nghiệp phải nộp ngân sách nhưng được nhà nước cho phép để lại doanh nghiệp bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh. Ba là, tích luỹ tái đầu tư, đây là phần lợi nhuận không chia để lại doanh nghiệp nhằc mục đích đầu tư phát triển sản xuất. Có thể nói rằng phần này được các doanh nghiệp coi là nguồn tự cung ứng tài chính quan trọng vì nó có các ưu điểm cơ bản sau: doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động, giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng, giúp doanh nghiệp tăng tiềm lực tài chính nhờ giảm tỷ lệ nợ/vốn.Bốn là, điều chỉnh cơ cấu tài sản, phương thức này tuy không làm tăng số vốn sản xuất kinh doanh nhưng lại có tác dụng lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. Do môi trường kinh doanh thường xuyên biến động, nhiệm vụ kinh doanh thay đổi nên trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa tài sản này nhưng lại thiếu loại tài sản khác. Điều chỉnh cơ cấu tài sản chính là việc kịp thời có giải pháp bán các tài sản dư thừa, không sử dụng đến, phải trên cơ sở thường xuyên kiểm tra tính toán và xác định lại mức tài sản lưu động trên cơ sở ứng dụng mô hình dự trữ tối ưu nhằm giảm lượng lưu kho tài sản lưu động không cần thiết, đảm bảo lượng lưu kho mỗi loại tài sản lưu động hợp lý.

doc26 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1041 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i sản. Hai là, từ các khoản doanh nghiệp phải nộp ngân sách nhưng được nhà nước cho phép để lại doanh nghiệp bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh. Ba là, tích luỹ tái đầu tư, đây là phần lợi nhuận không chia để lại doanh nghiệp nhằc mục đích đầu tư phát triển sản xuất. Có thể nói rằng phần này được các doanh nghiệp coi là nguồn tự cung ứng tài chính quan trọng vì nó có các ưu điểm cơ bản sau: doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động, giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng, giúp doanh nghiệp tăng tiềm lực tài chính nhờ giảm tỷ lệ nợ/vốn....Bốn là, điều chỉnh cơ cấu tài sản, phương thức này tuy không làm tăng số vốn sản xuất kinh doanh nhưng lại có tác dụng lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. Do môi trường kinh doanh thường xuyên biến động, nhiệm vụ kinh doanh thay đổi nên trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa tài sản này nhưng lại thiếu loại tài sản khác. Điều chỉnh cơ cấu tài sản chính là việc kịp thời có giải pháp bán các tài sản dư thừa, không sử dụng đến, phải trên cơ sở thường xuyên kiểm tra tính toán và xác định lại mức tài sản lưu động trên cơ sở ứng dụng mô hình dự trữ tối ưu nhằm giảm lượng lưu kho tài sản lưu động không cần thiết, đảm bảo lượng lưu kho mỗi loại tài sản lưu động hợp lý. Huy động từ nguồn cung ứng nội bộ có ưu điểm lớn là hoàn toàn do doanh nghiệp chủ động, không bị phụ thuộc vào bên ngoài, doanh nghiệp có toàn quyền sử dụng trong dài hạn với chi phí sử dụng vốn thấp. Mặt khác, sự nỗ lực tự cung ứng luôn được coi là một yếu tố để người cấp vốn bên ngoài xem xét khả năng cho vay vốn. Tuy nhiên tự cung ứng vốn cũng có hạn chế cơ bản là qui mô cung ứng vốn nhỏ và nguồn bổ sung luôn có giới hạn. Huy động vốn từ bên ngoài có thể qua các phương thức sau: Thứ nhất là từ ngân sách nhà nước, hiện nay vốn từ ngân sách nhà nước đối với các DNNN càng bị thu hẹp cả về quy mô của vốn và phạm vi được cấp vốn. Đối tượng được cung cấp vốn theo hình thức này hiện nay phải là các DNNN đóng vai trò công cụ điều tiết kinh tế, các lĩnh vực sản xuất hàng hoá công cộng , hoạt động công ích mà tư nhân không muốn hoặc không có khả năng đầu tư, các dự án có tầm quan trọng đặc biệt do Nhà nước trực tiếp đầu tư. Thứ hai là phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường. Đây là phương thức đang được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên không phải mọi doanh nghiệp được phép khai thác nguồn vốn này mà chỉ những doanh nghiệp được phát hành cổ phiếu, trái phiếu do Nhà nước quy định. Hình thức phát hành cổ phiếu có đặc trưng cơ bản là tăng vốn mà không làm tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp. Thứ ba, là vay vốn của các ngân hàng thương mại, hiện tại phương thức này cung ứng một lượng vốn lớn cho DNNN. Bên cạnh đó để thực hiện hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục ngặt nghèo. Trong quá trình sử dụng vốn doanh nghiệp phải tính toán trả nợ ngân hàng theo đúng tiến độ kế hoạch. Mặt khác doanh nghiệp vay vốn ngân hang thương mại có thể bị ngân hàng thương mại đòi quyền kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian cho vay. Thứ tư, là tín dụng thương mại từ nhà cung cấp, đó là hình thức chiếm dụng hợp pháp vốn của các nhà cung ứng và của khách hàng. Có các hình thức tín dụng thương mại chủ yếu là: doanh nghiệp mua máy móc, thiết bị theo phương thức trả chậm . Vốn khách hàng ứng trước. Tuy nhiên, kinh doanh trong nền kinh tế hiện nay đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán, cân nhắc cẩn thận vì không phải chỉ tồn tại lượng vốn nhất định khách hàng đặt cọc trước mà bên cạnh đó lại tồn tại lượng tiền khách hàng chiếm dụng lại khi mua hàng của doanh nghiệp nhiều khi là rất lớn. Thứ năm, là tín dụng thuê mua. Hiện nay có hai hình thức chủ yếu là thuê tài chính và thuê hoạt động. Trong kinh tế thị trường phương thức tín dụng thuê mua được thực hiện giữa một doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ biến. Thứ sáu là, doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua liên doanh, liên kết với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Phương thức này sẽ huy động được một lượng vốn lớn cần thiết cho một số hoạt động nào đó mà không làm tăng nợ, nhưng phương thức này cũng có những hạn chế nhất định, chẳng hạn như phải chia sẻ lợi nhuận cho bên liên doanh . Ngoài ra doanh nghiệp có thể huy động vốn nước ngoài khác như vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các tổ chức và cá nhân nước ngoài hay thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và nguồn vốn ODA. Huy động vốn từ bên ngoài tuy cung cấp một lượng vốn lớn cho doanh nghiệp. Nhưng lại hạn chế tính chủ động của doanh nghiệp và doanh nghiệp một phần chịu sự kiểm soát trong việc sử dụng vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh. 3. về hiệu quả sử dụng vốn 3.1.quan điểm về sử dụng vốn Để đánh giá trình độ quản trị điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả xản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc độ : hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.Trong phạm vi quản trị doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do đó các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với mỗi doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với mỗi doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và quản trị sử dụng vốn nói riêng. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản trị vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn.... Nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chí phí bỏ ra để thực hiện sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau: - Phải khai thác nguồn vốn một cách triệt để nghĩa là không để vốn nhàn rỗi mà không sử dụng, không sinh lời. - Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm - Phải quản trị vốn một cách chặt chẽ nghĩa là không để vốn bị sử dụng sai mục đích, không để vốn thất thoát do buông lỏng quản trị. Ngoài ra doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản trị và sử dụng vốn. 3.2. các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn 3.2.1.Các chỉ tiêu đánh giá tổnh hợp Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một cách chung nhất người ta thường dùng một số chỉ tiêu tổng quát như: hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn, doanh lợi vốn, doanh lợi vốn chủ sở hữu. Trong đó: Doanh thu Tổng số vốn sử dụng bình quân trongkỳ Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn = Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay của toàn bộ vốn, nó cho biết một đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu, vì vậy nó càng lớn càng tốt. Lợi nhuận Tổng số vốn sử dụng bình quân trong kỳ Doanh lợi vốn = Chỉ tiêu này còn được gọi là tỷ suất lợi nhuận trên vốn. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Nó cho biết một đồng vốn đầu tư đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, trình độ sử dụng vốn của người quản trị doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Tuy nhiên chỉ tiêu này có hạn chế là nó phản ánh một cách phiến diện. Do mẫu số chỉ đề cập đến vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ, trong khi hầu hết các doanh nghiệp nguồn vốn huy động từ bên ngoài chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng nguồn vốn. Do đó nếu chỉ nhìn vào chỉ tiêu này nhiều khi đánh giá thiếu chính xác. Ba chỉ tiêu trên cho ta một cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như tỷ suất thanh toán ngắn hạn, số vòng quay các khoản phải thu.... Tuy nhiên như ta đã biết nguồn vốn của doanh nghiệp được phân làm hai loại là vốn cố định(VCĐ) và vốn lưu động(VLĐ). Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng vốn của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng đến hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguốn vốn của doanh nghiệp đó là VCĐ và VLĐ. 3.2.2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Doanh thu thuần Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ người ta sử dụng những chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng VCĐ = Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong một năm. Lợi nhuận Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ Sức sinh lợi của vốn cố định = Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng VCĐ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng VCĐ là có hiệu quả. Ngoài hai chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng nhiều chỉ tiêu khác để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ như : hệ số đổi mới tài sản cố định, hệ số loại bỏ tài sản cố định.... 3.2.3.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động Doanh thu thuần VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ Khi phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta thường dùng các chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng VLĐ = Chỉ tiêu này cho biết một đồng VLĐ Sử dụng bình quân trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Lợi nhuận VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ Sức sinh lợi của VLĐ = Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng VLĐ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Đồng thời, để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta cũng đặc biệt quan tâm đến tốc độ luân chuyển VLĐ, vì trong quá trình sản xuất kinh doanh,VLĐ không ngừng vận động qua các hình thái khác nhau. Do đó đẩy nhanh tốc độ luân chuyển VLĐ sẽ góp phần giải quyết về nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển VLĐ người ta sử dụng các chỉ tiêu sau: Doanh thu thuần VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ Số vòng quay của VLĐ = Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển VLĐ, nó cho biết VLĐ được quay mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ tăng và ngược lại. Thời gian của một kỳ phân tích Số vòng quay của VLĐ trong kỳ Thời gian của một vòng luân chuyển= Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho VLĐ quay được một vòng, thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của VLĐ càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả hơn. 3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNN trong cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vaò giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có những mục tiêu được ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Trong khi đó yếu tố tác động có tính quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt trong điều kiện hiện nay. Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, DNNN coi nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với “cho không”, nên khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có Nhà nước bù đắp. Điều đó gây ra tình trạng vô chủ trong quản trị và sử dụng vốn dẫn đến lãng phí vốn và hiệu quả kinh doanh thấp. Theo số liệu thống kê cho thấy việc sử dụng tài sản cố định chỉ đạt 50%- 60% công suất thiết kế, phổ biến chỉ hoạt động 1 ca trên ngày, vì vậy hệ số sinh lời của đồng vốn thấp. Khi nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc phải chuyển mình theo cơ chế mới, mới có thể tồn tại và phát triển. Cạnh tranh giữa các DNNN với các thành phần kinh tế khác trở lên gay gắt. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vị trí quan trọng hàng dầu của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Goạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu quả giúp doanh nghệp nâng cao khả năng huy động vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được bảo đảm.... Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Để đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm... doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn, vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là cần thiết. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường , nâng cao đời sống của người lao động. Vì khi hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. II.Khái quát thực trạng tạo vốn và hiệu quả sử dụng trong các DNNN ở Việt nam hiện nay 1.Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường. Trong đường lối cải cách và phát triển của nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước đã khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và do đó các DNNN là lực lượng kinh tế chủ lực, là xương sống cho nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước có thể điều tiết và thúc đẩy gián tiếp vào nền kinh tế thông qua các chính sách vĩ mô hay tác động trực tiếp thông qua các DNNN đầu tư vào các ngành để sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội. DNNN là bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đóng góp nguồn lực tài chính cho Nhà nước. Hiệu quả hoạt động của DNNNcó ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước, trong quá trình hội nhập thương mại với các nước khu vực, với Châu á và thế giới. DNNN có vai trò chủ đạo nhằm đảm bảo sự cân đối, ổn định và bền vững trong phát triển kinh tế, đảm bảo hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, có trách nhiệm khắc phục và hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường. Điều đó có ý nghĩa là DNNN có vai trò chiến lược giữ vững sự cân đối và ổn định trong phát triển kinh tế nhiều thành phần. Vai trò đó được thể hiện qua những điểm sau: Thứ nhất, các DNNN phải giữ được vai trò chủ đạo trong thực tế, nắm giữ các ngành, các lĩnh vực kinh tế có liên quan đến an ninh quốc phòng, các ngành then chốt của nền kinh tế. Thứ hai, các DNNN phải là đòn bẩy, là công cụ mà Nhà nước sử dụng để huy động vốn tập trung vào những ngành mang tính chiến lược của nền kinh tế, tập trung vào những hoạt động chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quản trị... tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế. Thông qua các DNNN cho phép Nhà nước thực hiện các chính sách, các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Thứ ba, các DNNN tham gia tích cực và có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế bằng kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Đối với nước ta hiện nay đóng góp của các DNNN trong GDP đang ở mức khá cao thì hiệu quả hoạt động của các DNNN có tác động rất lớn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Hơn nữa hiện nay khu vực DNNN đang chiếm giữ lượng vốn đầu tư lớn với những trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ và nhân lực có trình độ cao thì hoạt động của các DNNN sẽ là một yếu tố quyết định đến việc hoàn thành những chỉ tiêu kinh tế đã đề ra. Thứ tư, các DNNN là những đơn vị đi đầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong một nền kinh tế lạc hậu với lực lượng sản xuất còn yếu kém như Việt Nam, thì các DNNN được sử dụng như những công cụ trực tiếp nhằm huy động các nguồn lực kỹ thuật để tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời là nhân tố để nâng cao chất lượng sản phẩm hướng tới xuất khẩu nhằm hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Tuy vai trò các DNNN là hết sức quan trọng, nhưng nhìn nhận một cách khách quan thì DNNN chưa đủ tầm để cạnh tranh với nền kinh tế khu vực. 2.Thực trạng vốn, tạo vốn và sử dụng vốn trong các DNNN 2.1.Đánh giá chung 2.1.1. Thời kỳ trước đổi mới kinh tế. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập chung bao cấp, DNNN tồn tại dưới hình thức các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đã hình thành một mạng lưới thống nhất trên khắp địa bàn cả nước, từ trung ương đến cơ sở. Các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực, sản xuất kinh doanh hầu hết mọi sản phẩm hàng hóa, dưới hình thức chỉ tiêu, định mức của nhà nước. Thích ứng với thời kỳ này, vốn của xí nghiệp đều do ngân sách nhà nước cấp. Thực hiện nguyên tắc cấp phát, giao nộp ngân sách, các xí nghiệp không tự khai thác và huy động vốn để đảm bảo vốn kinh doanh, dẫn đến tình trạng các xí nghiệp không quan tâm đến việc bảo toàn và phát triển vốn. Vốn của xí nghiệp thất thoát nghiêm trọng, nhiều xí nghiệp lãi giả, lỗ thật và báo cáo sai lệch trong hạch toán kinh doanh. 2.1.2. Thời kỳ đổi mới kinh tế từ 1986 đến nay. Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản trị điều tiết của nhà nước, các DNNN được tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Từ đây vấn đề vốn trở thành vấn đề sống còn của mỗi DNNN. Trong thời kỳ 1986 – 1990, các DNNN được hình thành trên quy mô rộng lớn cả ở cấp quận huyện và không có sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh ngiệp Trung ương và địa phương. Đến năm 1990, cả nước có 12080 DNNN. Các doanh nghiệp trong thời kỳ này có quy mô nhỏ, vốn ít và công nghệ lạc hậu. Sự dàn trải của các DNNN làm cho nguồn vốn đầu tư của nhà nước không thể tập trung cho các ngành trọng điểm dẫn tới sự thiếu hụt vốn thường xuyên, hiệu quả sử dụng vốn rất thấp. Từ năm 1990 Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách như Nghị định 338/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT, Chỉ thị 500/Ttg...nhằm sắp xếp và tổ chức lại các DNNN. Qua nhiều lần sắp xếp, sát nhập và giải thể, đến nay còn khoảng 5280 DNNN. Các DNNN đã nâng cao hơn trình độ tích tụ và tập trung, tăng qui mô và kinh doanh có hiệu quả hơn. Tuy nhiên hiện nay DNNN đang đứng trước thực trạng yếu kém về nhiều mặt: sức cạnh tranh còn quá yếu kém, qui mô quá nhỏ, thiếu vốn nghiêm trọng, lãi suất kinh doanh bình quân thấp hơn lãi suất ngân hàng, hiệu quả sút kém. Hầu hết các DNNN đang trong tình trạng “đói vốn” trầm trọng. Theo báo cáo tổng kết của Bộ thương mại năm 1998, trên 90% số doanh nghiệp không đủ mức vốn pháp định theo quy định tại Nghị định số 50/Chính phủ ngày 28/8/1996 của Chính phủ. Và ngay tại TP HCM, trong số 169 doanh nghiệp thương mại Nhà nước có tới 70% doanh nghiệp đang trong tình trạng thiếu vốn. Xét chung các DNNN hiện nay có tới 60% số DNNN không đủ vốn pháp định theo qui định tại NĐ 50/CP. Nghiêm trọng hơn là do thiếu vốn nên các DNNN không có khả năng đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện đại hóa công nghệ, không có khả năng cạnh tranh. 2.2.Thực trạng về vốn và huy động vốn trong các DNNN. Trong những năm gần đây vốn ở các DNNN đang có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên qui mô vốn còn nhỏ bé và dàn trải. Năm 1994 vốn bình quân cho một DNNN chỉ khoảng 3,3 tỷ đồng, năm 1996 tăng lên 11 tỷ đồng, năm 1998 tăng lên 18 tỷ đồng và hiện nay khoảng 22 tỷ đồng. Như vậy tốc độ tăng bình quân hàng năm từ năm 1996 đến nay khoảng 19%. So với tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1994 – 1998 có sự giảm sút (giai đoạn 1994 – 1998 tăng bình quân 52,8%) Tồng nguồn vốn kinh doanh của khu vực DNNN năm 1996 khoảng 67.100 tỷ đồng, đến năm 1998 khoảng gần 100.000 tỷ đồng và hiện nay tăng lên gần 117.000 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân hàng năm chỉ đạt dưới 15%. So với giai đoạn 1991-1994 tốc độ tăng bình quân giảm sút nhiều (giai đoạn 1991-1994 tăng bình quân 29%) Đối với tổng công ty nhà nước, vốn nhà nước bình quân của tổng công ty 91 năm 1998 là 3.661 tỷ đồng (tương đương 260 triệu USD). Năm 1999 tăng lên 3900 tỷ đồng (tương đương 280 triệu USD). Năm 1998 trong số 17 tổng công ty 91 có tới 14 tổng công ty (chiếm 82%) có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân. Năm 1999 các tổng công ty nắm giữ 66% về vốn. Trong đó riêng 17 tổng công ty 91 đã chiếm tới 56% tổng số vốn kinh doanh. Với tổng công ty 90 hình thành vốn còn kém xa so với các tổng công ty 91. Hơn 20% số tổng công ty 90 năm 1998 có vốn nhà nước bình quân dưới 100 tỷ đồng, trong đó ở 13 tổng công ty vốn từ ngân sách cấp cho mỗi tổng công ty chỉ được dưới 40 tỷ đồng. Sang năm1999 tình hình cũng không có nhiều tiến triển. Vốn nhà nước bình quân trong các tổng công ty 90 chỉ khoảng dưới 153 tỷ đồng. Như vậy có thể nói vốn trong các tổng công ty hiện nay còn quá nhỏ bé không tương xứng với tầm vóc của nó. Mặc dù qui mô vốn của các DNNN nhỏ bé như vậy, nhưng số vốn lại không tập trung mà dàn trải, manh mún. Lượng vốn phân bổ trong từng doanh nghiệp rất nhỏ bé và không đều. Xét riêng 82 DNNN hoạt động trong lĩnh vực Thương mại do Bộ Thương mại trực tiếp quản lý. Đầu năm 1996 tổng nguồn vốn của 82 doanh nghiệp này chỉ có 2.603 tỷ đồng. Trong đó vốn cố định là 1.123 tỷ đồng, vốn lưu động là 1.480 tỷ đồng, được phân bổ như sau: Bảng phân bổ nguồn vốn của các doanh nghiệp Thương mại Nhà nước năm 1996 STT Số lượng vốn Số lượng doanh nghiệp Tỷ trọng 1 Dưới 1 tỷ đồng 2 2.4% 2 Trên 1 đến 3 tỷ đồng 10 12.2% 3 Trên 3 đến 10 tỷ đồng 43 52.4% 4 Trên 10 đến 50 tỷ đồng 24 29.3% 5 Trên 50 tỷ đồng 3 3.7% Nguồn: về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Thương mại Nhà nước tháng 6/1996. Như vậy, lượng vốn phân bổ cho từng doanh nghiệp rất nhỏ bé và không đồng đều. Có doanh nghiệp vốn chưa đến 1 tỷ đồng. Phần lớn các doanh nghiệp Thương mại Nhà nước có vốn từ 3 đến 10 tỷ đồng, chiếm 52.44%. Chỉ có 3 doanh nghiệp có vốn tương đối khá(Tổng công ty xăng dầu Việt Nam: 1.444 tỷ đồng; Công ty Thương mại và Đầu tư: 234 tỷ đồng; Công ty máy và phụ tùng: 138 tỷ đồng), đang độc chiếm thị trường mà chưa có đối thủ cạnh tranh thực sự. Xét toàn bộ các DNNN năm 1998 và năm 1999 ta thấy lượng vốn phân bổ trong các DNNN có chiều hướng gia tăng. Tuy nhiên nó vẫn còn nhỏ bé và không đều. Điều đó được biểu hiện trong bảng sau: Bảng phân bổ nguồn vốn của các DNNN năm 1998-1999 STT Số lượng vốn Tỷ trọng doanh nghiệp Năm 1998 Năm 1999 1 Dưới 5 tỷ đồng 72,5% 65,45% 2 Từ 5-10 tỷ đồng 7,5% 13,66% 3 Trên 10 tỷ đồng 20% 20,89% (Nguồn: Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 2/2000 và Tạp chí Con số và sự kiện số 6/2000) Qua bảng trên cho thấy, số DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tỷ lệ quá lớn. Năm 1998 chiếm tới 72,5%, năm 1999 mặc dù có giảm nhưng vẫn chiếm 65,45%, trong đó số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm gần 26%. Riêng số DNNN do địa phương trực tiếp quản trị, số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng (tương đương 70.000 USD) chiếm trên 30%. Số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng chiếm một tỷ lệ nhỏ chỉ khoảng 20% năm 1998 và tăng lên 20,89% năm 1999. Quy mô vốn đã nhỏ bé, dàn trải, cơ cấu vốn kinh doanh lại có nhiều bất cập. Năm 1997 vốn nhà nước mới chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu vốn lưu động gây khó khăn cho doanh nghiệp. Trong năm 1997 vốn bình quân mỗi DNNN khoảng trên 17 tỷ đồng, trong đó VLĐ chiếm 20%, nhưng có tới 50% là vật tư ứ đọng, kém phẩm chất, công nợ khó đòi và lỗ, chỉ còn lại 10% cho hoạt động. VCĐ chiếm 80%, nhưng phần lớn là tài sản cố định cũ, lạc hậu năng suất thấp, thiết bị cũ kỹ....Như vậy VLĐ còn thiếu khoảng 20% mới đạt mức tối thiểu về VLĐ hoạt động. VCĐ lại chiếm tỷ lệ quá lớn làm cho đồng vốn bị ứ đọng và quay vòng chậm. Hiện nay vốn thực tế hoạt động của DNNN chỉ đạt 80%. Riêng VLĐ chỉ có 50% được huy động vào kinh doanh, còn lại nằm ở tài sản, vật tư mất mát, kém phẩm chất, công nợ chưa thu hồi được, lỗ chưa được bù đắp. Thực tế hiện nay vốn ngân sách và vốn tự có của DNNN chưa được một nửa mức VLĐ cần thiết. Để duy trì sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải huy động vốn từ bên ngoài, chủ yếu là vay của các tổ chức tín dụng và chiếm dụng vốn lẫn nhau. Năm 1997 vốn đi vay của DNNN đã chiếm tới 85%-90% VLĐ. Trong khi đó, nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách chỉ bằng 8% so với GDP, vốn tự tích luỹ không đáng kể. Ngoài nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, hiện nay các DNNN còn huy động vốn thông qua liên doanh, liên kết, phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay sử dụng hình thức tín dụng thuê mua....Tuy nhiên việc thực hiện huy động vốn từ bên ngoài ở DNNN thực hiện chưa đồng bộ, một số DNNN vẫn trông chờ ỷ lại vào vốn ngân sách nhà nước. 2.3.thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN Nhìn chung từ sau khi đổi mới nền kinh tế đến nay, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của các DNNN đã tăng lên. Tuy nhiên nó vẫn còn ở mức thấp. Nhiều doanh nghiệp chưa bảo toàn được vốn, tình trạng thua lỗ xảy ra trong nhiều doanh nghiệp. Năm 1995 tài sản cố định trong các DNNN chiếm 70% - 80% nhưng chỉ cung cấp 44% tổng sản phẩm trong nước. Năm 1998 số DNNN thực sự có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số bị thua lỗ liên tục chiếm tới 20% (nếu tính đủ khấu haoTSCĐ thì tỷ lệ này còn cao hơn), còn lại 40% là các doanh nghiệp trong tình trạng bấp bênh, nói chung là chưa có hiệu quả. Chỉ xét riêng các DNNN thuộc Thành phố Hà nội từ 1995 đến 1998 ta thấy nhiều doanh nghiệp thuộc thành phố quản trị làm ăn có lãi, trong đó có một số doanh nghiệp đạt doanh thu lớn, đóng góp ngân sách cao. Tuy nhiên số doanh nghiệp bị lỗ có chiều hướng gia tăng, tỷ trọng doanh nghiệp bị lỗ của Thành phố vẫn còn nhiều. Điều đó được thể hiện ở bảng sau: Tình hình hoạt động của các DNNN thuộc Thành phố Hà nội Loại doanh nghiệp 1995 1996 1997 1998 TW TP TW TP TW TP TW TP 1.DNcó lãi 468 273 465 251 481 258 241 2.DNhoà vốn 18 15 15 28 36 38 13 3.DN bị lỗ 48 36 52 47 35 32 43 (Nguồn:Tạp chí kinh tế và phát triển số 38/2000) Qua bảng trên cho ta thấy các DNNN do trung ương(TW) quản lý có hiệu quả kinh doanh cao hơn các DNNN do Thành phố quản lý. Các DNNN làm ăn thua lỗ có xu hướng giảm đối với các DNNN do TW quản lý, nhưng lại có xu hướng tăng đối với các DNNN do Thành phố quản lý. Trong một số năm gần đây, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn nói riêng có xu hướng giảm xuống. Năm 1995, một đồng vốn Nhà nước tạo ra được 3.46 đồng doanh thu và 0.19 đồng lợi nhuận. Năm 1998, các chỉ tiêu tương ứng chỉ đạt 2.9 đồng và 0.14 đồng. Thậm chí trong ngành công nghiệp, một đồng vốn chỉ tạo ra được 0.024 đồng lợi nhuận. Hiệu quả sử dụng vốn giảm xuống đi kèm với nó là tốc độ tăng trưởng của các DNNN cũng giảm dần. (Đơn vị: %) STT Chỉ tiêu 1996 1997 1998 Tốc độ tăng trưởng GDP nền kinh tế 9.34 8.15 5.80 Tốc độ tăng trưởng GDP của DNNN 11.28 9.67 5.48 Tỷ trọng nộp ngân sách của DNNN 64 56 - Tỷ trọng GDP của DNNN trong toàn bộ nền kinh tế - 40.48 40.07 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DNNN 0.19 0.11 0.14 Tỷ suất nộp ngân sách trên vốn 0.32 0.21 0.35 (Nguồn: Tạp chí Tài chính doanh nghiệp Tháng 2/2000) Qua bảng số liệu trên cho thấy tốc độ tăng trưởng của DNNN năm 1996 và 1997 cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế, nhưng đến năm 1998 thì ngược lại, thấp hơn. Cũng qua bảng số liệu trên cho thấy mặc dù năm 1998 tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DNNN có giảm so với năm 1996, nhưng lại tăng so với năm 1997. Nhìn chung, tình hình huy động và sử sụng vốn trong thời gian qua đã đạt được những kết qủa nhất định, song bên cạnh đó nó đang gặp phải những khó khăn cần phải được giải quyết. 2.4.Những kết quả và tồn tại. 2.4.1. Những kết quả đạt được. Từ khi đổi mới nền kinh tế đến nay hệ thống DNNN đã đạt được một số kết quả như sau: Một là, giảm 68% số DNNN từ 12.080 DNNN vào đầu năm 1990 xuống còn 5.280 DNNN hiện nay. Số doanh nghiệp giảm đi chủ yếu là do sát nhập giải thể. Trong đó giải thể hầu hết các DNNN cấp huyện, quy mô quá nhỏ bé, không có điều kiện tồn tại trong cơ chế thị trường. Điều này góp phần tăng sự tích tụ tập trung vốn , tăng quy mô doanh nghiệp. Hai là, nâng cao rõ rệt trình độ tích tụ và tập trung, tăng qui mô DNNN. Số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng đã giảm từ 50% (năm 1994) xuống còn 26% (năm 1998). Số DNNN có số vốn trên 10 tỷ đồng đã tăng tương ứngtừ 10% lên gần 20%. Đến năm 1999 số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng đã tăng lên gần 21%. Vốn bình quân của một DNNN tăng từ 3,3 tỷ đồng năm 1994 lên gần 22 tỷ đồng hiện nay. Đã hình thành các DNNN dưới dạng các tổng công ty 90,91. Tính đến cuối tháng 2/2000 cả nước đã có 76 tổng công ty 90 và 17 tổng công ty 91. Các tổng công ty Nhà nước nắm giữ 66% về vốn. Trong đó riêng các tổng công ty 91 đã chiếm tới 56% tổng số vốn kinh doanh, bình quân số vốn của một tổng công ty 91 hiện nay lên đến gần 3900 tỷ đồng( tương đương 280 triệu USD). Ba là, tổng số lượng DNNN giảm gần 70%, song hệ thống DNNN vẫn phát triển ổn định thích nghi dần với cơ chế thị trường, góp phần quan trọng trong việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) do các DNNN tạo ra tăng từ 36.5% (năm 1991) lên 40.2% (năm 1999), tỷ lệ nộp ngân sách trên vốn Nhà nước tăng từ 14.7% (năm 1991) lên gần 35% (năm 1998). Bốn là, đã cổ phần hóa được hơn 400 DNNN. Hầu hết các DNNN sau khi cổ phần hóa, đều hoạt động có hiệu quả. Tính đến năm 1999, đã có 370 DNNN cổ phần hóa đã thu hút thêm từ trong xã hội gần 1.432 nghìn tỷ đồng, bằng 111% tổng số vốn có tại thời điểm cổ phần hóa của các DNNN này để mở rộng sản xuất kinh doanh. Năm là, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn nói riêng tăng lên rõ rệt. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước năm 1993 là 6.8% đã tăng lên 14% năm 1998. Tuy nhiên các DNNN vẫn có những tồn tại nhất định. 2.4.2. Những tồn tại trong các DNNN hiện nay.(3) Thứ nhất, qui mô của các DNNN còn bé và dàn trải, trùng chéo về ngành nghề. đến nay vốn bình quân trong các DNNN chỉ khoảng 22 tỷ đồng (tương đương 1.5 triệu USD). Đây là số vốn quá nhỏ bé so với vai trò của DNNN và so với các DNNN của các nước trong khu vực. Số DNNN có vốn 5 tỷ đồng trở xuống chiếm tới 65,45%, số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm gần 21%. Các DNNN dàn trải trên tất cả các ngành nghề từ sản xuất đến thương mại, dịch vụ gây tình trạng phân tán manh mún về vốn, trong khi vốn đầu tư nhà nước rất hạn chế, không tập trung được vào những ngành, lĩnh vực chủ yếu, then chốt. Thứ hai, trình độ kỹ thuật, công nghệ các DNNN lạc hậu, năng lực cạnh tranh kém, rất hạn chế và thua thiệt trong hội nhập thị trường quốc tế. Hầu hết các DNNN được trang bị máy móc, thiết bị từ nhiều nước khác nhau và thuộc nhiều thế hệ, chủng loại. Theo kết quả khảo sát của bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường tại nhiều DNNN thuộc 7 ngành thì dây truyền sản xuất, máy móc thiết bị của ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30%-50%, có tới 38% ở dạng phải thanh lý. Thời hạn khấu hao tài sản cố định kéo dài bình quân từ 10 đến 12 năm, trong khi mức khấu hao bình quân của khu vực và Thế giới chỉ từ 7 đến 8 năm. Báo cáo điều tra ở Hà nội và TP HCM cho biết số máy móc có tuổi trung bình trên 10 năm, chiếm tới 40% và chỉ có 30% dưới 5 năm. Thiết bị cũ kỹ, lạc hậu đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng, giá cả và hạn chế năng lực canh tranh của sản phẩm được tạo ra. Điều này đòi hỏi phải có lượng vốn đủ lớn để đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện đại hoá công nghệ nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các DNNN trên thị trường. Thứ ba, nợ của các DNNN là quá lớn. Năm 1996 là 174.797 tỷ đồng, năm 1999 là 199.060 tỷ đồng. So với tổng số vốn DNNN, nợ phải trả bằng 109% (tương đương 126.366 tỷ đồng), nợ phải thu bằng 62% ( tương đương 72644 tỷ đồng), trong khi khả năng thanh toán của các DNNN rất thấp. Nợ quá hạn hoặc khó đòi chiếm tỷ lệ không nhỏ đang là gánh nặng đối với các DNNN. Ngoài phần vốn đầu tư ban đầu khi thành lập, hàng năm DNNN còn phải vay tới 85% vốn từ nhà nước với lãi suất ưu đãi. Trong khi ngân sách luôn thiếu hụt nhưng Nhà nước vẫn phải giành một tỷ lệ đáng kể để hỗ trợ cho một số DNNN. Trong ba năm 1997- 1999, ngân sách Nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho các DNNN gần 8000 tỷ đồng, trong đó 6482 tỷ đồng cấp bổ sung vốn 1464,4 tỷ đồng bù lỗ, hỗ trợ cho các DNNN để giảm bớt khó khăn về tài chính. Ngoài ra từ năm 1996 đến nay, Nhà nước còn miễn giảm thuế 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088,5 tỷ đồng, cho vay tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng. Thực tế, số nộp vào ngân sách của các DNNN này ít hơn phần mà Nhà nước đã hỗ trợ. Đó đang là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Thứ tư, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn nói riêng giảm. Năm 1995, một đồng vốn Nhà nước tạo ra 3.46 đồng doanh thu và 0.19 đồng lợi nhuận. Năm1998, các chỉ tiêu tương ứng chỉ đạt 2.9 đồng và 0.14 đồng. Thậm chí, trong ngành công nghiệp, một đồng vốn chỉ tạo ra được 0.024 đồng lợi nhuận. Năm 1998 số DNNN thực sự có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số doanh nghiệp bị lỗ liên tục chiếm tới 20%, còn lại 40% là những DNNN trong tình trạng bấp bênh khi lỗ khi lãi. Những tồn tại kể trên là do những nguyên nhân cơ bản sau: Một là, vai trò tích cực của động lực đổi mới theo nguyên tắc dỡ bỏ cản trở, xóa bao cấp, khuyến khích tự hạch toán lỗ lãi...cạn dần, nhưng sự tiếp sức cho động lực mới ở DNNN vẫn chưa hình thành đồng bộ. Cơ chế quản trị tài chính của DNNN còn quá cứng nhắc, sửa đổi chắp vá một cách bị động, thiếu quan điểm hệ thống, chính sách đối với kết quả tự tích luỹ của DNNN quá bất hợp lý đã hạn chế khả năng mở rộng qui mô của DNNN. Hai là, Nhà nước cần tập trung vốn cho yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, còn doanh nghiệp cần nhiều vốn cho yêu cầu đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất nhưng các kênh huy động vốn của DNNN đều bị trắc trở. Hiện nay đang diễn ra tình trạng Ngân hàg thừa vốn cho vay, còn các DNNN lại không vay được hoặc không giám vay bởi vì: DNNN thiếu các điều kiện thế chấp an toàn, các doanh nghiệp không có sự đảm bảo và tài sản thế chấp; Các DNNN thiếu vốn vay trung hạn và dài hạn, còn Ngân hàng thừa chủ yếu là vốn cho vay ngắn hạn; Trong khi đó các quy định về thủ tục xác nhận tài sản thế chấp, cầm cố đối với DNNN không sát thực tế. Khống chế mức tiền vay bằng 70% giá trị tài sản thế chấp và tổng mức huy động vốn không vượt quá vốn điều lệ của doanh nghiệp tại thời điểm công bố gần nhất đã gây ách tắc lưu thông tín dụng. Thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vay vốn ngân hàng rườm rà, phức tạp, xét thấy không cần thiết trong mỗi lần vay vốn. Mặt khác, tổ chức triển khai đăng ký tài sản thế chấp ở các cơ quan chuyên ngành có liên quan như cơ quan địa chính, cơ quan xây dựng chưa đồng bộ cũng góp phần làm ách tắc lưu thông tín dụng. Ba là, về phía các DNNN, hiệu quả sử dụng vốn còn kém, vốn sử dụng không được quản trị chặt chẽ, điều đó một phần làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm sút, gây ra tình trạng lỗ vốn kéo dài. Điều đó đã hạn chế khả năng vay vốn từ bên ngoài. Bốn là, hầu hết các DNNN khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới, vẫn còn bị ảnh hưởng của cơ chế cũ, chậm thay đổi so với sự biến động của thị trường. Một số DNNN còn dựa dẫm, trông chờ vào vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Năm là, hiện nay một số cơ quan sáng lập DNNN với tư cách là chủ sở hữu nhưng lại không đảm bảo đủ vốn tối thiểu ban đầu cho DNNN gây khó khăn cả cho việc huy động thêm vốn từ bên ngoài cho các doanh nghiệp. Bởi hầu hết những người góp vốn và các tổ chức tín dụng trước khi cho vay đều xem xét tình hình tài chính nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của doanh nghiệp. Ngoài ra còn rất nhiều các nguyên nhân khác. Nhưng nhìn chung nguyên nhân chủ yếu vẫn là từ chính bản thân doanh nghiệp III.Giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN 1.Một số giải pháp tổng quát Một là:Tiếp tục sắp xếp lại DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường. Cần xác định chủ sở hữu đích thực đối với những tài sản thuộc DNNN, để việc sử dụng chúng có hiệu quả và tránh lãng phí. Cần tiếp tục đẩy nhanh việc chuyển đổi một số DNNN không thiết yếu sang hình thức đa sở hữu hoặc sang các hình thức kinh tế khác như: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,....Nhà nước cần tạo môi trường pháp luật và thể chế thuận lợi cho cổ phần hoá DNNN và coi đây là một trong những giải pháp cơ bản để tạo vốn trong các doanh nghiệp. Hai là: thực hiện lên doanh liên kết giữa DNNN với các thành phần kinh tế khác. Nhờ đó có thể thu hút nguồn vốn, trình độ quản trị, công nghệ của những đối tác này. Song nhà nước cần quan tâm hơn đến quyền lợi của DNNN trong liên doanh. Hiện tại, hình thức liên doanh mới được triển khai với các đối tác nước ngoài, nhưng quyền lợi phía bên Việt nam vẫn còn nhỏ, luôn bị đối tác liên doanh chèn ép. Hình thức liên doanh, liên kết giữa DNNN với các thành phần kinh tế khác trong nước chưa phát triển. Đây là vấn đề cần phải được chú trọng trong thời gian tới. Bên cạnh những giải pháp trên Nhà nước cần phải có chính sách tạo thuận lợi cho việc huy động vốn của các DNNN. Trước hết, Nhà nước cần đưa ra giải pháp tháo gỡ những vướng mắc về tài sản thế chấp, cầm cố và quyền vay vốn của DNNN. Hiện nay, tài sản thế chấp của DNNN nhỏ hơn nhiều so với nhu cầu vay vốn, dẫn đến doanh nghiệp thiếu vốn, ngân hàng thừa vốn không cho vay được. Một mặt, nhà nước cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo điều kiện cho ngân hàng hoạt động. Mặt khác, ngân hàng nên xem xét đến những yếu tố như năng lực quản trị của doanh nghiệp, khả năng sinh lời cũng như khả năng đối phó với những bất lợi của doanh nghiệp, cuối cùng mới xem xét đến tài sản thế chấp của doanh nghiệp. Nhà nước nên kiểm kê, đánh giá lại tài sản của các DNNN để thấy được thực trạng tài sản hiện nay tại các doanh nghiệp. Đồng thời nhà nước nên dành một tỷ lệ vốn ngân sách để đầu tư thêm vốn điêu lệ cho các DNNN tương xứng với quy mô và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh được giao. Nhà nước cần cải tiến, đơn giản hoá thủ tục cho vay, bãi bỏ chế độ xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quền và xác nhận của cơ quan quản trị vốn khi đưa tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Nhà nước cũng nên bãi bỏ chế độ công chứng Nhà nước trong mỗi lần vay vốn mà chỉ thực hiện một lần công chứng, chỉ công chứng lại khi doanh nghiệp thay đổi tài sản thế chấp. 2.Những giải pháp cụ thể nhằm tạo vốn cho DNNN Một là: DNNN phải lập kế hoạch sản xuất kinh doanh nói chung, kế hoạch huy động và sử dụng vốn nói riêng ngay từ đầu và phải cụ thể rõ ràng. Có như vậy mới chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, tạo ra khả năng tài chính vững mạnh, đây là cơ sở để các chủ nguồn vốn xem xét trước khi ra quyết định cho vay. Doanh nghiệp phải xác định, tính toán lượng VLĐ định mức để phục vụ sản xuất kinh doanh kỳ kế hoạch sát với nhu cầu VLĐ thực tế, để từ đó có biện pháp huy động vốn hợp lý. Hai là: DNNN nên huy động vốn từ chính bản thân doanh nghiệp. Hiện nay, hầu hết các DNNN chỉ chú trọng huy động vốn từ bên ngoài mà quên đi việc huy động từ chính doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nên tăng cường huy động vốn từ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, thay cho việc vay ngắn hạn ngân hàng. Một mặt, vay ngắn hạn ngân hàng nhiều làm cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp giảm sút, khả năng tự chủ về vốn thấp. Mặt khác, vay ngắn hạn ngân hàng làm giảm bớt khả năng huy động vốn từ các nguồn khác vì các chủ nguồn vốn luôn xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp trước khi ra quyết định cho vay. Ba là: các DNNN nên nhanh chóng triển khai hình thức tín dụng thuê mua. Trong những năm qua, hầu hết các doanh nghiệp đi vay của các tổ chức tín dụng bằng các hình thức thế chấp, cầm cố và bảo lãnh. Song việc vay vốn để đổi mới công nghệ thì các doanh nghiệp gặp nhiêu khó khăn. Bởi vì, một mặt, nguồn vốn trung và dài hạn của các ngân hàng có hạn. Mặt khác, các DNNN thiếu những điều kiện nhất định về tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh. Vì vậy quan điểm thuê máy móc thiết bị đã trở thành xu hướng của nhiều doanh nghiệp. Đây là hình thức khá mới mẻ ở nước ta. Đòi hỏi nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ thuê mua, xác lập và mở rộng đối tượng tài sản thuê mua, khách hàng thuê mua, cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng thuê mua hoạt động. Bốn là: các DNNN làm ăn có hiệu quả có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Nhờ đó huy động được các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội một cách nhanh chóng để phát triển sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp càng phát triển, làm ăn càng có lãi thì doanh nghiệp càng thu hút được nhiều vốn hơn từ trong dân cư, giúp doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu liên tục, thúc đẩy lưu thông tiền vốn. Tóm lại: Nếu giải quyết đồng bộ và triệt để những vấn đề nêu trên có lẽ lời giải cho bài toán về vốn của các DNNN sẽ có nhiều khả quan. Đồng thời nó cũng phù hợp với sự vận động của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN 3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ Đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định: Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, tài sản cố định thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ hao mòn vô hình. Do đó, để có cơ sở cho việc tính toán khấu hao thu hồi vốn đầy đủ, doanh nghiệp cần phải giảm thiểu sự chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị trên sổ sách của tài sản. Muốn vậy, doanh nghiệp phải có kế hoạch và biện pháp đánh giá và đánh giá lại tài sản một cách thường xuyên, chính xác. Nhờ vậy mà doanh nghiệp xác định được giá trị thực của tài sản cố định, từ đó xác định mức khấu hao hợp lý để thu hồi vốn hoặc kịp thời sử lý những tài sản cố định bị mất giá để chống lại sự thất thoát vốn. Nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định: các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị, giảm ttthời gian tác nghiệp, hợp lý hoá dây chuyền công nghệ, đảm bảo nghiêm ngặt chế độ duy tu bảo dưỡng máy móc thiết bị, áp dụng chế độ khuyến khích vật chất và trách nhiệm đối với quản trị và sử dụng tài sản cố định. Đồng thời doanh nghiệp cần tổ chức tốt quá trình sản xuất theo nguyên tắc cân đối, nhịp nhàng và liên tục Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng VCĐ của doanh nghiệp: Sau mỗi kỳ kế hoạch, nhà quản trị phải tiến hành phân tích, đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định thông qua các chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó, doanh nghiệp có thể đưa ra những quyết định đầu tư, điều chỉnh lại quy mô, cơ cấu sản xuất cho phù hợp, khai thác được những tiềm năng sẵn có và khắc phục những tồn tại trong quản trị. Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp có thể sử dụng một số biện pháp khác như sử dụng quỹ khấu hao hợp lý, kịp thời sử lý những máy móc thiết bị lạc hậu, mất giá, giải phóng những máy móc thiết bị không cần dùng, mua bảo hiểm tài sản để đề phòng rủi ro.... 3.2.Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, VLĐ luôn thay đổi giá trị và vận động theo chu kỳ sản xuất từ cung ứng đến sản xuất và lưu thông. Cứ như vậy VLĐ được tiếp tục tuần hoàn và chu chuyển theo chu kỳ sản xuất. Do phương thức vận động có tính chu kỳ như trên, nên để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ các doanh nghiệp cần phải áp dụng các biện pháp sau: w Xác định chính xác VLĐ ở từng khâu luân chuyển. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quản trị VLĐ nhằm: - tiết kiệm VLĐ sử dụng trong sản xuất kinh doanh. - thông qua việc xác định VLĐ ở từng khâu để nắm được lượng VLĐ cần phải đi vay, tránh ứ đọng. Đảm bảo đủ VLĐ cần thiết cho sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, thúc đẩy tốc độ luân chuyển VLĐ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. w Tổ chức khai thác tốt nguồn VLĐ phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Trước hết doanh nghiệp cần phải khai thác triệt để các nguồn vốn nội bộ và các nguồn vốn có thể chiếm dụng một cách thường xuyên (nợ định mức), sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nhất nguồn vốn này. Nếu còn thiếu doanh nghiệp phải tìm đến các nguồn vốn từ bên ngoài như vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vốn liên doanh liên kết, vốn phát hành cổ phiếu trái phiếu.... Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần cân nhắc, tính toán, lựa chọn phương thức huy động sao cho chi phí là thấp nhất. w Thường xuyên phân tích tình hình sử dụng VLĐ: Tăng cường việc kiểm tra tài chính đối với việc sử dụng VLĐ, thực hiện công việc này thông qua phân tích một số chỉ tiêu như : Vòng quay VLĐ, sức sinh lợi của VLĐ....Trên cơ sở đó biết được rõ tình hình sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp, phát hiện những vướng mắc và sửa đổi kịp thời, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Ngoài các biện pháp nêu trên doanh nghiệp cần áp dụng một số biện pháp tổng hợp như : đẩy mạnh khâu tiêu thụ hàng hoá, sử lý kịp thời những vật tư, hàng hoá chậm luân chuyển để giải phóng vốn. Thường xuyên xác định phần chênh lệch giữa giá mua ban đầu với giá thị trường tại thời điểm kiểm tra tài sản cố định tồn kho để có biện pháp xử lý kịp thời, hiệu quả. Thực hiện nghiêm túc, triệt để công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro, hạn chế tình trạng chiếm dụng vốn mà từ đó làm phát sinh nhu cầu VLĐ dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, tăng chi phí vốn mà đáng ra không có. Vốn bị chiếm dụng ngày càng trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp khi trở thành nợ khó đòi, gây thất thoát vốn của doanh nghiệp. Bởi vậy để chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nên lập các quỹ dự phòng tài chính để có thể bù đắp khi vốn bị thiếu hụt. Kết luận Trong cơ chế thị trường hiện nay, mỗi doanh nghiệp phải tự quyết điịnh con đường phát triển của mình, hoặc tiến lên hoặc doanh nghiệp sẽ tụt hậu trượt khỏi quỹ đạo kinh doanh dẫn đến thất bại, phá sản. Để tồn tại và phát triển mỗi doanh nghiệp đều phải tạo cho mình một lượng vốn nhất định. Đồng thời đồng vốn tạo ra phải được sử dụng sao cho có hiệu quả. Đó chính là mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp. Qua nghiên cứu tình hình huy động và sử dụng vốn tại các DNNN cho thấy việc huy động và sử dụng vốn mặc dù đã được chú trọng hơn và đã đạt được một số kết quả nhất định, song vẫn còn nhiều tồn tại, khó khăn trong thực tế. Với thời gian có hạn, cùng với kiến thức còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế em mong được sự góp ý chân thành của thầy giáo. Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất với thầy giáo hướng dẫn đã hết lòng chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Tài liệu tham khảo Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp – sách mới Kinh tế xã hội Việt nam – thực trạng, xu thế và giải pháp –PTS Lê Mạnh Hùng. Tạp chí kinh tế và phát triển số 21/97; 22/98; 38/2000. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số2/95; 6/96; 2,5,9,11/97; 1,2,9,11/98; 2/2000. Kinh tế và dự báo số 1/96; 9/97; 4/99; 4/2000. Phát triển kinh tế số 89,97/99; Thị trường Tài chính tiền tệ số 4/98. Con số và sự kiện số 2/97; 6/2000. Tạp chí Ngân hàng và thông tin khoa học ngân hàng số7,10/97; 9/98. Quy chế mới về quản trị tài chính DNNN. Kết quả điều tra thực trạng DNNN, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động Thương nghiệp, Khách sạn, Nhà hàng, Du lịch và dịch vụ. Nghị định 338/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT, Chỉ thị 500/Ttg, Nghị định 59/CP của Chính phủ. Luật Doanh nghiệp Nhà nước. Các tạp chí và báo khác. Mục lục trang Lời nói đầu 1 I.Tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn – một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của DNNN trong nền kinh tế thị trường 2 1.Vốn, vai trò của vốn đối với DNNN trong nền kinh tế thị trường 2 1.1.Khái quát về vốn 2 1.2.Phân loại vốn 2 1.3.Vai trò của vốn đối với các DNNN 3 2.Các công cụ tạo vốn cho các DNNN trong nền kinh tế thị trường 4 3.Vấn đề về hiệu quả sử dụng vốn 6 3.1.Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn 6 3.2.Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn 7 3.2.1.Các chỉ tiêu đánh giá tổng hợp 7 3.2.2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ 8 3.2.3.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ 9 3.3.Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN trong cơ chế thị trường 10 II.Khái quát thực trạng tạo vốn và sử dụng vốn trong các DNNN ở Việt nam hiện nay 12 1.Vai trò của DNNN trong nền kinh tế 12 2.Thực trạng về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN 13 2.1.Đánh giá chung 13 2.1.1.Thời kỳ trước đổi mới kinh tế 13 2.1.2.Thời kỳ đổi mới kinh tế từ 1986 đến nay 13 2.2.Thực trạng về vốn và huy động vốn trong các DNNN 14 2.3.Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN 17 2.4.Những kết quả và tồn tại 18 2.4.1.Những kết quả đạt được 18 2.4.2.Những tồn tại 19 III.Giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN 22 1.Một số giải pháp tổng quát 22 2. Những giải pháp cụ thể nhằm tạo vốn cho DNNN 23 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN 24 3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ 24 3.2.Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ 24 Kết luận 26 Tài liệu tham khảo 27

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6204.doc
Tài liệu liên quan